Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Phúc Lạc Hội

Bàn Mạt chược bốn cạnh. Bốn người phụ nữ Trung Hoa di cư trên đất Mỹ. Bốn cô con gái Trung Hoa thế hệ Hai. Mười sáu câu chuyện chồng chéo. Quá khứ là thế giới huyền ảo của Trung Hoa cổ kính, là chế độ đa thê, là chiến tranh Trung Nhật. Hiện tại là những rắc rối đời thường, những khỏang cách thế hệ, những phiền phức của cuộc sống thực dụng kiểu Mỹ. Để bớt nỗi nhớ quê hương và sự lạc lõng ở xứ người, bốn người phụ nữ Trung Hoa đã mượn bàn Mạt chược để lập Joy Luck Club. Trong những ván mạt chược và những bữa ăn họp mặt, họ đã kể cho nhau nghe về quá khứ và hiện tại trong cuộc sống gia đình. Và như bao cô gái thế hệ Hai trên nước Mỹ, các cô luôn va chạm với Mẹ, nhưng rồi nhờ kinh nghiệm sống của Mẹ, các cô đã vượt qua khó khăn của cuộc sống.. Amy Tan đã diễn tả tài tình cuộc sống và tâm tình của 2 thế hệ người Trung Hoa di cư thông qua 16 câu chuyện của từng người, từ cuộc sống đại gia đình của người Trung Hoa xưa, nỗi sợ hãi của chiến tranh, sự lạc lõng ở xứ người… *** AMY TAN sinh ở OAKLAND, CALIFORNIA vào năm 1952, hai năm rưỡi sau khi cha mẹ có nhập cư vào nước Mỹ. Mặc dù cha mẹ cô mong mỏi cô sẽ theo nghề bác sĩ giải phẫu thần kinh kiêm nghệ sĩ dương cầm nghiệp dư, cô lại trở nên bác sĩ tư vấn cho trẻ em tàn tật, và đồng thời là nhà văn tự do. Cô viếng quê hương Trung Hoa lần đầu tiên năm 1987 và thấy đúng như mẹ cô đã nói: “Ngay khi chân tôi chạm đất Trung Hoa, tôi lập tức trở thành người Trung Hoa”.   AMY TAN hiện sống cùng chồng tại San Francisco.   PHÚC LẠC HỘI là tác phẩm đầu tay của cô. Amy Tan (Tần Ái Mỹ) thuộc thế hệ nhà văn gốc Hoa đầu tiên thành công trên văn đàn Mỹ. Bà sinh năm 1952 tại California và thường viết về những gian nan mà phụ nữ người Hoa đã gặp ở quê nhà cũng như cuộc sống khó khăn mà con gái của họ gặp trên đất Mỹ. Bà thành công ngay với những tác phẩm đầu tiên, như The Joy Luck Club ('Phúc Lạc Hội', 1989; dựng thành phim năm 1991; bản dịch Việt ngữ đăng dưới đây), và The Kitchen God’s Wife ('Phu nhân Táo quân', 1991;), cả hai đều mang tính tự truyện. Sau đó bà còn viết The Hundred Secret Senses ('Trăm niềm ẩn thức', 1995) và The Bonesetter’s Daughter ('Con gái thầy lang ', 2000) và hai truyện thiếu nhi: The Moon Lady ('Chị Hằng', 1992) và The Chinese Siamese Cat ('Mèo xiêm Trung Quốc', 1994). Tác phẩm của bà đã được dịch nhiều ở Việt Nam.  *** Bà lão nhớ lại chuyện con thiên nga mà bà mua hồi xa xưa ở Thượng Hải bằng một số tiền điên rồ. Con chim này, theo lời khoe của người bán ở chợ, trước kia là một chú vịt đã cố rướn cổ dài ra, hy vọng trở thành thiên nga, và bây giờ, nhìn kìa - nó đẹp đẽ quá, làm sao mà mà nỡ ăn thịt nó!   Rồi bà và con thiên nga đã vượt qua hàng dặm biển, cố vươn về phía nước Mỹ. Trên cuộc hành trình, bà thủ thỉ với con thiên nga “Ở Mỹ, ta sẽ có một đứa con gái giống như mi. Nhưng ở đó sẽ không ai cho rằng giá trị của con ta được tính bằng mức ăn to nói lớn của chồng nó. Ở đó sẽ không ai khinh dễ nó, bởi vì ta sẽ bắt nó nói tiếng Anh đặc giọng Mỹ. Và ở đó nó sẽ quá no đủ không còn nuốt được một nỗi buồn nào! Nó sẽ biết ta muốn nói gì, bởi vì ra sẽ cho nó con thiên nga này - một tạo vật; tốt hơn hẳn những điều người ta mong mỏi.”   Nhưng khi bà đến đất nước mới, các nhân viên nhập cư đã giật con thiên nga ra khỏi tay bà, để lại trên đôi tay chới với của bà độc nhất một chiếc lông chim làm kỷ niệm. Và rồi bà phải điền vào quá nhiều biểu mẫu đơn từ đến nỗi bà quên mất vì sao bà đến đây và những gì bà để lại phía sau.   Giờ thì bà đã già. Và bà có một cô con gái lớn lên chỉ nói toàn tiếng Anh và uống Coca-Cola nhiều hơn là nuốt đi nỗi buồn. Từ lâu, bà muốn trao cho cô ta chiếc lông chim duy nhất đó và bảo cô “Chiếc lông chim này trông có vẻ vô giá trị, nhưng nó đã từ xa đến đây và chất chứa tất cả thiện ý của mẹ”. Bà đã chờ đợi, năm này qua năm khác, chờ đến ngày bà có thể kể cho con gái nghe điều này bằng tiếng Anh, đặc giọng Mỹ.  *** Ba tôi bảo tôi giữ chân thứ tư trong PHÚC LẠC HỘI. Tôi sẽ thế chỗ mẹ tôi. Từ khi bà chết, chỗ của bà ở bàn mạt chược bỏ trống đã hai tháng nay. Ba tôi cho rằng chính những suy nghĩ của mẹ tôi đã giết chết bà.   Ông nói:   “Mẹ con có một ý mới trong đầu. Trước khi mẹ con có thể nói ra, ý nghĩ đó đã phát triển quá lớn và vỡ tung, chắc hẳn đó là một ý nghĩ chẳng hay ho tí nào.”   