Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tinh Vân Tiên Nữ - Ivan Yefremov

Tinh vân Tiên Nữ là một tác phẩm tiểu thuyết khoa học viễn tưởng của nhà văn, nhà cổ sinh vật học người Nga Ivan Antonovich Efremov viết và xuất bản lần đầu năm 1957, đã được Dovzhenko Film Studios chuyển thể thành phim năm 1967. Truyện được đặt vào bối cảnh tương lai rất xa, khi mã xã hội loài người đã đạt đến cấu trúc chủ nghĩa cộng sản, khi mà khoa học công nghệ đx có thể sáng chế ra nhưng nhiên liệu hạt nhân dạng "hạt K" làm nhiên liệu cho các con tàu vũ trụ bay nhanh gần tốc độ ánh sáng, có thể đưa con người tới các thiên hà nằm ngoài hệ Ngân hà mà con người quan sát được mà gần nhất là "Thiên hà Tiên Nữ" (Tinh vân Andromes). Cuốn tiểu thuyết cũng không bỏ qua những sính hoạt bình thường của con người như tình yêu, sự nhớ nhung khi xa cách, những xung đột trong các quyết định sinh tử, những cảm giác mới lạ chưa từng có trên trái đất, những suy tư của từng con người khi tham gia vào các chuyến hành trình vũ trụ xuyên thời gian.v.v... *** Đ ể miêu tả sự phát triển của xã hội loài người cho đến ngày nay, kỹ sư Gu-xta-vơ Ay-xen-béc (Người Thụy Sỹ) đã đưa ra một hình ảnh thú vị. Ông ví sự phát triển đó như một cuộc chạy Ma-ra-tông sáu mươi ki-lô-mét. Mỗi ki-lô-mét tượng trưng cho một vạn năm. Phần lớn con đường phát triển của nhân loại xuyên qua rừng rậm hoang vu, giữa thiên nhiên nguyên thủy. Mãi đến cây số thứ năm mươi tám, năm mươi chín mới xuất hiện những mầm mống đầu tiên của văn minh: vũ khí thô sơ của người nguyên thủy, hình vẽ trong hang đá. Ở cây số cuối cùng ta gặp những người làm ruộng đầu tiên. Còn ba trăm mét nữa đến đích, các lực sỹ chạy trên con đường lát đá phiến dẫn họ qua các Kim tự tháp Ai-cập và những thành trì cổ La-mã. Còn một trăm mét nữa, trên đường xuất hiện những kiến trúc đô thị thời Trung cổ và họ nghe thấy tiếng kêu thét của những người bị thiêu trên giàn lửa của Tòa án tôn giáo. Còn năm chục mét. "Ở đây có một người đang đứng theo dõi cuộc chạy việt dã bằng cặp mắt thông minh và hiểu biết. Người đó là Lê-ô-na đơ-Vanh-xi"- Ay-xen-béc viết. Chỉ còn mười mét nữa đến đích, tức là đến thời nay. Ở đầu khúc đường ngắn ngủi ấy, phương tiện thắp sáng vẫn là đuốc và ngọn đèn dầu leo lét. Nhưng trên đoạn năm mét cuối cùng, một điều kỳ diệu đáng sửng sốt xảy ra: ánh điện chan hòa trên đường, ô-tô thay cho xe ngựa, có tiếng máy bay và đám mây nấm của vụ nổ nguyên tử tại Hi-rô-xi-ma... Bức tranh mà Ay-xen-béc đưa ra giúp ta hình dung hết sức cụ thể tốc độ phát triển gần như hoang đường của khoa học trong thế kỷ này. Sự phát triển cực kỳ mau lẹ của Khoa học không những có ảnh hưởng lớn đến đời sống xã hội, mà còn làm đảo lộn nhiều quan niệm tưởng như bất di bất dịch, khiến ta phải thừa nhận những nghịch lý "trái với lương tri", "không thể hình dung nổi", tuồng như chỉ là "trò chơi ngông cuồng" của của trí tưởng tượng bất trị. Thực vậy: thuyết tương đối chẳng phải là "điên rồ" so với cơ học cổ điển sao? Trong thế giới trông thấy, có cái gì giống với ê-lec-trôn vừa có tính chất sóng, vừa có tính chất hạt? Lại còn các môn hình học phi Ơ-cơ-lít, lại còn phản hạt? Kể sao cho hết những "quái dị" mà khoa học đã đem đến cho chúng ta. Tình thế ấy tất nhiên đề ra cho chúng ta nhiều câu hỏi lớn: trong tương lai, loài người sẽ có những phát minh khoa học vĩ đại như thế nào? Khoa học sẽ đưa xã hội loài người tới đâu? Con người của thời đại ngày nay phải như thế nào và hình ảnh của thế hệ mai sau ra sao? Giáo sư I-van Ê-phơ-rê-mốp là một nhà tiểu thuyết khoa học viễn tưởng nổi tiếng của Liên-xô. Nhiều tác phẩm của ông như "Đất nổi sóng", "Trái tim của con rắn", "Những con tàu vũ trụ" đã được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới và được đông đảo bạn đọc hoan nghênh. Dựa vào nhưng thành tựu mới nhất của khoa học, "Tinh vân Tiên nữ" là một trong những cố gắng trả lời cho những câu hỏi trên bằng cách kết hợp tư duy khoa học với sự bay bổng tuyệt vời của trí tưởng tượng nghệ thuật. Đây là một tác phẩm vẽ lên bức tranh rộng lớn về xã hội cộng sản đã phát triển tới mức hoàn mỹ trên toàn hành tinh chúng ta. Cái tương lai được miêu tả ở đây không phải là tương lai của mấy chục hoặc thậm chí mấy trăm năm sau, mà là tương lai xa xăm mang ý nghĩa khái quát. Trước mắt bạn đọc là một Trái đất hoàn toàn mới lạ, tươi đẹp và được tổ chức hợp lý: sa mạc đã biến thành vườn hoa, thảo nguyên đã biến thành những khu chăn nuôi bất tận; các mũ băng ở địa cực đã bị thu hẹp hẳn lại và châu Nam-cực biến thành kho tàng khoáng sản quí báu; con người đã làm thay đổi căn bản