Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bố Già

TÁC GIẢ & TÁC PHẨM   Mario Puzo (Mario Gianluigi Puzo, 1920-1999) sinh ra trong một gia đình người Italia nhập cư sang Mỹ. Cha mẹ Mario hoàn toàn mù chữ và tuổi thơ của cậu bé này đã trôi qua “dưới đáy” xã hội ở New York. Trong Chiến Tranh Thế Giới II, Mario Puzo phục vụ trong quân đội Mỹ. Ông từng có mặt trên chiến trường nước Đức và vùng Đông Á. Sau đó Puzo học Cao Đẳng Khoa Học Xã Hội New York và Đại Học Tổng Hợp Colombia rồi công tác gần 20 năm tại các cơ quan của Chính Phủ ở New York và nước ngoài. Năm 1955, Puzo cho ra đời tác phẩm đầu tay mang tên “Đấu Trường Đen”. Đây không phải là một cuốn sách về Mafia mà về cuộc đời một chàng cựu binh Mỹ trong bối cảnh thành phố Berlin hoang tàn sau chiến tranh với những vụ áp phe, buôn lậu, lừa đảo và cả những mối quan hệ nồng ấm tình người. Tuy nhiên, “Đấu Trường Đen” không thuộc số những cuốn sách ấn tượng nhất của Puzo. Từ năm 1963, Mario Puzo bắt đầu tác nghiệp như một phóng viên tự do, đồng thời coi viết văn là công việc nghiêm túc của mình. Năm 1969, với sự xuất hiện lừng lẫy của “Bố Già”, Puzo đã trở thành nhà văn được cả thế giới ngưỡng mộ. Suốt một thời gian dài, “Bố Già” luôn chiếm vị trí đầu trong bảng xếp hạng sách bán chạy nhất hành tinh. Nó đã được dịch ra nhiều thứ tiếng và có con số xuất bản đáng kinh ngạc: 11 triệu bản trong năm 1969 và 21 triệu bản tính đến tháng 7/1999. Bố Già Don Vito Corleone trong tiểu thuyết của ông và những sự kiện bạo liệt quanh ông ta dường như được bao phủ bởi một màu sắc lãng mạn khiến cuốn sách có sức hấp dẫn kỳ lạ. Tuy nhiên Puzo không chỉ dừng lại ở việc lãng mạn hóa “Bố Già”. Tác giả đã xây dựng câu chuyện dựa trên những chất liệu có thật, đã tiểu thuyết hóa các nhân vật bằng những nét miêu tả chân chất. Nhiều tư liệu gần đây về Mafia cho biết Bố Già ngoài đời chính là Don Vito Cascio Ferro, một trong những thủ lĩnh đầu tiên của giới Mafia Italia di cư sang Mỹ. Ông này cầm đầu giới giang hồ ở Sicily (Italia) và sau đó là thống soái của nhóm “Bàn Tay Đen”, tiền thân của Mafia Mỹ. Tuy nhiên, bản thân Puzo thì nói rằng ông chưa bao giờ tiếp cận với một tay gangster bằng xương bằng thịt, rằng nguyên mẫu cho nhân vật bố già chẳng phải ai xa lạ mà chính là mẹ ông, một phụ nữ Italia nhập cư đã phải làm mọi thứ để có thể nuôi sống con cái và giữ cho gia đình hòa thuận. Trong cuốn “Bố Già” Puzo cũng cẩn thận ghi chú rằng: Tất cả nhân vật trong truyện đều là hư cấu và bất kỳ sự trùng hợp nào nếu có đều là ngẫu nhiên… Độc giả cũng như giới phê bình đều công nhận rằng, Puzo đã miêu tả thế giới của “Bố Già" tuyệt vời đến nỗi có người còn ngờ ông là “tay trong” của Mafia. Năm 1972 Francis Coppola đã chuyển thể “Bố Già” thành phim. Sau đó vị đạo diễn tên tuổi này lại đề nghị Puzo hợp tác để viết tiếp kịch bản “Bố Già II”. Bộ phim bất hủ này đã đi vào lịch sử Hollywood và điện ảnh thế giới với các giải Oscar cho phim hay nhất và cho kịch bản hay nhất. Vai diễn Bố Già cũng đem đến cho hai diễn viên gạo cội Marlon Brando và Robert De Niro 2 giải Oscar. Kịch bản cho phim “Bố Già III” (xuất hiện trên màn bạc vào năm 1990) cũng được viết chung bởi Puzo và Coppola. Puzo tâm sự về việc viết “Bố Già” như sau: Một lần tình cờ có một đồng nghiệp ghé đến chỗ tôi. Tôi đã đưa bản thảo “Fortunate Pilgrim” (bản tiếng Việt là Đất Khách Quê Người) cho anh ta đọc. Một tuần sau anh ta quay lại và tuyên bố: Mario là một nhà văn vĩ đại! Tôi rất phấn chấn và đã thết anh bạn một bữa thịnh soạn tại nhà hàng. Trong khi ăn, tôi kể cho anh nghe những câu chuyện về Mafia và đọc một vài đoạn trong bản thảo “Bố Già”. Bạn tôi đã