Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Mày Không Đi Anh Vác Mày Đi

Một câu chuyện tình yêu của một cặp thanh mai trúc mã. Liệu rằng sau tất cả họ có thể đến được với nhau? Mời các bạn đón đọc và theo dõi truyện nhé. *** Trên đời này có nhiều điều thật lạ, lạ lắm... Rõ ràng sinh ra tôi với thân phận là một đứa con gái, chẳng hiểu sao lại toàn bị hiểu nhầm là con trai. Thậm chí, có lần một chú ở xa về vô nhà tôi chơi, chú ấy nhìn thấy tôi liền hỏi bố tôi rằng: "Nhà anh đẻ được thằng cu này lúc nào thế?" Tôi năm nay đã học lớp hai rồi, cũng biết suy nghĩ chứ bộ, cho nên cũng cảm thấy hơi ức chế một chút. Nhưng cũng không thể trách chú ấy được, tại vì tôi toàn mặc đồ con trai, để tóc con trai, lại vừa đen vừa xấu. Đối diện nhà tôi có một căn nhà khá là to và khang trang. Trong nhà đấy có hai anh em một trai một gái. Tôi cũng chẳng biết tên thật của họ là gì, chỉ nghe mọi người gọi là Tí với Tũn. Anh Tí bằng tuổi tôi, còn Tũn thì nhỏ hơn tôi bốn tuổi. Sở dĩ tôi gọi anh Tí là anh trong khi anh ấy bằng tuổi tôi là vì có một hôm, tôi đang cùng anh ấy ngồi xem phim, đột nhiên anh Tí quay sang nói với tôi rằng: "Từ giờ mày phải gọi anh là anh." Miệng đang nhồm nhoàm nhai bim bim, nghe anh Tí nói thế tôi vô cùng ngạc nhiên, quay sang tròn mắt nhìn anh ấy. Hình như có gì đó sai sai? "Cô giáo nói bạn học bằng lớp thì gọi bạn hoặc tên thôi." Nghe tôi nói xong, anh Tí ngoắc tay ra hiệu cho tôi đi lại gần bảo: "Mày đi lại đây!" sau đó đứng thẳng dậy cạnh bên tôi, đưa tay so đầu tôi ngang qua người anh ấy. "Thấy gì chưa? Anh cao hơn mày cả một cái đầu. Mày lùn hơn anh nên nhỏ hơn. Người cao đương nhiên lúc nào cũng là người lớn hơn, mày phải gọi bằng anh." Tôi khẽ lúc lắc cái đầu suy nghĩ, thấy anh ấy nói vậy có vẻ cũng đúng nên tin luôn. Tôi đi học bằng phương tiện xe hai cẳng. Bình thường tôi hay đi một mình, và hôm nay cũng bình thường như bao ngày bình thường khác, tôi lại đi về một mình. Vừa về đến ngõ nhà ông Trường trong xóm thì gặp một con chó rõ to, nó cứ gầm gừ, nhỏ dãi nhìn tôi thèm thuồng làm tôi sợ chết đứng một chỗ không dám nhúc nhích, nhắm tịt mắt chờ chết. Không phải tôi sợ đâu nhá, tại vì con chó đó nó to hơn tôi thôi chứ nó mà nhỏ hơn tôi là nó xác định với tôi rồi. Lúc sau chỉ nghe ẳng một cái, kèm theo một giọng nói vang lên: "Cái con Ba Gang này, có con chó cũng sợ. Đi về!" Ba Gang là biệt danh anh Tí đặt cho tôi. Tại anh ấy bảo đưa tay lên đo người tôi vừa được ba gang. Lúc đó tôi vô cùng ngưỡng mộ anh ấy luôn. Khoảnh khắc trông thấy anh ấy, tim tôi đã bị lệch đi mấy nhịp, cũng may là chưa ngừng thở nếu không đã lăn ra đó mà chết rồi. Anh Tí đẹp trai lắm, đẹp chết người luôn. Tôi cứ đứng ngẩn tò te ra đó, tròn mắt mà chăm chú nhìn ngắm anh ấy. Tới khi bị anh ấy bước đến cốc cho một phát vào trán mới giật mình, nhăn nhó vì đau. Anh Tí xoay người đi trước, tôi lẽo đẽo theo sau về đến tận nhà. Lúc định đi vào thì đột nhiên anh ấy gọi lại bảo: "Từ mai đi học mày chờ anh đi, lúc về chờ anh về." Tôi hơi ngạc nhiên, lúc trước tôi xin đi chung với anh ấy thì anh ấy không cho, bảo đi chung với tôi bị mất màu. Tôi còn nhỏ nên cũng chẳng hiểu