Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Trông Lên Rất Đẹp

Trông lên rất đẹp được Vương Sóc ra để tưởng niệm thời tuổi thơ của mình. Đó là câu chuyện về khoảng thời gian từ 3 tuổi đến 8 tuổi của một đứa bé trai ở một nơi rất đặc biệt.   Phương Thương Thương sinh vào năm 1960, khi mà cả đất nước Trung Quốc đang chuẩn bị cho một cuộc Cách mạng Văn hóa rầm rộ. Không có thời gian để chăm sóc con, bố mẹ cậu bé đã gửi cậu vào một trường quản dưỡng nội trú. Ở đây, trẻ em bị thiết quân luật chặt chẽ bỡi những cô giáo giáo điều và đôi khi tàn nhẫn.   Nhưng Phương Thương Thương là một trường hợp khiến họ cũng lắm lúc không khỏi đau đầu. Cậu bé sinh ra đã cứng đầu, lập dị. Những sinh hoạt hằng ngày nơi cái trại lính nhi đồng đó đã diễn ra hết sức đa dạng, bé nhỏ nhưng vô cùng sống động. Tất cả đã tương tác với tính cách của Phương Thương Thương, tạo nên những suy ngẫm trẻ thơ, những cú sốc, những vết thương. Từ đó, không khí của thời đại tiền Cách mạng Văn hóa được khắc họa sâu sắc, chất chứa những câu hỏi về sự hình thành ra nhân cách con người trong thế kìm hãm, mất tự do của bản ngã. Thêm một tác phẩm nữa từ một thế hệ nhà văn mới của Trung Quốc, những người không tin gì cả, cười nhạo tất cả…  *** Vương Sóc sinh năm 1958 tại Bắc Kinh trong một gia đình quân nhân. Năm 1976, sau khi tốt nghiệp phổ thông trung học, Vương Sóc đi bộ đội, làm y tá ở một đơn vị hải quân. Năm 1978 tác phẩm đầu tay “Chờ đợi” ra đời. Năm 1980 ông được điều về toà soạn tạp chí “Văn nghệ quân giải phóng”. Sau khi phục viên ông về công tác ở Công ty Dược. Năm 1984, Vương Sóc xin thôi việc, làm nhà văn tự do, chuyên viết tiểu thuyết, kịch bản phim, tuỳ bút và phê bình văn học. Năm 1992, Văn tập Vương Sóc ra đời, gồm 4 cuốn, 31 loại, 1 triệu 60 vạn chữ. Tác phẩm chủ yếu của Vương Sóc là “Cô gái hàng không”, “Mất đứt tình yêu của tôi”, “Một nửa là ngọn lửa, một nửa là nước biển”, “Nổi lên mặt biển”, “Nghiền cho đã rồi chết”, “Chúa gàn”, “Chơi nhưng mà hồi hộp”, “Tao là bố mày”, “Ðộng vật hung dữ”, “Xin chớ coi tớ là người”... Nhiều tiểu thuyết của Vương Sóc đã chuyển thành kịch bản phim như “Khát Vọng”, “Câu chuyện ở ban biên tập”, “Anh không phải là người thường”, “Yêu em không thương lượng”.... Văn của Vương Sóc hóm hỉnh, dí dỏm, phóng túng, thường hay dùng ngôn ngữ lưu hành ở đô thị, tự xưng là “tiểu thuyết mang mùi vị đô thị mới”.   Sau một thời gian bảy năm gác bút đi buôn, lập công ty làm kinh tế, tháng 3 năm 1999, Vương Sóc lại xuất hiện trên Văn đàn với tác phẩm hoàn toàn khác trước: “Trông vào đẹp lắm” có độ dài 233.000 chữ, do Nhà xuất bản Hoa Nghệ xuất bản lần đầu 200.000 cuốn. Tháng 8 năm 2000, Vương Sóc lại cho ra cuốn phê bình tiểu luận: “Người đẹp bỏ tôi thuốc bùa mê”, dài 100.000 chữ do Nhà xuất bản Văn nghệ Trường Giang xuất bản, in lần đầu 200.000 cuốn.  *** Năm 1991, viết hơn một triệu chữ cả tiểu thuyết, kịch bản phim truyện, phim truyền hình. Năm sau đã gặp báo ứng, rơi vào khủng hoảng sáng tác. Thực tình thì đó là sự khủng hoảng của tinh thần, tôi bỗng nảy sinh mối hoài nghi rất lớn trước cuộc sống sáng tác của mình lẫn tất cả những gì đã viết ra. Còn nhớ như in thời gian, địa điểm xuất hiện cảm giác lung lay đó. Một buổi trưa, mười một giờ, trước cửa hàng bán đồ ăn Tây Bá Hà bên đường vành đai ba, tôi rẽ qua đó ăn bữa cơm. Hôm đó, chớm sang hè, nắng rất đẹp, tôi đi giữa sương khói bảng lảng bỗng chân nhũn xuống, dùng giọng lưỡi thậm xưng của đám đàn bà tiểu tư sản là tôi thấy trong tôi sụp đổ. Dĩ nhiên là không ngã xuống, nằm giữa phố, mà vẫn bước đi, có điều đầu óc quay cuồng những câu hỏi ngắn vụt tới tấp: Tôi đang làm gì? Thế này coi như tôi đang sống chăng? Cái tôi cần chính là những thứ đang ở trước mắt đây?   Bỗng dưng mất sạch hứng thú trước lối viết vốn đã rất thuần thục, cảm thấy đi cùng với nó là sự đánh mất, sự mai một những ý tưởng ban đầu, thuần thục nhưng lại để vuột mất những điều cốt tủy. Đó là chỗ lung lay cực kì rõ ràng, như lỗ thủng trên bít tất, người khác không thấy nhưng chính mình rất rõ: cái lối viết mà tôi những hô hào với rêu rao kia thực chất chỉ là đơn giản hóa cuộc sống.   Ấy là nói đỡ cho. Nghiêm khắc thì là: bóp méo cuộc sống. Cuộc sống nào cũng đan xen chằng chịt trăm thứ cảm xúc, mà nào có ai giống ai, cớ sao phản ánh vào văn chương lại thành một bộ mặt sơ sài, đơn giản, chẳng hạn: mang tính chất của thể hài kịch. Dĩ nhiên, ở đây cũng bao gồm những hạn chế tự thân của văn chương - một thứ công cụ biểu đạt: câu chuyện thường vẫn có xu hướng tìm tòi một kết thúc viên mãn, sự giới hạn về số lượng chữ khiến người ta chỉ có thể tập trung vào những phát triển chính, còn bao nhiêu sự thực khác đều không ôm đồm nổi. Cũng còn bởi vấn đề của sự thú vị. Tiếng Bắc Kinh đặc trưng khi nói có xu hướng ồn ào rôm rả, nói ra rất dễ lời tiếp lời, một chuyện giản đơn mà xoay tới trở lui viết ra hàng đống giấy, khoái cảm nơi cửa miệng khiến người nói say sưa, tưởng mình thông minh, lại càng “nổ”, càng “diễn”. Nếu đơn thuần chỉ để tạo điểm khác biệt, kiếm mấy tiếng tung hô, hoặc phụ họa cho hợp thế thời, thì cũng chả gì ghê gớm. Nhưng, không giấu quý vị, tôi còn có một “tâm nguyện ban đầu” với văn học, đó chính là: “trả lại cuộc sống nguyên vẹn”. Ý tôi là đi tìm những tác nhân thực sự ảnh hưởng đến hành động nhân vật, những thứ không bị đổi thay bởi ý thức con người, những nhân tố chi phối nguyên sơ nhất, ẩn bên trong của mọi thứ biểu cảm bề ngoài.   