Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Sau Bữa Tiệc

Tuyết Sinh dịch YUKIO MISHIMA (1925-1970)Yukio Mishima (三島 由紀夫; phiên âm: (Tam Đảo Do Kỷ Phu), tên thật Hiraoka Kimitake (平岡 公威; phiên âm: Bình Cương Công Uy) (14 tháng 1 1925 - 25 tháng 11 1970) là một nhà văn và nhà biên kịch Nhật Bản, nổi tiếng với các tác phẩm như Kinkakuji (1956), bộ bốn tác phẩm "豐饒の海" (Hōjō no Umi, Biển cả muôn màu, 1965-70). Mishima sinh ra tại quận Yotsuya ở Tokyo (ngày nay là một phần của Shinjuku). Cha ông là Azusa Hiraoka, một nhân viên chính phủ, trong khi mẹ ông Shizue, là con một hiệu trưởng tại Tokyo. Ông bà nội của Mashima là Jotarō và Natsuko Hiraoka. Ông có một người em trai tên là Chiyuki và một em gái tên Mitsuko, người qua đời sớm do sốt ban. Tuổi thơ của Mishima bị phủ bóng bởi người bà Natsu, người đã nuôi và cách ly ông khỏi gia đình trong vài năm. Natsu là cháu nuôi của Matsudaira Yoritaka, một daimyo của Shishido tại tỉnh Hitachi và lớn lên trong gia đình công chúa Arisugawa Taruhito; bà vẫn duy trì lễ giáo quý tộc ngay cả sau khi kết hôn với ông của Mishama. Natsu là một người cục cằn và dễ nổi nóng, điều này thường xuyên được ám chỉ trong các tác phẩm của Mishima. Chính qua tìm hiểu Natsu mà một số người đã phát hiện nỗi ám ảnh với cái chết của Mishima. Natsu thường không cho Mishima ra ngoài ánh nắng hay tham gia vào bất hoạt động thể thao nào với các cậu bé khác; điều này khiến ông phải dành phần lớn thời gian một mình hoặc chơi đồ chơi con gái. Mishima trở lại gia đình năm 12 tuổi. Cha ông, một con người của kỉ luật quân đội, đã áp dụng kỉ luật sắt với cậu bé Mishima bằng cách bồng cậu bé lên thành của một con tàu cao tốc; cha của Mishima cũng thường xuyên lùng sục phòng của ông và phát hiện những sở thích "ẻo lả" về văn chương của Mishima và xé các bản thảo đó của ông. Ở tuổi 12, Mishima viết những câu chuyện đầu tiên của ông. Ông đọc ất nhiều các tác phẩm của Oscar Wilde, Rainer Maria Rilke và vô số những tác gia kinh điển Nhật Bản khác. Ông nhập học một trường dành cho tầng lớp quý tộc ở Nhật. Sau sáu năm học, Mishima trở thành thành viên trẻ nhất trong ban biên tập văn học của trường, ông bị cuốn hút bởi các tác phẩm của Tachihara Michizō. Những tác phẩm xuất bản đầu tiên của ông bao gồm thơ Waka, trước khi chuyển hướng sang thể loại văn xuôi. Mishima được mời viết chuyện ngắn văn xuôi cho tạp chí văn học của trường và gửi bản Hanazakari no Mori (花ざかりの森 The Forest in Full Bloom), một câu chuyện trong đó người kể mô tả cảm xúc về những người tổ tiên còn sống trong nội tâm nhân vật. Giáo viên của Mishima rất ấn tượng với câu chuyện và họ giới thiệu nó cho tạp chí văn học uy tín, Bungei-Bunka (文芸文化 Literary Culture). Câu chuyện với ngôn ngữ ẩn dụ và cách ngôn, đã được xuất bản năm 1944, giới hạn trong 4000 bản do việc thiếu nguyên liệu giấy thời chiến tranh. Để bảo vệ ông khỏi phản ừng từ các bạn đồng môn, các giáo viên của Mishima đã đặt cho ông bút danh "Yukio Mishima". Chuyện Tabako (煙草, tạm dịch: Thuốc lá), xuất bản năm 1946, mô tả sự khinh miệt và đối xử mà Mishima gặp phải ở trường khi ông thổ lộ với những thành viên của CLB Rugby trường rằng ông gắn bó với nghề văn chương. Những kí ức này cũng là nguồn tư liệu cho tác phẩm Shi o Kaku Shōnen (詩を書く少年, tạm dịch: Cậu bé làm thơ) sau này, xuất bản năm 1954. Mishima bị gọi kiểm tra sức khỏe quân ngũ trong thế chiến II. Nhưng khi kiểm tra sức khỏe, ông bị cảm lạnh và đã nói dối với bác sĩ quân đội rằng mình bị lao, vì vậy Mishima đã được tuyên bố là không đủ tiêu chuẩn sức khỏe nhập ngũ. Dù cho người cha cấm ông không được viết truyện nữa, nhưng Mishima vẫn tiếp tục bí mật viết vào buổi đêm, dưới sự ủng hộ và bảo vệ của mẹ ông, bà luôn là người đầu tiên đọc một chuyện mới của Mishima. Tham dự các buổi thuyết giảng ban ngày và viết chuyện ban đêm, Mishima tốt nghiệp trường Đại học Tokyo năm 1947. Sau đó ông dành được một vị trí nhân viên bộ tài chính trong chính phủ, một tương lai sáng lạn đang chờ đón. Tuy nhiên, Mishima lại cảm thấy kiệt sức và cha ông đồng ý cho ông từ chức trong năm đầu tiên để tập trung thời gian cho viết lách. Mishima bắt đầu viết chuyện ngắn Misaki nite no Monogatari (岬にての物語 A Story at the Cape) năm 1945 và tiếp tục viết cho đến cuối thế chiến thứ 2. Vào tháng 1 năm 1946, ông tới thăm nhà văn Yasunari Kawabata tại Kamakura và mang theo bản thảo chuyện Chūsei (中世 The Middle Ages) và Tabako, nhằm xin lời khuyên và sự giúp đỡ của Kawabata. Tháng 6 năm 1946, nhờ lời khuyên của Kawabata, Tabako được tạp chí văn chương mới Ningen (人間 Humanity) xuất bản. Cũng trong năm 1946, Mishima bắt đầu viết tiểu thuyết đầu tay, Tōzoku (盗賊 Thieves), trong đó câu chuyện kể về hai thành viên trẻ trong gia đình quý tộc luôn muốn được tự vẫn. Tiểu thuyết này xuất bản năm 1948, nhờ nó mà Mishima đã được xếp vào hàng ngũ thế hệ thứ hai của những nhà văn thời hậu chiến. Sau đó, ông cho ra đời Confessions of a Mask, một tác phẩm bán tự truyện kể về người đồng tình luôn phải lấp sau mặt nạ để hòa nhập vào xã hội. Cuốn tiểu thuyết đã rất thành công và biến Mishima trở thành một nhân vật nổi tiếng ở tuổi 24. Vào khoảng năm 1949, Mishima cho xuất bạn một serie tiểu luận trong Kindai Bungaku về Kawabata Yasunari, người mà ông dành cho một sự ngưỡng mộ sâu sắc. Mishima là một nhà văn đa tài, ông không chỉ viết tiểu thuyết, tiểu thuyết ngắn, chuyện ngắn, tiểu luận mà còn là một nhà biên kịch có tiếng cho sân khấu kịch Kabuki và những phiên bản hiện đại của thể loại kịch Nō. Các tác phẩm của ông đã dành được tiếng vang quốc tế và rất nhiều trong số đó đã được dịch sang tiếng Anh. Mishima đã đi tới rất nhiều nơi; năm 1952, ông tới thăm Hy Lạp, đất nước đã từng làm say đắm ông từ thời thơ ấu. Những kinh nghiệm thu được từ chuyến thăm đã xuất hiện trong Shiosai (Sound of the Waves), xuất bản năm 1954, câu chuyện lấy cảm hứng từ thần thoại Daphnis và Chloe của Hy Lạp. Mishima cũng khắc họa những sự kiện đương thời trong các tác phẩm của mình. The Temple of the