khí hậu trên hành tinh, mọi sự đảo lộn khí hậu một cách dữ dội và bất ngờ đã bị loại trừ hẳn. Tất cả những thay đổi trên có thể thực hiện được là nhờ đã hoàn toàn giải quyết được vấn đề quan trọng số một là vấn đề năng lượng: người ta đã khám phá ra những loại năng lượng hoàn toàn mới. Những kết quả vĩ đại của khoa nông nghiệp cùng với việc chinh phục đại dương, việc sản xuất thức ăn nhân tạo đã vĩnh viễn tiêu diệt nạn thiếu thực phẩm. Việc sản xuất được tự động hóa hoàn toàn, vì vậy các khu dân cư có thể ở rất xa nơi sản xuất. Toàn bộ các khu dân cư và các khu công nghiệp được sắp xếp lại theo phương án tốt nhất. Một thành công vĩ đại khác nữa của việc tổ chức đời sống là hoàn toàn giải thoát con người khỏi sự lệ thuộc vào đồ dùng, đó là kết quả của một phát minh lớn: khám phá ra một số có hạn những chi tiết tiêu chuẩn để từ đó có thể làm ra bất cứ đồ vật và máy móc nào. Về mặt xã hội, chế độ cộng sản đã được thiết lập trên toàn Trái đất từ lâu. Các dân tộc và chủng tộc trên toàn thế giới hòa vào nhau thành một gia đình duy nhất, có chung một ngôn ngữ, một chữ viết. Cùng với sự biến đổi điều kiện sống và hoàn cảnh xã hội, bản thân loài người cũng khác hẳn. Mấy trăm thế hệ sống no đủ, lành mạnh, tươi vui đã tạo nên một nhân loại cường tráng, đầy sức sáng tạo. Tuổi thọ của con người đã được nâng cao đáng kể: ba trăm năm chưa phải là giới hạn của đời người. Mỗi người trong xã hội đều có học vấn sâu rộng, vì vậy có thể mau chóng chuyển từ lãnh vực hoạt động này sang lãnh vực hoạt động khác. Con người không còn bị cột chặt vào một nghề nhất định. Lao động trở nên muôn hình muôn vẻ, đầy hứng thú và sáng tạo. Cuối cùng, một biến chuyển quan trọng đã đến với nhân loại: nhân loại bước vào kỷ nguyên Vành-khuyên vĩ đại, kỷ nguyên liên hệ với các thế giới có lý trí trên các hành tinh gần Trái đất nhất. Cũng như mọi cuốn tiểu thuyết khoa học viễn tưởng, ở đây các bạn sẽ gặp những cái mới lạ về khoa học và kỹ thuật, cũng như những chuyện phiêu lưu ly kỳ: hành tinh Diếc-đa bị hủy diệt do việc sử dụng các chất phóng xạ một cách bừa bãi, đoàn thám hiểm vũ trụ số ba mươi bảy bị Ngôi sao sắt bắt cóc, việc tìm thấy con tàu vũ trụ "Cánh buồm" mất tích từ tám mươi năm về trước và việc khám phá ra con tàu vũ trụ lạ, từ một thế giới xa xăm tới, những con sứa điện và những cây thập tự giết người trên hành tinh đen.v.v.. Nhưng mặc dù có tính chất khoa học nghiêm chỉnh, có tầm khái quát xã hội rộng lớn, "Tinh vân Tiên nữ" không phải là cuốn sách phổ biến khoa học hay nghiên cứu xã hội học, cũng không phải truyện "phiêu lưu mạo hiểm" hấp dẫn, mà là một tác phẩm văn học lớn. Và cũng như mọi tác phẩm văn học có giá trị, vấn đề trung tâm mà nó đề cập tới là con người, những việc làm, tình cảm, cách xử sự của con người, những va chạm giữa các cá tính, các quan điểm, nguyện vọng trong hoàn cảnh khác thường, khiến cho những đặc điểm cá tính càng nổi bật, những va chạm càng căng thẳng... Tất cả các nhân vật trong tác phẩm này đều là những nhà bác học, những nhà hoạt động văn hóa nghệ thuật (sản xuất vật chất cũng đã trở thành một hoạt động khoa học). Đấy là Éc-gơ No-rơ, trưởng đoàn thám hiểm số 37, là Mơ-ven Ma-xơ, chủ nhiệm các trạm liên lạc ngoài Trái đất, là Vê-đa Công, nhà nữ bác học khảo cổ xinh đẹp... Giữa những người ấy vẫn có những quan hệ và tình cảm bình thường của con người: yêu đương, cãi cọ, giận hờn, đau buồn, tiếc thương... Nhưng những xung đột giữa các nhân vật không xoay quanh các quan hệ cá nhân, mà xoay quanh việc tìm kiếm con đường tốt nhất để đi đến chân lý. Trong việc tìm kiếm đó, họ không sợ mạo hiểm, không sợ hy sinh, không sợ trách nhiệm. Tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá việc làm của họ là: việc làm đó phục vụ như thế nào cho hạnh phúc loài người. Mơ-ven Ma-xơ, chủ nhiệm các trạm liên lạc ngoài Trái đất đã cùng với nhà Vật lý Ren Bô-dơ tiến hành một thí nghiệm vĩ đại nhằm khắc phục không gian và thời gian. Thí nghiệm thất bại, vệ tinh số 57 bị hủy diệt cùng với tất cả những người làm việc tại đó. Trước Hội đồng du hành vũ trụ. Mơ-ven Ma-xơ trình bày nguyên nhân nội tâm thôi thúc anh làm thí nghiệm ấy: "Anh kể lại rằng từ thuở mới trưởng thành, anh đã cảm thấy sự trách móc của hàng triệu nấm mồ vô danh của những người bị thời gian khắc nghiệt đánh bại. Anh cảm thấy không thể nào yên tâm được nếu lần đầu tiên trong suốt lịch sử loài người và lịch sử các thế giới lân cận, anh không bước một bước trên con đường chiến thắng không gian và thời gian, không đặt dấu mốc đầu tiên trên con đường ấy... Anh thấy mình không có quyền để cho thí nghiệm