Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chú Nhóc Gavroche - Victor Hugo

Sau cái chết của tướng Lamarque, người duy nhất trong giới lãnh đạo Pháp có cảm tình với giai cấp lao động, nhóm sinh viên đứng đầu là Enjolras tức giận với chế độ đã chuẩn bị cho một cuộc cách mạng vào đêm ngày mùng 5, rạng sáng mùng 6 tháng 6 năm 1832. Cuộc cách mạng cũng có sự tham gia của những người nghèo khổ, trong đó có cậu bé lang thang Gavroche (Ga-vơ-rốt). Một trong những người tham gia cách mạng là Marius Pontmercy, một sinh viên bị gia đình xa lánh vì quan điểm tự do của mình, anh đã đem lòng yêu Cosette, bây giờ đã trở thành một thiếu nữ hết sức xinh đẹp. Gia đình nhà Thénardier cũng đã chuyển tới Paris, trở thành những kẻ lang thang trộm cắp, sau khi thỏa thuận với Javert về việc giao nộp Vanjean cho hắn, bọn họ đã tìm cách đột nhập nhà của Valjean trong khi Marius đang đến thăm Cosette. Tuy nhiên con gái của Thénardier là Éponine cũng đã đem lòng yêu người sinh viên và cô đã thuyết phục bọn chúng rời khỏi đó. Ngày hôm sau cuộc cách mạng nổ ra, những sinh viên bắt đầu dựng chiến lũy trên những con phố hẹp ở Paris. Javert đã trà trộn vào hàng ngũ sinh viên nhưng bị Gavroche phát hiện và Enjolras (Ăng-giô-rát) đã bắt giữ hắn. Khi biết người yêu của Cosette cũng tham gia nổi dậy, Valjean đã gia nhập với họ, bởi vì ông muốn bảo vệ Marius. Ông đã xin Enjolras thả Javert. Éponine cũng đứng vào hàng ngũ khởi nghĩa để bảo vệ Marius và cô đã chết hạnh phúc trên tay Marius sau khi hứng một viên đạn thay anh. Trong trận chiến tiếp theo, Valjean cứu sống Javert khỏi tay những người sinh viên và để viên thanh tra đi. Ông cũng cứu được Marius khi đó đã bị thương, nhưng tất cả những người khác, kể cả Enjolras và Gavroche đều đã bị giết. Valjean vác theo Marius chạy trốn theo những đường cống ngầm ở Paris, khi ra đến miệng cống ông chạm trán Javert, ông cố gắng thuyết phục Javert cho mình thời gian để trả Marius về gia đình của anh. Javert đồng ý đề nghị của Jean và nhận ra rằng ông ta đang bị kẹt giữa niềm tin vào luật pháp và niềm tin vào lòng tốt của con người mà Valjean đã cho viên thanh tra thấy, Javert cũng hiểu rằng ông không bao giờ có thể nộp Valjean cho chính quyền được nữa. Không thể chịu đựng nổi tình trạng khó xử này, Javert nhảy xuống sông Seine tự vẫn. ... *** Trên một lối đi của vườn Luxembourg, một người đàn ông đã già cùng một cô thiếu nữ đang đi dạo như thường ngày. Người đàn ông tóc bạc trắng, trạc sáu mươi tuổi. ông có vẻ buồn và nghiêm nghị, người vạm vỡ và dáng mệt mỏi như các quân nhân về hưu. Trông ông có vẻ tốt bụng, nhưng khó gần. Jean Valjean - bởi vì đó chính là ông ta -mặc một chiếc quần màu xanh, một áo rơ-đanh-gốt cùng màu, đội một chiếc mũ rộng vành. Chiếc cà-vạt đen nổi bật trên chiếc áo sơ mi bằng vải toan thô màu trắng. Cô thiếu nữ đi cùng với ông chẳng phải ai khác chính là Cosette. Nàng có thái độ vừa già vừa trẻ con của các học sinh nội trú trong ký