Bác sĩ nói mẹ tôi chết bởi chứng phình mạch não. Và những người bạn của mẹ tôi ở PHÚC LẠC HỘI nói bà chết y như một con thỏ: chết một cách nhanh chóng và để lại công việc còn đang dở. Kỳ họp mặt tới của PHÚC LẠC HỘI là tới phiên mẹ tôi đãi đằng.   Trước khi chết một tuần, bà gọi tôi, đầy tự hào và sức sống, bà nói: “Dì Linh nấu chè đậu đỏ. Mẹ sẽ nấu chè chế mè phủ”.   “Thôi đừng phô trương, mẹ ơi”.   “Không phải là phô trương” - bà nói, hai loại chè gần giống nhau, chabudwo. Hoặc là bà có thể nói butong, chẳng giống nhau tí nào hết. Ðây là một trong những cách nói của người Hoa có nghĩa là phần tốt hơn của những ý nghĩ lẫn lộn. Tôi không thể nào nhớ được những gì mà từ thoạt đâu tôi đã không hiểu.   Mẹ tôi bắt đầu có ý tưởng lập PHÚC LẠC HỘI ở San Francisco vào năm 1949, trước khi sinh tôi hai năm. Ðó là năm cha mẹ tôi chạy khỏi Trung Quốc chỉ mang theo một chiếc giỏ bằng da cứng chứa đầy những áo dài lụa lạ kỳ. “Không có thời giờ xếp những thứ khác”, mẹ tôi đã giải thích như thế với cha tôi. Sau khi hai người lên tàu. Tuy nhiên, cha tôi vẫn điên cuồng bới tay giữa những tấm lụa trơn để tìm những chiếc áo vải và quần len của mình.   Khi đến San Francisco, cha tôi bắt mẹ tôi giấu mớ quần áo bóng bẩy này. Mẹ tôi mặc mỗi chiếc áo xẩm carô nâu đến khi Hội Cứu Tế Người Tị Nạn bố thí cho bà hai chiếc áo cũ, cả hai đều lớn quá cỡ ngay cả cho phụ nữ Mỹ. Hội Cứu Tế bao gồm một nhóm nữ truyền giáo đã lớn tuổi ở nhà thờ rửa tội cho người Trung Hoa đầu tiên. Và vì đã nhận quà, cha mẹ tôi không thể từ chối mời lời gia nhập giáo phái của họ. Hơn nữa, cha mẹ tôi không thể bỏ qua lời khuyên rất thiết thực của những phụ nữ lớn tuổi này. Cha mẹ tôi có thể học thêm tiếng Anh ở lớp học kinh thánh vào tối thứ tư hàng tuần và sau này, hát hợp xướng mỗi sáng thứ Bảy hàng tuần. Ðó là lý do mẹ tôi gặp gia đình họ Tô, họ Chung và họ St. Clair. Mẹ tôi có cảm giác là những người đàn bà trong những gia đình này cũng đã trải qua những nỗi khổ không tả xiết bên Trung Hoa và có những hy vọng họ không thể nào diễn tả được bằng tiếng Anh ít ỏi của mình. Hay ít nhất, mẹ tôi nhận ra được vẻ chết lặng trên khuôn mặt những người đàn bà này. Và bà thấy họ mừng rỡ thế nào khi bà đề xuất ý kiến lập PHÚC LẠC HỘI.   PHÚC LẠC là ý nghĩ mẹ tôi nhớ được từ thời bà mới lấy chồng lần đầu ở Quế Lâm, trước khi bọn Nhật tới. Do đó, tôi nghĩ tới PHÚC LẠC như câu chuyện Quế Lâm của bà. Đó là câu chuyện bà thường kể cho tôi nghe mỗi khi bà buồn, mỗi khi không có chuyện gì làm, mỗi khi rửa chén và lau bàn xong, mỗi khi cha tôi đọc báo, hút hết điếu Pall Mall này tới điếu Pall Mall khác, đó là dấu hiệu không được quấy rầy ông. Những lúc đó, mẹ tôi lấy ra cái hộp đựng áo len trượt tuyết cũ do họ hàng chẳng bao giờ gặp bên Vancouver gởi qua. Bà thường cất lại một chiếc áo len, kéo ra một sợi chỉ quăn và đặt sợi chỉ lên một miếng bìa cứng. Và khi bà bắt đầu quấn chỉ nhanh nhẹn, nhịp nhàng, bà bắt đầu kể chuyện. Mười mấy năm ròng rã, bà chỉ kể cho tôi nghe một câu chuyện duy nhất, trừ phần kết thúc câu chuyện ngày càng đen tối hơn, ám ảnh đời bà dai dẳng và cuối cùng, ám ảnh cả đời tôi.   “Ta mơ thấy Quế Lâm ngay cả trước khi ta thấy tận mắt”, mẹ tôi bắt đầu kể bằng tiếng Hoa - “Ta mơ thấy những đỉnh núi lởm chởm chạy dài theo một con sông uốn khúc, hai bên bờ phủ rêu xanh rờn. Sương mù trắng lơ lững trên những đỉnh núi. Và nếu như ta thả mình theo dòng nước và lấy rêu làm thức ăn, ta sẽ có đủ sức leo lên tới đỉnh núi. Nếu như không may ta trượt té, ta chỉ ngã vào một thảm rêu êm như nhung và cười lớn. Nhưng một khi ta lên được tới đỉnh, ta có thể nhìn khắp xung quanh và cảm thấy một niềm hạnh phúc vô biên để cả đời không bao giờ cảm thấy lo lắng nữa.”   Bên Trung Quốc, mọi người đều mơ về Quế Lâm. Khi ta tới đó, ta mới nhận thấy giấc mơ của ta mới tồi tàn và ý nghĩ của ta mới nghèo nàn làm sao. Khi ta thấy những ngọn đồi, ta vừa cười vừa rùng mình. Những đỉnh núi trông như những đầu cá chiên khổng lồ cố nhảy ra khỏi thùng dầu. Phía sau mỗi ngọn đồi, ta có thể nhìn thấy bóng của một con cá khác, rồi một con khác nữa. Và khi những đám mây chỉ lay động một chút thôi thì bỗng nhiên những ngọn đồi biến thành một đàn voi kỳ quái đang chậm rãi tiến về phía ta. Con có thể tưởng tượng được không? Và ở chân đồi là những hang động bí mật. Bên trong có những tảng đá treo có hình dáng và màu sắc như cải bắp, dưa tây, củ cải, củ hành. Con sẽ chẳng bao giờ có thể tưởng tượng được những tảng đá này kỳ lạ và đẹp đẽ đến dường nào.   