Golden Pavilion xuất bản năm 1956, là một câu chuyện tiểu thuyết hóa về vụ cháy ngôi chùa nổi tiếng ở Kyoto. Utage no Ato (After the Banquet), xuất bản năm 1960, bám sát những sự kiện xung quanh chiến dịch tranh cử thị trưởng Tokyo của chính trị gia Hachirō Arita, vì tác phẩm này mà Mishima đã bị kiện vị tội xâm phạm cá nhân. Năm 1962, tác phẩm Utsukushii Hoshi (Beautiful Star), một tác phẩm gần với thể loại khoa học viễn tưởng thời đó, được xuất bản và nhận được những phản ứng trái ngược. Mishima từng ba lần được đề cử giải Nobel và là một nhà văn yêu thích của rất nhiều nhà xuất bản quốc tế. Tuy nhiên, năm 1968, người thầy đầu tiên của ông Kawabata dành được giải Nobel và Mishima hiểu rằng cơ hội nhận được giải thưởng cho người Nhật Bản trong tương lai gần là rất nhỏ. Cũng có tin đồn rằng Mishima muốn chuyển giải thưởng cho bậc lão thành Kawabata, người đã giới thiệu ông tới văn đàn Tokyo trong thập niên 1940. Năm 1955, Mishima tham gia lớp tập thể thao và chế độ dinh dưỡng cho tập luyện ba buổi một tuần được ông tuân thủ trong suốt 15 năm cuối đời. Trong bài tiểu luận xuất bản năm 1968, Sun and Steel, Mishima phàn nàn về việc những nhà trí thức coi trọng đầu óc hơn thân thể. Mishima sau đó đã trở nên rất điêu luyện với môn kendō. Dù cho đã từng thăm các quan bar dành cho gay ở Nhật Bản, vấn đề định hướng giới tính của Mishima hiện vẫn là một chủ đề bàn thảo ở Nhật. Mishima kết hôn với Yoko Sugiyama ngày 11 tháng 6 năm 1958 và có hai con là Noriko (1959) và Lichiro (1962). Năm 1967, Mishima gia nhập Lực lượng phòng vệ đất liền Nhật Bản và trải qua việc tập luyện cơ bản. Một năm sau đó, ông thành lập Tatenokai (Hội lá chắn) nhằm tập hợp các thanh niên trai tráng có võ và thề sẽ bảo vệ Nhật Hoàng. Trong 10 năm cuối cuộc đời, Mishima viết một vài vở kịch và tham gia đóng trong vài bộ phim cũng như đồng chỉ đạo một bộ phim chuyển thể từ một trong những chuyện của ông, Patriotism, the Rite of Love and Death. Ông cũng tiếp tục viết bộ bốn tác phẩm , Hōjō no Umi (Sea of Fertility), những tác phẩm xuất bản theo khổ định kỳ từ tháng 9 năm 1965. Ngày 25 tháng 11 năm 1970, Mishima và bốn thành viên của Hội lá chắn, tới thăm sĩ quan chỉ huy doanh trại Ichigaya, một trụ sở ở Tokyo của Lực lượng phòng vệ Nhật Bản. Bên trong trụ sở, họ dựng chướng ngại vật và trói vị chỉ huy trên ghế. Với một bản tuyên ngôn và khẩu hiệu chuẩn bị sẵn nêu rõ các yêu cầu, Mishima bước ra ban công để hô hào các binh sĩ tụ tập phía dưới và xúi dục họ đảo chính để thiết lập lại sức mạnh của hoàng đế. Tuy nhiên, những lời nói của Mishima chỉ khiến chọc giận các binh sĩ và bản thân ông thì bị chế giễu. Ông hoàn thành bài diễn văn đã chuẩn bị sẵn, trở lại phòng chỉ huy và tự sát theo nghi thức seppuku, nhiệm vụ sau cùng truyền thống của nghi thức này được giao cho thành viên Masakatsu Morita của Hội lá chắn thực hiện, tuy nhiên Morita không đủ khả năng thực hiện điều này và cuối cùng Mishima cho phép một thành viên khác của Hội lá chắn, là Hiroyasu Koga ,chặt đầu ông. Những nghi vấn được đặt ra xung quanh sự tự vẫn của Mishima. Vào thời điểm Mishima qua đời, ông đã hoàn thành tác phẩm cuối cùng The Sea of Fertility. Ông được công nhận là một trong những nhà văn hậu chiến phong cách nhất trong văn học ngôn ngữ Nhật. Mishima viết 40 tiểu thuyết, 18 vở kịch, 20 sách về chuyện ngắn, khoảng 20 sách về tiểu luận cũng như một kịch bản. Phần lớn các tác phẩm này bao gồm những cuốn sách được viết nhanh nhằm thu lợi nhuận, dù chúng bị coi nhẹ nhưng những phần quan trọng của các cuốn sách này vẫn được lưu giữ. Vào cuối đời, Mishima là một người tán dương chủ nghĩa dân tộc. Các nhân vật cánh tả không ưa gì ông, đặc biệt là vì ý tưởng chấn hưng tinh thần võ sĩ đạo (bushidō) của Mishima, ông cũng bị rất nhiều những người theo chủ nghĩa dân tộc chỉ trích vì luận điểm nêu ra trong Bunka Bōeiron (文化防衛論 A Defense of Culture), cho rằng Hirohito nên thoái vị và phải nhận trách nhiệm cho sự chết chóc trong chiến tranh. ∙ Giải Shincho của Nhà xuất bản Shinchosha, 1954, cho The Sound of Waves. ∙ Giải Kishida của Nhà xuát bản Shinchosha cho các tác phẩm kịch, 1955. ∙ Giải Yomiuri của Báo Yomiuri Newspaper Co., cho tiểu thuyết xuất sắc nhất, 1957, The Temple of the Golden Pavilion. ∙ Giải Yomiuri của Báo Yomiuri Newspaper Co., cho vở kịch xuất sắc nhất, 1961, Toka no Kiku. LỜI NGƯỜI DỊCH Từ thế kỷ 15, nước Nhật có một loại nghệ thuật sân khấu giống tương tự như hát bội ở Việt Nam. Những đề tài được bộ môn này đưa lên diễn tả trên sân khấu phần nhiều bắt nguồn từ những chuyện cổ tích Nhật. Nghệ thuật sân khấu này tiếng Nhật gọi là Noh. Sau đây là quang cảnh của một sân khấu hát Noh. Những nhân vật chánh đeo mặt nạ, mặc quần áo đặc biệt tượng trưng cho những vai liên hệ tới đề tài diễn tả. Một ban hợp ca đề xướng lên những bài hát được dùng làm âm thanh phụ hoạ cho những lời nói của nhân vật chánh. Ngoài ra còn có tiếng sáo và tiếng trống đệm. Sau đây là thí dụ về tuồng tích của một tuồng Noh. Chuyện cổ tích có kể rằng: ngày xưa có một chàng trai thuộc dòng dõi nho phong, thanh lịch. Anh ta yêu một thiếu nữ và nàng đặt điều kiện là anh ta phải tới hầu hạ tại nhà nàng trong chín mươi chín đêm liền, để rồi tới đêm thứ 100 thì nàng sẽ ban tình yêu cho. Anh ta đã kiên nhẫn tới nhà nàng liên tiếp trong 99 đêm liền để rồi sau đó lại ra về không. Tới đêm thứ 100, khi sắp sửa tới lúc được quyền yêu nàng, thì anh ta lại chỉ tới để tự tìm cái chết ngay trước mặt nàng. Tên người con trai đó là Fuka-kusa-no- Shosho và người con gái: Kayoi Komachi. Trên đây là đoạn chuyện cổ tích, và tuồng Noh chỉ bắt đầu diễn tả từ khúc nối tiếp vào câu chuyện đó như sau: Khi màn kéo lên, trên sân khấu khán giả thấy một bóng ma đàn bà mặc quần áo đỏ, có hoa sặc sỡ tượng trưng cho gia đình giàu có, đang thơ thẩn hái những hạt đậu. bóng ma đeo mặt nạ đó chính là hồn của Komachi hiện lên. Tiếng sáo và trống dạo đầu rồi ban hợp ca đồng xướng lên những câu hát: “Hỡi nàng con gái kia, nhặt những hạt đậu gì vậy?...” Sau