túc xá bà xơ. Hai người có vẻ như cha và con. Một chàng thanh niên tầm vóc trung bình, tóc đen dày, trán cao thông minh, vẻ hăng say và hơi kiêu kỳ, cũng có thói quen đi dạo trên lối đi ấy. Chàng tên là Marius de Pontmercy. Lúc nào chàng cũng thấy họ ở đấy. Trong hai ba ngày liền, Marius để ý tìm hiểu người đàn ông có tuổi nhưng chưa phải là một ông già và cô thiếu nữ chưa có vẻ một cô gái trưởng thành ấy. Jean Valjean và Cosette làm như không nhìn thấy chàng, họ trò chuyện với nhau với vẻ bình thản và lãnh đạm. Cô gái thì vui vẻ ríu rít không ngừng. Người đàn ông thì ít nói, thỉnh thoảng lại nhìn cô gái với đôi mắt chứa chan tình phụ tử khó nói nên lời. Ngạc nhiên vì bộ tóc trắng của người đàn ông, Marius đặt tên cho ông ta là Leblanc, tên này hợp quá đến nỗi mặc dầu không ai biết họ, người ta đều nói: - A! ông Leblanc đã đến ghế mình ngồi rồi kìa! Suốt trong một năm đầu tiên ngày nào Marius cũng trông thấy họ như vậy vào cùng một giờ ấy. Chàng thấy người đàn ông thì còn được chứ cô gái thì hơi có vẻ cau có..Sang năm thứ hai, ông ta không có thói quen đến vườn Luxembourg nữa. Marius chẳng hiểu tại sao. Cuối cùng một hôm ông ta trở lại. Đó là một sáng mùa hè trong trẻo, Marius vui lắm. Chàng đi thẳng tới lối đi của mình và nhìn thấy hai người quen biết vẫn ngồi trên chiếc ghế ấy. Khi lại gần, chàng nhận ra vẫn là người đàn ông cũ nhưng cô gái thì hình như không phải. Lúc này chàng nhìn thấy là một cô gái đẹp, cao ráo, có bộ tóc tuyệt vời với đôi má ửng hồng và cái miệng thanh tú thoát ra một tiếng cườn giòn giã. Một bức chân dung thực sự của Raphael. Khi Marius đi qua bên cô, chàng trông thấy hai hàng mi dài buông trên đôi mắt nhìn xuống. ông Leblanc để ý thủ đoạn của chàng trai trẻ và có vẻ khá tức giận. ông muốn bảo vệ Cosette... Marius quyết định đi theo họ. Hai người ở phố Phía Tây, trong một ngôi nhà mới ba tầng, bên ngoài trông nhũn nhặn. Vừa thấy họ khuất sau chiếc cổng xe, Marius bèn đi vào hỏi người gác cổng: - Thưa, có phải ông ở tầng một vừa mới đi vào không ạ? - Không. - Người gác cổng trả lời. - Đó là ông ở tầng ba. Marius tiếp tục hỏi: - ông ấy là người thế nào ấy nhỉ? - Sống bằng lợi tức. Một con người tốt lắm, chuyên làm việc thiện cho kẻ nghèo tuy chẳng giàu có gì. Marius ra đi lòng phơi phới. Ngày hôm sau ông Leblanc và con gái chỉ xuất hiện ở vườn Luxembourg có một lát. Họ ra về lúc trời còn sáng trưng. Marius đi theo họ về phố Phía Tây như mọi khi. Tới cổng xe, ông Leblanc để con gái đi trước, rồi dừng lại trước khi bước qua ngưỡng cửa, quay lại nhìn Marius chằm chằm. Ngày hôm sau, họ không đến vườn Luxem-bourg nữa. Suốt ngày Marius chờ đợi vô ích. Đêm xuống, chàng tới phố Phía Tây và nhìn thấy ánh đèn trên cửa sổ tầng ba. Chàng dạo chơi dưới mấy cửa sổ đó cho tới lúc ánh đèn tắt. Hôm sau nữa, không thấy họ đến vườn Lux-embourg, Marius chờ suốt ngày, đêm thì lại làm.nhiệm vụ canh gác dưới mấy cái cửa sổ cho đến mười giờ. Suốt tám ngày như thế. ông