bị sốc. Một tuần sau anh ấy lại đến và nói rằng đã lên lịch hẹn cho tôi gặp một chủ xuất bản. Tại cuộc gặp đó, tôi cũng kể rất nhiều về Mafia. Ông chủ xuất bản rõ ràng là rất thích. Vì vậy ông ta đặt tôi viết một cuốn tiểu thuyết về những chuyện đó và ứng trước cho tôi 5 nghìn đôla. Chuyện xảy ra như thế đấy. Thật kỳ lạ và không thể hiểu nổi. Tôi đã bắt tay vào viết “Bố Già” nhưng thực lòng không hề thấy hứng thú… Tôi viết cuốn sách trong vòng 3 năm. Thời gian ấy tôi đồng thời còn viết cho Martin Gudman một số truyện phiêu lưu mà không đòi hỏi nhuận bút… Độc giả Việt Nam hẳn không xa lạ gì với “Bố Già” - cuốn tiểu thuyết được đánh giá là hay nhất về giới giang hồ Mafia ở Mỹ. Nhà văn Mario Puzo, cha đẻ của “Bố Già” lại thú nhận rằng ông không hề hào hứng khi viết cuốn sách bán chạy nhất này, ông chỉ viết nó vì đang... túng tiền! *** Amerigo Bonasera ngồi ở phòng ba tòa đại hình New York chờ xem công lý được thực thi và lưỡi gươm trừng phạt sẽ bổ xuống đầu mấy thằng mất dạy đã hành hung thành thương tật và toan làm nhục con gái lão. Ngài chánh án uy nghi trang trọng vén tay áo thụng như sắp sửa tự tay mình trị tội hai thằng côn đồ đang đứng trước tòa. Bộ mặt sắt của ngài đầy khinh bỉ, cao ngạo, song ở đây có một cái gì đó giả trá mà Amerigo Bonasera đã nhận thấy bằng trực giác mặc dù còn chưa hiểu ra sự thể. — Hành động của các người là hành động của bọn cặn bã mạt hạng, - ngài chánh án lớn tiếng. “Đúng", Bonasera nghĩ bụng, “đúng thế! Lũ súc sinh. Loài dã thú". Hai thằng thanh niên tóc bóng mượt cắt đúng mốt, mặt mày sáng sủa lộ rõ vẻ ăn năn, hai đứa cúi đầu cam chịu. Quan chánh án phán tiếp: — Các người hành động như lũ dã thú trong rừng, may mà cô gái đáng thương chưa bị các người xâm phạm tiết hạnh, bằng không ta phải nhốt các người đủ hai chục năm mới nghe. - Ngài dừng lại một lúc, cặp mắt cáo bên dưới đôi lông mày rậm rì nhíu lại dữ tợn đảo nhanh qua bộ mặt tái ngắt của Bonasera. Rồi càng sa sầm mặt với vẻ dữ tợn hơn, so vai như để kìm cơn giận tự nhiên, ngài kết thúc. - Nhưng xét các người còn trẻ, trước đây chưa có tiền án, vả lại đều là con nhà tử tế, mặt khác luật pháp là cực kì sáng suốt, đặt ra không phải để trả thù, nên ta tuyên phạt mỗi tên ba năm tù. Cho phép các người được hưởng án treo. Chỉ nhờ thói quen bốn chục năm nghề nghiệp mới giúp ông chủ xe đòn Bonasera đủ sức ghìm cơn giận không để lộ ra ngoài mặt. Đứa con gái trẻ trung tươi tắn của lão giờ này vẫn phải nằm bệnh viện với cái xương hàm gẫy, thế mà bọn súc sinh kia lại được thả rông ngoài đường. Ra người ta diễn trò hề với lão đây. Đám cha mẹ, họ hàng của chúng đang hớn hớ xúm quanh hai cậu quí tử. Bọn họ làm sao mà không hớn hở cơ chứ. Cổ họng Bonasera đắng ngắt, nước dãi chua loét tứa ra đầy mồm đằng sau hai hàm răng nghiến chặt. Lão rút chiếc khăn tay phin nõn ở túi ngực ra bịt mồm, đứng đực giữa lối đi, còn hai thằng khốn nạn thì trâng tráo đi ngang qua mặt lão, mồm nhếch lên cười nhạt, thậm chí còn không thèm nhìn đến lão. Lão để chúng đi qua mà không nói một lời, chỉ áp chặt hơn chiếc khăn vào mồm. Cha mẹ chúng đi sau, hai bà và hai ông cùng trạc tuổi lão có điều ăn mặc ra dáng Mĩ nòi. Mấy người này nhìn lão có vẻ lúng túng nhưng đầy thách thức và đắc thắng ngấm ngầm. Không nhịn nổi, Bonasera nhoài người ra hét lớn: — Các người cứ chờ đấy, rồi các người sẽ được khóc như ta đã từng khóc. Thấy vậy mấy ông luật sư đi đằng sau vội đẩy các thân chủ tới chỗ mấy thằng con đang dừng lại hầm hừ như chực nhảy vào bênh bố mẹ. Một tay mõ toà to như hộ pháp vội chạy ra đứng chặn lối, sợ Bonasera làm liều. Nhưng rốt cuộc chẳng có chuyện gì xảy ra cả. Bao nhiêu năm làm ăn