Nhưng ta không đến Quế Lâm để ngắm cảnh đẹp.   Người đàn ông đã từng là chồng ta mang ta và hai con đến QUẾ LÂM vì ông nghĩ rằng chúng ta sẽ an toàn ở đó. Ông là một sĩ quan trong quân đội Quốc Dân Ðảng, và sau khi ông an vị chúng ta trong một căn phòng nhỏ ở một căn nhà hai tầng, ông lại ra đi về hướng Tây - Bắc, đến Trùng Khánh.   Chúng ta biết là bọn Nhật đang thắng thế, ngay cả khi báo chí nói không phải vậy. Mỗi ngày, mỗi giờ, hàng ngàn người đổ về thành phố, chen chúc trên vỉa hè, cố tìm chỗ sinh sống. Nghèo có, giàu có, người Thượng Hải có, người Quảng Ðông có, người từ phía Bắc có, và không chỉ người Hoa, mà có cả người ngoại quốc và những vị truyền giáo của đủ thứ tôn giáo. Và dĩ nhiên là có cả Quốc Dân Đảng và những sĩ quan trong quân đội, những người này nghĩ là họ phải hơn hẳn những người khác.   Chúng ta là một đám người ô hợp bị bỏ lại phía sau. Giả sử không có bọn Nhật, chắc hẳn sẽ có rất nhiều lý do để những người này đánh nhau. Con có hiểu không? Người Thượng Hải với nông dân vùng biển phía Bắc, thợ rẫy với thợ hớt tóc, phu kéo xe với người tị nạn từ Miến Ðiện. Người này khinh người kia. Chẳng ai để ý là mọi người đều ở chung trên một vỉa hè để khạc nhổ, đều cùng bị dịch tả hoành hành. Ai cũng hôi hám, nhưng người này cứ than phiền người kia hôi nhất. Còn ta? Ta chúa ghét bọn sĩ quan không quân Mỹ cứ suốt ngày bô bô habba - habba, làm ta phải đỏ mặt. Nhưng tệ nhất là bọn nông dân miền Bắc hỉ mũi vào tay, chen lấn với người khác và cuối cùng lây bệnh cho người khác.   Do đó, Quế Lâm mất hết vẻ thơ mộng đối với ta. Ta không còn leo lên đỉnh núi để thốt lên rằng những ngọn đồi này mới đáng yêu làm sao! Ta chỉ tự hỏi, bọn Nhật đã đến được những ngọn đồi nào. Ta thường ngồi chờ trong bóng tối của căn nhà, hai tay ẵm hai con, sẵn sàng chạy. Khi còi báo động có máy bay rít lên ta và mấy người bên cạnh đứng bật dậy và hối hả chạy về phía hàng sau để trốn như thú rừng. Nhưng con không thể ở lâu trong bóng tối. Cái gì đó trong con mờ dần và con như trở thành một người chết đói, thèm khát ánh sáng đến điên cuồng. Bên ngoài, ta có thể nghe thấy tiếng bom. Bùm! Bùm! Và rồi tiếng đá rơi như mưa. Và bên trong, ta chẳng còn thèm khát những tảng đá có hình bắp cải hay củ cải. Ta chỉ có thể thấy lòng một ngọn đồi cổ xưa nhỏ nước, lúc nào cũng có thể đổ sập lên đầu ta. Con có thể tưởng tượng được như thế này không, không muốn ở bên trong, cũng không muốn ở bên ngoài, không muốn ở đâu cả, chỉ muốn biến đi.   Khi tiếng ném bom chỉ còn ở xa xe, chúng ta lại chui ra như những con mèo con tìm đường về thành phố. Và lúc nào cũng vậy, ta rất ngạc nhiên khi thấy những ngọn đồi trên nền trời nóng bỏng đã không bị xé toạc ra.   Ta đã nghĩ ra PHÚC LẠC HỘI vào một tối mùa hè nóng đến nỗi muỗi cũng rơi xuống đất, cái nóng ẩm ướt làm cho cánh chúng quá nặng. Khắp nơi đều đông đúc đến nỗi không thể hít thở không khí trong lành. Mùi cống rãnh không chịu nổi dâng lên cửa sổ lầu hai của ta, và không biết đi đâu, chúng bèn chui vào mũi ta. Suốt cả ngày đêm, ta luôn nghe những tiếng hét la. Ta không biết có phải đó là tiếng một người nông dân gào rát cổ tìm heo đi lạc hay tiếng người sĩ quan đánh đập một người nông dân gần chết vì nằm giữa đường đi của hắn trên vỉa hè. Ta không đi đến cửa sổ để tìm xe. Ích gì? Và đó là lúc ta nghĩ mình đâu phải có người giúp đỡ mới di chuyển nổi.   Ta có ý định tụ tập một nhóm bốn phụ nữ, mỗi người giữ một tay ở bàn mạt chược của ta. Ta biết mình muốn mời những người nào. Họ đều còn trẻ như ta, gương mặt đầy khát vọng. Một người là vợ sĩ quan quân đội, giống như ta. Một người là một cô gái dáng điệu rất thanh lịch, xuất thân từ một gia đình giàu có ở Thượng Hải. Cô đã trốn đi, mang theo chỉ một ít tiền bạc. Còn một cô nữa, từ Nam Kinh tới, có mái tóc đen nhánh, ta chưa từng thấy bao giờ. Cô này xuất thân từ một gia đình cấp thấp, nhưng xinh đẹp và vui vẻ. Cô lấy một ông chồng già, sau ông chết để cô ở lại với một cuộc sống khá hơn.   