Bởi tôi không dám tin vào phản xạ đầu tiên của mình. Bởi hành động thường đa nghĩa. Bởi tư duy quá đỗi phức tạp, bóc tách từng chút một cũng chưa chắc đã khỏi bất ngờ sao mình lại có phản xạ như thế. Ở đây liên quan đến động cơ.   Chắc gì bạn có thể hiểu và nhìn thấu nhân vật dưới ngòi bút của chính mình. Chắc gì anh ta sẽ không mới vui đã buồn, gặp yêu sinh hận - dù nguyên mẫu chính là bạn. Động cơ không nắm rõ, hành vi trượt khỏi quỹ đạo, chỉ còn lại chút tính hài được dàn xếp sẵn, chạy theo những vui buồn yêu giận “lấy ngay”, tới đâu hay đó… trông cũng “thể diện”, nhưng rốt cuộc vẫn trơ trơ một lời tự vấn thiếu hồi đáp: vốn dĩ là vậy hay sao?   Khổ sở không chỉ mỗi điều đó. Chính bởi chưa tới được gốc gác nguồn ngọn, tự túm tóc phiêu diêu giữa lưng chừng, đã có người lôi xuống, thay mình tổng kết ra bộ ra hệ ra phương pháp nọ kia, nói mình chính là thế này thế này, lại còn được số đông chấp nhận. Tôi không nói những kẻ chê mắng tôi, quan hệ giữa tôi với bọn họ rất đơn giản, lập trường khác biệt, tình cảm, suy nghĩ tất thảy đều khác, những điều bọn họ chê tôi đại khái cũng không sai lệch, thỉnh thoảng có lạc sang tận nhà bà ngoại cũng chẳng ảnh hưởng gì. Tôi muốn nói đến những người yêu quý tôi, muốn gặp tôi, coi những thứ của tôi kia là của quý. Trước khi nói ra những lời dưới đây, tôi phải thanh minh trước: ở đây tôi nói sự việc, không nhắm vào người nào hết, tôi chỉ muốn làm rõ một số hiểu lầm từ bấy lâu nay, muốn tháo gỡ những thứ vốn không liên quan đến nhau, có thể là không công bằng, nhưng hoàn toàn không phải mượn dịp để hạ thấp ai đó, cố ý làm xấu ai đó, xin được độc giả chứng giám, xin người trong cuộc bỏ quá cho.   Tôi muốn nói tới những hình tượng nhân vật đã được điển hình hóa qua các phim ảnh chuyển thể từ tiểu thuyết của tôi, hoặc do chính tôi viết kịch bản. Diễn viên rất thành công, được khán giả quan tâm yêu thích, tôi cũng thích thế, cũng như thích những nhân vật khác trong các vở kịch vui khác đã khiến tôi bật cười. Nếu bảo loại hình tượng đó xuất phát từ những sáng tác của tôi, một cách độc đáo, thực tình chẳng dám. Như thế là ốc mò cò xơi, cướp vinh quang của người ta; bất quá như kiểu khôn ngoan của loại người: nhờ người mang thai hộ.   Họ thuộc một dạng người Bắc Kinh khác. Nói thế nào nhỉ? Chắc cũng lương thiện thật, có chút ranh ma, cực kì biết lắng (lấy) phần trong, gạn (bỏ) phần đục, vốn liếng to nhất là đầy một miệng “thấu hiểu” với “cảm thông”, sống “cặm cụi” kĩ càng, không bỏ lỡ cái gì bao giờ, bàn tính gảy rào rào trong bụng người ngoài cũng nghe thấy, một chút xúc cảm đã ngỡ là sâu sắc.   Người tốt! Người có tính như thế, trong cuộc sống này chỉ có lợi, không hại, ra trước công chúng phần lớn đều được cưng chiều, nhưng xuất hiện trong tác phẩm của tôi lại thành lầm lẫn. Toàn thể hiện sai. Chính là kết quả của sự sáng tạo lại của nghệ thuật điện ảnh.   Khác biệt giữa điện ảnh với tiểu thuyết đại để ở chỗ cho ra sản phẩm của ý chí tập thể, rất nhiều người tham gia lao động, cuối cùng đều nêu ý kiến, đều “gửi gắm” những phẩm chất ưa thích của mình vào trong nhân vật, rốt cuộc trả về cho anh một con người hoàn toàn xa lạ. Đương nhiên, điện ảnh ngày nay trước tiên phải là lợi nhuận, được ưa chuộng tức là thành công, hỏi tôi về ý tưởng trong nguyên tác, tôi nào có định như thế, viết hàng lô lốc những thứ dớ dẩn kia chỉ để dựng cho quần chúng một con người tốt. Đúng như lời người phê bình, tôi toàn viết những thứ “láo lếu”. Những lời nói có vẻ đầy nhiệt tình kia thật ra là trêu chọc. Cái thú trêu chọc người khác bắt nguồn từ cảm giác thâm căn cố đế: hơn người. Đúng vậy, tự nghĩ mình “siêu”, có sức nhào nhồi, có tài lập thân lập ngôn, rơi xuống đáy của xã hội mà không hay biết, thịt nát xương tan cái miệng vẫn còn, cho nên nói năng tự cao tự đại, như sống trong mơ, không hòa đồng cũng chẳng hòa tan. Là dạng thích ra oai, là lưu manh giả trượng nghĩa, không cam tâm sống đời hiu quạnh, nhưng rồi chẳng qua vẫn chỉ là hạng cười gắng nói gượng vô danh tiểu tốt.   Hồi nhỏ, tôi là đứa bé hư, quen nhận từ xung quanh những trách mắng và “lừ mắt”, như thế mới cảm thấy mình là mình. Bỗng một ngày, tiếng vỗ tay vang lên, lại còn có người đi theo, tôi hoang mang mất phương hướng, cảm giác đó thật lạ lẫm, đột ngột, vừa dễ chịu vừa không thoải mái, cùng lúc với dễ chịu thường là không tự nhiên, hay đó là sa ngã?   