sinh sống ở xứ này Bonasera luôn tin ở pháp luật và trật tự kỉ cương. Dựa vào đâu thì ăn nhờ đấy. Ngay cả lúc này, tuy đầu óc lão cứ ong ong vì uất hận ngất trời, căm gan tức ruột chỉ muốn thửa ngay một khẩu súng bắn chết toi hai thằng chó cho hả, nhưng Bonasera vẫn phải cắn răng quay sang bà vợ đang ngớ ra chẳng hiểu ngô khoai gì hết. — Người ta lỡm vợ chồng mình đấy, - lão nói. Lão im bặt, máu liều bốc lên. Lão quyết định dứt khoát, muốn đến đâu thì đến: “Muốn có công lý thì phải đến kêu cửa Ông Trùm Corleone". *** Tại Los Angeles, một mình giữa căn phòng Deluxe sang trọng choáng người trong khách sạn, Johnny Fontane cũng mượn rượu giải sầu như bất kỳ một anh chàng mọc sừng nào. Hắn nằm duỗi dài trên chiếc đivăng đỏ, cầm nguyên cả chai mà tu rồi úp mặt vào cái thố pha lê đựng đá liếm nước lạnh cho thông họng. Lúc đó là bốn giờ sáng, trí tưởng tượng mờ mịt hơi men của hắn đang hình dung cảnh hắn tẩn con vợ đĩ thõa lúc con kia về, nếu như nó còn về. Muộn rồi chứ không thì phôn một cú đến cô vợ cũ hỏi thăm mấy đứa con cho đỡ sầu. Không hiểu sao hắn không muốn gọi tới mấy đứa bạn, nhất là từ dạo công việc của hắn bắt đầu xuống dốc. Có thời được hắn gọi điện vào lúc bốn giờ sáng là bọn kia sướng lắm. Giờ thì chẳng ma nào thèm biết hắn. Mà kể cũng lạ, lúc hắn đang lên, hễ mới hơi khó ở một chút là các minh tinh sáng giá nhất nước Mĩ đã tới tấp hỏi thăm ngay. Hay thật! Hắn lại đưa chai rượu lên mồm, và rốt cuộc cũng nghe thấy tiếng chìa khoá xoay ngoài cửa. Johnny cứ ngậm nguyên chai rượu cho tới khi vợ hắn vào phòng và dừng lại trước mặt hắn: Xinh đẹp, con mắt tim tím mơ mộng lả lơi, gương mặt thần tiên, thân hình thon thả, óng chuốt. Cả triệu đàn ông khắp thế giới mê mệt Margot Ashton, chịu xì tiền ra để được ngắm ả trên màn bạc. — Phất phơ đâu về? - Johnny lè nhè hỏi. — À, đi ngủ với trai, - Ả đáp. Ả tính hơi nhầm, hắn chưa phải đã say khướt. Hắn nhảy chồm qua cái bàn con để báo, túm ngay lấy cổ áo dài của ả. Nhưng vừa kéo khuôn mặt thần tiên kia đến gần thì bao nhiêu tức giận của hắn trôi tuột đi đâu mất, người hắn nhũn ra. Cô ả tớn môi chế nhạo và lại một lần nữa tính nhầm, Johnny vung nắm đấm lên. — Cấm đánh vào mặt đấy nhé! - Ả hét thất thanh, - Người ta đang đóng phim đấy, Johnny! Cú đấm trúng ngay ức làm ả ngã chỏng gọng. Hắn đè lên, đấm như bổ củi xuống vai, xuống hông, xuống cặp đùi mịn màng rám nắng. Hắn quần ả như ngày nhỏ vẫn nện bọn nhãi ranh thò lò mũi ở “Rốn Hỏa Ngục", tức là Khu Ổ Chuột của New York. Đòn của hắn ngấm đáo để tuy không gây thương tích như gẫy răng, vỡ mũi. Mà nói vậy chứ hắn còn nương tay. Hắn không thể làm khác được. Thế là ả lại cười vào mũi hắn. Ả xoạc cẳng nằm tô hô, lớp váy lụa thêu bên trong lộ ra, tru tréo: — Đây này, đánh nữa đi, đánh đi... ăn thua mẹ gì! Johnny chán ngán bò dậy. Tức anh ách mà không đánh được con đĩ, nó đẹp quá. Margot lật sấp người, nhẹ nhàng nhún mình bật dậy rồi vừa õng ẹo vừa nhè mồm ra trêu như một con bé con: — Ê, ê... đếch đau. Ê, ê... đếch đau. Rồi nghiêm mặt, ánh mắt lộ rõ vẻ ngán ngẩm, ả nói thêm: — Chán mớ đời, mày đè đau cả bụng chị đây này, bé con ạ. Chà! Johnny, mày suốt đời vẫn chỉ là con nghé con, đến cả làm tình cũng chẳng bằng đứa trẻ ranh. Mày tưởng như trong các bài mày vẫn rống ông ổng dạo trước đấy hả? - Ả lắc đầu. - Gà tồ? Thôi, khỏe nhé, Johnny. Ả vào phòng ngủ và khóa trái cửa lại. Johnny ngồi bệt xuống sàn, tay bụm mặt. Uất ức, nhục nhã, thất vọng ê chề. Nhưng vốn là đứa trẻ lang thang trong Khu Ổ Chuột New York, cuộc đời chìm nổi ngày xưa đã giúp hắn sống sót trong miền rừng hoang Hollywood, bây giờ lại thức tỉnh hắn cầm máy gọi taxi ra sân bay. Còn một