đó xuất hiện một nhà sư đi qua, nhìn thấy biết nàng là hồn ma hiện về, nên đến hỏi han. Nàng liền thú thật mọi chuyện tiền oan, nghiệp chướng đã lỡ gây ra nên bây giờ mặc dầu chết rồi hồn vẫn còn lẩn quẩn với mối tình chốn dương gian. Nghe xong, nhà sư liền niệm Phật, tụng kinh và dùng triết lý khuyên giải để đưa hồn người đàn bà bất hạnh về Tây Trúc. Nhờ đó, hồn nàng mới siêu thoát được và không còn hiện về nữa. Mishima rất thích loại tuồng Noh này, tháng nào cũng đi coi một lần. Và từ đó ông rút ra một quan niệm triết lý về cái Đẹp của nghệ thuật như sau: “Đẹp là cái gì tàn bạo, dũng mãnh để đi tới chỗ tự huỷ hoại.” Theo Mishima, loại văn chương mô tả tâm lý quằn quại đau khổ của con người như văn của Shakespeare chỉ là những món ăn tinh thần của giới trưởng giả “bourgeois”. Loại văn chương đó không thể hiện được cái Đẹp tuyệt đối của sự vật. Cái Đẹp âm thầm, cuối cùng, vĩnh cửu chỉ có thể tìm thấy trong sự bạo động và nhất là trong sự chết. Chính cái Đẹp đó đã được thể hiện trong văn thơ của Thomas Mann với cuốn truyện “Death in Venice” (Bản dịch của Nguyễn Tử Lộc, Trẻ xuất bản) hay Edga Allan Poe trong tập thơ “Con Quạ.” Năm 1970, Mishima có viết một bài nguyên văn bằng Anh ngữ, đăng trong Đặc san “This is Japan” dưới nhan đề Japan Within (Bề trong Nhật Bản) để diễn tả triết lý về cái Đẹp của sự Chết như sau: “Nếu những sự bành trướng, kỹ nghệ và tân tiến hoá, với một đời sống xô bồ gần như điên dại của đám dân thành thị là “bộ mặt bề ngoài” của nước Nhật thì tôi tự cảm thấy cần phải cương quyết bảo vệ và tái lập nội dung “Nhật Bản bên trong”. Tuồng Noh chính là một tiêu chuẩn để tạo ra sự thanh tịnh của tâm hồn. Chính vẻ Đẹp của sự thanh tịnh đó đã lôi kéo tôi rời bỏ đời sống xô bồ hời hợt của nước Nhật bề ngoài hiện nay. Một cái xô bồ bề ngoài đã huỷ hoại những giá trị bên trong –và thúc đẩy tôi tạo ra một bộ mặt mới khác cho Nhật Bản. Và chính sự Chết đã nằm dưới cái Đẹp đó. Một ngày nào đó rất có thể, tôi sẽ đi theo sức lôi cuốn của vẻ đẹp này để tìm tới cái chết trong sự huỷ hoại, im lặng.” Bốn năm sau khi viết câu chuyện này, Mishima đã tự tử theo nghi lễ võ sĩ đạo. Ông sống tất cả 48 năm, kể từ lúc mở mắt chào đời tại Tokyo năm 1925. VÀI ĐIỀU GHI NHẬN VỀ CUỐN TIỂU THUYẾT “SAU BỮA TIỆC” Đây là một cuốn tiểu thuyết luận đề tương tự như loại tiểu thuyết luận đề Đoạn Tuyệt của Nhất Linh. Những luận đề được lồng vào Sau Bữa Tiệc là: Vấn đề đạo đức: Có ba khuôn mặt điển hình, tượng trưng cho 3 quan niệm đạo đức khác nhau: Noguchi. Tượng trưng cho quan niệm Đạo Đức Bổn phận theo kiểu Đạo Đức của Kant. Phải tuân theo những nguyên tắc tối thượng, bất di bất dịch của Đạo Đức. Đây là những nguyên tắc phổ quát chi phối mọi hoạt động của con người. Kazu. Đại diện cho quan niệm đạo đức cởi mở, đạo đức sáng tạo của Bergson. Quan niệm đạo đức này cho rằng phải tuỳ hoàn cảnh mà áp dụng những quy luật đạo đức một cách uyển chuyển, luôn sáng tạo ra những lề luật mới, những cách áp dụng mới. Nagayama. Đại diện cho khuynh hướng đạo đức cá nhân. Câu châm ngôn phát biểu cho quan niệm đạo đức này như ông ta đã nói với Kazu là “Tôi làm việc tôi làm.” Vấn đề Chánh trị. Ông đưa ra hai loại chánh khách: loại chánh khách lý tưởng (Noguchi) và loại chánh khách theo chủ nghĩa Hiện thực – Realism (Yamazaki). Mishima chứng minh sự thất bại của các chánh khách lý tưởng và ca tụng cái đẹp của những chánh khách theo thuyết Hiện thực với nỗ lực tạo ra những “phép lạ chánh trị” và chấp nhận đường lối ma giáo của đối thủ. Đã lao mình vào chánh trường thì phải chấp nhận sự phản bội, tàn bạo của đối phương. Chấp nhận không phải để đi theo, nhưng để nỗ lực bằng đường lối chân chánh ngõ hầu lật ngược thế cờ. Điều đó gọi là những phép lạ chánh trị. Những người chủ trương đường lối đó được gọi là theo Hiện thực chủ nghĩa. Chúng ta thấy Hiện thực có nhiều điểm giống với chủ thuyết Machiavelli nhưng hoàn toàn khác hẳn về căn bản. Vấn đề Gia đình. Tác giả Sau bữa tiệc chủ trương con người cần có một gia đình. Nhưng nếu vợ chồng lấy nhau mà không hợp tánh tình, quan điểm thì nên ly dị. Theo ông nếu không tìm thấy hạnh phúc khi sống chung với nhau thì “chim nào nên trở về tổ nấy”. Như thế là hay hơn cả. Tiếc rằng trong cuốn tiểu thuyết này, vợ chồng Noguchi không có con, nên vấn đề ly dị dễ dàng. Nhưng nếu trong trường hợp có con, không biết tác giả sẽ giải quyết thế nào cho êm đẹp cả. Trong khi đang dịch cuốn truyện này, một người bạn có bảo tôi: “Tiểu thuyết đã hết thời. Bây giờ người ta có phương tiện đi du lịch rộng rãi, nên không cần đọc truyện. Cuộc sống thực tế có phần còn sôi động, gay cấn hơn tiểu thuyết.” Khi đọc xong cuốn truyện của Mishima, chúng tôi thấy tiểu thuyết vẫn là thế giới riêng biệt khác hẳn cuộc sống thực tế. Cuộc sống hàng ngày ví như địa hình, địa vật bên ngoài, và tiểu thuyết là tấm hoạ đồ của địa hình, địa vật đó. Nhiều khi nhờ có bản đồ mà ta tìm ra lối đi bên ngoài. Tiểu thuyết vẫn là một phương tiện suy tư và giáo dục, là một công trình căn bản của truyền thông trong lúc hai phạm vi âm thanh và hình ảnh chỉ là những phương tiện phụ thuộc rút ra từ tiểu thuyết. Không tin, các bạn cứthửđọc cuốn truyện này xem. Saigon, ngày 25 tháng 4 năm 1974 Dịch giả Mời các bạn đón đọc Sau Bữa Tiệc của tác giả Yukio Mishima & Tuyết Sinh (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Điều Tuyệt Vời Nhất của Thanh Xuân - Bát Nguyệt Trường An