Cứ mỗi tuần, một người trong nhóm của ta mời bạn bè họp lại để có dịp phát tài và cũng để phấn chấn tinh thần. Người chủ nhà phải đãi thức ăn đặc biệt, ngõ hầu mang lại may mắn khắp mọi mặt: Bánh bao mang hình nén bạc, bún gạo cọng dài chúc sống lâu, đậu phộng nấu mong sinh con trai, và dĩ nhiên còn có thêm nhiều cam để cuộc sống được đầy đủ, ngọt ngào.   Với khả năng đạm bạc mà bọn ta đãi đằng nhau tươm tất đến thế đấy! Bọn ta không để ý rằng bánh bao được nhồi nhân bí, xắt dày, và cam thì lốm đốm đầy những lỗ có sâu. Bọn ta ăn dè xẻn, không phải vì dường như không có đủ thức ăn, nhưng để có thể phân trần vì sao không cắn thêm được miếng nữa, bọn ta phải tự nhồi đầy bụng từ sáng sớm. Bọn ta biết mình có được những thứ xa xỉ mà ít người đạt tới. Bọn ta là những người may mắn.   Mời các bạn đón đọc Phúc Lạc Hội của tác giả Amy Tan.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Phút Tráng Lệ Cuối Đời - Michael Kumpfmuller
Michael Kumpfmüller viết "Phút tráng lệ cuối đời" dựa trên câu chuyện tình cuối đời đầy ám ảnh của thiên tài kì dị Frank Kafka và cô gái mang tên Dora Diamant. Mùa hè năm 1923, Franz Kafka, thiên tài văn chương của thế kỷ XX, gặp Dora Diamant, bên bờ biển Baltic, khi cô 25 tuổi thanh xuân, còn ông thì đang kiệt quệ vì bệnh lao. Dora nhanh chóng si mê ông, và Kafka, có lẽ cũng không thể lý giải được, tại sao bản thân lại cảm thấy gắn kết với cô gái mới vừa nhìn thấy, mới vừa đi dạo cùng nhau vài lần. Cảm tưởng như, Dora ấy, cô đã kéo người đàn ông này vào một bể ái tình đầy mê đắm, khi ông vẫn nhút nhát, sợ sệt, đầy âu lo, đầy mâu thuẫn. Người đọc được biết trước đây là câu chuyện tình của Kafka, nhưng khi Micheal viết Phút tráng lệ cuối cùng, không có một lần nào cái tên Kafka được nhắc đến. Ông xuất hiện bằng ba từ ông tiến sĩ, và sau ấy, khi ở bên cạnh Dora, ông được gọi bằng Franz.   Ông là một cây đại thụ văn học, là người khiến cả thế giới, dù thích hay không thích văn chương của ông cũng đều nghiêng mình ngưỡng mộ, nhưng ở Phút tráng lệ cuối cùng, ông tuyệt đối không phải là một Kafka của Lâu đài, của Vụ án, hay Hóa thân. Ông là chỉ là Franz, là Franz vô cùng yếu đuối, từ tốn, nhân hậu, dịu dàng của Dora. *** Tối muộn ông tiến sĩ mới đến, vào một ngày thứ Sáu của tháng Bảy. Đoạn đường sau chót trên xe mui trần đi từ ga về tựa như vô tận, trời vẫn nực lắm, ông mệt rũ, nhưng giờ thì ông tới nơi rồi. Elli và lũ trẻ đợi ông ở phòng khách. Ông hầu như chưa kịp đặt hành lý xuống, Felix và Gerti đã chạy xổ ra kể chuyện ào ào. Chúng ở ngoài biển từ sáng tinh mơ, chỉ muốn quay lại đó ngay để khoe với ông chúng đã đắp được những gì. Một ngôi thành cát khổng lồ. Bãi biển đầy những ngôi thành như thế. Để cho bác thở đã, Elli nhắc, bồng con bé Hanna ngái ngủ trên tay, nhưng lũ trẻ vẫn không dứt được câu chuyện về ngày hôm nay. Elli hỏi: Chuyến đi thế nào? Anh có muốn ăn chút gì không? Ông tiến sĩ ngẫm nghĩ xem có nên ăn gì không, vì ông không thấy ngon miệng. Ông rảo chân lên tầng trên của ngôi nhà nghỉ hè, lũ trẻ chỉ cho ông chỗ chúng ngủ, hai đứa mười một và mười hai tuổi, và chúng tìm ra trăm nghìn lý do để chưa phải lên giường. Cô hầu phòng đã chuẩn bị một đĩa hạt dẻ và hoa quả, bình nước có sẵn, ông uống nước rồi nói với em gái rằng ông rất biết ơn cô, vì trong ba tuần tới ông sẽ ăn ở tại đây, họ sẽ có nhiều thì giờ bên nhau, tuy về lâu về dài mới biết, liệu ông có thích vậy không. Ông tiến sĩ không mong đợi gì nhiều ở kỳ nghỉ này. Mấy tháng vừa qua thật tệ, ông không muốn ở chỗ cha mẹ lâu thêm nữa, vì vậy lời mời ra biển Baltic đến thật đúng lúc. Em gái ông tìm được nhà trọ này trên báo, mẩu quảng cáo hứa có giường đệm tử tế và giá cũng phải chăng. Lại còn thêm bao lơn, hàng hiên, vị trí ngay sát bìa rừng và tầm nhìn ra biển thật hoành tráng. Phòng ông nằm cuối hành lang. Gọi là rộng rãi thì không phải, nhưng có bàn viết, nệm cứng, ngoài ra còn có một bao lơn hẹp trông ra rừng, hứa hẹn bầu không khí yên tĩnh, mặc dù từ ngôi nhà gần đó lao xao tiếng trẻ con. Ông soạn hành lý, vài bộ đồ lớn, quần áo, sách để đọc, giấy viết. Lẽ ra ông có thể kể cho Max biết kết quả các cuộc thương thảo ở nhà xuất bản mới, nhưng chuyện đó lui lại vài hôm nữa cũng được. Kể cũng lạ, sau chừng ấy năm ông lại có dịp đến Berlin, rồi chỉ hai tư tiếng