người có thể cứu hắn. Miễn là về được New York gặp người ấy, kẻ duy nhất giúp hắn tìm được sức mạnh và sự khôn ngoan mà lúc này hắn đang thiếu, một người thực sự yêu thương hắn. Đó là Bố Già của hắn, Ông Trùm Corleone. *** Bác thợ bánh Nazorine hồng hào tròn xoay như những chiếc bánh kiểu Italia nở phồng của bác. Người vẫn dính đầy bột mì, bác lừ mắt nhìn bà vợ và cô con gái đến tuổi cập kê rồi quay sang gã giúp việc Enzo, đã kịp đóng bộ quần áo đính băng vải có hai chữ “Tù Binh" viết tắt màu xanh, đang lo ngay ngáy sợ muộn giờ điểm danh tối ở trại trên Đảo Thống Đốc. Giống như hàng ngàn tù binh Italia hàng ngày đến làm cho các chủ Mĩ sau khi đã cam đoan, Enzo sống nơm nớp, chỉ sợ mất cái đặc ân ấy thì meo. Vì thế nên cái màn hài kịch đang diễn ra ở đây đối với anh quá ư là nghiêm trọng. — Chú định để tai tiếng cho gia đình tôi đấy phỏng? - Nazorine gầm gừ. - Chiến tranh sắp hết, chú định tương cho con bé nhà tôi một món quà kỉ niệm chứ gì? Rồi sau thế nào thì ai còn lạ gì nữa: Nước Mĩ thúc cho chú một gối vào đít là chú mình phới luôn về Sicily đếm rệp ở quê nhà hả? Enzo, người lùn tịt, chân cẳng ngắn ngủn, vội ấp tay lên ngực như muốn khóc, tuy vậy vẫn tỉnh lắm: — Padrone, thề có Đức Mẹ Đồng Trinh, nào cháu có dám lấy oán trả ân bác đâu. Cháu yêu thương con gái bác thực bụng, đời nào lại dám sàm sỡ. Tiện đây, xin bác cho cháu lấy cô ấy. Cháu thực không nên không phải, song nếu người ta trả cháu về Italia thì bao giờ cháu mới sang Mĩ được? Nếu vậy ngày nào cháu với Katherine mới nên vợ nên chồng? Bà Filomena vợ bác không thích dông dài, nói toang toác luôn: — Đừng có mà ngốc thế, bố nó - Bác ta bảo ông chồng - Làm thế nào thì bố mày biết rồi đấy. Thằng Enzo cứ để nó ở đây, có gì bố mày đưa nó sang chỗ bà con mình bên Long Island gửi gắm ít lâu xem sao đã. Katherine khóc lên khóc xuống. Người đã béo trục béo tròn, mép lại lấm tấm tí ria, nó có đẹp đẽ gì cho cam. Biết tìm đâu một tấm chồng điển trai bằng Enzo bây giờ. Lấy ai mà xoa bộ ngực tú ụ của nó cho nồng nàn và mơn trớn như chàng? — Tôi về Italia tôi ở cho bố trắng mắt ra! - Nó giãy nẩy lên với ông bố.- Bố mà không giữ anh ấy lại thì tôi bỏ bố tôi đi? Hư... hư... Nazorine tinh quái nhìn nó. Con bé nhà mình gớm thật! Bác đã trông thấy: Hễ mỗi lần thằng bé phải lách qua sau lưng nó để xếp bánh vào giỏ là y như rằng con ranh lại miết bàn tọa vào người thằng kia sát sạt. “Cứ cái đà này không khéo thằng lỏi còn lách vào tận đâu ấy chứ - Nazorine thầm cho phép mình nghĩ bậy. - Phải giữ thằng Enzo lại Mĩ, phải xoay cho nó cái quốc tịch. Và chỉ có một người làm nổi việc ấy: Bố Già. Ông Trùm Corleone". Mời các bạn đón đọc Bố Già của tác giả Mario Puzo & Đoàn Tử Huyến (dịch) & Trịnh Huy Ninh (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Hãy Chăm Sóc Mẹ - Shin Kyung-Sook
Sẽ không bất ngờ nếu bạn đã đọc xong rồi nhưng vẫn bị ám ảnh bởi hình ảnh người mẹ đi lạc, chân đi dép lê màu xanh, ngón chân bị toạc ra đến nỗi “ruồi bu quanh”. Nhẹ nhàng, lắng đọng và buồn đến nao lòng – cuốn tiểu thuyết Hãy chăm sóc mẹ của Shin Kyung-sook là câu chuyện về một người mẹ giản dị, mộc mạc với đức hy sinh lớn lao và tình yêu thương vô bờ bến dành cho gia đình. Với những ai chưa đọc Hãy chăm sóc mẹ của Shin Kyung-sook, thì khi nghĩ về nó, hãy tạm quên đi tất cả những số liệu về doanh số cũng như những danh hiệu vẻ vang mà nó mang về cho nền văn học Hàn Quốc lúc bấy giờ. Đứng trên cương vị một người đam mê đọc sách và đam mê những vẻ đẹp cao thượng mà một cuốn sách có thể mang lại, nên chỉ nghĩ đến Hãy chăm sóc mẹ như một cuốn sách của tâm hồn, cuốn sách ấm áp và lấp lánh những giá trị thuần Á Châu của tình