Còn nhớ năm ấy đọc được bài phê phán đầu tiên dành cho mình (trước đó cũng đã có, tôi muốn nói loạt mới khi tôi bắt đầu để mắt tới). Bài do một kẻ nhàn rỗi viết ra, đăng trên Nhật báo Bắc Kinh số cuối tuần. Nội dung phê phán không nhớ nữa, cũng chẳng quan trọng, tóm lại là nói tôi không tốt, chẳng có chỗ nào được, cũng chẳng sao, quan trọng là bài phê bình khiến cảm giác của tôi thay đổi, có thể miêu tả là “cả trái tim rơi tọt xuống ổ bụng”. So với những động viên, khen ngợi từ sau lưng, những công kích, chửi mắng vỗ ngang trước mặt càng khiến tôi nhìn rõ mình đang ở đâu, mình là cái thứ gì, nhờ vậy càng giữ được bản chất - ý tôi là: tính ăn miếng trả miếng của chó sói. Làm sói thực ra tôi không ham, thành chó tôi cũng chẳng thích, so sánh hơn thiệt phải chọn cái đỡ thiệt hơn. Đây chính là cái lợi và sự cần thiết của kẻ thù. Tôi nghĩ tôi cần kẻ thù còn hơn cần bạn bè chiến hữu. Dĩ nhiên, tôi không muốn nói người phê phán tôi đều là loại kẻ thù vác súng bắn, đó chỉ là phép tu từ, nếu nói thế không ổn, tôi rất vui lòng gọi đó là những người sáng suốt, ra roi chỉ lối.   Đó là lời nói thật, tôi cảm ơn những người phê phán tôi. Chính những phê phán “buốt tai” đó giúp tôi nhìn rõ hơn những thứ bị “trông gà hóa quốc”. Tôi nghĩ trước thực tại đó mình cũng không nên quá tiêu cực, nói cách khác là cự tuyệt với nó. Bị hiểu lầm vốn là cái nghiệp của người diễn đạt, cũng chẳng nên coi tất cả những người đó là ngu dốt hết thuốc chữa hoặc nhận định có âm mưu này khác. Một phần nguyên nhân chắc chắn là ở bản thân, chính mình diễn đạt có chỗ mâu thuẫn, để người khác túm được gáy. Tôi nghĩ có một lối viết truyện có thể đem cuộc sống mà tôi nhìn thấy - cái diện mạo vốn có của nó - lột tả một cách chân thực. Kể cũng khá thú vị, đối mặt với những phê phán và mô phỏng chế giễu, tôi lại cảm thấy tư liệu cuộc sống của mình đầy đủ và tròn trịa, vẫn giữ được sự mới lạ khi chưa bị người ta khám phá, nhận biết, giữ được hương vị hoang dã, trinh nguyên. Điều đó quả thực không gì sánh nổi, cho một người viết lách ngót chục năm mà vẫn còn rất ham muốn sáng tác. Nó cũng có nghĩa là tôi vẫn còn cơ hội xây dựng một diện mạo mới mẻ, bước lên một bậc cao hơn, hoặc nói cách khác là lại tìm thấy chốn đào nguyên trong văn học.   Có thể chỉ là tôi đang quan trọng hóa mình quá mức, quá bận tâm với chính mình, không đủ thoải mái ung dung, làm hỏng mất tác phong của kiểu người như chúng tôi. Thế thì đã sao nhỉ? Thì coi như tôi còn thiển cận đi.   Mời các bạn đón đọc Trông Lên Rất Đẹp của tác giả Vương Sóc.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Gương Thầy Trò - Hoàng Xuân Việt
Tác phẩm về đạo lý làm người được in lại như lời tri ân cố học giả nổi tiếng. Gương thầy trò là tác phẩm ra đời từ thập niên 1970 ở thế kỷ trước của học giả Hoàng Xuân Việt. Vì vậy, sách có lối hành văn, từ ngữ được xem khá lạ so với gu đọc của nhiều bạn trẻ ngày nay. Trong sách, cố học giả Hoàng Xuân Việt dẫn ra 7 điều làm nên nền tảng căn bản của tình thầy trò, bao gồm các yếu tố như trí tuệ, ý chí, lương tâm, tình cảm, đối nhân xử thế... Trên từng trang viết, tác giả lần lượt điểm lại cuộc đời, tình sư đệ của các danh nhân với môn đồ của họ. Học giả Hoàng Xuân Việt (1928 - 2014) tốt nghiệp cao học tại trường Đại chủng viện Saint Joseph và Saint Sulpice. Ông còn theo học và nghiên cứu nhiều môn như triết học, thần học, xã hội học, thiên văn học... Ông sử dụng thành thạo bảy ngôn ngữ gồm Anh, Pháp, Đức, Hán - Nôm, Bồ Đào Nha, Hy Lạp và cổ ngữ Latin. Cố học giả sở hữu hơn 200 đầu sách, nhất là những tác phẩm trong tủ sách Học làm người. Ông thường được gọi là "quái kiệt" trong làng sách. Hiện những tác phẩm của ông được luật sư Hoàng Cao Sang - một trong những học trò của ông - làm đại điện pháp lý về tác quyền, thay mặt gia đình cố học giả lưu giữ. *** Ôi tình thầy trò quan trọng quá mà cũng cao cả, thâm trầm quá. Nó là thứ tình tổng hợp tinh hoa của các loại tình người. Khi Socrate tắt hơi cuối cùng, Platon nói tôi khóc không phải cho Socrate mà khóc cho tôi vì từ đây tôi không còn trên dương trần một người cha, một người anh, một người thầy, một người bạn. Lời nầy đúng cho Platon mà cũng đúng cho bất cứ ai trên đời có được minh sư. Có phước lắm, trò mới gặp được một tôn sư với trọn vẹn ý nghĩa của tiếng ấy. Có phước lắm thầy mới gặp được một hai trò để mình đầu thai trong đại chí và đại nghiệp. Thiếu gì người cả đời không gặp được thầy, được trò như ý nguyện. Từ Bossuet đến Fénélon, ông bỏ 10 năm, ông bỏ 6 năm dạy dỗ chí tử công phu, đầu tư bao nhiêu hy vọng, lại trúng thứ trò gì đâu nên kẻ kể như thất bại, người tạm tạm thành công. Hai đệ tử đầu tiên của Đức Phật, phải bỏ hai thầy cũ để theo Đức Phật rồi mới được toại nguyện. Thì ra có khi mình muốn cầu sư, cầu đệ mà đâu phải thầy nào, trò nào cũng là đối tượng như ý. Người cầu học, cầu tiến mà gặp được chân sư còn hơn trúng số. Họ tha hồ khai thác kiến văn, đạo hạnh, kinh nghiệm, mưu cơ. Trên đường đời họ được cố vấn đường khôn nẻo dại, họ được nguồn an ủi, ủy lạo tinh thần nhất là những khi đời họ qua truông, xuống dốc. Người đại chí, bất lực mà gặp ninh đồ trung đệ thì con bầy cũng không bằng vì họ có kẻ làm cho kiến thức, hoài bão của họ đâm chồi kết quả về thiên thu. ... Mời các bạn đón đọc Gương Thầy Trò của tác giả Hoàng Xuân Việt.