mất màu là cái gì. Anh ấy không chịu tôi cũng chẳng thèm xin nữa. Thế là ngày nào tôi cũng đi học một mình. Đôi khi tôi thấy anh ấy đi ngay đằng sau cách một đoạn khá xa. Những lúc ấy tôi rất muốn đi chậm lại để chờ, nhưng sợ anh ấy bị mất màu nên thôi. Vậy mà hôm nay lại kêu từ giờ chờ anh ấy đi chung, anh ấy không sợ bị mất màu nữa sao? "Sao lại phải chờ anh ạ? Thôi, em sợ anh bị mất màu." Anh ấy nhìn tôi khinh khỉnh đáp lại: "Tại mày xấu quá, con chó nó tưởng mày giống củ khoai nên sẽ nuốt mày vào bụng đấy. Đi với anh nó thấy anh đẹp trai nó sợ nên sẽ tự động bỏ chạy thôi." Trông cái bộ mặt của anh ấy cứ vênh váo lên như thế thực sự rất đáng ghét. Nhưng biết sao giờ, tôi lại sợ con chó nhà ông Trường hơn nên gật đầu cái rụp. Vậy là ngày nào tôi và anh Tí cũng đi học chung với nhau. Mà có cái anh Tí thuộc thể loại mà bọn con gái bây giờ hay gọi là "soái ca lạnh lùng" ấy, cho nên anh ấy vô cùng kiệm lời. Có khi suốt quãng đường đi đi về về cũng chẳng ho he nửa lời. Chẳng biết ai thích thú cái bộ mặt đưa đám ấy chứ riêng tôi, tôi không ưa chút nào. Nhìn chỉ muốn đấm một phát cho xịt máu. Trong xóm tôi có một cái chị lớn tuổi rồi. Nghe mọi người bảo chị ấy bị bệnh Đao hay Tớc Nơ gì đấy nên trông sợ lắm. Mỗi lần đi ngang chỗ chị đấy hay đứng để về là tôi sợ thót tim. Vậy mà anh Tí không sợ chút nào, còn rủ tôi chọc phá chị ấy nữa. Con chuột nhắt như tôi thì làm gì có lá gan mà đi chọc, nhìn thôi đã muốn tè ra quần. Tôi liền lắc đầu từ chối. Nhưng mà anh Tí, anh ấy dám lôi con chó ra để uy hiếp tôi, nói tôi mà không đồng ý thì sau này sẽ bỏ mặc tôi cho con chó đấy nuốt luôn. Tôi biết tôi xấu, và tôi sợ con chó nó tưởng tôi là củ khoai nên sẽ nuốt tôi vào bụng mất. Vậy là tôi bất đắc dĩ phải gật đầu. Buổi tan học hôm sau đó, anh ấy đứng chờ tôi ngay cửa lớp. Tôi vừa lú đầu ra là bị anh ấy tóm đi luôn. "Anh ơi, hay thôi đi em sợ lắm!" "Đúng là cái đồ chết nhát!" "Nhưng em... " "Không nhưng nhị gì hết. Mày không đi, lát anh ném mày cho con đấy bắt đi luôn." Mặt tôi méo xệch, đứng sau lưng anh Tí mà tay chân run lẩy bẩy. Anh ấy quay ngoắt sang nhìn tôi khinh thường: "Mày sợ cái gì? Có anh ở đây còn sợ. Cứ đi theo anh." Quả thật là lời nói của anh lúc đấy vô cùng có trọng lượng. Tôi mặc dù sợ thật nhưng đi thì vẫn đi. Kẻ địch đã xuất hiện ngay trước mắt. Không phải tôi có ý chê bai mấy người bị bệnh ấy đâu, nhưng thực sự là trông họ tởm lắm. Răng chị đấy đen sì, hô ra ngoài cả một khúc dài, còn ghê hơn cả Tô răng hô trong phim Hoàng Phi Hồng luôn. Ai xem phim này rồi sẽ biết độ hô răng của anh ấy. Miệng chị ấy thì ôi thôi, nước dãi nó cứ lũ lượt tuôn xuống trông buồn nôn luôn. Móng tay chị ấy dài ngoằng, đen thùi lùi như mấy bà yêu tinh trong phim ấy. Trên người thì lấm lấm lem lem nhìn sợ chết được. Vừa mới nhìn thấy, tôi liền chôn chân tại chỗ, mặt mày biến sắc luôn. Anh Tí cầm trên tay mấy cái vỏ kẹo, sau đó nhặt đá dưới chân nhét vào rồi gói lại. Anh ấy dẫn tôi đi lướt qua chị kia rồi kêu tôi đứng yên đấy. Sau đó anh ấy quay lại, đưa mấy cục kẹo giả cho chị đấy. Tay chị đấy vừa cầm kẹo lên đã nghe anh Tí hô to: "Chạy mau!" Tôi nghe thấy tiếng hô vội xoay