Leblanc và con gái không đến vườn Luxembourg nữa. Buổi tối các cửa sổ tầng ba cũng không còn sáng đèn và cũng không thấy ai đi vào trong nhà nữa. Ngày hôm sau, hai cha con không đến vườn Luxembourg, ở cửa sổ cũng không có ánh đèn. Rèm cửa sổ khép kín và tầng ba tối om. Marius gõ vào cổng xe, chàng vào hỏi người gác cổng: - ông ở tầng ba đâu rồi hả ông? - Dọn nhà đi rồi. - Người gác cổng trả lời. - Thế bây giờ ông ta ở đâu ạ? - Tôi có biết gì đâu. - Thế ông ấy không để lại địa chỉ ạ? - Không. Thế là Marius mất dấu vết của người mà chàng yêu... Hè qua, thu lại, rồi mùa đông tới. Cả ông Leblanc lẫn cô thiếu nữ, không ai đặt chân đến vườn Luxembourg nữa. Marius chỉ có mỗi một ý nghĩ: nhìn lại khuôn mặt dịu hiền dễ thương ấy. Chàng tìm mãi, tìm khắp nơi, mà không thấy. Chàng không còn là Marius nữa, không còn là con người mơ mộng đam mê, quả quyết, hăng hái và kiên định, kẻ dũng cảm thách thức số mệnh nữa. Chàng sa vào nỗi buồn trầm uất. Thế là hết, chàng không muốn làm việc, đi dạo làm chàng mệt mỏi, nỗi cô đơn làm chàng chán ngán. Hình như mọi thứ đều đã biến mất hết. Marius vẫn ở căn nhà nát Gorbeau. Chàng chẳng chú ý đến một ai. Thực ra thì thời kỳ này trong căn nhà chẳng còn ai trừ chàng và gia đình Jondrette mà chàng đã một lần thanh toán hộ tiền nhà nhưng không hề nói chuyện với ông bố, bà mẹ và hai đứa con gái. Những người thuê nhà khác đều đã dọn đi, đã chết hoặc bị đuổi vì không trả tiền nhà. Một ngày mùa đông năm đó, đầu buổi chiều hơi có chút ánh nắng tuy nhiên mới là ngày mồng hai tháng hai. Marius chầm chậm thả bộ trên đại lộ về phía thanh chắn đường để tới phố Saint Jacques. Chàng vừa đi vừa cúi đầu nghĩ ngợi..Bỗng nhiên trong sương mù chàng cảm thấy có ai huých khuỷu tay vào mình. Ngoảnh lại chàng trông thấy hai cô ăn mặc rách rưới, một cô cao gầy, cô kia thấp hơn, chạy qua rất nhanh, thở hổn hển, hoảng hốt như chạy trốn. Hai cô chạy về phía chàng nhưng vì không trông thấy nên va vào chàng. Trong ánh hoàng hôn, Marius nhận ra hai bộ mặt nhợt nhạt, đầu tóc rối tung, mũ mãng thảm hại, sống váy tả tơi và hai đôi chân trần. Vừa chạy hai cô vừa trò chuyện với nhau. Qua những tiếng lóng độc địa Marius hiểu là cảnh sát thành phố đã bắt hụt hai người, chúng thoát được. Marius dừng lại một lát. Chàng đang định đi tiếp thì trông thấy ở dưới đất ngay dưới chân mình một gói nhỏ màu xám. Chàng cúi xuống nhặt lên. Đó là một chiếc phong bì bên trong đựng giấy tờ gì đó. - ái chà, - Chàng lẩm bẩm. - hai cô nàng khốn khổ đánh rơi cái này đây! Chàng quay lại gọi nhưng không thấy họ đâu nữa. Cho rằng họ đã đi xa, chàng bỏ chiếc phong bì vào túi, đi ăn tối. Chàng lại nghĩ tới sáu tháng yêu đương hạnh phúc đã qua giữa không gian và ánh sáng mênh mông dưới cây cối vườn Luxembourg. Buổi tối khi cởi áo đi ngủ, tay chàng sờ phải túi áo trong có cái gói nhặt được trên đại lộ. Chàng đã quên mất nó. Chàng nghĩ nên mở ra thì hơn bởi vì có thể trong gói có địa chỉ của các cô gái. Thực tế nếu