Đội Gạo Lên Chùa - Nguyễn Xuân Khánh
Sách Nói Đội Gạo Lên Chùa   Sau một trận càn dữ dội của giặc Pháp, cha mẹ đều chết, hai chị em Nguyệt và An phải rời bỏ quê hương, trốn chạy sự truy lùng và tàn sát gắt gao của giặc. Họ trôi dạt đến một ngôi chùa và được sư cụ trụ trì dang tay cứu vớt. Từ đây, số phận An và Nguyệt gắn bó với chùa Sọ và làng Sọ - quê hương thứ hai của mình. Làng Sọ, một làng quê bé nhỏ vốn êm đềm và hiền hòa như bao làng quê Việt khác, trong vòng nửa thế kỷ đã trải qua hai cuộc chiến tranh tàn khốc và những biến động lớn lao. Số phận của ngôi chùa làng và những con người gắn bó với nó rồi sẽ ra sao? Đội Gạo Lên Chùa được viết theo lối cổ điển, mang tính luận đề về ảnh hưởng và vai trò quan trọng của đạo Phật trong đời sống tâm linh người Việt. Tiểu thuyết khắc họa sâu sắc nét đẹp của văn hóa Phật giáo trong mạch nguồn văn hóa dân tộc và được xem như một sự gợi mở về lối sống Phật giáo trong xã hội hiện đại hôm nay. *** Nguyễn Xuân Khánh vẫn viết theo lối cổ điển, mạch chuyện chủ yếu theo trình tự thời gian: sau cải cách là sửa sai, rồi hợp tác hóa, tòng quân vào Nam, rồi thống nhất đất nước... Làng xóm, họ tộc, gia đình tan rồi hợp với không ít tình tiết có thể gọi là ly kỳ... Những năm vừa qua, không ít tiểu thuyết đã viết về đề tài tương tự, nhưng khác với các nhà văn khác, Nguyễn Xuân Khánh đặt ngôi chùa và những nhà sư trong bối cảnh đó, lấy Phật giáo làm điểm nhìn để soi rọi, suy ngẫm về các sự kiện đó, các nhân vật không chỉ đối đầu theo kiểu "địch-ta" mà mỗi người còn có cuộc đấu tranh gay go với lẽ sống, đạo lý của mình, nhờ đó, Đội Gạo Lên Chùa có ý nghĩa sâu rộng hơn, chạm đến những vấn đề muôn thuở của kiếp người. Trong Đội Gạo Lên Chùa, tác giả còn dành nhiều tâm huyết để miêu tả vẻ đẹp của người phụ nữ (đẹp cả khi phải chết - như trường hợp cô Rêu đã chọn "giếng thơm" bên ngôi chùa để tự tử) và vẻ đẹp của trí tuệ, của con người có văn hóa, cho dù họ là kẻ ở bên kia chiến tuyến. Sự huyền ảo của tâm linh, những giấc mơ, hồn ma náu mình nơi đàn đom đóm... tái diễn nhiều lần trong Đội Gạo Lên Chùa... Những điều này đã giúp cho những trang văn và nhân vật trong Đội Gạo Lên Chùa mềm mại, sinh động và hấp dẫn hơn. Rất khó để so sánh Đội Gạo Lên Chùa với hai tiểu thuyết Hồ Quý Ly và Mẫu Thượng ngàn đã được khẳng định giá trị của Nguyễn Xuân Khánh. Có điều dễ thấy là Đội Gạo Lên Chùa, do đề tài và hiện thực miêu tả gần gũi hơn với bạn đọc hôm nay, nên nhà văn khó đưa trí tưởng tượng bay bổng như hai tác phẩm trước, nhưng mặt khác, Đội Gạo Lên Chùa lại gợi nhiều vấn đề để suy ngẫm hơn và có nhiều trang độc giả sẽ muốn mở ra đọc lại *** Đêm nay sư cụ khó ngủ. Trằn trọc mãi, hết trở mình sang trái rồi lại sang phải mà hai mắt vẫn cứ chong ra. Đồn tây trên núi Thằn Lằn, bỗng bắn rộ một tràng súng máy. Tiếng súng xa xé rách đêm vắng làm sư cụ giật mình. Rồi tất cả lại rơi vào im lặng. Hình như ở ngoài vườn có tiếng chân người. Cụ lắng nghe song lại chẳng thấy gì. Cụ lẩm bẩm nói với mình: “Không có lẽ… đã lâu rồi… hay là họ lại về…”. Lúc này, chỉ còn nghe thấy tiếng dế, tiếng ếch nhái ngoài cánh đồng quanh chùa rỉ rả cất lên đều đều, buồn buồn. Bỗng con chó vàng nằm ở thềm nhà tổ cất tiếng sủa. Con vàng sủa trăng ư? Làm gì có trăng mà sủa. Đêm cuối tháng ba lạnh đến xương tủy. Trời tối như mực. Mưa lất phất kéo cái lạnh cuối mùa. Những cơn gió đông cuối cùng làm dựng xù những chiếc lông, bắt con vàng phải rên gừ gừ. Ô kìa! Sao con chó lại sủa rộ. Nó đã bước xuống hè, đi ra phía cổng chùa. Không phải nó sủa bâng quơ. Chắc có người ngoài ngõ. Con vàng, lúc này, sủa liên tục, sủa ra rả làm sốt cả ruột, đánh thức mọi người trong chùa dậy. Sư thầy Khoan Độ cầm đèn ra cổng. Sư cụ cũng dậy ra ngồi ở tràng kỷ. Thầy Độ, một lúc sau, cùng mấy người lố nhố bước bào và bẩm: - Bạch hòa thượng, có hai chị em thí chủ này đứng dưới tam quan mà khóc. Con hỏi chuyện gì? Họ cứ một mực nài xin được gặp sư cụ. Hòa thượng Vô Úy lúc này mới chú ý nhìn rõ cô con gái đang sụt sùi, thỉnh thoảng lại nâng hầu bao lên chấm nước mắt. Cô gái trạc mười bảy mười tám. Chiếc khăn mỏ quạ màu đen đã tụt xuống vai, để lộ một gương mặt thanh tú, rầu rĩ. Cô gái bận cái áo nâu vá, cái quần đen bạc màu, vấn khăn nâu. Bên cạnh cô là một thằng bé chừng mười tuổi. Cái áo nâu rách toạc vai. Cái quần nâu thủng đầu gối. Rách rưới nhưng không gì giấu được khuôn mặt sáng ngời. Thấy sư cụ chỉ ngắm nhìn mà chẳng nói gì, cô chị bỗng òa khóc to, rồi quỳ xuống rạp đầu sát đất: - Con cắn cỏ lạy cụ, xin cụ rủ lòng từ bi, rón tay làm phúc, cứu lấy chị em con. Hòa thượng đứng dậy bước tới đỡ cô gái dậy, rồi ôn tồn bảo: - Con cứ bình tĩnh kể lể sự tình, xem ta có thể giúp gì con. - Dạ… Tây nó đi càn. Nó bắn chết bố mẹ con…. - Rõ khổ… Quê con ở đâu? - Làng con gần chân núi Thằn Lằn. Tây bốt Thằn Lằn bắn bố mẹ con đấy ạ. ... Mời các bạn đón đọc Đội Gạo Lên Chùa của tác giả Nguyễn Xuân Khánh.