người chạy bạt mạng. Chị kia hình như biết mình bị lừa nên giơ hai bộ móng vuốt dài ngoằng ra chạy đuổi theo hai người chúng tôi, vừa chạy vừa rên rỉ cái gì đấy nghe mà rợn cả tóc gáy. Tôi chạy trước, vậy mà sau đó anh Tí lại vụt lên chạy qua mặt tôi. Được một đoạn, tôi mệt quá mới đứng lại thở hồng hộc. Trời thì nắng gắt, mồ hôi mồ kê cứ thế tuôn ra như mưa, cổ họng khô đắng. Xoay người lại phía sau, tôi thấy cái chị kia đã chạy tới ngay sau lưng. Tôi vừa mệt vừa sợ, mặt méo xệch, mắt đỏ hoe bắt đầu rỉ nước. "Còn đứng đó làm gì? Chạy mau đi con Ba Gang kia!" Anh Tí ở đằng trước hét lên gọi tôi. Nhưng tôi mệt quá rồi, chân nhấc không nổi nữa. Mà cái chị răng hô đen sì kia sắp chạy tới chỗ tôi, vậy là tôi bắt đầu mếu máo khóc: "Anh ơi cứu em với. Huhu!" Tôi vừa khóc vừa nhìn anh Tí như cầu cứu. Thấy thế, anh ấy liền quay lại, túm cổ tay tôi lôi đi. Tôi bị anh Tí lôi đi, nước mắt giàn dụa, lem nhem hết cả khuôn mặt. Về tới cửa nhà, tôi vẫn còn cảm thấy sợ hãi, lại khóc to hơn. Anh Tí thấy tôi như thế hình như cũng thấy tội tội mới dỗ, đưa tay quẹt nước mắt cho tôi, còn kéo mấy cọng tóc đang bết dính trên mặt của tôi sang một bên, quẹt luôn mấy giọt mồ hôi nhễ nhại trên trán tôi. Anh ấy chép miệng nhìn tôi nói: "Thôi mày nín đi. Đã xấu rồi mà còn khóc lóc trông phát ớn. Nhìn chả khác gì con mụ lúc nãy." Tôi nghe thấy vậy thì càng khóc to hơn. Anh Tí chỉ biết lắc đầu nhìn tôi, sau đó chạy vào nhà. Lát sau đi ra, tôi thấy tay anh ấy cầm một nắm kẹo dẻo. Bóc ra một cục, anh ấy nhét luôn vào miệng tôi. Bị cục kẹo chặn trong miệng, tôi ngưng khóc, bặm môi ngậm cục kẹo một cách ngon lành. "Cho mày hết đấy, đúng là cái đồ hăm ăn. Thôi đi về rửa mặt đi, trông phát ớn lên được." Bị anh Tí chê, mặt tôi lại méo xệch. Cầm mấy cục kẹo trên tay, tôi lủi thủi xoay người bước vào nhà. Mời các bạn đón đọc Mày Không Đi Anh Vác Mày Đi của tác giả Vân Jibi.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tắt Lửa Lòng - Nguyễn Công Hoan
Sách Nói Tắt Lửa Lòng Tắt lửa lòng là một tiểu thuyết tình cảm lãng mạn của nhà văn Nguyễn Công Hoan, giới thiệu lần đầu tiên năm 1933. Tác phẩm này nhanh chóng trở nên phổ biến, và rất nhiều người chuyển thể thành vở kịch, bản nhạc khác nhau. Soạn giả Trần Hữu Trang đã biên kịch lại và chuyển thể lại thành vở cải lương "Lan và Điệp" năm 1936. Và cái tên "Lan và Điệp" trở thành huyền thoại từ đó, thậm chí nó còn nổi tiếng hơn cả tên tác phẩm Tắt lửa lòng. *** Nguyễn Công Hoan quê ở làng Xuân Cầu, tổng Xuân Cầu, huyện Văn Giang, phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên). Ông sinh trong một gia đình quan lại xuất thân Nho học thất thế. Trong gia đình, từ nhỏ Nguyễn Công Hoan đã được nghe và thuộc rất nhiều câu thơ, câu đối và những giai thoại có tính chất trào lộng, châm biếm, đả kích tầng lớp quan lại. Điều đó ảnh hưởng mạnh mẽ đến phong cách văn chương của ông sau này. Ông có ba người em trai đều tham gia hoạt động cách mạng và giữ cương vị quan trọng là Nguyễn Công Miều (Lê Văn Lương) Ủy viên Bộ Chính trị, Nguyễn Công Bồng nguyên Phó Tổng Giám đốc Nha Công an và Nguyễn Công Mỹ nguyên Tổng Giám đốc đầu tiên của Nha bình dân