“Dư Hoài” “Hử” “Trước đây cậu có thích tớ không?” Cậu ấy dịu dàng nhìn tôi, cười khì khì, cúi đầu gãi gãi gáy, giống như chàng trai 17 tuổi cấp 3 năm đó. Cũng tốt, vấn đề mà Cảnh Cảnh năm 17 tuổi phải hỏi, Dư Hoài năm 17 tuổi trả lời. Rất lâu sau, Dư Hoài nhè nhẹ gật đầu. Bỗng chốc nước mắt tôi rơi ướt đẫm mặt. Thanh xuân là gì? Là những điều chưa dám nói, Những việc chưa dám làm, Những mơ hồ thoáng chốc chưa từng quên, Là khoảng thời gian không thể quay trở lại… dù chỉ một lần. Thanh xuân là gì? Là phát sáng cũng là tiếc nuối. Thanh xuân của chúng ta đều có một “ai đó”. Một cậu bạn cùng bàn bên được vây quanh bởi biết bao cô nàng, một cô bạn ngốc nghếch hay ngủ quên trong giờ học, hay thậm chí là một anh chàng lớp trên phía bên kia hành lang vẫn mỗi sáng rảo mắt qua phía bên này hành lang ấy. Ai cũng được và chỉ ở đó thôi... trong tim. Không hề dám mở lời kết bạn, mở lời yêu thương. Đem theo những cảm xúc non nớt với một tâm hồn mong manh của những cô cậu học sinh cấp 3 còn trẻ dại, chỉ dám đứng bên lề cuộc sống của người đó mà dõi theo, mà thương thầm nhớ trộm. Để rồi, những lời cần nói, không thể nói, những việc phải làm, lại không làm. Chỉ cho đến lúc thanh xuân từ lúc nào bỗng nhiên trôi qua vội vã, không một lời từ biệt, mới nhận ra rằng bản thân thực sự đã bỏ lỡ những gì. Tháng năm trôi đi, ai rồi cũng sẽ lớn. Chuyện ngày cũ, rồi chỉ là quá khứ mà thôi. Sớm muộn gì cũng mờ nhạt trong tâm trí, nhưng mỗi lần nghĩ lại chắc chắn đâu đó trong lòng vẫn còn rất nhiều những khoảng trống, những hoài niệm không tên. Nhưng cũng chẳng sao cả, bởi vì điều tuyệt vời nhất của thanh xuân chính là có một ai đó để đem theo trong tim đến mãi sau này. Điều tuyệt vời nhất của thanh xuân – câu chuyện thanh xuân không dành riêng cho ai. Mà dành cho thanh xuân của tất cả mọi người. Như một thước phim quay chậm, thật chậm, đọc Điều tuyệt vời nhất của thanh xuân để cùng bật cười với những ngốc xít, cùng bật khóc nơi những nuối tiếc và rồi nhắm mắt lại để thấy lòng mình trôi về những ngày thanh xuân đã và đang qua. “Điều tuyệt vời nhất của thanh xuân” là gì? Chẳng là gì cả! Chỉ là những mơ hồ như ánh mắt ấy, nụ cười ấy... Như cậu ấy! Vậy thôi! *** No. 1 Tôi tên là Cảnh Cảnh. Người thân đều nói tên này không hay, Cảnh nhi, Cảnh nhi, nghe giống như phải cật lực nén nhịn uất ức với ai vậy. Nhưng tôi thích cái tên này lắm. Tên có hay hay không chỉ là thứ yếu, điều quan trọng là trong cái tên này chứa đựng tâm ý. Bố mẹ tôi đều họ Cảnh, có lẽ lúc họ đặt tên cho tôi, trong đầu đều là “đoàn kết sức mạnh”, “kết tinh tình yêu” – những ý niệm đẹp đẽ như vậy, cho nên tôi được gọi là Cảnh Cảnh. Có điều sau đó họ ly hôn. Tôi cũng không chắc chắn với cách giải thích tên của mình, có phải chỉ là một bên tình nguyện hay không. No. 2 Năm tôi thi cấp ba gặp phải dịch SARS. Trong thời kỳ rối loạn lúc ấy, là một học sinh bình thường của một trường trung học cơ sở bình thường, tôi đúng là không phúc hậu tiêu tốn tiền tài quốc gia mà. Cuộc thi Tiếng Anh được bỏ qua phần nghe, độ khó đề thi Toán cũng được giảm bớt, đề thi môn Ngữ Văn trở thành đề văn của học sinh tiểu học, Vật lý, Hóa học được điều chỉnh xuống thang điểm thấp nhất trong tổng số điểm. Tóm lại, từ trước đến giờ nhiều lần tham gia cuộc thi thử nhưng bạn học Cảnh Cảnh chưa lần nào được đứng thứ ba cả lớp, vậy mà thi lên cấp đề thi chung lại được đứng thứ ba toàn trường. Sau đó, các bạn cùng lớp kéo tôi đến cửa tiệm Kỳ Hạm của Adidas và cửa hàng Lý Ninh1 chụp ảnh. Lý Ninh: Thương hiệu thể thao nổi tiếng của Trung Quốc, Lining. Lining được biết đến rộng rãi và bị chỉ trích nhiều với khẩu hiệu “biến tấu” của Adidas. Ngoài ra, logo hình chữ “L” của Li-Ning khá tương đồng với dấu ngoắc của Nike, trong khi khẩu hiệu “Nothing is Possible” (Không gì là không thể) chẳng khác biệt mấy so với “Just do it” (Cứ hành động đi!) của Nike. Họ nói bức ảnh này biểu đạt “Nothing is impossible” – Không gì là không thể. Sau đó lại để tôi đến trước cửa tiệm Nike giơ giấy bảng trúng tuyển màu đỏ của trường Chấn Hoa lên để chụp ảnh lưu niệm. Họ nói rằng tấm ảnh thể hiện tinh thần “Just do it” – Hãy làm đi nào! Tôi hỏi họ có hiểu hàm ý của cụm từ “Just do it” không, họ nói, sao lại không biết? Chính là giết nó! Cuối cùng tôi không thể “giết” được Chấn Hoa. Điều này để sau hãy nói đi. Với lại, trong giai đoạn tôi buồn bực lúc đó, nghe nói Adidas vì một sự việc gây kinh ngạc nào đó mà trong lúc giận dữ đã thay đổi khẩu hiệu thành “Nothing is Impossible”. Đây mới là chân tướng sự thật. Trên thế giới, điều duy nhất không thay đổi chính là sự thay đổi và điều duy nhất có thể trên thế giới này chính là điều không thể. No. 3 Khi điền nguyện vọng, tôi điền nguyện vọng ba mục, đó là ban cơ bản Chấn Hoa, ban tự túc Chấn Hoa, ban phân ban Chấn Hoa. Còn nhớ lúc phải nộp nguyện vọng, tôi là người cuối cùng nộp cho giáo viên. Che che giấu giấu, sợ bị người khác nhìn thấy. Phải biết là, người luôn luôn đứng đầu lớp chúng tôi cũng không dám đăng ký vào Chấn Hoa. Cô bạn ấy đã đắn đo rất lâu, cuối cùng vẫn chọn trường trung học trực thuộc đại học sư phạm; chỉ cần đăng ký nguyện vọng trường sư phạm, thi đỗ với số điểm chuẩn là cô bạn có thể được bớt 10 điểm. Lúc đó, trường sư phạm sử dụng phương thức này chính là đoạt đi một nhóm vốn có khả năng thi thi đỗ trường Chấn Hoa nhưng lại không tự tin với lực học xuất sắc của chính bản thân mình. Khi ấy, mỗi khi kết thúc một kỳ thi, các bạn lớp tôi đều nói đùa trước mặt cô ấy rằng, cô ấy là mầm non tương lai của Chấn Hoa. Chúng tôi không có ác ý, nhưng hồi lớp ba, cứ mỗi lần thi thử xong, cô ấy lại vì trò đùa này mà tức giận. Không ít người vì điều này mà cho rằng cô ấy cố tình gây sự. Nhưng tôi hiểu cô ấy, chúng ta không phải chịu trách nhiệm khi dùng mấy câu nói để tâng bốc người khác, song chẳng may ngã xuống sẽ chẳng có ai đến đỡ cô ấy. Về sau tôi kể với bố tôi chuyện này, bố tôi nói kiểu vuốt đuôi mà đánh giá rằng, Cảnh Cảnh à, khi đó con đã có đầy đủ điều kiện để có thể đỗ trường Chấn Hoa rồi, con có thể đứng dưới góc độ là mầm non của Chấn Hoa mà suy xét vấn đề, rất tốt. Bố thật cmn thối mà… Tôi chợt nhớ ra ông ấy là bố tôi, không phải là bạn cùng bàn, vội vàng nuốt lại câu thường nói với bạn bè vào trong bụng. Thực ra, quan hệ giữa tôi và bố tôi, rất giống “bạn cùng bàn”. No. 4 Điền nguyện vọng như vậy là do bố tôi kiên quyết. Mục tiêu của ông là giữ vững phân hiệu, cố gắng tự túc. Nói không chừng có thể đỗ vào ban cơ bản. Tôi ngắt lời ông. Bố ơi, nếu như loại chuyện đó thực sự xảy ra, nhất định sẽ phải trả bằng một cái giá nào đó, ví dụ như giảm tuổi thọ. Sau đó, dĩ nhiên tôi lại hồ đồ mà vào ban cơ bản. Ban cơ bản của Chấn Hoa đó! Đây căn bản là làm cuộc cho vay nặng lãi với lão Diêm vương, hơn nữa lại còn là mắc nợ nặng nề, mẹ nhà nó, lấy mạng của tôi đi! No. 5 Giáo viên chủ nhiệm của lớp tôi nói rằng, trong tất cả 13 lớp, chỉ có ba bạn đăng ký trường Chấn Hoa, một là Dư Châu Châu lớp 7, hai là Thẩm Sằn lớp 2, và người còn lại là tôi. Thẩm Sằn cuối cùng thi không thành. Nghe đồn rằng cô bạn ấy đi vệ sinh cũng mang theo quyển sách từ đơn, cụm từ để học thuộc, là một người rất lợi hại. Ba năm đổi lấy một ngày kết quả thế này, tôi không biết nên nói gì nữa. Vào một ngày mùa hè nắng to, lúc tôi ngồi xổm trước cửa nhà Khẳng Đức Cơ liếm cây kem ốc quế đậu xanh tránh nắng, ngẩng đầu lên vô tình nhìn thấy Thẩm Sằn đi ngang qua. Cô bạn ấy không mang ô, cũng không tránh ánh nắng gay gắt ngoài kia, vẫn như cũ đeo cái balo to, mặt mũi bóng nhẫy, trên trán có nổi mụn nữa. ... Mời các bạn đón đọc Điều Tuyệt Vời Nhất của Thanh Xuân của tác giả Bát Nguyệt Trường An.
Chiếc Nhẫn Tình Yêu - Danielle Steel
Chuyện tình hai người quen nhau từ trên mạng và rồi gặp gỡ nhiều lần cuối cùng thì cũng quyết định tiến tới bên nhau. Yêu nhau cũng được nhiều năm và bây giờ cũng đến lúc kết hôn bày tỏ tình cảm với nhau. Nhưng anh chưa biết mở lời với cô làm sao khi cô đã từ chối anh một lần. Muốn được cô đồng ý thì anh quyết định dành dụm một số tiền để mua một chiếc nhẫn. Chiếc nhẫn đó chính là minh chứng tình yêu anh dành cho cô là chân thật, đêm đó anh lấy hết can đảm để mà cầu hôn và rồi cuối cũng ước mơ cũng thành sự thật, cô đã chấp nhận lấy anh. *** Danielle Steel, tác giả "Bây giờ và mãi mãi" là tiểu thuyết gia của hơn 500 triệu bản sách được tiêu thụ trên toàn thế giới, đem lại cho bà gia tài trị giá hàng trăm triệu USD. Nhưng khi còn nhỏ, Danielle chỉ mong trở thành người dốc lòng phụng sự Chúa. Kế hoạch triển khai một cuộc sống thanh đạm và khổ hạnh của Danielle Steel sụp đổ hoàn toàn khi bà kết hôn vào năm 17 tuổi và bắt đầu viết lách sau đó hai năm. Đến nay, ở tuổi, ở tuổi 60, nhà văn sắp sửa xuất bản cuốn tiểu thuyết thứ 72 có tiêu đề Honor Thyself. Danielle Steel sinh năm 1947 tại New York. Bà là nhà văn có bút lực dồi dào và đặc biệt thành công về mặt thương mại. Tác phẩm của bà thường xuyên xuất hiện trên danh sách best-seller của The New York Times. Những tiểu thuyết của Steel đã được xuất bản và dịch tại Việt Nam, gồm có: Now And Forever (Bây giờ và mãi mãi), The Ring (Chiếc nhẫn tình yêu), Second Chance (Cơ hội thứ hai), Five Days In Paris (5 ngày ở Paris) Ánh Sao Chiều Bóng Hình Hẹn Yêu Lối Về Một Thời Say Đắm Ngôi Sao Lầm Lỗi Annabelle Người Phụ Nữ Tuyệt Vời Những Trái Tim Vàng Ba Chàng Độc Thân Tình Khúc Mùa Thu Tiền Chuộc Mạng Sự Huyền Diệu của Tình Yêu Bẫy Tình Muôn Nẻo Đường Tình Thỏa Niềm Nguyện Ước Sóng Tình Phương Nam Bến Cũ Chị Em Gái Tình Yêu Cuối Cùng Hơn Cả Ước Mơ Người Vợ Người Tình Đến Rồi Bến Đợi Một Chặng Đường Dài Bến Bờ Tình Yêu Tiếng Nói Của Con Tim Nối Lại Tình Xưa Những Cánh Hoa Lạc Loài Nỗi Buồn Số Phận Âm Vang Ngày Cũ Cánh Đại Bàng Đơn Độc Quỷ Ám Tình Hè Rực Lửa Căn Nhà Trên Phố Hi Vọng Người Đàn Ông Tuyệt Vời ... *** Khi ông Walmar rời nhà ga xe lưả ở Based, ông đứng nhìn quanh một lát trước khi đi bộ trở lại Lorrach để đón tàu hỏa về Berlin. các bắp thịt trong người ông đau nhừ. Trông ông dơ dáy và rách rưới, không còn có vẻ gì là một chủ ngân hàng có thể ngồi họp với Bộ Trưởng Tài Chánh cả. và không ai có thể ngờ là ông đang mang một số tiền lớn trong người cả. Khoảng trưa thì ông đến sát biên giới. Ông đã đi bộ sáu tiếng đồng hồ. Bây giờ là đến phần gay go nhất của cuộc hành trình trở về Berlin. Rồi ông sẽ phải lặp lại như thế nữa để đưa Ariana đi. Một khi hai con ông đã được an toàn ở Thụy Sĩ, thì ông chẳng thiết gì nữa cả, có chết cũng an lòng. Ông lại chui qua lỗ kẽm gai cắt khi đêm. Với một người ở tuổi ông, đi thế này thật là cả một cuộc phiêu lưu nguy hiểm. Song đới với ông sẽ không ăn thua gì nếu cức được hai con ông. Ông ngừng lại. Nghe ngóng. rồi chạy lại chỗ bụi cây. Nhưng lần này thật không may, ông nghe có tiếng chân người gần đây. Ông chui nhanh vào bụi cây. Nhưng hai tên lính đã vừa trờ tới. - Ấy, ông già, đi đâu vậy? Định đi tòng quân ở Berlin à? Ông cố cười vờ làm bộ ngu si. Nhưng một tên lính chỉa súng vào ông và hỏi: - Ông đi đâu? Ông cố nói với giọng nhà quê: - Đến Lorrach. - Sao phải đến đó? - cón gái tôi ở đó. - Ngực ông đập thình thịch. - Vậy à? Hay quá! Tên lính quay lại dí súng vào lưng ông, và ra dấu cho tên kia lục soát. chúng vạch áo ông ra, vỗ vào tuí áo, và sờ lưng quần. Ông nói: - Tôi có giấy tờ đây. - Ồ, vậy à. cho xem! Nhưng trước khi ông lấy được giấy ra thì một tên lính sờ lưng ông thấy một thứ gì mềm mềm dọc theo cánh tay phải của ông. Nó hỏi: - Gì đây, bố? Bố giấu cái gì phải không? - Y cười lớn và nháy nháy với tên bạn. Các ông già thường hay kỳ quặc. Hai tên lính biết vậy nên lặng thinh xé toạc áo sơ mi của ông ra, chiếc áo dơ dáy song vải rất tốt. Chúng không nghi ngờ gì, rõ ràng đây là một ông già nhà quê. Song chúng ngạc nhiên tròn xoe mắt khi mở ví ông ra, cả một mớ tiền giấy bạc lớn và bạc lẽ. Chúng đếm xong lấy làm kinh ngạc, hỏi: - ông đem tiền này cho Quốc Trưởng à? - Chúng nói xong thì cười lớn một cách thích chí. Ông Walmar chỉ nhìn xuống đất. Ông hy vọng là chúng thỏa mãn với số tiền lấy được và cho ông đi. Nhưng hai tên lính thời chiến tranh thì đủ khôn để biết cần phaỉ làm những gì. chúng trao đổi nhau bằng mắt, tên thứ nhất bước lui, tên thứ hai bắn vào ông Walmar. Ông ngã xuống trên đám cỏ. Chúng nắm chân ông kéo vào bụi cây, lấy hết giấy tờ, tiền bạc, rồi trở lại lều của chúng. chúng ngòi đếm bạc thích thú, còn giấy tờ thì đốt hết. Chúng cũng không bận tâm đọc các giâý tờ đó nưã. Ông ta là ai thì chẳng quan trọng gì. Chỉ khổ cho Gerhard đang nằm chờ ở một khách sạn tại Zurich. Và khổ cho Ariana đang ngồi kinh sợ trong nhà giam ở Berlin. Mời các bạn đón đọc Chiếc Nhẫn Tình Yêu của tác giả Danielle Steel.