bị đẩy chậm lại, có thể là chậm lại một trăm năm, chỉ cốt tránh cho một số ít người khỏi bị nguy hiểm, và cho mình khỏi phải chịu trách nhiệm". Thí nghiệm tuy chưa thành công và có gây ra thiệt hại, nhưng nó mở ra một con đường mới, như một nhân vật là Đa-rơ Vê-te đã nghĩ: "Đa-rơ Vê-te khâm phục tư tưởng táo bạo của Ren Bô-dơ và Mơ-ven Ma-xơ. Dù cho thí nghiệm của họ không thành công, dù cho vấn đề họ nêu ra - cái vấn đề đụng chạm đến nền tảng của vũ trụ - còn xa mới giải quyết được, dẫu rằng vấn đề ấy chỉ là một điều hoang tưởng sai lầm đi nữa, thì những con người điên rồ ấy vẫn là những bậc khổng lồ của tư tưởng sáng tạo của loài người bởi vì ngay cả trong việc tìm cách bác bỏ lý thuyết và thí nghiệm của họ, nhân loại cũng sẽ đi tới một bước nhảy vọt trong việc tìm kiếm kiến thức". Tác giả muốn nói với ta rằng sự điên rồ của hai nhà bác học này là "sự điên rồ của những người dũng cảm", như M. Goóc-ki đã viết trong "Bài ca chim ưng". Đối lập với Mơ-ven Ma-xơ, nhà bác học có bản chất tình cảm phong phú, Bét Lon là "một trí tuệ tài giỏi, phát triển thái quá đến mức chèn lấn cả sự phát triển của nền tảng đạo đức và sự tự kiềm chế". Bét Lon cũng làm một thí nghiệm bị cấm, và thí nghiệm cũng thất bại, gây tổn hại lớn. Hai trường hợp bề ngoài giống nhau, nhưng khác nhau biết bao nhiêu! Một bên là hành động xuất phát từ ý thức trách nhiệm đầy đủ đối với sự tiến bộ của của khoa học, của loài người, một bên là hành động ích kỷ, ương bướng, xuất phát từ động cơ tự ái cá nhân. Ở đây, ta thấy tác giả bảo vệ việc những người đi tìm cái mới được quyền mắc sai lầm. Lịch sử phát triển của khoa học không phải là một chuỗi những thành công, mà còn gắn liền với những sai lầm, những thất bại. Và trong tương lai, công cuộc tìm kiếm những con đường nhận thức mới không thể tránh khỏi sai lầm. Điều quan trọng là ý thức trách nhiệm đầy đủ của nhà bác học, là "giá trị thực của hành động của họ... đối chiếu với cái mặt trái tai hại mà mỗi hành động, mỗi biện pháp đều phải có". Chính đó là cái phân biệt thí nghiệm thất bại của Mơ-ven Ma-xơ và Ren Bô-dơ với thí nghiệm của Bét Lon. Việc khoa học ngày càng xâm nhập vào mọi lãnh vực của đời sống và có vai trò ngày càng lớn trong sinh hoạt xã hội đôi khi cũng đẻ ra một số hiện tượng tiêu cực: khuynh chỉ biết có kỹ thuật, đề cao sự chuyên môn hóa một chiều mà coi rẻ những mặt khác của đời sống tinh thần phông phú của con người, coi rẻ thế giới tình cảm muôn màu muôn vẻ, những cảm xúc thẩm mỹ tinh tế trong sự cảm thụ cái đẹp. Điều đó dẫn tới chỗ "vương quốc của lô-gích" đè bẹp "nền văn hóa của tình yêu" mà chính là nhờ có "văn hóa của tình yêu" mà con người đứng cao hơn loài vật. Khi thế giới cảm xúc, khả năng thẩm mỹ của con người bị chèn lấn thì điều đó ảnh hưởng xấu ngay đến những khả năng trí tuệ của con người, mặt khác nó dẫn đến sự còi cọc, sự quái gở về mặt đạo đức. Dường như để tranh luận với khuynh hướng thực dụng thô thiển, với khuynh hướng kỹ thuật một chiều, trong tác phẩm này, nhà văn luôn đề cao bản chất giàu cảm xúc của các nhân vật, nêu bật lên những vấn đề đạo đức - thẩm mỹ của sự phát triển cá tính, của văn hóa, sự gắn bó của con người với các thế kỷ trước, với thiên nhiên sinh động. Ông khẳng định nhân loại trước hết là lịch sử của sự phát triển cá tính có đạo đức lành mạnh, ông khẳng định cái đẹp là tiêu chuẩn đáng tin cậy nhất của sự tiến hóa, vì cái đẹp chính là cái hợp lý, là biểu hiện của sự hoàn mỹ. Cái đẹp không phải là một mặt riêng biệt của sự sống, mà là cơ sở phát triển của nó. Trong một buổi nhận thông điệp từ vũ trụ, trước những cơ thể đầy vẻ đẹp hoàn mỹ của người trên hành tinh của sao Đỗ-quyên, Đa-rơ Vê-te suy nghĩ: "Con đường tiến hóa mù quáng của động vật để trở thành sinh vật biết suy nghĩ càng khó khăn và lâu dài, thì các hình thức cao nhất của sự sống càng hợp lý và hoàn hảo, tức là càng đẹp... Từ lâu, người Trái đất đã biểu hiện vẻ đẹp chính là tính hợp lý của cấu tạo, của sự thích ứng với với một chức năng nhất định. Chức năng càng nhiều mặt thì hình thức càng đẹp...". Và anh kết luận là họ đẹp hơn người Trái đất, vì họ đã qua con đường con đường phát triển phức tạp hơn chúng ta". Ở một chỗ khác trong tác phẩm, tác giả cho họa sỹ Các-tơ Xan trình bày ý nghĩ này dưới góc độ hơi khác: Tính hợp lý chính là vẻ đẹp, mà mà không có cái đẹp thì tôi không thấy hạnh phúc và ý nghĩa của cuộc sống...". Đọc "Tinh vân Tiên nữ", chúng ta thấy đây không chỉ là tác phẩm hư cấu về tương lai, mà còn đầy tính chất thời sự. Nó bày tỏ mối lo lắng về hậu quả của cuộc cách mạng Khoa học Kỹ thuật thời nay, nó