sau đã tới Müritz, trong một ngôi nhà mang tên May mắn. Elli đã đùa cợt về cái tên đó, cô hy vọng ông sẽ tăng vài cân nhờ không khí vùng biển, mặc dù cả hai đều biết chuyện đó rất khó xảy ra. Mọi thứ cứ lặp đi lặp lại, ông nghĩ, từ nhiều năm nay, mùa hè thì ở các khách sạn hay an dưỡng đường nào đó, sau đó đến mùa đông lê thê trong thành phố, đôi khi mấy tuần liền ông không rời giường. Vui mừng vì được ở một mình, ông ra bao lơn ngồi một lát, vẫn nghe tiếng người lao xao, rồi ông lên giường và nhẹ nhàng trôi vào giấc ngủ. Khi thức dậy vào sáng hôm sau, ông đã ngủ được hơn tám tiếng. Ông biết ngay mình đang ở đâu, ông ở gần biển, trong căn phòng này, xa lắc tất cả những gì mà ông quen thuộc đến phát ngán. Tiếng trẻ con hôm qua theo ông vào giấc ngủ, giờ lại vang lên, chúng đang hát, một bài hát tiếng Hebrew(1), không khó để nhận ra. Bọn trẻ đến từ miền Đông, ông nghĩ, có loại nhà nghỉ hè dành cho bọn trẻ ấy, trước đây hai hôm, ở Berlin, Puah, cô giáo tiếng Hebrew của ông có nhắc rằng ở Müritz cũng có một nhà nghỉ hè như thế. Ông bước ra bao lơn và ngó về phía lũ trẻ. Chúng đã hát xong, giờ chúng ngồi dọc một cái bàn dài kê trước nhà, ăn sáng, ầm ĩ và vui vẻ. Trước đây một năm ở Planá ông ghét tiếng ồn ào ấy, nhưng hôm nay gần như ông vui sướng khi nghe những tiếng bi bô như thế. Ông hỏi cô em gái có biết gì về lũ trẻ ấy không, nhưng Elli chẳng biết gì và có vẻ ngạc nhiên khi thấy ông đột nhiên phấn khích, cô hỏi ông ngủ ra sao, có hài lòng với căn phòng không, có chứ, ông hài lòng, ông đang mong ra biển. ... Mời các bạn đón đọc Phút Tráng Lệ Cuối Đời của tác giả Michael Kumpfmuller.
Kiếp Người - W. Somerset Maugham
Cuốn tiểu thuyết nửa tự thuật của Somerset Maugham thể hiện tính trung thực đầy hoang dại và tài năng kể chuyện đỉnh cao của tác giả. Trong Aspects of the Novel (tạm dịch: Những mặt của văn chương), EM Foster viết: “Bước kiểm tra cuối cùng cho một tác phẩm là tình cảm của ta dành cho nó, cũng như là cách ta kiểm tra bạn bè, hay bất kì điều gì ta không thể lý giải.” Có lẽ là ông đang viết về kiệt tác của Somerset Maugham, tác phẩm Kiếp người. Đối với các độc giả Anh Quốc, đó là một Bildungsroman1 chúng ta thường bắt gặp khi còn là thiếu niên. Nó nằm trong danh sách này bởi sự cần kiệm đầy sắc sảo những lời tường thuật tối tăm, hay đôi khi là tàn nhẫn hơn bởi phong cách (ở mức bình thường) hoặc bởi tính nhân văn (sự đau khổ). Bức phác họa đáng nhớ của Maugham về Philip Carey là một hình ảnh mà các thiếu niên thông thường sẽ thấm nhuần như bị nghiện, quan trọng bởi Maugham đưa rất nhiều điều về bản thân vào cốt truyện và bởi nhân vật chính mà họ có thể đồng cảm một cách kì lạ. Có lẽ kể từ thời David Copperfield (thứ 15 trong danh sách) mới có một nhà văn người Anh khai thác cuộc sống của bản thân một cách đầy đủ hay một cách liên tục như vậy. Philip Carey là một đứa trẻ mồ côi khao khát tình yêu và trải nghiệm. Cũng như Maugham, một người đồng tính với tật nói lắp tồi tệ, cậu bé là một người tàn tật với bàn chân khoèo. Được nuôi dưỡng bởi một người chú là mục sư, cậu bé bị giam cầm trong cuộc sống tại nhà xứ cuối thời Victoria, mơ ước về việc thoát khỏi ràng buộc và cầu nguyện đến vị chúa trời thờ ơ để mong dị tật của mình được chữa khỏi. Sau khi quan sát kĩ con đường đi qua trường nội trú, Philip trốn đến học tai Heidelberg, tận hưởng một khoảng thời gian ngắn với tư cách một nghệ sĩ khó khăn nhưng thất bại tại Paris, rồi trở về nhà. Tại đây bắt đầu những dòng sầu thảm và đáng nhớ nhất của cuốn tiểu thuyết, quan hệ tình cảm vô vọng của Carey với cô hầu bàn Mildred.      Maugham là một người đồng tính tự ghét bỏ bản thân mình, và bức phác họa Mildred của ông với tư cách là đối tượng yêu của Philip phản ánh những thử nghiệm của một chàng trai đồng tính trẻ tuổi sau hậu quả của trường hợp Oscar Wilde. Mildred giống như một chàng trai, khiếm nhã và coi thường người tình tàn tật của cô. Cô thường phản bội anh, đi chơi với những người bạn trai của anh, ăn trộm của anh, và khinh miệt bản năng giới tính của anh. Mối quan hệ của họ đầy đau buồn và thất thường, là khoảng thời gian cô có thai với người đàn ông khác, khi mà Philip vẫn yêu một cách đầy ám ảnh. Cuối cùng, sau một cơn khủng hoảng vô cùng khi Mildred phá hỏng căn hộ và đập nát tủ đồ của