mẫu tử, tình thương và sự cao cả của hình ảnh người mẹ - hình ảnh chân phương và đáng ngưỡng mộ nhất. Kể cả khi cuốn sách đã gấp lại, bạn cũng sẽ nhận được một âm hưởng của thứ cảm xúc để lại dư vị xúc động mãi không nguôi… Có thể nói, Hãy chăm sóc mẹ là tiếng nói thức tỉnh của tác giả dành cho tất cả mọi người. Đó là sự thức tỉnh ấm áp, sự thức tỉnh mang cả nước mắt và nỗi đớn đau, ngấm lâu và ngấm sâu vào tận trong tiềm thức. Cuốn sách đã trở thành một hiện tượng văn chương Hàn Quốc vào năm 2009, được dịch và xuất bản sang 19 nước khác ngay sau khi phát hành. *** Những lời khen tặng dành cho cuốn sách: “Cuốn sách của tác giả nổi tiếng nhất Hàn Quốc này có thể làm mọi độc giả phải rơi nước mắt” - Library Journal. “Cảm động và ám ảnh”  - Newsday. “Phần là câu chuyện về sự chuyển dịch của xã hội Hàn Quốc từ nông thôn ra thành thị, phần là khúc ca về sức mạnh của mối ràng buộc gia đình được hình thành từ sự quên mình của người phụ nữ; đây là một tác phẩm vô cùng cảm động” - Kirkus Reviews. “Nao lòng… Thấm thía… Người đọc sẽ tìm thấy sự đồng cảm trong câu chuyện về gia đình bán chạy nhất Hàn Quốc từ trước tới nay này” - Publishers Weekly. *** Shin Kyung-sook sinh năm 1963 trong một gia đình nghèo sống tại một ngôi làng nhỏ ở miền Nam Hàn Quốc. Không có điều kiện vào trường trung học, mười sáu tuổi cô lên Seoul lao động kiếm sống. Shin Kyung-sook khởi nghiệp viết văn năm 1985 và sớm gặt hái thành công. Các tác phẩm của cô luôn có lượng độc giả lớn và nhận được nhiều giải thưởng văn học trong nước cũng như trong khu vực. Với Hãy chăm sóc mẹ Shin Kyung-sook trở thành nhà văn châu Á nổi bật nhất năm 2009. Tác phẩm: Chuyện kể trăng nghe Cô gái viết nỗi cô đơn Hãy chăm sóc mẹ *** Mẹ bị lạc đã một tuần. Cả gia đình cô tập trung ở nhà anh cả Hyong-chol. Sau khi cân nhắc kỹ lưỡng, mọi người quyết định soạn tờ rơi để đi phát ở nơi có người nhìn thấy mẹ lần cuối cùng. Việc đầu tiên là thảo tờ rơi. Tờ rơi là giải pháp quen thuộc trong trường hợp này. Gia đình có người lạc vốn chẳng làm được gì nhiều, huống hồ người bị lạc không phải ai khác mà chính là mẹ. Tất cả những gì gia đình cô có thể làm là đăng tin tìm người thân bị lạc, chia nhau đi tìm kiếm khắp nơi, dò hỏi khách qua đường xem có ai nhìn thấy người nào giống mẹ không. Cậu em cô đang kinh doanh quần áo qua mạng đã đăng tin mẹ mất tích, miêu tả địa điểm, tải ảnh của mẹ lên mạng, đề nghị nếu ai thấy người nào giống như vậy thì xin hãy báo cho gia đình. Cô muốn tìm đến những nơi mẹ có thể đã đến, nhưng cô biết rằng mẹ không thể tự đi tới bất cứ nơi nào trong thành phố này. Anh Hyong-chol bảo cô soạn nội dung tờ rơi bởi cô sống bằng nghề viết lách. Cô đỏ dừ mặt như thể vừa bị phát hiện làm một việc xấu xa nào đó. Cô không chắc những gì mình viết liệu sẽ có ích trong việc tìm mẹ hay không. Khi cô viết ngày sinh của mẹ là ngày 24 tháng 7 năm 1938, bố cô nói rằng mẹ sinh năm 1936. Mặc dù trên giấy tờ đều ghi năm 1938 nhưng thực tế mẹ sinh năm 1936. Lần đầu tiên cô được nghe tới điều này. Bố cô bảo ngày xưa tất cả mọi người đều làm như thế. Có rất nhiều đứa trẻ sinh ra chưa đầy trăm ngày đã chết, vì vậy người ta thường nuôi con được vài ba tuổi rồi mới làm giấy khai sinh. Cô sửa số 38 thành 36, nhưng anh cả bảo phải viết năm sinh của mẹ là 1938 theo đúng như trên giấy tờ. Cô thầm nghĩ không biết có cần phải chính xác tới thế không khi đây chỉ là tự soạn tờ rơi chứ không phải khai báo với cơ quan chức năng, nhưng cô vẫn sửa số 36 thành 38, trong lòng tự hỏi không biết đến cả ngày sinh của mẹ cũng có thật là ngày 24 tháng 7 không. ... Mời các bạn đón đọc Hãy Chăm Sóc Mẹ của tác giả Shin Kyung-Sook.