nó thuộc về các cô thì ít nhất cũng có những thông tin cần thiết để hoàn trả cho người mất. Chàng mở phong bì ra. Phong bì không dán, trong có bốn lá thư, cũng không dán nốt. Trên có địa chỉ. Cả bốn lá thư đều xộc lên mùi thuốc lá nồng nặc. Bốn lá thư do cùng một người viết, gửi lời đề nghị cứu giúp tới một bà hầu tước, một bà bá tước, một nhà buôn và ông Làm Phúc ở Nhà thờ Saint - Jacques - du - Haut - Pas. Có điều lạ là bên dưới bốn lời nài nỉ được ký bốn tên khác nhau: Don Alvarès, Người đàn bà Balizard, Genflot và Fabantou..Hơn nữa không có gì tỏ ra những lá thư trên thuộc về hai cô gái mà Marius đã gặp ở đại lộ. Cuối cùng thì cũng chỉ là những giấy tờ vô giá trị. Marius cất lại những lá thư vào trong phong bì, vứt tất cả vào một xó rồi đi ngủ. Khoảng bảy giờ sáng hôm sau, chàng vừa dậy và ăn sáng xong, đang cố gắng ngồi vào làm việc thì có tiếng gõ cửa khe khẽ. - Mời vào. - Marius nói. Cửa mở ra. - Bà cần gì ạ, thưa bà Bougon? - Marius nói tiếp, mắt không rời sách vở và bản thảo trên bàn. Một giọng không phải của bà Bougon trả lời: - Xin lỗi, thưa ông... Marius quay ngay lại và thấy một cô gái. Một cô gái trẻ măng đứng giữa cánh cửa hé mở. ánh sáng ban ngày qua chiếc cửa sổ con của gian phòng áp mái chiếu vào đúng trước cửa ra vào, soi tỏ bộ mặt nhợt nhạt của cô ta. Một cô gái xanh xao, hốc hác, gầy còm, mặc mỗi một chiếc áo sơ mi với một chiếc váy mỏng che tấm thân hở hang run rẩy, lạnh giá. Marius đứng dậy, ngạc nhiên ngắm con người không khác gì cái bóng thoáng qua trong giấc mơ. Nhưng bộ mặt này không phải hoàn toàn xa lạ đối với chàng. Chàng như đã trông thấy ở đâu rồi. - Thưa cô, cô cần gì ạ? - Chàng hỏi. Cô gái trả lời với giọng lè nhè sinh ra từ cuộc sống khổ cực. - Có thư cho ông, ông Marius. Cô gọi tên chàng, vậy thì đúng cô có việc với chàng rồi, nhưng cô ta là ai? Sao lại biết tên chàng? Chẳng chờ được mời, cô ta bước vào. Cô bước vào với vẻ kiên quyết và nhìn toàn bộ gian phòng cùng cái giường chưa xếp dọn với một vẻ tự tin đến não lòng. Cô đi chân đất. Những lỗ thủng lớn trên váy cô để lộ ra đôi chân dài và đôi đầu gối còm cõi. Cô run lập cập. Quả thật, tay cô cầm một bức thư giơ ra cho Marius. Mở bức thư, Marius nhận thấy tảng xi dùng dán thư, rộng và to tướng vẫn còn ẩm. Bức thư không phải từ xa tới. Chàng đọc:.Tôi biết ông có lòng tốt với tôi, đã chi trả tiền nhà hộ cho tôi cách đây sáu tháng. Trời phù hộ cho ông, chàng trai trẻ. Cô con gái đầu lòng của tôi sẽ thưa với ông là hai ngày nay chúng tôi không còn lấy một mẩu bánh, mà vợ tôi lại ốm. Nếu lòng tôi không tuyệt vọng như thế này, tôi đâu dám hy vọng trái tim bao dung của ông sẽ thấu tình nhân đạo trước sự trình bày của tôi mà vui lòng độ trì cho tôi, hạ cố cho tôi chút ân huệ. Xin ông nhận ở đây lời chào trân trọng đối với tất cả những người làm việc thiện của toàn nhân loại. Jondrette Tái bút: Con gái tôi chờ lệnh ông, ông Marius kính mến. Mọi việc đột nhiên thế là sáng tỏ. Lá thư này đến từ chỗ bốn lá thư trước. Cùng chữ viết, cùng giọng văn, cùng một thứ chính tả, cùng một thứ giấy, cùng một mùi thuốc lá. Như vậy là năm bức thư, năm câu chuyện, năm tên, năm chữ ký mà chỉ một người ký: Jondrette, nếu như quả thật ông ta tên là Jon-drette. Đã khá lâu rồi, kể từ ngày Marius tới ở căn nhà nát này, chàng rất hiếm khi có dịp gặp người hàng xóm và nhìn rõ mặt ông ta. Có thể vài lần chàng chạm trán Jondrette ngoài hành lang hoặc trên cầu thang, nhưng đối với chàng đó chỉ là những chiếc bóng, chàng đâu có để ý, thế cho nên chiều tối qua ở đại lộ chàng gặp mà không nhận ra hai đứa con gái của Jondrette, bởi vì chính là chúng, vì thế cho nên khi cô gái này thoạt bước vào phòng chàng, mặc dù kinh tởm và thương hại, chàng đã lờ mờ nhận ra mình từng có lần gặp cô ta. Đến giờ thì chàng nhìn sự việc thật tỏ tường. Chàng hiểu ông láng giềng Jondrette trong nỗi tuyệt vọng đã làm ăn trên cơ sở khai thác tình thương ở những con người từ thiện. Hắn tìm kiếm các địa chỉ, dưới các tên giả hắn viết thư cho những người hắn cho là giàu có và có lòng thương người, những bức thư này hắn sai hai đứa con gái mang đi, có nghĩa là đưa con gái vào những việc liều lĩnh nguy hiểm: thì cha chúng liều mạng thí chúng mà lại. Hắn đã đánh bạc với số phận và đem hai con gái mình vào cuộc. Marius hiểu rằng rất có thể, cứ xem như tối qua.chúng trốn chạy hổn hển, hãi hùng và qua những tiếng lóng chàng nghe được, chúng còn làm những việc đen tối khác nữa, kết quả là từ tất cả những cái đó - trong cái xã hội của giống người mà chúng được tạo ra, chúng đã trở thành hai kẻ khốn cùng, trẻ con không phải trẻ con, thiếu nữ không phải thiếu nữ, đàn bà không phải đàn bà, một loại quỷ ô trọc nhưng lại rất đỗi ngây thơ, sản phẩm của nghèo khổ cơ cực. Nhưng mà, trong khi Marius nhìn cô gái một cái nhìn vừa kinh ngạc vừa thống khổ, thì cô gái vẫn cứ đi lại trong căn phòng áp mái với vẻ mạnh dạn của bóng ma. Marius suy nghĩ và để cho cô gái làm gì thì làm. Cô đến gần bàn: - A! - Cô nói. - Sách! Một tia sáng lướt qua con mắt lờ đờ của cô. Cô tiếp tục nói, giọng biểu thị niềm hạnh phúc được khoe khoang một điều mà khi nghe thấy, không ai đã là con người lại có thể vô cảm. - Em biết đọc đấy nhé! Em ấy! Cả biết viết nữa! Cô nhúng bút vào mực và quay về phía Marius: - ông muốn xem không? Lại đây mà xem, em viết một chữ cho coi. Và trước khi chàng kịp trả lời, cô viết luôn lên một trang giấy trắng để ở giữa bàn: Bọn cớm đấy. Rồi vứt bút: - Không có lỗi chính tả đâu nhé. ông coi mà xem. Em và em gái em cũng đã được học hành đấy chứ, không phải lúc nào cũng như bây giờ đâu. Cô đến bên Marius và đặt một bàn tay lên vai chàng. - ông không để ý đến em chứ em thì em biết ông, ông Marius ạ. Em gặp ông ở cầu thang, rồi em thấy ông vào nhà cái ông gọi là bố Mabeuf ở phía Austerlitz ấy, thỉnh thoảng em đi chơi phía ấy mà. Tóc ông bù lên như thế này nom hay quá nhỉ. Giọng cô dịu dàng hẳn đi chỉ còn nghe khe khẽ. Marius hơi lùi lại..