anh, cô rời đi rồi trở thành gái gọi ở đại lộ Shaftesbury. Chỉ khi đó Philip mới nhận ra anh không còn yêu cô nữa. Anh trốn thoát khỏi bùa mê của cô để lấy lại chính bản thân, và cưới một cô gái tên là Sally, một kết thúc đầy tình cảm không làm nổi bật tính trung thực hoang dại thấm sâu vào trái tim cuốn tiểu thuyết. Ghi chú về tác phẩm  Kiếp người ban đầu được gọi là The Artistic Temperament of Stephen Carey (tạm dịch: Khí chất nghệ sĩ của Stephen Carey), sau đó là Beauty from the Ashes (tạm dịch: Vẻ đẹp từ tro bụi), một trích dẫn từ Isaiah. Khi Maugham phát hiện ra rằng tiêu đề đó đã được sử dụng, ông lấy tựa đề cuối cùng từ một trong những cuốn sách trong bộ Ethics của Spinoza. Tiểu thuyết được xuất bản tại Anh bởi William Heinemann vào ngày 13 tháng Tám năm 1915, một năm đáng nhớ của văn học Anh. Danh sách này đã đề cập đến The Good Soldier, The Thirty-Nine Steps và The Rainbow.  Trong danh sách dài những cuốn sách xuất bản năm đó, tôi cũng đã loại trừ một vài tên tuổi lớn: The Voyage Out của Woolf, Psmith Journalist của Wodehouse’s, và Victory của Conrad. Lịch sử của cuốn sách rất thú vị. Maugham lần đầu viết bản thảo cho Kiếp người năm 23 tuổi, khi mới lấy bằng y khoa sau năm năm học tại St Thomas. Ông gửi bản thảo đến Fisher Unwin, nơi mà khi ông vẫn còn là một sinh viên ngành y, đã xuất bản cuốn tiểu tuyết đầu tiên của ông Liza of Lambeth và nhận được một số lời khen ngợi. Maugham yêu cầu được ứng trước 100 Bảng nhưng bị từ chối. “Bị khước từ”, sau đó ông viết, “tôi đã vứt bỏ bản thảo.” Ông chuyển sang viết cho các sân khấu, nơi mà ông có được thành công đáng kể. “Ngay khi được chính thức công nhận là nhà viết kịch nổi tiếng nhất khi đó,” ông viết, “thì tôi một lần nữa lại bắt đầu bị ám ảnh bởi những kỉ niệm đầy ắp trong quá khứ.” Vậy nhưng, Maugham cố gắng nhấn mạnh rằng đó “không phải là một cuốn tự truyện, mà là một cuốn tiểu thuyết có yếu tố tự truyện.”  Nói ngắn gọn, đó là sự kết hợp giữa sự thật và tưởng tượng, được thêm thắt những cảm xúc cá nhân, kể cả khi một vài tình tiết được mượn từ đâu đó. Dù cho quá trình sáng tác thế nào đi nữa thì nó cũng đã làm hài lòng nhà văn. “Tôi thấy bản thân thoát khỏi những nỗi đau và kí ức bất hạnh đã từng dày vò tôi,” ông viết. Maugham luôn tự phê bình bản thân một cách dữ dội. “Tôi biết tôi không có tài năng về ngôn từ,” ông viết. “Tôi có vốn từ vựng eo hẹp và không có nỗ lực nào mà tôi có thể làm để mở rộng nó giúp ích cho tôi. Tôi hầu như không có khả năng ẩn dụ; sự ví von ấn tượng và độc đáo hiếm khi xảy ra với tôi.”  Nhưng ông có khả năng kể chuyện mang tính bản năng. Nhiều người sẽ nói rằng những chuyện ngắn của ông là hiện thân cho những tác phẩm tốt nhất của ông, và ông giữ vai trò là một cây bút quan trọng trong nền văn chương đầu thế kỉ 20. Dù rằng danh tiếng trước đây của Maugham đã có phần mờ dần đi thì Kiếp người vẫn được coi là kiệt tác của ông, một tác phẩm tiếng Anh kinh điển của thế kỉ 20 với những người hết lòng ủng hộ. Ba tác phẩm khác của Somerset Maugham The Moon and Sixpence (1919); Cakes and Ale (1930); The Razor’s Edge (1944). Thảo Hiếu (bookaholic.vn - theo Guardian) *** William Somerset Maugham là nhà văn Anh, sinh năm 1874 và sống ở Pháp cho đến khi lên mười. Học xong đại học ở Anh, ông làm thầy thuốc tại bệnh viện. Có khiếu văn chương, ông sớm bắt đầu viết tiểu thuyết và thành công với vài tác phẩm đầu tay, rồi chuyển hẳn sang sáng tác văn học. Ông nổi tiếng với hai truyện dài Kiếp người (Of Human Bondage) (1914) và Mặt trăng và đồng sáu xu (The Moon and sixpence) (1919). Trong số sách được xuất bản sau đó có: Bức Bình phong (The Painted Veil) (1925), Quý Ngài trong phòng khách (The Gentleman in the Parlour) (1930), Don Fernando (1935), Lưỡi dao cạo (The Razor’s Edge) (1944), Sổ tay nhà văn (A Writer’ Notebook) (1949), Cách nhìn thiên vị (Points of View) (1958), …   W.S. Maugham đồng thời còn là một nhà soạn kịch trứ danh với những sáng tác như: Phu nhân Frederick (Lady Frederick) (1907), Smith (1909), Đất hứa (The Land of Promise) (1913).   Ông cũng là tác giả nhiều truyện ngắn rất được hoan nghênh. Toàn tập truyện ngắn của ông được tái bản nhiều lần với số lượng mấy trăm nghìn bản, ví dụ như Mưa.   Mời các bạn đón đọc Kiếp Người của tác giả W. Somerset Maugham.