Khuôn Mặt Người Khác
Mặt, xét cho cùng, là vẻ biểu cảm của nó. Mà vẻ biểu cảm, đó là một loại phương trình biểu thị mối quan hệ với những người khác. Đấy là con đường mòn liên kết ta với người. Nếu con đường đó bị vùi lấp thì ngay cả những người gắng tìm cách đi trên con đường đó cũng sẽ đi ngang qua trước nhà ta như đi ngang qua một chốn hoang phế không người. Nếu không kịp thời dọn quang con đường mòn thì cuối cùng người ta sẽ quên rằng đã từng có con đường đó.  Tâm hồn con người được bọc trong một bộ da. Người ta bị mất tay mất chân, bị hỏng mắt là chuyện bình thường. Người bị thương bận tâm đến cái gì nhiều nhất? Không phải là tính mạng, không phải là sự phục hồi các chức năng của cơ thể, không. Điều làm họ băn khoăn trước hết là có giữ được cái hình dạng trước đây hay không. Nếu như trong Người đàn bà trong cồn cát (1962), cuốn tiểu thuyết đầu tiên của mình, Kobo Abe viết bằng giọng văn xuôi đơn giản; thì Khuôn mặt người khác (1964) giọng văn đã trở nên phức tạp hơn bởi nhiều câu hỏi được đặt ra. Nếu như nhân vật chính của Người đàn bà trong cồn cát chỉ đơn giản là cố gắng để trốn thoát; thì nhân vật chính của Khuôn mặt người khác là cố gắng để tìm thấy chính mình và để đánh mất mình, và cố gắng tìm mọi cách để sống trong một xã hội mà dường như đã từ chối anh ta! Với Khuôn mặt người khác, Kobo Abe đã cố gắng để đối phó với các vấn đề lớn của bản sắc và cá tính trên quy mô quốc gia, bằng cách tập trung vào miêu tả một người đàn ông không tên. Anh là chủ nhiệm một phòng nghiên cứu hóa chất cao phân tử tại một viện khoa học. Trong lúc thí nghiệm đã xảy ra vụ nổ oxy lỏng, khuôn mặt bị biến dạng với những sẹo lồi, rất may là không ảnh hưởng gì đến mắt vì anh đeo kiếng. Bề ngoài, anh cố giữ được vẻ bình thản với khuôn mặt bị hủy hoại, nhưng đó chỉ là sự giả tạo. Trong anh luôn bùng nổ những cơn bão của tâm trạng dằn vặt, suy tư dữ dội, luôn đau khổ và mặc cảm, hoài nghi ở thái độ mọi người đối với bộ mặt kỳ dị của mình. Anh nghi ngờ cả sự gần gũi chăm sóc của người vợ vẫn chung sống cùng anh sau khi anh bị tai nạn. Và, mối quan hệ của anh với người vợ cũng bị biến dạng! Âm thầm và kiên trì bền bỉ, anh đã nghiên cứu chế tạo thành công bộ mặt nạ hoàn toàn giống mặt người, có khả năng biểu cảm linh hoạt như gương mặt thật. Anh giữ bí mật sự việc và nuôi dưỡng ý định dùng bộ mặt nạ thử thách tình yêu của vợ mình. *** Trong khi Murakami và Yoshimoto là những nhà văn đang nổi lên trên văn đàn Nhật Bản và là hai nhân vật hết sức quen thuộc ở Việt Nam hiện nay, tôi muốn lưu ý bạn đọc về một xu thế mới có lẽ tồn tại như một dòng chảy ngầm. Khi nói về xu thế này, vào năm 1990 nhà văn danh tiếng Kenzaburo Oe ( 1935 - 2007), Giải thưởng Nobel Văn chương năm 1998 có viết: “Lớp nhà văn này đã tích luỹ trong mình  cảm nghĩ về thực trạng xã hội và sức mạnh của văn học. Trong số họ nổi lên hàng đầu là Kobo Abe, một trong những gương mặt quan trọng nhất, nổi bật nhất sau chiến tranh. Ông sáng tác với ý thức tách khỏi truyền thống Nhật Bản, tuy gắn bó với việc xây dựng thế giới ảo tưởng, nhưng vẫn in đậm một lối nhìn riêng tư mà nghiêm túc về đời sống hiện đại”. Kobo Abe sinh ngày 7.3.1924 tại Tokyo. Tên thực của ông là Kimifusa (“Kobo” là cách phát âm theo Hán tự của từ “Kimifusa”). Cha ông là bác sỹ tại một bệnh viện nằm trong trường Cao đẳng Y khoa Hoàng gia ở Manchuria. Khi còn trẻ, Abe rất hứng thú với môn toán học và sưu tập côn trùng. Cũng giống nhiều nhà văn Nhật Bản hiện đại nổi tiếng thế hệ trước như Mori Ogai, Natsume Soseki, Tanizaki Junichiro... ông tiếp thu và chịu ảnh hưởng sâu sắc các nhà tư tưởng bậc thầy của phương Tây, có lẽ do nhiều năm sống ở nước ngoài và đời sống văn hoá đương đại của nó đã thôi thúc ông, nghiên cứu các nhà triết học phương Tây như Heidegger, Jaspers và Nietzsche... Năm 1941 Abe trở về Nhật Bản, năm 1943 ông thi đỗ Đại học Tokyo rồi theo học y khoa tại đây. Luôn ốm yếu do mắc bệnh đường hô hấp nên Abe được miễn quân dịch. Trong chiến tranh, ông tới sống ở Manchuria. Sau khi khỏi bệnh Abe tiếp tục việc học hành và tốt nghiệp vào năm 1948, nhưng ông tự nhủ sẽ không bao giờ hành nghề y. Từ đấy Abe đã bước vào sự nghiệp văn học. Ông tham gia nhóm văn chương do Kiyoteru Hamada dẫn dắt. Khuynh hướng sáng tác là hợp nhất các kỹ thuật của Chủ nghĩa siêu thực với tư tưởng Marxist. Ngay từ năm 1943 Abe đã cho ra đời một tác phẩm đầu tay. Bạn đọc hẳn đã nhận thấy Haruki Murakami tác giả Rừng Na-uy viết với một phong cách bộc trực, giọng điệu trung tính, lạnh lùng, câu ngắn gọn, đôi khi cộc lốc. Ông tránh lối diễn đạt uyển chuyển mà người Nhật hay dùng để câu nói mềm mại hơn khiến ngôn từ trở nên mập mờ. Còn văn  phong của Abe lại cô đọng và chuẩn mực, nó cho thấy nỗi bận tâm của ông đối với tư tưởng của tác phẩm hơn là kỹ thuật viết cốt tạo ra phong cách . Những nhà văn chủ chốt có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển thẩm mỹ văn học của ông: Edgar Allan Poe, Samuel Beckett, Rainer Maria Rilke và Fyodor Dostoyevsky, và đặc biệt là Franz Kafka. Ảnh hưởng Kafka càng rõ rệt trong tác phẩm Kabe - Esu Karuma shino hanzai (Bức tường - tội lỗi của S.Karma, 1951). Tác phẩm này được Giải Akutagawa, giải thưởng văn học cao quý nhất ở Nhật, kể chuyện một người phát hiện ra rằng tấm danh thiếp của anh ta tự hoá thành người và giả dạng anh ta mà phạm tội khiến anh bị toà án lôi ra phán xử. Năm 1947 Abe cho ra mắt một tuyển tập thơ. Abe chỉ thực sự được coi là một nhà văn nổi tiếng với tiểu thuyết Owarishi michi no shirube ni (1948), kể về cuộc đời một kẻ nghiện thuốc phiện. Vào những năm 1950, Abe gia nhập Đảng Cộng sản Nhật Bản. Năm 1962 ông xin ra khỏi đảng bởi những bài báo phê phán chính sách của đảng này. Những tác phẩm mang tính cách trải nghiệm của Abe được thế hệ độc giả trẻ hết sức ngưỡng mộ. Abe đã nhận được giải thưởng cho ba truyện ngắn của ông, “Akai mayu” (1950, Cái