học vụ. Năm 1926, ông tốt nghiệp cao đẳng sư phạm, làm nghề dạy học ở nhiều nơi (như Hải Dương, Lào Cai, Nam Định,…) cho đến khi Cách mạng tháng Tám nổ ra. Nguyễn Công Hoan viết văn từ sớm, tác phẩm đầu tay Kiếp hồng nhan (viết năm 1920, được Tản Đà thư điếm xuất bản năm 1923) là một đóng góp cho nền văn xuôi Việt Nam bằng chữ Quốc ngữ. Sau Cách mạng tháng Tám, ông giữ chức Giám đốc kiểm duyệt báo chí Bắc Bộ, kiêm Giám đốc Sở Tuyên truyền Bắc Bộ. Sau đó ông gia nhập Vệ quốc quân, làm biên tập viên báo Vệ quốc quân, giám đốc trường Văn hóa quân nhân, chủ nhiệm và biên tập tờ Quân nhân học báo. Ông là đảng viên Đảng Lao động Việt Nam từ năm 1948. Năm 1951 ông làm việc ở Trại tu thư của ngành giáo dục, biên soạn sách giáo khoa và sách Sử Việt Nam hiện đại từ Pháp thuộc đến năm 1950 dùng cho lớp 7 hệ 9 năm. Ông cũng viết bài cho báo Giáo dục nhân dân, cơ quan ngôn luận đầu tiên của Bộ Quốc gia giáo dục lúc bấy giờ. Từ sau năm 1954, ông trở lại nghề văn với cương vị Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam (khóa đầu tiên 1957-1958), ủy viên Ban Thường vụ trong Ban Chấp hành Hội nhà văn Việt Nam các khóa sau đó. Ông cũng là ủy viên Ban chấp hành Hội liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam, chủ nhiệm tuần báo Văn (tiền thân của báo Văn nghệ). Nguyễn Công Hoan mất ngày 6 tháng 6 năm 1977 tại Hà Nội. Tên ông được đặt cho một phố ở Hà Nội, đoạn giữa hai phố Ngọc Khánh và Nguyễn Chí Thanh. Nguyễn Công Hoan được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật năm 1996. *** Năm giờ chiều hôm sau ở chợ Gỏi, người ta đã thấy phường kèn trống, bát âm, và phu đòn, sắp sẵn nhà táng lính xa ngồi chờ ở gốc đa để đón đám ma. Cảnh xuân mà ảm đạm. Mặt trời chìm tây, hất cái bóng úa tàn lên những đám mây bạc mờ, lộn ra các mầu óng ánh như khảm. Cây khô chưa nẩy lộc, đứng lom khom bên cạnh đường. Khóm tre kẽo kẹt, làm tơi tả chiếc lá vàng sum soe bay, rồi nằm mắc trên bụi tầm xuân dại. Một chốc, ba chiếc ô tô từ đằng xa phăng phăng chạy lại, bốp còi inh ỏi, đến đầu chợ thì dừng. Tiếng kèn nổi lên, theo gió đưa đi những giọt rền rỉ sầu thảm, khói hương phảng phất bay lên, đám ma thong thả theo lối rẽ vào làng Văn Ngoại, rồi đi quanh rặng tre trên bờ sông. Người đưa đám mỗi lúc một đông. Trông thấy Điệp, Xuân, và một vị sư bác chùa Phương Thành, nghiêm trang đi sát sau cữu, thì ai nấy đều nhớ đến cảnh ngộ Lan mà sụt sùi giọt lệ. Trời về chiều đã tăng cái vẻ sầu thảm, trời về chiều lại bày thêm cảnh đám ma có giọng khóc nỉ non ai oán… Tạo hóa như khéo vẽ nên bức tranh đoạn trường! Trống vẫn thúc, kèn vẫn rên. Hồn và xác Lan trong chiếc nhà táng, nghêng ngang theo sau tiếng bát âm ẻo lả, lượn vùng quanh lũy, qua mấy thửa ruộng trồng má đề thì hạ xuống, cạnh cái gò chính Điệp và Lan đã ngồi nói chuyện hôm mười sáu tháng năm khoảng mười lăm năm trước. Trời thấp dần. Núi non xa dần. Cảnh vật xung quanh đã nhuộm một mầu sẫm, buồn rười rượi như sắp chết. Bức màn sương, trên rủ xuống, xa đưa lại, cũng dần dà trùm khuất mọi nơi, rải rác vẻ u ám thê lương vào buổi chiều hôm hiu hắt. ... Mời các bạn đón đọc Tắt Lửa Lòng của tác giả Nguyễn Công Hoan.
Tấm Lòng Vàng & Ông Chủ - Nguyễn Công Hoan
Cuốn sách “Tấm Lòng Vàng, Ông Chủ” là hai tác phẩm nổi tiếng của Nguyễn Công Hoan được chọn lọc và biên tập một cách rất kỹ lưỡng. *** Nguyễn Công Hoan quê ở làng Xuân Cầu, tổng Xuân Cầu, huyện Văn Giang, phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên). Ông sinh trong một gia đình quan lại xuất thân Nho học thất thế. Trong gia đình, từ nhỏ Nguyễn Công Hoan đã được nghe và thuộc rất nhiều câu thơ, câu đối và những giai thoại có tính chất trào lộng, châm biếm, đả kích tầng lớp quan lại. Điều đó ảnh hưởng mạnh mẽ đến phong cách văn chương của ông sau này. Ông có ba người em trai đều tham gia hoạt động cách mạng và giữ cương vị quan trọng là Nguyễn Công Miều (Lê Văn Lương) Ủy viên Bộ Chính trị, Nguyễn Công Bồng nguyên Phó Tổng Giám đốc Nha Công an và Nguyễn Công Mỹ nguyên Tổng Giám đốc đầu tiên của Nha bình dân học vụ. Năm 1926, ông tốt nghiệp cao đẳng sư phạm, làm nghề dạy học ở nhiều nơi (như Hải Dương, Lào Cai, Nam Định,…) cho đến khi Cách mạng tháng Tám nổ ra. Nguyễn Công Hoan viết văn từ sớm, tác phẩm đầu tay Kiếp hồng nhan (viết năm 1920, được Tản Đà thư điếm xuất bản năm 1923) là một đóng góp cho nền văn xuôi Việt Nam bằng chữ Quốc ngữ. Sau Cách mạng tháng Tám, ông giữ chức Giám đốc kiểm duyệt báo chí Bắc Bộ, kiêm Giám đốc Sở Tuyên truyền Bắc Bộ. Sau đó ông gia nhập Vệ quốc quân, làm biên tập viên báo Vệ quốc quân, giám đốc trường Văn hóa quân nhân, chủ nhiệm và biên tập tờ Quân nhân học báo. Ông là đảng viên Đảng Lao động Việt Nam từ năm 1948. Năm 1951 ông làm việc ở Trại tu thư của ngành giáo dục, biên soạn sách giáo khoa và sách Sử Việt Nam hiện đại từ Pháp thuộc đến năm 1950 dùng cho lớp 7 hệ 9 năm. Ông cũng viết bài cho báo Giáo dục nhân dân, cơ quan ngôn luận đầu tiên của Bộ Quốc gia giáo dục lúc bấy giờ. Từ sau năm 1954, ông trở lại nghề văn với cương vị Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam (khóa đầu tiên 1957-1958), ủy viên Ban Thường vụ trong Ban Chấp hành Hội nhà văn Việt Nam các khóa sau đó. Ông cũng là ủy viên Ban chấp hành Hội liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam, chủ nhiệm tuần báo Văn (tiền thân của báo Văn nghệ). Nguyễn Công Hoan mất ngày 6 tháng 6 năm 1977 tại Hà Nội. Tên ông được đặt cho một phố ở Hà Nội, đoạn giữa hai phố Ngọc Khánh và Nguyễn Chí Thanh. Nguyễn Công Hoan được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật năm 1996. *** Anh Đĩ Nuôi ở chờ ba hôm. Trong ba hôm trời, anh những rầu gan nẫu ruột. Anh giận vợ điêu bạc, oán chủ lật lừa. Anh thấy cái đời của kẻ nghèo khó nó như cái đời bỏ đi vậy. May sao, hôm thứ tư thì bà chủ về. Anh mừng quá. Anh cố tố cáo việc riêng của ông để bà phân xử. Nhưng mãi anh không dám dàn mặt bà vì từ lúc về đến nhà, bà gắt gỏng ầm ĩ, bà hỏi việc này, việc nọ, bà quát tháo với cả mọi người. Thỉnh thoảng bà mắng những câu quái gở: - Tao thì đuổi hết cả chúng bay đi. Đến tận trưa, anh Đĩ Nuôi đắn đo mãi, mới lên nhà trên. Thì lạ quá, bà chủ vừa thấy anh đã giở trận lôi đình. Bà xám mặt lại, nghiến răng, trỏ vào mặt anh mà nói: - À, quân bạc, mày rút ruột tao. Anh Đĩ ngạc nhiên. Run sợ, anh ấp úng đáp: - Bẩm lạy bà, con mới đến đây vài hôm nay. Bà chủ cười gằn: - Lạy bà! Ra chúng bay bạc thật. Tao biết cả. Mày tưởng tao không có mắt hay sao? Nói xong, bà đứng phắt dậy, túm tóc anh, rồi cứ lưng phát mãi. ... Mời các bạn đón đọc Tấm Lòng Vàng & Ông Chủ của tác giả Nguyễn Công Hoan.