tranh luận một cách nghiêm chỉnh, sâu sắc về hiện thực của thế giới ngày nay. Nó buộc chúng ta phải xúc động và suy nghĩ về việc chúng ta phải làm gì để đi vào ngày mai của chúng ta. Tính lãng mạn đầy thi vị kết hợp với tính khoa học, với cơ sở hiện thực và ý nghĩa xã hội bao quát, sâu sắc khiến cho "Tinh vân Tiên nữ" trở thành tác phẩm đánh dấu một bước ngoặt trong sự phát triển của thể Khoa học viễn tưởng Xô-viết. Chúng tôi tin chắc rằng tác phẩm này sẽ được bạn đọc nước ta nhiệt liệt hoan nghênh. Một điều nữa cần nói thêm là trong tác phẩm này, nhà văn dùng rất nhiều thuật ngữ khoa học thuộc đủ mọi ngành: Vật lý, Thiên văn, Toán học, Di truyền học, Y học... điều đó đôi khi cũng gây khó khăn cho người đọc. Nhưng, như nhà văn đã trình bày trong "Lời tác giả" (ở bản Tiếng Nga), đấy không phải là "sự sơ xuất hay không muốn giải thích những cách diễn đạt phức tạp. Mà tôi cho rằng chỉ có cách ấy mới có thể tô đậm màu sắc tương lai cho lời ăn tiếng nói và hành động của những con người ở một thời đại mà khoa học đã ăn sâu vào mọi khái niệm, mọi quan niệm và ngôn ngữ". Do đặc điểm trên đây của tác phẩm, việc dịch sang Tiếng Việt cũng gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là khi dịch các thuật ngữ khoa học. Vì vậy, Nhà xuất bản mong nhận được sự góp ý của bạn đọc để giúp cho bản dịch được tốt hơn trong các lần xuất bản sau này. NHÀ XUẤT BẢN LAO ĐỘNG *** Ivan Yefremov vốn là một nhà nghiên cứu cổ sinh vật học tại Viện Cổ sinh vật học (Палеонтологический институт РАН) thuộc viện Hàn lâm Khoa học Nga. Ông bắt đầu viết tiểu thuyết từ năm 1944, với tác phẩm đầu tay xuất bản khi đó là "The Land of Foam" (nguyên bản tiếng Nga: На краю Ойкумены). Nhiều tác phẩm sau đó của ông đã được dịch ra nhiều thứ tiếng: "Trái tim của rắn, "Những con tàu vũ trụ", truyện ngắn "Ôl-goiKhoorrr-khôi" (Олгой-Хорхой kể về một loài giun tử thần Mông Cổ) Một tiểu hành tinh trong vành đai tiểu hành tinh chính, phát hiện tháng 2 năm 1976 đã được đặt theo tên ông: 2269 Efremiana Mời các bạn đón đọc Tinh Vân Tiên Nữ của tác giả Ivan Yefremov.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Mặt Trái Thần Tượng
Ấn phẩm "Mặt trái của thần tượng" của tác giả John O'hara, sách do dịch giả Phan Thị Thanh chuyển sang Việt ngữ, được nhà xuất bản Trẻ ấn hành năm 1974. Ấn bản đang lưu giữ tại Quán Sách Mùa Thu có tình trạng rất đẹp, sách nguyên bìa gáy, ruột đẹp, lõi sách chắc chắn. Sách dày 84 trang. Nhìn chung, tác phẩm" Mặt trái của Thần Tượng'' là một thành công. Đó là câu chuyện tình tay ba giữa Charley, Mildred và Hubert. O'Hara đã sắp xếp rất khéo léo, nhất là hình ảnh một Charley giàu sang, cả thế giới biết danh, nhưng buồn nản thay, chính lúc thế giới đang đón tiếp ông, lại là lúc ông ra đi vĩnh viễn. Con người và cuộc đười của Hubert với những thay đổi, thăng trầm, cũng đã làm say mê độc giả không ít.  Người ta có thể thắc mắc về những nhân vật trong truyện: họ có thật ngoài đời không? Qủa là có, họ là hình ảnh trung thực của những người làm nghệ thuật chuyên nghiệp. O'Hara Ward để vạch trần những xấu xa của con người, để gửi gắm tâm sự của ông thời niên thiếu. Ông dùng một Martin Ruskin làm tiêu biểu cho sự xảo nguyệt của con người. Và nhân vật Charley được dựng lên để bộc lộ những lo âu, trắc ẩn, phập phồng dưới lớp vỏ giàu sang, phú quí bên ngoài. Trong" mặt trái của thần tượng O'Hara đã vạch trần những  tranh giành quyền lực, địa vị, những áp lực kinh tế, cùng sự phân chia giai cấp và lối sống đã khiến Holly wood tách rời và khác hẳn với những người khác. Ông cũng đã phân tách và tỏ ra thông cảm với nổi cô đơn, nhất là sự trống vắng về tình cảm mà những nghệ sĩ phải gánh chịu.  *** Người đời có thể biết lúc nào là lúc chúng ta đang cố gắng để biến đổi ta thành một con người khác. Sự biết trước này sẽ giúp ngăn chặn một số người chân chánh đang đi dần vào chỗ xấu xa ; nhưng đồng thời lại không thể lôi kéo những kẻ bất chánh trở nên lương thiện. Phải chờ đến lúc bốn mươi tuổi, mới biết được ta thuộc loại người nào, và sở dĩ ta biết được là nhờ ở nhận xét của những người chung quanh – của những người trong gia đình, bạn bè, kẻ thù và ngay cả những người chưa tiện quen biết. Đồng ý là họ có thể lầm lẫn khi nhận xét về ta, nhưng đó là ý kiến riêng của họ và là nhận xét cuối cùng khó thay đổi, vì họ không đủ kiên nhẫn để phán xét dựa trên những sự thật. Nhưng nếu ta là họ để nhận xét một cá nhân khác, ta cũng sẽ có những nhận xét hoàn toàn tuyệt đối và thiếu kiên nhẫn giống như họ vậy. Mời các bạn đón đọc Mặt Trái Thần Tượng của tác giả John O'Hara & Phan Thị Thanh (dịch).