kén đỏ), “Kabe” (1951) và “S.Karuma - Shi no hanzai” (1951). Như nhiều nghiên cứu đã đề cập tới, vấn đề chủ đề và phong cách viết thường là nỗi ám ảnh đối với nhà văn Kafka đến mức ông đã phải khai thác nhiều yếu tố qua các truyện khoa học viễn tưởng và trinh thám để xây dựng tác phẩm của mình. Còn các tiểu thuyết và vở kịch của Abe thì đặc trưng ở sự quan sát kín đáo và các kỹ thuật viết tiên phong (avant - garde techniques). Khi đã quen thuộc một số tác phẩm của Kobo Abe bạn đọc sẽ nhận thấy thông thường các cảnh ngộ hay hoàn cảnh mà các nhân vật của ông phải đối mặt, hay đương đầu, thường là kỳ quặc, không giống thực tế và thái độ cùng hành vi của họ được bộc lộ qua khái niệm tự do ý chí. Các tác phẩm sau của Abe là những minh chứng cụ thể cho nhận định này: Daiyon kampyoki  (1959), Moetsukita chizu (1967, Tấm bản đồ rách), Mikkai (1977) và Hako otoko (1974, Người đàn ông trong chiếc hộp). Ở phương Tây, Abe hết sức nổi tiếng với hai tiểu thuyết The Woman in the Dunes, (1962, Người đàn bà trong cồn cát) và The Face of Another (1964, Khuôn mặt người khác). Chủ đề trung tâm trong các tác phẩm này của Abe là nỗi lạc lõng về thân phận, mặc cảm bị xa lánh và ghét bỏ, nỗi cô đơn cá nhân giữa một thế giới kỳ quặc, và những con người gặp khó khăn trong việc hòa nhập với cộng đồng. Hai kiệt tác này là các tác phẩm vượt khỏi mỹ quan truyền thống Nhật Bản, sáng tạo mới mẻ, dùng nhiều ẩn dụ, nhiều hình tượng cụ thể hay siêu thực để diễn tả nội tâm và tiềm thức con người bị tha hoá, vong ngã, trong xã hội đô thị. Các quan niệm giáo điều hay thành kiến đã được ông lật ngược lại. Thông thường con người được xem là trung tâm của vũ trụ, chúa tể của muôn loài, tác phẩm của ông lại chủ trương bình đẳng giữa các loài. không những thế còn có thể biến đổi từ loài này sang loài khác, và ngược lại, con người hoá thân thành sinh vật, sinh vật lại mang nhân cách như con người. Ông đề cao ý thức, lại chủ trương nhục thể chi phối tinh thần, hoàn cảnh xã hội quy định ý thức, và tự do chỉ có thật khi cá thể thoát ra khỏi mọi tập thể như quốc gia hay cộng đồng. Kobo Abe không ngừng thử nghiệm những thủ pháp và tư tưởng mới lạ, kể cả khoa học viễn tưởng, triết lý hiện sinh, chủ nghĩa hiện thực huyền ảo. Với số lượng tác phẩm to lớn và những đóng góp đặc sắc của ông cho văn học Nhật Bản, Kobo Abe  được đánh giá là một trong những tác gia quan trọng nhất của nền văn chương nước này ở thế kỷ XX. Những tác phẩm chính: Người đàn bà trong cồn cát (1963), Khuôn mặt người khác (1964), Người hộp (1973) Cái Kén Đỏ Chiếc thuyền Nô-Ê Bọn Chiếm Đóng Và một số và kịch. Khuôn mặt người khác là cuốn tiểu thuyết tiêu biểu cho những đặc điểm các tác phẩm của Kōbō Abe. *** Thế là em đã vượt qua được cái mê cung rắc rối mà tìm đến. Tin ở cái kế hoạch mà anh ta gửi cho em, rốt cuộc em đã đến chỗ trú ẩn này. Chân bước rụt rè, em lên cái cầu thang cót két như bàn đạp cỗ đàn ooc-gơ. Căn phòng đây rồi. Nín thở, em gõ cửa, chẳng hiểu sao không có tiếng đáp. Thay cho tiếng đáp, một cô bé nhảy tâng tâng như con meo con chạy tới mở cửa cho em. Em gọi cô bé, toan hỏi xem người ta có nhắn gì cho em không, nhưng cô bé chẳng trả lời gì cả, chỉ mỉm cười và chạy đi. Em cần anh ta, thế là em ngó vào cửa. Nhưng em không thấy anh ta, không thấy một cái gì nhắc nhở đến anh ta, một căn phòng chết, trong đó tinh thần hoang phế đang lượn lờ. Cảnh tượng bức tường mờ đục khiến em giật mình. Em toan đi, tuy cảm thấy mình có lỗi, thì mắt em chợt bắt gặp ba quyển vở nằm trên bàn, bên cạnh là một bức thư. Đến đây em chợt hiểu ra rằng thế là em đã sa vào bẫy. Mặc dù lúc ấy những ý nghĩ hết sức cay đắng giày vò em, nhưng sự cám dỗ không thể nào cưỡng lại được. Hai tay run run, em xé phong bì và bắt đầu đọc thư... Chắc là em tức giận, chắc là em oán trách. Nhưng anh sẽ chịu đựng được cái nhìn của em, cái nhìn đàn hồi như chiếc lò xo kéo căng, và dù thế nào đi nữa anh vẫn cứ muốn em tiếp tục đọc. Anh không có hy vọng gì rằng em sẽ vượt qua được mấy phút đó một cách êm đẹp, và sẽ bước một bước về phía anh. Anh bị anh ta tiêu diệt hay anh ta bị anh tiêu diệt, cách nào chăng nữa thì màn của vở bi kịch những chiếc mặt nạ đã hạ xuống. Anh đã giết anh ta, đồng thời tự nhận mình là kẻ phạm tội và anh muốn thú nhận hết, thú nhận triệt để. Có thể vì em rộng lượng hay ngược lại, anh cũng vẫn cứ muốn em đọc tiếp. Người có quyền xử tử thì có trách nhiệm phải nghe cho hết lời khai của bị cáo. Còn nếu chỉ quay lưng lại với anh, kẻ đang quỳ gối trước em đây, thì liệu em có khỏi bị nghi oan là tòng phạm không? Thôi được, hãy ngồi xuống, cứ coi như em đang ngồi nhà. Nếu không khí trong phòng tù hãm thì mở cửa sổ ra. Ấm chén uống trà, nếu cần em lấy ở bếp. Hễ khi nào em bình tĩnh ngồi xuống thì nơi trú ẩn giấu kín ở cuối mê lộ này sẽ biến thành tòa án. Trong lúc em xem lời khai, để cho phần cuối tấn bi kịch của những chiếc mặt nạ càng có vẻ xác thực hơn, anh sẵn lòng chờ lâu thế nào cũng được, trong lúc chờ đợi, anh vá những chỗ thủng trên tấm màn sân khấu, vả lại, chỉ riêng việc hồi tưởng lại những chuyện đó cũng khiến anh không cảm thấy chán ngán. Vậy thì ta sẽ trở lại sự việc vừa mới xảy ra với anh, ba ngày trước cái thời điểm mà đối với em là “lúc này”: Đêm ấy, gió lẫn với trận mưa dường như có hòa tan mật ong làm cửa sổ rung lên thảm thiết. Suốt ngày anh đổ mồ hôi, thế mà khi mặt trời lặn, anh bỗng muốn sưởi ấm bên ngọn lửa. Các báo viết rằng trời sẽ lạnh trở lại, nhưng ngày đã trở nên dài hơn, chẳng làm sao lẩn tránh được thực tại đó và cứ một cơn mưa tạnh là đã cảm thấy ngay sự hiện diện của mùa hè. Chỉ cần nghĩ đến điều đó là tim anh bắt đầu phập phồng lo lắng. Ở tình trạng hiện nay, anh giống như một vật bằng sáp bất lực trước cái nóng nực. Chỉ cần nghĩ đến mặt trời chói lòa là da anh phồng rộp cả lên. ... Mời các bạn đón đọc Khuôn Mặt Người Khác của tác giả Kobo Abe.