Người Tình Của Tiểu Thư Sophia - Lisa Kleypas
Những uẩn khúc quá khứ đã đưa Sophia Sydney, một tiểu thư thất thế, tới làm việc tại văn phòng của Ngài Ross Cannon, một chánh án nổi tiếng sắt đá khắp thành London. Nàng tới cùng đôi mắt xanh thông minh, mái tóc vàng sóng sánh, và một âm mưu được tính toán kỹ lưỡng nhằm dìm danh tiếng của anh xuống bùn nhơ. Có điều nàng đã tính sót vài điều, chẳng hạn như hóa ra Ross Cannon không như nàng tưởng tượng, hóa ra cái động cơ đã đưa nàng tới London lại hoàn toàn sai lầm; hoặc là, chẳng hạn như, hóa ra giữa họ lại thực sự bùng cháy một ngọn lửa đam mê vô phương kiểm soát, khuất phục lòng thù hận mù quáng của nàng và khỏa lấp nỗi cô đơn sâu thẳm trong anh, ngay trước khi mọi sự thật được phơi bày ra ánh sáng. *** Nhận định: "Lisa Kleypas đã lại thêm một người hùng đỉnh cao nữa vào đền thờ những nhân vật tuyệt vời của cô. Và mặc dù vẫn biết Ngài Ross Cannon không hề có thật, tôi vẫn cảm ơn tác giả sâu sắc vì đã để tôi tưởng tượng trong vòng vài tiếng đồng hồ rằng anh có thể đã tồn tại trên đời." - Sandy Coleman, likesbooks.com "Một phần sự quyến rũ của các tác phẩm lãng mạn lịch sử viết bởi Kleypas là ở chỗ chúng không diễn ra trong bối cảnh toàn các cư dân lười nhác của tầng lớp trên. Trái lại, các nhân vật của cô tham gia thế giới thực một cách rất thú vị. [...] Kleypas đã tạo ra một cặp nam nữ chính hấp dẫn, miêu tả chi tiết quá trình phát triển mối quan hệ giữa họ, bao gồm cả một số cảnh nóng bỏng tuyệt vời." - theromancereader.com *** Lisa Kleypas sinh năm 1964, là một trong những tác giả Mỹ nổi tiếng nhất của dòng tiểu thuyết lãng mạn lịch sử và đương đại. Năm 1985, sau khi tốt nghiệp trường Đại học Wellesley với tấm bằng cử nhân khoa học chính trị, Lisa xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tay. Cũng trong khoảng thời gian đó, cô đăng quang danh hiệu Hoa hậu bang Massachusetts và tham gia cuộc thi Hoa hậu Mỹ. Nhìn chung hầu hết tác phẩm của Lisa Kleypas đều có những kết thúc rất hậu, truyện của bà mang phong cách nhẹ nhàng là chính, tuy nhiên bà cũng theo đuổi dòng trinh thám một ít. Bà được xem là một trong những tác giả dòng lãng mạng có những cuốn sách bán chạy nhất, tác phẩm của bà được bán trên toàn thế giới và dịch ra nhiều thứ tiếng khác nhau. Các tác phẩm của cô đã được dịch sang 14 thứ tiếng, nằm trong danh sách bán chạy trên toàn thế giới và đem lại cho cô rất nhiều giải thưởng. Hiện cô đang sống ở Washington cùng chồng và hai con. *** Ross bị bẩn từ đầu đến chân khi anh theo chân Gentry lên được mái nhà tù. Cảm thấy như thể mình sẽ không bao giờ còn sạch sẽ được nữa, anh trèo ra ngoài vùng không khí thoáng đãng, nó ngọt ngào không tả nổi sau thứ mùi hôi thối bên trong. Đi bộ dọc theo rìa mái, anh tìm thấy một bức tường nhà tù nối với toà nhà bên cạnh. Đầu tiên không có dấu hiệu nào của Gentry, nhưng rồi Ross nhìn thấy cái chăn đen phấp phới đu đưa trên thanh xà bằng đá. Anh gầm lên tức tối. Giờ thì không ai biết được hắn đã chạy xa đến đâu rồi. Cúi mình trên bức tường, anh kiểm tra nó bằng chân, phát hiện ra nó yếu như lâu đài cát. Ở vào