Cánh Hoa Rực Lửa
Cánh Hoa Rực Lửa, nguyên tác THE INN OF THE SIXTH HAPPINESS của Alan Burgess, bản dịch của NGUYỄN NHƯỢC NGHIỄM, bìa NGUYỄN ĐỒNG, ấn phẩm thứ 43 của nhà xuất bản Trẻ, ấn hành lần thư nhứt 1000 bản tại nhà in riêng của nhà xuất bản, không có bản đặc biệt. Vào những năm 1930 hỗn loạn, cô hầu bàn người Anh Gladys Aylward theo ơn gọi của Thiên Chúa đã mưu cầu đến Trung Hoa để truyền giáo. Vượt qua khó khăn về tài chánh cùng những rối ren thời cuộc lúc bấy giờ, không màng đến hiểm nguy, cô đã đến một vùng đất hẻo lánh, nghèo nàn lạc hậu tại miền Hoa Bắc. Cùng với bà Jeannie Lawson - một nhà truyền giáo kỳ cựu - họ bèn mở một khách điếm tên Lục Phúc. Khách điếm ngoài mục đích dùng làm nơi tá túc cho tha nhân thì còn là nơi chốn để họ rao tin mừng cho mọi người sau bữa ăn chiều. Dần dà, với một đức tin mãnh liệt, cùng tấm lòng chân ái và nghị lực phi thường, Gladys đã được tất cả dân bản xứ đều hết lòng tin yêu. Đồng thời cũng nẩy sinh một mối tình giữa cô và Lân – một sĩ quan Hán lai Hà Lan rất lạnh lùng. Khi chiến tranh Trung-Nhật bùng nổ, cũng là lúc Gladys nhận ra đâu là mối phúc hạnh thứ sáu để cô phải hoàn thành một sứ mệnh vô cùng cam go mà Chúa ban. *** Alan Burgess (1 tháng 2 năm 1915 – 10 tháng 4 năm 1998) là một phi công và tác giả của Lực lượng Không quân Hoàng gia Anh , người đã viết một số cuốn sách tiểu sử và phi hư cấu giữa những năm 1950 và 1970. Ông đã viết tiểu sử của Gladys Aylward, và Flora Sandes, và đồng viết cuốn tự truyện của Ingrid Bergman . [3] Bergman đóng vai Gladys Aylward trong phim The Inn of the Sixth Happiness dựa trên tiểu sử của Burgess. Alan Burgess từng phục vụ trong Lực lượng Không quân Hoàng gia trong Thế chiến thứ hai, Burgess tiếp tục viết Đường hầm dài nhất: Câu chuyện có thật về cuộc đào tẩu vĩ đại trong Thế chiến thứ hai, câu chuyện về " Cuộc đào thoát vĩ đại ". Mời các bạn đón đọc Cánh Hoa Rực Lửa của tác giả Alan Burgess & Nguyễn Nhược Nghiêm (dịch).