Venise Và Những Cuộc Tình Gondola - Dương Thụy
Với tinh thần truyền cho những bạn trẻ niềm đam mê học hỏi, tính xốc vác, thú chu du qua những “ghi chép ngoài truyện”, Venise và những cuộc tình Gondola sẽ mang đến cho độc giả câu chuyện rất thật và cũng rất lý thú của chính tác giả. Từ những hiểu biết về Paris qua những trang sách báo đến khao khát cháy bỏng được một lần đặt chân đến Paris… đến những nỗ lực phấn đấu không ngừng để trở thành “dân Paris”, những cảm xúc vui buồn về cuộc sống ở kinh thành ánh sáng… Tất cả đều được Dương Thụy kể lại qua những dòng ký sự mượt mà sâu lắng và tràn đầy nhiệt huyết của một người trẻ dấn thân ở xứ người. *** Đọc Dương Thụy từ những ngày còn đi học, nhưng tôi vẫn luôn cảm thấy thích thú khi đọc một tác phẩm mới của chị. Tôi thích cách chị kể chuyện - không cầu kỳ mà tự nhiên như câu chuyện nó vốn là như thế. Tôi mê cả những tấm phông nền rất đẹp - những miền đất lạ mà trên đó chị sắp đặt các nhân vật của mình. Tôi gọi các tác phẩm chị đã xuất bản là những-câu-chuyện-chị-mới-kể-một-nửa, và cuốn sách này chính là nửa còn lại. Tôi đọc để bớt tò mò về việc chị lấy chất liệu từ đâu để sắp đặt một thế giới tươi sáng như thế. Và tôi cũng đọc để tìm sự đồng điệu giữa những người trẻ với khát khao được đi nhiều hơn - đi xa hơn để cảm nhận, nhìn thấy và nhìn thấy rõ hơn nhiều điều... Nguyễn Hương Mai (Corporate Affairs Manager, Công ty Thời Trang Việt, cựu du học sinh ở Anh). Truyện và ký của Dương Thụy thường dí dỏm như con người của tác giả. Dù văn phong giản dị, không trau chuốt cầu kỳ, rất "bình dân" nhưng ánh lên những điều đẹp đẽ thật đáng yêu. Tôi thường cười tủm tỉm khi đọc sách của cô. Sự nghịch ngợm và cái tì quan sát những điều "bất thường" giữa các nền văn hóa đã tạo một nét duyên trong phong cách viết đặc trưng Dương Thụy. Là một người sống và làm việc ở châu Âu, từng đi qua những nơi tác giả cũng rong ruổi đến, tôi thấy ký sự của Dương Thụy đầy lí thú và tràn đầy nhiệt huyết. Tất cả những gì tác giả viết là những gì chúng ta có thể bắt gặp nếu có cơ hội du học hoặc làm việc ở phương Tây. Hãy đọc bài "Thành phố nhẹ nhất thế giới" để cùng tác giả cảm nhận về Liège của chúng tôi. Lý Đông Phương Lâm (Tiến sĩ - Giảng viên Đại học Liège, Vương quốc Bỉ) Lợi thế là một nhà văn nữ có góc nhìn nhạy cảm và quan sát tinh tế đã được Dương Thụy bộc lộ qua tập ký sự này. Đọc "những ghi chép ngoài truyện" thú vị của Dương Thụy, những hoài niệm phiêu bạt trên dặm đường châu Âu được gợi nhớ trong lòng tôi. Các thành phố châu Âu cổ kính, yên bình và tuyệt đẹp đang tái hiện qua mắt tôi. Những trang viết dịu dàng và sâu lắng của Dương Thụy lại thúc giục tôi lên đường hơn bao giờ hết. Vì như Dương Thụy đã kể, sau những chuyến phiêu lưu cô luôn ấm lòng nhận ra thế giới này người tốt luôn nhiều hơn kẻ xấu. Đọc và bạn sẽ thấy. Trung Nghĩa (Biên tập viên báo Tuổi trẻ) *** Càng trẻ, người ta càng có nhu cầu được học hỏi, được đi xa, được tiếp cận với những nền văn hóa phong phú và nhất là được giao du với bạn bè không cùng ngôn ngữ lẫn màu da. Sau mỗi chuyến đi, có người đem về những bức hình tuyệt đẹp, những món quà lưu niệm và những mối quan hệ lý thú. Riêng tôi, được viết truyện lấy bối cảnh ở nước ngoài với những nhân vật ngộ nghĩnh và những mối tình nhẹ nhàng, là một "cơn nghiện". Các cuốn sách Bồ câu chung mái vòm, Hành trình của những người trẻ, Oxford thương yêu, Cáo già, gái già và tiểu thuyết diễm tình là những gì tôi "thu hoạch" được. Tuy nhiên có những điều tôi không thể chia sẻ với mọi người chỉ thông qua những nhân vật tưởng tượng và những cuộc tình "tiểu thuyết". Những con người tuyệt vời tôi đã gặp, những danh lam thắng cảnh tôi đã qua, giây phút xúc động "xa quê hương ngộ cố tri"..., tất cả sẽ được tôi đưa vào tập sách này. Đó là những chi tiết thật, là cuộc đời thật, là những gì độc giả không thể lắc đầu chê tôi khéo tưởng tượng. Thông qua cuốn sách, tôi mong được truyền cho các bạn trẻ niềm đam mê học hỏi, tính xốc vác, thú chu du. Đây không phải là "cẩm nang du lịch", càng không phải là sách du khảo-du ký. Bạn chỉ có thể gọi đó là "những ghi chép ngoại truyện" của tôi. Bạn cũng có thể sẽ hiểu vì