thời điểm này, lao theo con đường tìm tự do của Gentry đã không còn là sự lựa chọn nữa. Ross sẽ bị nguyền rủa nếu anh cố thử một cú nhảy mà ngay cả những diễn viên xiếc cũng sẽ từ chối. Tuy nhiên, trước khi anh có thể lùi lại anh nghe thấy một người phụ nữ gọi lên từ dưới đất. "Ross?" Trái tim anh ngừng đập khi nhìn thấy hình dáng người vợ bé nhỏ từ chỗ đứng cách nàng bốn tầng lầu. "Sophia," anh rống lên, "nếu đó là em, anh sẽ đánh em một trận bất tỉnh nhân sự." "Gentry đang đợi cùng với em," lại giọng nói của nàng. "Đừng có cố vượt qua bức tường đó!" "Anh cũng không định làm thế," anh đáp lại, vật lộn để kiềm chế cơn giận khi anh nhận ra nàng đã bất tuân lệnh anh để ở lại nơi an toàn. "Ở nguyên đó." ... Mời các bạn đón đọc Người Tình Của Tiểu Thư Sophia của tác giả Lisa Kleypas.
Nợ Nần - Nguyễn Công Hoan
Cuốn sách Nợ Nần là một trong những tác phẩm nổi tiếng của Nguyễn Công Hoan, được chọn lọc và biên tập một cách rất kỹ lưỡng. *** ĐỘC GIẢ thân mến, Nhắc đến NGUYỄN CÔNG HOAN, chắc Quý Vị không còn xa lạ gì nhà văn ấy. Trong thời Tiền chiến, ai mà chẳng dọc qua các quyển: Tắt lửa lòng, Bước đường cùng, Tấm lòng vàng, Cô giáo Minh, Trên đường sự nghiệp, Lệ Dung, Nợ nần, Bơ vơ, v. v... Hơn nữa, một số tác phẩm của ông đã được vài Đoàn Kịch nghệ nổi tiếng thời ấy phóng tác thành tuồng cải lương, lưu diễn từ Nam chí Bắc và được đồng bào các giới tán thưởng nồng nhiệt! Ông sáng tác đủ mọi chiều hướng: Trữ tình, Xã hội, Tranh đấu, Giáo dục,... nhưng có một điểm nổi bật hơn hết là mỗi tác phẩm của ông đều mang một sắc thái đặc biệt..., đánh dấu một bước tiến mới cho bộ môn Tiểu thuyết thời ấy. Nhưng, từ 20 năm qua... những tác phẩm của ông hầu hết đều thất lạc, hay mai một vì nạn Đất Nước qua phân! ... Cho đến bây giờ, một số tác phẩm của ông đã được tuyển chọn làm Tài liệu Tham khảo Văn chương cho Chương trình Đại học Văn khoa. Vì vậy, để giúp cho các sinh viên Đại học có đầy đủ tài liệu tham khảo cũng như sưu tập và bồi dưỡng lại những áng văn hay của nền văn học nước nhà, chúng tôi không ngại, tái bản một số tác phẩm chọn lọc của ông. Ngoài ra, nhắc và nói đến ông, chúng tôi không vì mục đích chính trị hay một tham vọng nào khắc. Ở dây, chúng tôi chỉ nhắc và nói đến ông: con người NGUYỄN CÔNG HOAN của thời xa xưa... Chứ hiện tại, ông là một nhà văn đang phục vụ cho chính quyền Miền Bắc thì, dù muốn dù không, ngòi bút của ông cũng không thể phục vụ thiệt thực và hữu ích cho nền văn học hiện đại. Và, sống dưới chế độ đảng trị, với lối suy tưởng một chiều, chúng ta không tin rằng ông sẽ sáng tác được những tác phẩm mà tương đối, có dược một tầm giá trị sâu rộng, và được quần chúng ưa chuộng như những tác phẩm mà ông đã sáng tác trong thời Tiền chiến. SAIGON, ngày 1 tháng 4 năm 1967 *** Nguyễn Công Hoan quê ở làng Xuân Cầu, tổng Xuân Cầu, huyện Văn Giang, phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên). Ông sinh trong một gia đình quan lại xuất thân Nho học thất thế. Trong gia đình, từ nhỏ Nguyễn Công Hoan đã được nghe và thuộc rất nhiều câu thơ, câu đối và những giai thoại có tính chất trào lộng, châm