Những Tham Vọng Sụp Đổ
Không có gì khiến cho Pietro Monatti gớm ghiếc bằng một thái độ sống bị chi phối bởi những tính toán cùng những động lực độc đoán của lòng vị kỷ. Chàng căm ghét những biểu hiện thường tình của tính ích kỷ, đó là do sự khinh miệt mang tính bản năng đối với những điều ti tiện nhỏ nhen của hạng người chỉ biết có mình, đó cũng là do lòng ngưỡng mộ cũng mang tính bản năng không kém đối với những hành vi và ý đồ cao cả, hơn thế nữa, đó cũng là một số kinh nghiệm khốn khổ buổi thiếu thời tạo nên. Quả thật những kinh nghiệm này đã giúp Pietro tin chắc rằng mình có một ý thức đầy trăn trở và nghiêm ngặt đến độ sẵn sàng từ chối một hành vi thuần túy tự tư tự lợi, và (khác hẳn với mọi người do bản tính ích kỷ tự nhiên chỉ biết xử sự tốt đẹp do tính toán hoặc sức mạnh của ý chí) chàng cũng tin chắc mình có xu hướng tự nhiên thiên về đức hy sinh, lòng trung hậu, tính vị tha cùng tất cả những đức hạnh cao cả của con người. Khám phá đó là kết quả của một cuộc khủng hoảng dai dẳng và điều đáng kể hơn, đó còn là nguyên tắc đem lại một loạt hạnh phúc. Bởi vì khi đã tạo cho mình một sự nhất quán và chỉnh đốn cuộc sống của mình theo những bình diện phù hợp với tính cách của mình Pietro cuối cùng đã tìm được một sự bình yên trong tinh thần giúp chàng đạt tới sự thành công trong công việc và tạo được những mối quan hệ tốt đẹp. *** Chung quanh ngôi nhà, trong vòng rào tối tăm và trần trụi như một nghĩa địa không có nấm mồ, ngọn gió đói khát vì thiếu bụi rậm và cây cối để lay động cứ quất vào các mô đất biến dạng của các bồn hoa. Andréa vừa rảo bước vừa ngước mắt nhìn bầu trời. Ngọn gió khô ran vẫn là là sát mặt đất. Những tia chớp lặng lẽ và ở tít trời xa thỉnh thoảng lóe lên cho thấy những lớp mây chồng chất lên nhau, bất động và lơ lửng trên các khu vườn và nhà cửa. Những bức màn màu nhựa thông, những bức màn làm nên từ những ngọn đồi trùng điệp, chúng toát ra một vẻ tĩnh lặng đến bi thảm giữa một cảnh trí xôn xao, dao động. Trái lại, cứ mỗi lần tia chớp lóe lên, người ta có thể nhận ra trên nền trời lấp lánh và vỡ vụn, những ngọn cây đen lay động, những chiếc lá quay cuồng, những cành cây vặn vẹo và gãy rời ra dưới sức mạnh hung hãn của gió. Ghì chặt túi xách vào người. Andréa băng qua khu vườn, vượt cổng rào và đi vào con đường dốc nhỏ. Trước khi đến nhà Marie-Louise, nàng đã quyết định sẽ trở về nhà ngay, nơi Pietro đang đợi nàng. Nàng tuân theo kế hoạch này, nhưng từ giờ phút này trở đi, đó là vì một sự trung thành máy móc hơn là một sự cần thiết, về nhà hay đến một nơi nào khác cũng thế thôi. Lâu đài của những kế hoạch trong đầu nàng đã sụp đổ, với nàng chỉ còn lại cơn điên đầy kiêu hãnh đã hoạch định nên nó, cơn điên đó giờ đây trở nên mãnh liệt và khốc liệt hơn bao giờ cả, nó dẫn nàng tới một sự nổi loạn tột cùng. Stefano sợ mình tự tử, nàng nghĩ thế, vì thế anh ta muốn đoạt lấy khẩu súng, nhưng anh ta lầm, anh ta lầm to. Nàng đi khoảng mươi mười hai thước thì một chiếc tắc xi vượt qua nàng và dừng lại cách đó mấy bước, dưới tán lá thấp của một cây to rì rào xao động trong gió, trước cổng một ngôi nhà. Andréa dồn bước để kịp thế chỗ người khách sắp bước xuống. Đó là một bà đứng tuổi, bà ta đội một cái khăn ngắn màu tía và mặc một chiếc áo dạ hội in hoa khá dài. Bà ta cao và gầy, với mái tóc hoa râm hơi ngả màu xanh do tác dụng của thuốc nhuộm, đôi mắt xanh nhớn nhác và có phần khó chịu, chìm khuất trong những nếp nhăn, mũi to, miệng rộng và cổ với những đường gân nổi rõ dưới làn da héo hon đầy phần sáp. Andréa đứng trên vỉa hè đợi bà ta trả tiền. Nàng thấy bà ta nghiêng người, chúi mũi vào đồng hồ tính tiền rồi rút ví ra và lấy ra một đồng tiền trao cho anh tài xế sau khi đã kiểm tra cẩn thận bên trong. Anh này nhìn đồng hồ tiền và bảo mình không đủ tiền thối. Bà ta đáp giọng chua lét rằng mình không thể để cho anh ta phần còn lại được. - Các người giống nhau cả, bà ta vừa nói vừa nhìn anh tài xế bằng ánh mắt lờ đờ và chăm chú. Mấy chú bao giờ cũng bảo không có tiền để tiện nhét túi những gì không phải của mình. Anh tài xế vội lộn tung các túi của mình và chìa ra trong lòng bàn tay mấy xu anh ta vừa nhặt nhạnh được. Bà ta không tin. - Không thể được. Nếu chú là người lương thiện thì chú phải hiểu rằng tôi không hề muốn cho chú hai lia tiền boa chứ! Bà ta lắc đầu. Mắt bà ta ánh lên niềm xác tín không gì lay chuyển nổi, đồng thời