sao tôi viết Đổ thừa Venise, Tú cầu vùng Bretagne, Con gà nói tiếng Đức, Diên vĩ đồng Provence và nhất là Oxford thương yêu. Và nếu sau khi đọc tập sách này, bạn được thôi thúc để tìm đến "Paris với những vườn văn thơ", "Brest sấm sét", "Bruxelles hóm hỉnh", "Lisbon hiền hòa", "Sững sờ Florence", "Eau de Cologne"... hãy cho tôi cùng chia sẻ những giờ phút tuyệt vời nhất: được dấn thân! Ba lần thi để được xuất ngoại Cuốn sách cũng là để kỷ niệm 10 năm tôi được xuất ngoại. Tôi xin được chia sẻ những nỗ lực để có được chuyến đi đầu tiên này. Học tiếng Pháp từ nhỏ, ước mơ được một lần đặt chân đến kinh thành ánh sáng luôn thôi thúc tôi. Cuộc thi "Concours IDECAF" tìm hiểu về nước Pháp (do lãnh sự quán Pháp tổ chức kết hợp với Viện trao đổi văn hóa Pháp-IDECAF) với phần thưởng dành cho người đứng nhất là một chuyến du lịch sang Pháp trong vòng một tháng thật hấp dẫn. Đây chính là con đường khả dĩ nhất nếu tôi muốn xuất ngoại. Tôi đã cố gắng tìm gặp những người khách du lịch để thực tập tiếng. Ở đâu có người nói tiếng Pháp là có tôi lân la. Tôi kết bạn với rất nhiều cặp vợ chồng sang Việt Nam xin con nuôi. Tôi xông xáo chở họ đi đây đó, làm "hướng dẫn viên" giúp họ thăm thú thành phố, cùng đến các cô nhi viện tìm trẻ bị bỏ rơi và mời họ về nhà dùng cơm thân mật. Và tôi trở thành mẹ đỡ đầu cho một em bé Việt Nam được một gia đình Pháp nhận nuôi. Do tiếp xúc nhiều, tôi tiến bộ rõ rệt trong cách phát âm, có nhiều từ lóng, tốc độ nói nhanh hơn. Những người bạn nước ngoài khi đã về nước luôn gởi sách báo giúp tôi trao đổi thêm ngôn ngữ Khi đã là sinh viên năm nhất khoa Pháp trưởng Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, tôi mạnh dạn đăng ký dự thi "Concours IDECAF" và....thất bại. Có quá nhiều người giỏi nên tôi phải nỗ lực hơn nữa. Tôi tham gia làm việc bán thời gian, phiên dịch cho những thương gia sang Việt Nam tìm thị trường. Rồi tôi trở thành đại diện cho một công ty nhỏ, lãnh lương cố định hẳn hoi. Tôi đã kinh ngạc hỏi ông giám đốc vì sao lại chọn một sinh viên không chút kinh nghiệm thương trường, chỉ biết có mỗi ngoại ngữ làm đại diện văn phòng. Ông trả lời "Kinh nghiệm rồi sẽ đến theo năm tháng, còn sự nhiệt tình, tính ham học hỏi và lòng trung thực không phải ai cũng có!" Được khích lệ bởi câu nói này, tôi tiếp tục dự thi "Concours IDECAF" và đến lần thứ ba, cuối cùng tôi đã đạt ước nguyện. Chuyến xuất ngoại đầu tiên Vậy là lần đầu xuất ngoại tôi được hai mươi hai tuổi, đang là sinh viên Cao học của CFVG (Trung tâm Pháp-Việt đào tạo MBA). Đó cũng là lần đầu tôi biết thế nào là máy bay. Sau mười mấy tiếng đồng hồ vật vã vì bệnh say xe, tôi...lảo đảo bước xuống phi trường Charles De Gaulles. Mùa hè năm đó, nước Pháp đang sục sôi vì vô địch World Cup France 98, khắp nơi cờ phướn rợp trời. Lóng ngóng còn hơn "Tư Ếch đi Sài Gòn", tôi đã "mò mẫm" đi xe bus của hãng Air France vào Paris. Đến văn phòng cấp học bổng thì lại bị báo phải quay lại phi trường để đi tiếp xuống tỉnh Brest. Bị đẩy ra đường, tôi run lập cập vừa đi vừa hỏi, cuối cùng cũng quay lại được phi trường sau mấy tiếng đồng hồ chu du bằng xe điện ngầm và xe bus. Khi về đến Brest với những cái bao nilon bốc mùi trên tay (vì liên tục bị say xe), tôi...khóc lóc thảm thiết, lòng oán hận bị "đem con bỏ chợ" và thề độc sẽ không bao giờ...đi nước ngoài nữa. Nhưng chỉ sang ngày hôm sau, khi đã hồi phục phần nào sức khỏe, tôi hăm hở sục sạo khắp nơi. Tôi làm quen với những ông bà già, trẻ con và những...người thất nghiệp ngoài đường phố. Tôi "sống gấp", di chuyển liên tục từ tỉnh này sang tỉnh khác theo lời mời của những gia đình xin con nuôi và những người khách du lịch ngày trước từng quen biết với mình. Đi đến đâu tôi cũng được mọi người nồng nhiệt đón tiếp như muốn "trả ơn" ngày trước tôi nhiệt tình giúp họ ở Việt Nam. Họ chở tôi đi thăm thú khắp nơi, tôi say sưa chiêm ngưỡng kiến trúc, phong cảnh và ẩm thực Pháp. Trong vòng một tháng ngắn ngủi, tôi đi thăm hầu hết những tỉnh đặc trưng của Pháp. Sau đó tôi sang Thụy Sĩ và ở một tháng với đất nước thần tiên này. Sau chuyến xuất ngoại đầu tiên đó, tôi "dằn túi" những trải nghiệm ngọt ngào và cả những kinh nghiệm "xương