Dưa - Marian Keyes
Claire Webster đã có được một cuộc đời mơ ước: anh xã tên James tuyệt vời, căn hộ London tiện nghi tuyệt vời, và một công việc hấp dẫn tuyệt vời. Nhưng chỉ vài giờ sau khi cô sinh đứa con đầu lòng, giấc mơ đã tan vỡ khi anh xã tuyệt vời bước tới tuyên bố cần phải bỏ rơi cô vì một phụ nữ khác già hơn. Với đứa con còn chưa biết đặt tên là gì, trái tim tan nát và một tủ quần áo chật hơn hai cỡ, trông Claire như một trái dưa tròn xoe xanh lét với lòng tự tin tụt xuống tận gót chân. Không nơi bấu víu, cô quyết định chạy khỏi London về với gia đình thân yêu ở Dublin. Tại đó, được bao bọc trong tình yêu của gia đình tuy kỳ quặc nhưng đầy che chở, chỉ số tinh thần của Claire lại dần nhích lên. Cũng tại đó, một anh chàng kém tuổi quá đẹp trai đã xuất hiện, theo đuổi cô với một động cơ đáng ngờ. Và cũng tại đó, anh xã tuyệt vời lại xuất hiện. Cùng một đề nghị có-vẻ-tuyệt-vời: Về với anh! Vấn đề là mọi chuyện không hề kết thúc tại đó… *** Marian Keyes, Sinh năm 1963 tại Dublin, sau khi tốt nghiệp trường Luật, bà tới London làm phục vụ bàn, sau đó làm nhân viên tại một văn phòng kế toán. Suốt những năm tháng tuổi 20, bà từng gặp nhiều vấn đề về tâm lý, từng nghiện rượu và có ý định tự sát. Sau đợt điều trị tâm lý, từ năm 1993, Marian Keyes bắt đầu viết văn và ngay lập tức trở thành một hiện tượng xuất bản và được gọi là nữ hoàng của dòng tiểu thuyết lãng mạn. Các tác phẩm của bà - thường kể về những người phụ nữ mạnh mẽ, phải vượt qua rất nhiều trở ngại để vươn tới hạnh phúc đích thực - đã bán được hơn 5 triệu bản ở 35 nước trên thế giới.  Về cây bút này, Independent on Sunday bình luận: “Marian Keys mang lại thanh danh tốt cho tiểu thuyết đại chúng, một chiến công không dễ gì đạt được trong một lĩnh vực đầy rẫy những kẻ đạo văn và bất tài được trả quá nhiều tiền so với những gì họ bỏ ra.” *** Vào trong nhà Kate vui hơn rất nhiều. Cười nắc nẻ, bi bô luôn miệng, bàn chân ngúc ngoắc liên tục lúc tôi đặt bé vào cũi. Tôi nắm bàn chân tí xíu còn ấm nóng của bé, quay quay cẳng chân, con bé khoái chí. Ừ thì tôi hy vọng con bé khoái chí vì tôi rất thích làm thế. Tôi bỗng nghe có tiếng gõ cửa. Gì thế nhỉ? Ở nhà này có ai gõ cửa phòng ai bao giờ đâu. Cửa mở. Cái dáng cao lớn của Adam choán hết khung cửa. Mọi thứ bỗng thành ra tí hon, như một ngôi nhà búp bê vậy. Ôi Chúa ơi, tôi hoảng hốt, bỏ bê cả hai chân bé tí của Kate. Cậu ta muốn gì đây? Chắc cậu không tin vào mắt mình là cái quần soóc của tôi trông bê bối đến vậy nên đến nhìn lại cho rõ. - Claire, - cậu dè dặt. - Tôi có thể nói chuyện với chị một chút không? Cậu vẫn đứng yên. To lớn, đẹp quyến rũ, và khuôn mặt điển trai của cậu đầy vẻ lo lắng, chờ đợi. Tôi nhìn cậu. Một cái gì đó đang xáo động bên trong tôi (Không! không phải thứ ấy!). Một cái gì đó tuyệt diệu. ... Mời các bạn đón đọc Dưa của tác giả Marian Keyes.
Cá Thu - Gong Ji Young
Câu chuyện bắt đầu từ Myeong Woo và Eun Rim rủ nhau đi trốn, thật xa khỏi những người quen biết, xa khỏi phong trào sinh viên, và quan trọng nhất, là xa khỏi chồng của Eun Rim.   Nhưng rồi, đến phút cuối, Myeong Woo lại bỏ cuộc. Anh cũng bỏ lại Eun Rim trơ trọi trên con phố đầy gió heo may, một mình đối diện với tất cả những chỉ trích của mọi người. Những tưởng mối tình giữa hai người sẽ đặt dấu chấm hết ở đó, như vô vàn dang dở trong thời đại ấy. Nào ngờ bảy năm sau, dĩ vãng một lần nữa được khơi lại...   Cá Thu khắc họa lại những nỗi đau và mộng tưởng của cả một thế hệ sinh ra vào thập niên 60, trưởng thành trong thập niên 80 của thế kỷ XX đầy biến động. Và khi thời đại đó qua đi, những con người ấy trở nên lạc lõng, không ngừng trăn trở kiếm tìm bản ngã, trong một xã hội giờ đây đã không còn cần đến nhiệt huyết và hy sinh.  *** Gong Ji Young bắt đầu hoạt động sáng tác từ năm 1988 sau khi cho xuất bản tập truyện ngắn mang tên Bình minh đang hé trên tạp chí Sáng tác và phê bình số mùa thu. Các tác phẩm chính Tiểu thuyết: Không có sự lang thang nào tươi đẹp hơn; Và, sự khởi đầu tốt đẹp của họ; Đi một mình như sừng tê giác; Cá thu; Cô gái hiền lành; Chị Bong Soon. Tập truyện ngắn: Lễ nghĩa về con người; Sự tổn tại rơi nước mắt; Cánh đồng của những vì sao. Các tập tản văn: Linh hồn không có vết thương; Hành trình cầu nguyện của Gong Ji-Young. Các giải thưởng Giải thưởng Văn học thế kỷ 21. Giải thưởng Văn học của Hiệp hội tiểu thuyết gia Hàn Quốc. *** Nghĩ đi nghĩ lại thì tôi cũng chẳng thể nhớ rõ trong suốt những năm qua tôi đã mải miết với cuộc đời này ra sao. Lúc nào cũng có gì đó bất an như ngồi trên đống lửa, và đọng lại sau đó chỉ là những ký ức đơn côi của riêng mình… Khoảng mùa hè năm ngoái, có một thời gian ngắn tôi tham gia thuyết giảng trong chương trình đào tạo sinh viên với chủ đề “Thêm một văn hóa khác” do Viện hàm lâm Cơ Đốc đồng tổ chức. Có lẽ những ấn tượng mạnh mẽ tôi nhận được trong quãng thời gian đó đã khởi đầu cho cuổn tiểu thuyết này. Tồi thấy những con người trẻ tuổi của thập niên chín mươi hiện nay, đúng như cái tuổi đôi mươi của họ, thật xinh đẹp và khỏe mạnh hơn tôi tưởng. Ý nghĩ này khiến tôi thấy vui, nhưng sau đó dường như trong tôi lại có chút gì tiếc nuối, trống trải đến lạ kỳ… Ngắm nhìn những người trẻ tuổi hôm nay mà nghĩ về chuyện xưa thì hẳn là tôi cũng đã có tuổi rồi, ý nghĩ đó khiến tôi cười một mình và đồng thời cũng khiến cảm xúc trong tôi lại trào dâng mãnh liệt. Quyết tâm viết nên cuốn tiểu thuyết này có lẽ cũng bắt đầu hình thành từ khi đó. Nhưng nói vậy không có nghĩa là tôi đã bắt tay ngay vào viết. Tôi không thể chỉ rõ theo thứ tự thời gian cái gì diễn ra trước, cái gì diễn ra sau nhưng vào mùa hè năm ngoái tôi đã đến viếng lễ tang một người đàn anh chết trẻ. Khoảng bảy năm trước thì phải, trong số những đàn anh đàn em thường hay đến nhà tôi thì anh ấy là người khi đến sẽ luôn mang theo bên mình một chai rượu, và đến sáng hôm sau thức dậy luôn gấp chăn gọn gàng, ngồi thật nghiêm chỉnh… Tôi cùng anh ấy đã vài lần chứng kiến sự ra đi của một số người trẻ tuổi, nhưng giờ đây chỉ còn mình tôi. Đến khi đó dường như tôi nhận ra, ngay ở giữa thập niên chín mươi này người trẻ tuổi cũng có thể bất ngờ ra đi như thế. Tôi nhận ra rằng họ có thể phải rời bỏ thế gian này, nơi họ vẫn còn nhiều việc phải làm, nhiều việc muốn làm, vẫn còn thật nhiều người để họ yêu thương, vì những tai nạn bất thường rất điển hình của thời đại. Ở một góc nào đó của những lễ tang này, tôi không còn cách nào khác vẫn cứ phải đối mặt với thời xa xưa của chính mình. Những khách khứa, đeo cà vạt, mặc đồ Tây, đến nói với tôi, mong rằng tôi sẽ viết tiểu thuyết về người đã mất, hoặc không thì người đó khi còn trẻ, hoặc không nữa thì là về một người khác vẫn còn đang ở trong bệnh viện tâm thần, nhưng nói thật tâm can là tôi cũng mệt mỏi lắm. Những năm chín mươi tăm tối khiến tôi giờ đây chỉ muốn được tự do với ký ức của thập niên tám mươi. Khi đó tôi đã mong họ đừng nhờ tôi mà hãy giao cho những nhà văn khác, hay những người có tài viết lách hơn, có nhiệt huyết hơn chẳng hạn. Và tôi cũng đã quên mất. Tôi gặp một người bạn đang chực khóc ở quán rượu, khi cậu ta còn ảo tưởng rằng vẫn còn hy vọng. Lúc đó tôi cũng tự cười mỉa trong lòng, rằng đúng là sai lầm của cả một thế hệ. Tôi cũng cho một đồng nghiệp vay tiền khi anh ta bị đuổi khỏi công ty, bỏ dở con đường đảm bảo tiền tài danh lợi lẫn tương lai của anh ta vì lý do không thể thỏa hiệp với bọn bất nghĩa. Lúc đó tôi thật muốn nói với anh ta là, thôi thì bây giờ cứ thỏa hiệp đi vậy. Nói thật, tôi là người dường như rất dễ quên tất cả mọi thứ. ... Mời các bạn đón đọc Cá Thu của tác giả Gong Ji Young.