với niềm hi vọng là có thể đi tới chỗ thà không có tiền còn hơn chịu điều bất công là phải trả thừa tiền. Bây giờ Andréa hết kiên nhẫn nên can thiệp. Nàng lục túi xách lấy ra món tiền nhỏ ghi trên đồng hồ bước đến và dằn mạnh món tiền vào tay người tài xế. - Đây là số tiền bà này phải trả anh, nàng bảo. Còn bây giờ đẩy nhanh lên nào, đến đường Gracques. Và không buồn chú ý đến thái độ sững sờ giận dữ của bà ta, nàng leo lên xe và kéo cửa đánh sầm một tiếng. - Đường Gracques? Xong ngay! Anh tài xế nhanh nhẹn nói. Chiếc tắc xi bắt đầu chạy. Người đàn bà như hoàn hồn lại. Bà ta giơ tay. - Dừng lại, bà ta hét lên như tuân theo một ý nghĩ chợt nảy ra. Dừng lại, bằng không tôi ghi số xe đấy! Người đàn ông đáp lại mệnh lệnh này bằng cách đưa mấy ngón tay chạm vào mũi. Trong thời gian xe chạy, Andréa không nghĩ ngợi gì đến Marie-Louise, Stefano cũng không, càng không nghĩ đến chuyện gì sắp xảy ra, nhưng lại nghĩ đến bà già keo kiệt đã không giải quyết nổi hai lia tiẹn boa. Nàng ngạc nhiên về thái độ của chính mình, về cử chỉ đẹp đầy phù phiếm và mỉa mai sau bao biến cố mà nàng đã trải qua. Bởi lẽ, đương nhiên là nàng đã thực hiện một cử chỉ đẹp khi trả tiền tắc xi cho người đàn bà vận đồ dạ hội kia. Còn chuyện giết Marie-Louise thì sao? Đó cũng là một cử chỉ đẹp, cũng giá trị như cử chỉ vừa rồi. Rặt những cử chỉ đẹp! Dường như đó là những ý nghĩ buồn bã nhất mà nàng có được. Còn buồn hơn những ý nghĩ đã đẩy nàng tới chỗ giết Marie-Louise. Mặt khác cơn cuồng nộ của nàng rồi cũng dịu đi. Nàng chỉ cần gợi lên cái quá khứ gần đây nhất để vững tin rằng mình không chỉ thực hiện một cử chỉ đẹp mà còn cả một công trình chính nghĩa. Khi mở túi xách lấy tiền trả, nàng trông thấy khẩu súng của mình. Rồi ngước mắt lên cửa sổ phòng mình, nàng thấy bóng Pietro lay động một cách háo hức sau mấy thanh cửa lá sách rồi biến mất. Tất cả lòng thù hận cùng tình cảm vỡ mộng chợt tan biến, nhường chỗ cho lòng thương xót đối với chính mình. Đó không phải là lòng thương hại có giá trị an ủi, vỗ về. Đó là một lòng thương hại lạnh lùng, như ánh trăng soi rọi trên khung cảnh hoang tàn vì ngập lụt. Nàng nhìn lại trọn cuộc đời mình, và cả số phận đã dẫn dắt nàng đến hiện tại tai ương này, nhưng nàng lại không thoát khỏi điều ghi nhận vô bổ đó. Toàn bộ sự việc cùng một lúc vừa công bằng lại vừa bất công. Đầu cúi thấp, cổ họng khô ran, mắt ráo hoảnh, nàng băng qua khu vườn. Nàng chỉ ngẩng đầu lên khi trông thấy cửa nhà mình. Pietro đã ở ngưỡng cửa chào nàng với một cử chỉ hài lòng và ngay lúc nàng đến phòng ngoài, chàng đã âu yếm choàng tay qua người. - Thế nào? Chuyện đó diễn biến ra sao? Hết sức xúc động, chàng xiết chặt trong đôi tay, nhìn nàng không chán mắt với nụ cười thỏa mãn và kiêu hãnh... Nét mặt xanh nhợt, Andréa hơi né đầu ra sau. - Mọi chuyện tốt đẹp, nàng vừa nói vừa chăm chú nhìn chàng thanh niên. Nhưng còn chờ gì nữa? Hãy về phòng em đi! Hơi bối rối vì vẻ xanh xao và giọng nói đó, Pietro buông nàng ra và theo chân nàng về phòng. Đến nơi, Andréa bước tới tủ và đối diện tấm gương nghiêng, nàng chậm rãi cởi mũ. Pietro ngồi vào ghế bành gần cửa sổ, nhìn nàng đang sửa soạn lại mớ tóc, ngắm mình trong gương với một vẻ chăm chú đầy tư lự và đưa tay sờ lên khóe miệng: cuối cùng nàng quay lại và chậm rãi đến ngồi trên giường. - Em mệt, nàng bảo, em không muốn nói gì cả. Em đi nằm đây, anh hãy đến bên em và nói tất cả những gì anh muốn nói. Nàng giả bộ ngáp và nằm ngửa ra, một cánh tay kê đầu, mắt nhìn lên trần nhà. Càng lúc càng ngạc nhiên Pietro đến ngồi bên nàng. Mời các bạn đón đọc Những Tham Vọng Sụp Đổ của tác giả Alberto Moravia & Huỳnh Phan Anh (dịch).
Bùi Thị Xuân
Bùi Thị Xuân là con của Bùi Đắc Chí, gọi Bùi Đắc Tuyên bằng chú, người thôn Xuân Hòa, một thôn nằm về phía đông Phú Phong (nay thuộc thôn Phú Xuân, xã Bình Phú, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Sinh trưởng trong một gia đình khá giả, Bùi Thị Xuân sớm được học văn và học võ. Tương truyền bà vừa có sức mạnh vừa có sắc đẹp, nữ công khéo, chữ viết đẹp, nhưng thích làm con trai, thích múa kiếm đi quyền. Nghe kể chuyện bà Trưng bà Triệu cỡi voi đánh giặc, Bùi Thị Xuân náo nức muốn được theo gương bà Triệu bà Trưng. Còn những chuyện Tô Tiểu Muội cùng chồng xướng họa, chuyện bà Mạnh Quang cử án tề mi thì Bùi Thị Xuân cho là nhảm nhí. Lúc nhỏ đi học thường mặc áo con trai. Lớn lên tự chế kiểu