máu" về cách mua vé tàu xe, cách vận chuyển từ tỉnh này sang tỉnh khác, những ngày làm phục vụ bàn ở Pháp, hái nho ở Thụy Sĩ, cách tiếp xúc với người địa phương... Những truyện ngắn Tú cầu vùng Bretagne, Đồi nho xanh, Hội người xa xứ... ra đời như nhu cầu được chia sẻ. Những chuyến đi bụi Hai năm sau chuyến xuất ngoại đầu tiên đó, tôi được sang Pháp tu nghiệp về nghề báo và cách quản lý một tòa báo tại Ouest France, tờ nhật báo có số phát hành cao nhất nước Pháp. Ba tháng trôi qua với biết bao kiến thức nhận được nhưng cũng lắm khó khăn làm "nản lòng chiến sĩ". Mỗi sáng tôi vác dù đi bộ dưới làn mưa thu cả nửa tiếng đồng hồ vì muốn... tiết kiệm tiền xe bus. Có những ngày mưa lớn quá, tôi đành bấm bụng mua vé xe, nhưng xui xẻo lại rơi vào lúc liên đoàn xe bus đình công. Đi được vài trạm đã bị đuổi xuống. Những ngày cuối tuần tôi nằm chèo queo trong căn phòng nhỏ xíu như hộp quẹt, không bạn bè, không truyền hình, không sách báo. Phố xá vắng tanh, cửa hàng đóng hết. Truyện Một mùa thu ở Rennes là một kỷ niệm cho những ngày "thu cô đơn" này. Hết thời gian tu nghiệp, tôi vác balo đi bụi khắp các nước châu Âu. Những chuyến đi gần như đơn độc, tôi ngồi xe đò và xe lửa đêm xuyên biên giới. Trên chuyến tàu sang Đức, tôi bị một thằng nhóc mười tám tuổi năn nỉ xin...hôn một cái. Ở Bỉ tôi lạc vào một con phố vắng và bắt gặp một người đàn ông đang... khỏa thân phần dưới, báo hại tôi vắt giò lên cổ chạy trối chết. Ở Hà Lan tôi bị chủ nhà trọ vô tình xếp ngủ cùng phòng với hai sinh viên nam (do tên Việt Nam không phân biệt được là nam hay nữ). Ở Tây Ban Nha tôi suýt bị "làm thịt", may sao vào phút tám chín có quý nhân can thiệp kịp. Ba tháng tôi lang bạt kỳ hồ ở Châu Âu với những phòng trọ rẻ tiền ở cùng người lạ, những chuyến xe giảm năm mươi phần trăm vé vì đi vào những thời điểm không thuận lợi, những bữa ăn vô cùng đạm bạc chỉ gồm bánh mì và nước lọc mua trong siêu thị, thỉnh thoảng mới dám "hùng dũng" chui vào Mc Donald. Những truyện ngắn Con gà nói tiếng Đức, Đổ thừa Venise, Mùa hè ở Barcelone... được độc giả cho là lãng mạn, chỉ có tôi mới biết tình hình thực tế "thê thảm" thế nào. Du học và những chuyến công tác Càng đi, càng tiếp xúc, càng trải nghiệm ở xứ người, tôi càng... say máu xuất ngoại. Tôi lên kế hoạch tìm được học bổng du học. Suốt một năm ròng tôi miệt mài viết thư cho các Đại sứ quán, các tổ chức phi chính phủ, các trường Đại học. Chiến dịch kết thúc với vài lời đề nghị nhưng tôi chọn suất học bổng toàn phần của chính phủ Bỉ. Tôi xúc động nhận ra một điều: nếu biết làm việc một cách chuyên nghiệp và nhiệt tình. Trời sẽ không phụ lòng! Tôi "cụ bị" đồ đạc, hăm hở lên đường sang Bỉ học Cao học Quản trị Kinh doanh tại Đại học Liège, một trường thuộc loại cổ xưa của Châu Âu. Những vui buồn đời du học sinh với những áp lực trong học tập, những ánh mắt kỳ thị của dân bản xứ, tình bạn tha thiết với những cô nàng da đen, những anh chàng mũi lõ, tình thầy trò nồng ấm với giáo sư đỡ đầu... được tôi truyền tải vào các truyện ngắn Bồ câu chung mái vòm, Đồng môn xứ lạ, Đừng giận tình si... Đặc biệt, đời du học sinh trong một năm ngắn ngủi nhưng đầy ắp xúc cảm là chất liệu sống để tôi hoàn thành truyện dài Oxford thương yêu. Tôi có thể ăn uống kham khổ, ngủ bờ ngủ bụi, chi tiêu bủn xỉn vì muốn để dành tiền đi đây đó. Càng "lăn lóc" bao nhiêu tôi càng có nhiều trải nghiệm quý giá bấy nhiêu. Và sau những chuyến phiêu lưu ấy, tôi ấm lòng nhận ra thế giới này người tốt luôn nhiều hơn kẻ xấu. Giờ tuy bận rộn công việc và gia đình, những lúc đi công tác ra nước ngoài tôi đều tranh thủ ở lại để thăm thú thêm nơi mình đến. Lisbon thân thiện đã cho tôi quyết định sẽ xây dựng một nhân vật nam người Bồ Đào Nha thật lý tưởng. Đó chính là Fernando trong Oxford thương yêu. Chuyến tu nghiệp ở Anh một tháng và vài ngày ở Oxford đủ khiến tôi "cả gan" chọn nơi đây làm bối cảnh chính cho truyện dài đầu tiên của mình. Giờ tôi đã chẳng còn bệnh say xe do đã đi quá nhiều. Với tôi, những chuyến đi sẽ không bao giờ ngơi. Hãy cùng tôi đi khắp châu Âu trong suốt mười năm vừa qua nhé!   Mời các bạn đón đọc Venise Và Những Cuộc Tình Gondola của tác giả Dương Thụy.