Hè Của Cô Bé Mất Gốc - Dương Thụy
Bắt đầu viết văn từ năm mười lăm tuổi, tôi tự nhủ “Mình sẽ trở thành nhà văn kiếm được rất nhiều tiền”. Tuy nhiên, khi truyện ngắn đầu tiên được đăng báo, tôi không còn quan tâm đến tiền bạc nữa. Lúc này, văn chương mang một ý nghĩa khác “cao thượng” hơn giá trị vật chất. Đó là niềm vui được chia sẻ cuộc sống hồn nhiên của mình cùng các bạn đồng trang lứa, là hạnh phúc được độc giả viết thư khen ngợi, là niềm hân hoan thấy truyện của mình làm độc giả có động lực hơn trong cuộc sống. Dù cuộc sống trở nên bận rộn hơn, tôi luôn cố gắng sắp xếp thời gian để tiếp tục viết. Và dù đã qua thời học trò, qua thời cắp sách đến trường, qua thời “sáng nắng chiều mưa” của tuổi teen, tôi nhận ra rằng: tôi thành công nhất khi viết về lứa tuổi đẹp này. Thông qua những truyện ngắn của mình, tôi muốn truyền đến các độc giả nhỏ tuổi một cuộc sống hồn nhiên vô tư lự, một bến bờ hạnh phúc vì được gia đình che chở, một hy vọng lớn lao vì thầy cô luôn ủng hộ. Có thể đâu đó trong những câu chuyện của tôi, vẫn có những nốt nhạc buồn, những ánh mắt thất vọng, những tiếng thở dài day dứt. Nhưng tôi muốn độc giả hiểu rằng cuộc đời là một món quà, chúng ta hãy trân trọng và tận hưởng mọi cơ hội cuộc đời đưa đến. Hoặc nếu ai đó than phiền “Tôi nhận quà không xứng đáng”, hãy tự tạo cơ hội cho chính mình thông qua các hành động tích cực. Truyện của tôi luôn có kết thúc đẹp, và độc giả sẽ nhận ra: chúng ta làm chủ cuộc đời mình. *** Hè Của Cô Bé Mất Gốc gồm có: Con Gái Sài Gòn Mưa Phùn Cắt Đuôi Con Quỷ Nhỏ Hai Người Đến Từ Phương Xa Thực Tập Trường Đời Người Anh Việt Kiều Những Con Cọp Trong Gia Đình Người Mẫu Về Hưu Con Gái Việt Nam Gái Hôm Rằm Hương Đầu Mùa Yêu Và Quý Ông Nhỏ Công Tử Bạc Liêu Lòng Hâm Mộ Hạnh Ngộ Đầu Xuân Viên Đạn Thứ Tư Mây Trắng Colette Củ Khoai Lang Sống Nửa Cuộc Đời Ngôi Sao Của Tôi Một Ca Cấp Cứu Hè Của Cô Bé Mất Gốc *** Dương Thụy có lẽ là một cái tên không còn xa lạ đối với nhiều độc giả trẻ. Nữ nhà văn sinh năm 1975 này được biết đến khá sớm qua những bài viết trên báo Hoa Học Trò và Sinh viên Việt Nam.  Cô tên thật là Dương Thụy Phương Khanh, được coi là một trong những cây bút tiêu biểu của thế hệ trẻ "100% tp. Hồ Chí Minh" bởi cô sinh ra đúng năm Sài Gòn giải phóng.   Dương Thụy đã từng học qua các trường: Trung học Lê Quý Đôn, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn TP.HCM (Cử nhân văn chương Pháp), Trung tâm văn hóa Pháp - Việt đào tạo quản lý (Thạc sĩ Quản trị), Đại học Liège - Vương Quốc Bỉ (Thạc sĩ quản trị kinh doanh).   Công việc hiện nay của cô là làm giám đốc Truyền thông - Đối ngoại của tập đoàn dược phẩm Sanofi - Avenis tại Việt Nam   Dương Thụy có điều kiện tham dự các khóa du học dài hạn và ngắn hạn tại Bỉ, Anh, Pháp bởi vậy cô không chỉ là cây bút trẻ có vốn tri thức dày dặn mà còn đủ vốn sống về mảng đề tài mà các nhà văn trong nước rất khó đụng đen: cuộc sống của giới sinh viên Việt ở châu Âu.   Các cuốn sách đã xuất bản Năm 1997: Dấu lặng trong điệp khúc Năm 1999: Người thổi kèn  Năm 2002: Hai người đến từ phương xa  Năm 2003: Con gái Sài Gòn  Năm 2004: Cắt đuôi Năm 2004: Bồ câu chung mái vòm  Năm 2005: Hành trình của những người trẻ  Năm 2007: Oxford thương yêu  Năm 2008: Cáo già, gái già và tiểu thuyết diễm tình Năm 2009: Venise và những cuộc tình Gondola  Năm 2010: Nhắm mắt thấy Paris Năm 2010: Hè của cô bé mất gốc Năm 2011: Trả lại nụ hôn  Năm 2011: Oxford thương yêu Mời các bạn đón đọc Hè Của Cô Bé Mất Gốc của tác giả Dương Thụy.