biếm, đả kích tầng lớp quan lại. Điều đó ảnh hưởng mạnh mẽ đến phong cách văn chương của ông sau này. Ông có ba người em trai đều tham gia hoạt động cách mạng và giữ cương vị quan trọng là Nguyễn Công Miều (Lê Văn Lương) Ủy viên Bộ Chính trị, Nguyễn Công Bồng nguyên Phó Tổng Giám đốc Nha Công an và Nguyễn Công Mỹ nguyên Tổng Giám đốc đầu tiên của Nha bình dân học vụ. Năm 1926, ông tốt nghiệp cao đẳng sư phạm, làm nghề dạy học ở nhiều nơi (như Hải Dương, Lào Cai, Nam Định,…) cho đến khi Cách mạng tháng Tám nổ ra. Nguyễn Công Hoan viết văn từ sớm, tác phẩm đầu tay Kiếp hồng nhan (viết năm 1920, được Tản Đà thư điếm xuất bản năm 1923) là một đóng góp cho nền văn xuôi Việt Nam bằng chữ Quốc ngữ. Sau Cách mạng tháng Tám, ông giữ chức Giám đốc kiểm duyệt báo chí Bắc Bộ, kiêm Giám đốc Sở Tuyên truyền Bắc Bộ. Sau đó ông gia nhập Vệ quốc quân, làm biên tập viên báo Vệ quốc quân, giám đốc trường Văn hóa quân nhân, chủ nhiệm và biên tập tờ Quân nhân học báo. Ông là đảng viên Đảng Lao động Việt Nam từ năm 1948. Năm 1951 ông làm việc ở Trại tu thư của ngành giáo dục, biên soạn sách giáo khoa và sách Sử Việt Nam hiện đại từ Pháp thuộc đến năm 1950 dùng cho lớp 7 hệ 9 năm. Ông cũng viết bài cho báo Giáo dục nhân dân, cơ quan ngôn luận đầu tiên của Bộ Quốc gia giáo dục lúc bấy giờ. Từ sau năm 1954, ông trở lại nghề văn với cương vị Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam (khóa đầu tiên 1957-1958), ủy viên Ban Thường vụ trong Ban Chấp hành Hội nhà văn Việt Nam các khóa sau đó. Ông cũng là ủy viên Ban chấp hành Hội liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam, chủ nhiệm tuần báo Văn (tiền thân của báo Văn nghệ). Nguyễn Công Hoan mất ngày 6 tháng 6 năm 1977 tại Hà Nội. Tên ông được đặt cho một phố ở Hà Nội, đoạn giữa hai phố Ngọc Khánh và Nguyễn Chí Thanh. Nguyễn Công Hoan được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật năm 1996. *** Thuyết khóc nhiều quá, đâm ra lòa. Và ốm một trận thật nặng, lúc khỏi, bà thành lẩn thẩn. Trừ khi kể lại những sự đau đớn trong đời bà là được rành mạch, còn câu nào bà nói cũng như người mất trí. Bà không còn một đồng một chữ làm vốn, và cũng không thể làm được việc gì để kiếm ra tiền. Bà ở với rể. Chiều chiều, nếu không đợi được thằng Cún nó dắt, thì một mình, bà lấy gậy để dò đường. Bà đi lẩn vào những lối khuất, tránh các nhà bà còn chịu tiền. Ai nỡ đòi bà nữa, song bà vẫn còn sáng suốt ở chỗ lo nợ. Bà đi như thế để ra đồng, thăm mả con gái. Lúc ấy, giữa chỗ hiu quạnh, nổi lên tiếng khóc thảm thiết, giọng khà khàn và run run. Bà khóc con gái. Bà khóc con trai. Bà khóc chồng. Bà lại khóc bà. Người ta an ủi bà rằng số Hồ chết nên đã định lên bờ, thuê thuyền nan đi với bà rồi lại thôi. Nhưng bà bảo trời muốn đày đọa bà, nên xui người lái đò đuổi bà lên, để bà không những không được chết mà còn trông thấy con chết. Bà mong được chết. Một ngày của bà sống thêm là một ngày thảm. Bà thèm về Phượng và về Rừng để trối già, nhưng không có tiền, ngửa tay xin rể, bà ngượng. Thành ra bà đành ở Tru để ôm cháu nội cháu ngoại mà khóc, khóc để hai mắt hóa thong manh. ...