Phút Tráng Lệ Cuối Đời - Michael Kumpfmuller
Michael Kumpfmüller viết "Phút tráng lệ cuối đời" dựa trên câu chuyện tình cuối đời đầy ám ảnh của thiên tài kì dị Frank Kafka và cô gái mang tên Dora Diamant. Mùa hè năm 1923, Franz Kafka, thiên tài văn chương của thế kỷ XX, gặp Dora Diamant, bên bờ biển Baltic, khi cô 25 tuổi thanh xuân, còn ông thì đang kiệt quệ vì bệnh lao. Dora nhanh chóng si mê ông, và Kafka, có lẽ cũng không thể lý giải được, tại sao bản thân lại cảm thấy gắn kết với cô gái mới vừa nhìn thấy, mới vừa đi dạo cùng nhau vài lần. Cảm tưởng như, Dora ấy, cô đã kéo người đàn ông này vào một bể ái tình đầy mê đắm, khi ông vẫn nhút nhát, sợ sệt, đầy âu lo, đầy mâu thuẫn. Người đọc được biết trước đây là câu chuyện tình của Kafka, nhưng khi Micheal viết Phút tráng lệ cuối cùng, không có một lần nào cái tên Kafka được nhắc đến. Ông xuất hiện bằng ba từ ông tiến sĩ, và sau ấy, khi ở bên cạnh Dora, ông được gọi bằng Franz.   Ông là một cây đại thụ văn học, là người khiến cả thế giới, dù thích hay không thích văn chương của ông cũng đều nghiêng mình ngưỡng mộ, nhưng ở Phút tráng lệ cuối cùng, ông tuyệt đối không phải là một Kafka của Lâu đài, của Vụ án, hay Hóa thân. Ông là chỉ là Franz, là Franz vô cùng yếu đuối, từ tốn, nhân hậu, dịu dàng của Dora. *** Tối muộn ông tiến sĩ mới đến, vào một ngày thứ Sáu của tháng Bảy. Đoạn đường sau chót trên xe mui trần đi từ ga về tựa như vô tận, trời vẫn nực lắm, ông mệt rũ, nhưng giờ thì ông tới nơi rồi. Elli và lũ trẻ đợi ông ở phòng khách. Ông hầu như chưa kịp đặt hành lý xuống, Felix và Gerti đã chạy xổ ra kể chuyện ào ào. Chúng ở ngoài biển từ sáng tinh mơ, chỉ muốn quay lại đó ngay để khoe với ông chúng đã đắp được những gì. Một ngôi thành cát khổng lồ. Bãi biển đầy những ngôi thành như thế. Để cho bác thở đã, Elli nhắc, bồng con bé Hanna ngái ngủ trên tay, nhưng lũ trẻ vẫn không dứt được câu chuyện về ngày hôm nay. Elli hỏi: Chuyến đi thế nào? Anh có muốn ăn chút gì không? Ông tiến sĩ ngẫm nghĩ xem có nên ăn gì không, vì ông không thấy ngon miệng. Ông rảo chân lên tầng trên của ngôi nhà nghỉ hè, lũ trẻ chỉ cho ông chỗ chúng ngủ, hai đứa mười một và mười hai tuổi, và chúng tìm ra trăm nghìn lý do để chưa phải lên giường. Cô hầu phòng đã chuẩn bị một đĩa hạt dẻ và hoa quả, bình nước có sẵn, ông uống nước rồi nói với em gái rằng ông rất biết ơn cô, vì trong ba tuần tới ông sẽ ăn ở tại đây, họ sẽ có nhiều thì giờ bên nhau, tuy về lâu về dài mới biết, liệu ông có thích vậy không. Ông tiến sĩ không mong đợi gì nhiều ở kỳ nghỉ này. Mấy tháng vừa qua thật tệ, ông không muốn ở chỗ cha mẹ lâu thêm nữa, vì vậy lời mời ra biển Baltic đến thật đúng lúc. Em gái ông tìm được nhà trọ này trên báo, mẩu quảng cáo hứa có giường đệm tử tế và giá cũng phải chăng. Lại còn thêm bao lơn, hàng hiên, vị trí ngay sát bìa rừng và tầm nhìn ra biển thật hoành tráng. Phòng ông nằm cuối hành lang. Gọi là rộng rãi thì không phải, nhưng có bàn viết, nệm cứng, ngoài ra còn có một bao lơn hẹp trông ra rừng, hứa hẹn bầu không khí yên tĩnh, mặc dù từ ngôi nhà gần đó lao xao tiếng trẻ con. Ông soạn hành lý, vài bộ đồ lớn, quần áo, sách để đọc, giấy viết. Lẽ ra ông có thể kể cho Max biết kết quả các cuộc thương thảo ở nhà xuất bản mới, nhưng chuyện đó lui lại vài hôm nữa cũng được. Kể cũng lạ, sau chừng ấy năm ông lại có dịp đến Berlin, rồi chỉ hai tư tiếng sau đã tới Müritz, trong một ngôi nhà mang tên May mắn. Elli đã đùa cợt về cái tên đó, cô hy vọng ông sẽ tăng vài cân nhờ không khí vùng biển, mặc dù cả hai đều biết chuyện đó rất khó xảy ra. Mọi thứ cứ lặp đi lặp lại, ông nghĩ, từ nhiều năm nay, mùa hè thì ở các khách sạn hay an dưỡng đường nào đó, sau đó đến mùa đông lê thê trong thành phố, đôi khi mấy tuần liền ông không rời giường. Vui mừng vì được ở một mình, ông ra bao lơn ngồi một lát, vẫn nghe tiếng người lao xao, rồi ông lên giường và nhẹ nhàng trôi vào giấc ngủ. Khi thức dậy vào sáng hôm sau, ông đã ngủ được hơn tám tiếng. Ông biết ngay mình đang ở đâu, ông ở gần biển, trong căn phòng này, xa lắc tất cả những gì mà ông quen thuộc đến phát ngán. Tiếng trẻ con hôm qua theo ông vào giấc ngủ, giờ lại vang lên, chúng đang hát, một bài hát tiếng Hebrew(1), không khó để nhận ra. Bọn trẻ đến từ miền Đông, ông nghĩ, có loại nhà nghỉ hè dành cho bọn trẻ ấy, trước đây hai hôm, ở Berlin, Puah, cô giáo tiếng Hebrew của ông có nhắc rằng ở Müritz cũng có một nhà nghỉ hè như thế. Ông bước ra bao lơn và ngó về phía lũ trẻ. Chúng đã hát xong, giờ chúng ngồi dọc một cái bàn dài kê trước nhà, ăn sáng, ầm ĩ và vui vẻ. Trước đây một năm ở Planá ông ghét tiếng ồn ào ấy, nhưng hôm nay gần như ông vui sướng khi nghe những tiếng bi bô như thế. Ông hỏi cô em gái có biết gì về lũ trẻ ấy không, nhưng Elli chẳng biết gì và có vẻ ngạc nhiên khi thấy ông đột nhiên phấn khích, cô hỏi ông ngủ ra sao, có hài lòng với căn phòng không, có chứ, ông hài lòng, ông đang mong ra biển. ... Mời các bạn đón đọc Phút Tráng Lệ Cuối Đời của tác giả Michael Kumpfmuller.