Chết Đi Cho Rồi, Leonard Peacock - Matthew Quick
Trong cuốn tiểu thuyết Chết đi cho rồi, Leonard Peacock, tác giả của Về phía mặt trời kể về một cậu bé tài giỏi, nhưng gặp nhiều vấn đề ở trường và phải sống với một bà mẹ vô tâm chỉ quan tâm tới thời trang. Cậu đi đến quyết định tự sát, và trước khi tự sát, cậu đã tặng những người cậu yêu quý một món quà. Sử dụng biện pháp flashback (kể về những người bạn thân của cậu bé, về người bạn người Iran chơi violon thần sầu, về cô giáo dạy Anh văn và thầy giáo dạy lịch sử) xen lẫn những bức thư gửi từ tương lai (của bản thân cậu bé, của người vợ và con gái tưởng tượng), câu chuyện dần hé lộ về cuộc sống và các mối quan hệ cá nhân của Leonard, qua đó đặt ra những câu hỏi thực tế, mang tính thời sự cao về cả một thế hệ trẻ, về hệ thống giáo dục và về cách người lớn nhìn nhận trẻ con, cũng như những ước mơ vô cùng bình dị. Một cuốn sách khiến người ta nhớ đến Catcher in the Rye, The Perks of Being a Wall Flower và Mysterious Skin. *** Khẩu súng lục P-38 của phát xít Đức từ thời Chiến tranh thế giới thứ hai trông thật kỳ cục gần cái tô ngũ cốc trên bàn. Một sự giao thoa đồ dùng công nghệ nhìn hết sức trật chìa. Nhưng nếu nhìn kỹ vào báng súng thì có thể thấy một cái dấu thập ngoặc nhỏ xíu và con đại bàng đậu trên đỉnh, trông thật vãi. Tôi lấy iPhone chụp một phát cho cái “cặp đôi hoàn hảo” đó, để lưu lại vật chứng kiêm tác phẩm nghệ thuật hiện đại. Đến khi ngó vào màn hình điện thoại, tôi bò lăn ra mà cười, bởi cái “cục” tác phẩm nghệ thuật ấy nhìn gớm không thể tả. Chứ gì nữa, cái tô ngũ cốc và một khẩu P-38 cứ như cái thìa nằm chình ình bên cạnh – một vụ “dàn cảnh” như thế lên khuôn hình trông có vẻ như nghệ thuật sắp đặt hiện đại đấy chứ? Nhảm vãi. Mà cũng nhí nhố ra phết. Hồi đi tham quan mấy bảo tàng nghệ thuật, tôi thấy lắm thứ còn kinh hơn, chẳng hạn như trên tấm toan trắng toát chỉ có mỗi một vạch đỏ bé tí quẹt qua. Có lần tôi đã đốp thẳng vào mặt Herr Silverman về cái bức tranh đó rằng vẽ vời kiểu thế thì tôi cũng làm được. Thế rồi bằng giọng điệu siêu tự tin, thầy vặc lại tôi thế này: “Nhưng mà em có làm đâu.” Phải thừa nhận là cái câu phản pháo đó hơi bị đúng. Biết vậy tôi ngậm quách miệng lại cho rồi. Đây, giờ thì tôi đang sáng tạo nghệ thuật hiện đại trước khi ngủm đây. Biết đâu sau này họ lại chả đặt cái iPhone này vào trong Viện bảo tàng nghệ thuật Philadelphia với bức hình khẩu súng phát xít và tô ngũ cốc vẫn còn trên đó ấy chứ. Họ có thể đặt cho nó một cái tên thật kêu như Bữa điểm tâm của sát thủ choai choai hay mấy cái tên vớ vẩn và gây sốc kiểu kiểu như vậy. Tôi cá là giới nghệ thuật và thông tấn sẽ khoái lắm đây. Họ sẽ khiến cho tác phẩm nghệ thuật hiện đại của tôi đùng một cái mà nổi như cồn. Nhất là sau khi tôi trừ khử xong thằng ôn con Asher Beal và tự khai tử tôi luôn. Giá trị các tác phẩm nghệ thuật lúc nào mà chả tăng vọt khi người ta phát hiện ra người nghệ sĩ đã làm vài việc dở hơi nào đó, chẳng hạn như ông họa sĩ Van Gogh cắt cụt cả tai mình, tác gia Poe thì cưới ngay cô em họ vị thành niên, ca sĩ Manson thì sai thuộc hạ đi ám sát người nổi tiếng, không thì cũng kiểu như ông nhà báo Dr. Thompson đòi người ta phải bỏ tro cốt của mình sau khi tự sát vào trong nòng pháo mà bắn, hoặc đòi mẹ mặc áo váy con gái như nhà văn Hemingway, hay diện nguyên cả bộ đồ làm bằng thịt sống như cô ca sĩ quái chiêu Lady Gaga, nói chung là lắm thứ khó nói xảy ra với một nghệ sĩ tới nỗi mà người này phải giết cả bạn cùng lớp rồi tương luôn một phát súng vào đầu mình như kiểu hôm nay tôi sẽ làm đây. Vụ việc ám sát lẫn tự sát của tôi sẽ khiến cho tác phẩm Bữa điểm tâm của sát thủ choai choai trở thành một kiệt tác vô giá bởi vì ai mà chả thích mấy kiểu nghệ sĩ điên điên lập dị. Anh mà cứ chán chán, xinh xinh, bình bình – giống tôi từng thế - thì anh rớt lớp nghệ thuật là cái chắc và suốt đời chỉ là một nghệ sĩ xoàng xĩnh mà thôi. ... Mời các bạn đón đọc Chết Đi Cho Rồi, Leonard Peacock của tác giả Matthew Quick.