Hai Người Đến Từ Phương Xa - Dương Thụy
“Quê hương mỗi người chỉ một  Như là chỉ một mẹ thôi  Quê hương nếu ai không nhớ  Sẽ không lớn nổi thành người” Vâng! Hai tiếng “quê hương” rất thân thương và gần gũi. Cho nên dù đi đâu, ở đâu và làm gì không một ai có thể quên đi nguồn cội của mình. Mang dòng máu Việt Nam sinh sống và học tập trên khắp các nước trên thế giới, nhưng ngôn ngữ, những phong tục tập quán cùng những nét văn hóa tiêu biểu, đặc sắc không thể xóa nhòa trong trái tim Việt. Việc tôn trọng, lưu giữ qua các thế hệ và giới thiệu cho bè bạn năm châu biết những giá trị tinh thần cao đẹp đó cũng chính là tôn vinh văn hóa cá nhân của mỗi người… Dẫu cách biệt không gian và thời gian, dẫu phải trên đường mưu sinh nơi đất khách nhưng phải làm sao để đất nước Việt Nam mãi là một đất nước với sự thân thiện, hiếu khách. Mỗi câu chuyện như một gói hành trang nhỏ cho những người xa quê hương, nhất là các bạn trẻ. Và, Hai người đến từ phương xa, dù cách xa địa lý nhưng tâm hồn sẽ không còn cách xa… *** Mọi người trong lớp gọi tôi là “bà lớn” chẳng phải vì tôi có tướng tá phì nhiêu hay có chức tước gì quan trọng mà đơn giản họ gọi thế để ghép đôi tôi với “ông lớn”. “Ông lớn” thì quả là lớn về mọi mặt. Đó là thầy Christophe dạy chúng tôi môn Poésie. Thầy bệ vệ cao một mét tám và nặng cỡ ba ông con trai “cò ma” lớp tôi cột lại bỏ lên cân. Vì mỗi lần đọc tên thầy khó khăn quá, phải uốn lưỡi thật cong nên chúng tôi làm biếng gọi là “ông lớn” cho dễ phát âm, lại mang tính tượng hình. Còn việc mọi người xúm lại gọi tôi là “bà lớn” thì cũng chả có gì éo le. Sinh viên! Chỉ cần tôi bưng cho thầy ly nước theo nhiệm vụ lớp trưởng và thầy cười rạng rỡ cảm ơn là họ đã có đủ bằng chứng để chuyện nhỏ xé to, đồn ùm lên và đặt biệt danh cho tôi từ đó. “Ông lớn” hoàn toàn không biết rằng trên đời này tồn tại một “bà lớn” mảnh mai, mỗi buổi học hay tận tụy chăm sóc mình bằng những chai Tribeco. Ông chỉ biết hồn nhiên đón nhận một cách vui vẻ và nhiệt tình uống đến giọt cuối cùng để không phụ lòng cô sinh viên bé nhỏ. Về phần “bà lớn”, dẫu biết rằng mình chỉ “có tiếng” mà không “có miếng”, bà vẫn vui lòng tiếp tục nhiệm vụ cao cả vào mỗi buổi học và kiêu hãnh đem danh “bà lớn” ra hù dọa mấy tên con trai có ý đồ mờ ám. - Ê! Hoài ơi! - Tôi hổn hển gọi với theo - Xách cặp giùm Phương coi. Mệt quá! - Đưa đây! Anh chàng bí thư chi đoàn đưa tay đỡ chiếc cặp to đùng đựng đủ thứ đồ của tôi, cảm thấy hơi xấu hổ vì không tự nguyện hỏi giúp tôi trước khi tôi mở miệng nhờ. Con trai Việt Nam dở ẹc! Tuy vậy, một khi anh ta đã ra tay giúp đỡ rồi thì tôi cũng không tiếc gì một lời cảm ơn. - Cảm ơn nhe! Học chi mà lên tận trời xanh ba bốn tầng lầu. Mệt đứt hơi! - Tội nghiệp Phương - Hoài nghiêng đầu ngó tôi cười thông cảm - Ai biểu xách chi cái cặp nặng dữ vậy? - Tại đựng đủ thứ đồ nghề cho lớp mình nè: phấn, khăn trải bàn, sổ điểm, hai ba xấp bài photo bài tập - Tôi thở ra mệt mỏi rồi tự an ủi - mà tụi mình được vinh hạnh ngồi trên đầu trên cổ thiên hạ nên phải chịu cực leo cầu thang chút đỉnh! - Phương lúc nào cũng nói chuyện nghe phách lối - Hoài cau mày - Làm “bà lớn” riết rồi quen thói! Tôi định xạc anh chàng cao kều cái tội dám lên lớp phu nhân của “ông lớn” như mọi lần có ai làm chọc nọc tôi nhưng chúng tôi đã lên đến nơi và đụng đầu nhiều người trong lớp đang đứng nói chuyện. - Trời ơi! Coi thằng Hoài xách cặp giùm “bà lớn” kìa! ... Mời các bạn đón đọc Hai Người Đến Từ Phương Xa của tác giả Dương Thụy.