áo các nữ hiệp vẽ trong sách mà mặc. Năm 12 tuổi, Bùi Thị Xuân đến trường học chữ. Bị đùa cợt, Bùi Thị Xuân cả thẹn, vung quyền đánh vào mặt hai người sanh sự rồi trở về nhà. Từ ấy bỏ học chữ, ở nhà chuyên học võ. Từ khi bỏ học văn thì đêm đêm có một lão bà đến dạy. Dạy từ đầu hôm đến gà gáy lần thứ nhất thì bà lão lui gót. Không ai hiểu lai lịch ra sao. Suốt ba năm trời, trừ những khi mưa gió, đêm nào bà lão cũng đến cũng đi đúng giờ giấc. Dạy quyền, dạy song kiếm. Rồi dạy cách nhảy cao nhảy xa. Nhảy cao thì cột hai bao cát nơi chân mà nhảy, ban đầu bao nhỏ rồi đổi bao to dần, cuối cùng mới nhảy chân không. Còn nhảy xa thì ban đầu dùng sào, sau dùng tre tươi ngoài bụi, níu đọt uốn cong xuống thấp rồi nương theo sức bung của cây mà nhảy. Đêm học ngày tập, đến 15 tuổi thì tài nghệ đã điêu luyện. Theo cụ Bùi Sơn Nhi ở Xuân Hòa thì đó là bà cao tổ của ông Hương mục Ngạc, một võ sư trứ danh ở An Vinh thời Pháp thuộc. Sau khi luyện tập võ nghệ thuần thục, Bùi Thị Xuân bèn rủ một số chị em khác trong vùng đến nhà mình luyện quyền múa kiếm. Đệ tử của bà ban đầu còn ít, dần dần lên đến vài chục người. Tài nghệ đã tinh mà cách đối xử, cách dạy dỗ lại đứng đắn nên Bùi Thị Xuân được chị em kính yêu, quý trọng. Trong số đệ tử xuất sắc có bà Bùi Thị Nhạn. Năm 1771, Bùi Thị Xuân lúc 20 tuổi đã dùng kiếm để giải nguy cho Trần Quang Diệu khi vị tráng sĩ này bị một con hổ dữ tấn công. Và cũng từ lần gặp này mà hai người trở thành vợ chồng khi ông Diệu đến ở nhà người con gái Xuân Hòa để trị thương, rồi cùng nhau về tòng quân dưới ngọn cờ Tây Sơn ở chiến khu Phú Lạc. *** Đào Trinh Nhất (1900-1951), tự Quán Chi, là nhà nhà văn, nhà báo Việt Nam giữa thế kỷ 20. Khi viết văn, viết báo, ông ký nhiều bút hiệu: Nam Chúc, Viên Nạp, Hậu Đình, Tinh Vệ, Bất Nghị, Vô Nhị, Hồng Phong, Anh Đào, XYZ.... Ông được người trong giới cầm bút đánh giá là người có cách làm việc nghiêm túc, thận trọng và là người đã biết dùng ngòi bút nghệ thuật làm sống lại nhiều tư liệu đã mai một trong lịch sử cận đại Việt Nam Đào Trinh Nhất sinh năm Canh Tý (1900) tại Huế. Nguyên quán tại xã Thượng Phán, huyện Quỳnh Côi, tỉnh Thái Bình. Ông là con trưởng Đình nguyên nhị giáp Tiến sĩ (tức Hoàng giáp) Đào Nguyên Phổ. Vợ là Lương Thị Hòa, con gái Lương Ngọc Quyến và là cháu nội Lương Văn Can. Thuở nhỏ, Đào Trinh Nhất theo học chữ Hán ở quê nhà, sau lên Hà Nội học chữ Pháp và chữ quốc ngữ. *** Vốn là nhà báo viết văn, cho nên hầu hết các tác phẩm của Đào Trinh Nhất đều đăng từng kỳ trên báo rồi sau mới in thành sách. Theo thống kê chưa đầy đủ, sau 30 năm cầm bút (1921-1951), ông đã để lại khá nhiều tác phẩm như sau: Thế lực khách trú và vấn đề di dân vào Nam Kỳ.(Thụy Ký - Hà Nội, 1924) Đông Châu liệt quốc (dịch, Sài Gòn, 1928) Thần tiên kinh (Dịch của A lan Kardec, 1930) Cái án Cao Đài (Sài Gòn, 1929) Việt sử giai thoại (Hà Nội, 1934) Nước Nhựt Bổn ba mươi năm duy tân (Đắc Lập, Huế, 1936) Phan Đình Phùng, một vị anh hùng có quan hệ đến lịch sử hiện thời (Cao Xuân Hữu, Hải Phòng, 1936; Đại La, Hà Nội, tái bản 1945; Tân Việt, Sài Gòn, tái bản 1957) Việt Nam Tây thuộc sử (Đỗ Phương Huế, Chợ Lớn, 1937) Ðông Kinh nghĩa thục (Mai Lĩnh, Hà Nội, 1938) Ngục trung thư (Đời cách mạng Phan Bội Châu) (Mai Lĩnh, Hà Nội, 1938; Tân Việt, Sài Gòn tái bản, 1950) Vương An Thạch (Hà Nội, 1943; Tân Việt, Sài Gòn tái bản 1960) Cô Tư Hồng (tiểu thuyết, Trung Bắc Tân Văn Chủ nhật, 1940; Trung Bắc Thư xã, Hà Nội, 1941) Chu Tần tinh hoa (dịch, Hà Nội, 1944) Lê Văn Khôi (1941-1945) Con trời ngã xuống đất đen (Hà Nội, 1944) Chu Tần tinh hoa (1944) Vương Dương Minh-Người xướng ra học thuyết lương tri và tri hành hợp nhất (Hà Nội, 1944; Tân Việt, Sài Gòn tái bản 1950) Kẻ bán trời Con quỷ phong lưu Bùi Thị Xuân Lương Ngọc Quyến và cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên 1917 (Quốc Dân thư xã, Hà Nội, 1946; Tân Việt, Sài Gòn tái bản 1957). Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh, ông mới dịch được nửa bộ, đang đăng báo thì từ trần (Bốn Phương xuất bản, Sài Gòn, 1950) Đào Trinh Nhất Tác Phẩm gồm có: Đào Trinh Nhất Tác Phẩm - Lịch Sử Đào Trinh Nhất Tác Phẩm - Triết Học Đào Trinh Nhất Tác Phẩm - Văn Học Tập 1 Đào Trinh Nhất Tác Phẩm - Văn Học Tập 2 Đào Trinh Nhất Tác Phẩm - Triết Học gồm có: Vương Dương Minh Vương An Thạch Chu Tần Tinh Hoa Mời các bạn đón đọc Bùi Thị Xuân của tác giả Đào Trinh Nhất.