The Tears Of Love - Barbara Cartland
Cha cô qua đời trên đường về Anh quốc, sự nghiệp của ông dang dở, danh tính của ông bị ô nhục bởi sự cáo buộc mang tội phản quốc. Giờ đây Canuela Arlington và mẹ cô bơ vơ ở London gần như trắng tay. Canuela phải đi tìm việc làm. Biết rằng nhan sắc thanh tú của cô chắc chắn sẽ khơi động những sự theo đuổi phiền toái. Canuela cải trang bằng cách chải tóc sát đầu, đeo đôi kính đen to tướng để che đi đôi mắt đẹp và mặc đồ đen ảm đạm. Khả năng đảm trách công việc xuất sắc của cô mau chóng khiến ông chủ của cô Ramón de Lopez rất thưởng thức. Chàng đẹp trai, thân thế thuộc dòng qúy tộc Argentine, một trong những người giàu có nhất châu Nam Mỹ. Canuela nổi cơn thịnh nộ khi nghe đến tên chàng: Ramón là một người “bạn cũ” của cha cô, một trong những người đã bỏ rơi ông trong cơn khủng hoảng. Canuela nhất định trả lại cho chàng về tội bất trung, nhưng lại không dễ để tiêu diệt chàng. Không những chàng quyến rũ đến điên người mà còn... *** Barbara Cartland tên đầy đủ là Maria Barbara Cartland Hamilton sinh ngày 9/7/1901 là một nhà văn người Anh. Bà được coi là một trong những cây bút sáng tác mạnh mẽ nhất của thế kỷ 20 và luôn có tên trong sách kỷ lục Guinness như một trong những nhà văn xuất bản nhiều tác phẩm nhất trong một năm. Sự nổi tiếng của bà gắn liền với những cuốn tiểu thuyết lãng mạn hư cấu dưới bút danh Barbara Cartland, ngoài ra bà cũng sáng tác dưới bút danh sau khi đã lập gia đình là Barbara McCorquodale. Ước tính lượng sách bán được lên đến hơn một tỷ bản đã khiến bà trở thành một trong những biểu tượng xã hội của thành phố London cũng như một trong những nhân vật được giới truyền thông Anh săn đón nhiều nhất. Điểm đặc trưng nhất trong phong cách của Barbara Cartland là đoạn kết với tuyên ngôn tình yêu sẽ chinh phục mọi thử thách. "Những nhân vật nữ chính luôn là chìa khóa trong mọi tình huống. Họ là những phụ nữ độc lập, thông minh và tự tin vào bản thân. Barbara Cartland đã tạo ra sức hấp dẫn cho những câu chuyện bà kể bằng công thức vô cùng đơn giản: Luôn là một kết thúc có hậu nhưng trong suốt chiều dài câu chuyện người đọc lại luôn bị thu hút bởi ý nghĩ liệu nút thắt có bao giờ được cởi bỏ thành công" – Miller nói. Trong suốt sự nghiệp của mình Barbara Cartland đã viết khoảng 723 cuốn sách được dịch sang 38 ngôn ngữ. Quãng thời gian sáng tác dồi dào nhất của bà phải kể đến 650 tiểu thuyết lãng mạn được viết trong 20 năm cuối đời. Ngày 21/5/2000 bà qua đời ở tuổi 98 sau khi hoàn thành cuốn tiểu thuyết cuối cùng chỉ một năm trước đó. *** Ra đến bên ngoài sứ quán Canuela thấy một chiếc Cabriolet tứ mã đang đợi. Đây là kiểu xe đời mới nhất cô chưa từng thấy trong Buenos Aires nhưng cô biết loại xe này được ưa chuộng ở London như là phương tiện đi lại nhanh chóng, lịch lãm. Thân xe rất nhẹ, bánh lớn, chạy rất nhanh nhưng rất đầm qua các con đường lồi lõm. Nhưng dù sao đi nữa cô lấy làm ngạc nhiên thấy Ramón lái bốn ngựa vào trung tâm Buenos Aires. Anh giúp cô leo lên xe, và mã phu đang giữ ngựa cũng nhảy lên phía sau họ. Đi như thế này có nghĩa là người hầu sẽ nghe được họ trò chuyện, tuy vậy cô lại mừng có gia nhân vào lúc đó. Canuela biết thế nào cũng phải giải thích cặn kẽ với anh và Ramón cũng có nhiều chuyện hỏi cô. Nhưng trong lúc này cô quá phấn chấn, vui mừng không thể tả vì danh dự ba cô đã được khôi phục. Tâm trí cô choáng ngợp không nghĩ nổi đến chuyện nào khác ngoài bóng đen ảm đạm che phủ mẹ con cô đã bị xua đi tan tác. Giờ thì không cần phải lẩn tránh, không cần mai danh ẩn tánh, và cô hãnh diện trở về thân phận của chính mình! Ramón de Lopez cho ngựa chạy tương đối chậm qua dòng xe cộ như mắc cửi, nhưng tài nghệ của anh không chê vào đâu được. Rồi Canuela lấy làm ngạc nhiên khi họ không rẽ vào quảng trường St. Martin nhưng xuôi xuống con đường dài dẫn ra ngoại thành. Cô nhìn anh dò hỏi, tuy nhiên cảm thấy hơi sợ trước nét mặt dường như khá nghiêm nghị của anh. Cô thầm nghĩ có lẽ anh đang giận cô, nhưng cô lại tự hỏi mình thế thì có vấn đề gì. Bây giờ anh đã biết cô là ai, họ có thể mặt đối mặt bình đẳng và cô không cần phải e dè xem chừng tâm trạng anh ra sao hay bực bội với cô như thế nào. ... Mời các bạn đón đọc The Tears Of Love của tác giả Barbara Cartland.