- Thưa cô, - Giọng chàng trang trọng và lạnh lẽo. - tôi nhặt được cái gói này có lẽ của cô. Xin cho tôi hoàn lại cô. Và chàng đưa ra chiếc phong bì trong có bốn bức thư. Cô gái vỗ hai tay vào nhau, reo lên: - Chúng em tìm khắp nơi. Rồi cô ta cầm ngay lấy gói thư, mở ra. - Trời ơi là trời! Thế mà hai chị em em cứ tìm mãi. Té ra ông tìm thấy ư? Trên đại lộ, đúng không nào? Con em cận thị của em chẳng được việc gì. Về đến nhà không thấy đâu nữa. Để khỏi phải đánh, chẳng được ích gì, chúng em bảo là đã đưa thư đến những người đó nhưng họ không cho gì. Tuy nhiên cô giở lá thư thỉnh cầu gửi đến "ạng làm phúc ở Nhà thờ Saint - Jacques - du - Haut - Pas" ra. - Đây này! Thư này là cho ông già vẫn đi lễ này. à, nhưng mà về việc này thì đến giờ rồi. Em mang thư đi đây. Có thể ông ta sẽ cho chút gì mà ăn. Thế là Marius nhớ lại mục đích cô gái khốn khổ đến tìm chàng. Chàng tìm trong túi áo ghi-lê, chẳng thấy gì cả. Lục sâu mãi hết túi nọ đến túi kia, cuối cùng Marius tìm được năm frăng mười sáu xu. Đó là tất cả những gì mà lúc này chàng có trên đời. Chàng giữ lại mười sáu xu, đưa năm frăng cho cô gái. Cô gái cầm lấy đồng năm frăng. - Tốt rồi! - Cô nói. - Thế là có nắng rồi! Cô xốc áo sơ mi lên hai vai, cung kính chào Marius, rồi thân mật vẫy tay, vừa đi ra cửa vừa nói: - Chào ông nhé. Dù sao cũng có chút gì. Em đi tìm ông già đây. Này ông Marius, ông biết không, em vẫn thấy ông đi theo ông già ấy với cô con gái ông ta ở vườn Luxembourg thời gian gần đây... Marius giật nẩy mình: - Em biết họ ư? Em có biết họ ở đâu không? Bảo tôi với nào! Muốn gì em cũng có..- Đấy nhé, em biết ông quá rõ nhé! - Cô đáp. - Còn địa chỉ họ ấy à, để em xem... Khi đi ngang qua tủ com-mốt, cô thấy một mẩu bánh mì đã khô, phát mốc lên trong bụi, cô bèn chớp lấy, rồi đi ra. ... Mời các bạn đón đọc Chú Nhóc Gavroche của tác giả Victor Hugo.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Vết Chân Tự Ngã Trên Đường Về Không - Nhụy Nguyên
Cõi nhân gian âu là sự phóng chiếu của tâm thức nghiệp báo, song cũng là sự hiện tướng trong màn hình chân như. Khoa học hiện đại thật sự ngạc nhiên khi nhìn thấy lỗ hổng thời gian và đang dần hoài nghi về không gian, như chính thời-không từng xuất hiện và biến mất trong giấc mơ qua sự thể nghiệm ở mỗi chúng ta. Trần ai huyễn mộng - chân lý này phải bậc triệt ngộ mới thể nhập thông qua thiền-tuệ, ngoài ra không cách gì chứng biết dẫu khoa học có phát triển đến ngưỡng như những nền văn minhtrước trái đất từng hoại diệt chăng nữa. Con người sinh ra hữu ý hay vô tình đều đã nương vào ánh sáng mặt trời mà lớn lên như chính niềm ân sủng vô biên của Phật pháp. Đức Phật là bậc thấu triệt quy luật vận hành của vũ trụ nhân sinh và thuyết lại y nguyên không chút sáng tạo. Mà trước hết Kinh điển luôn dạy những căn cốt của triết lý nhân sinh. Ấy là nhân quả báo ứng tơ hào không sai, luân hồi lục đạo xoay vần theo nghiệp báo; ai nỗ lực hành pháp đúng theo lộ trình Giới - Định - Tuệ, dẫu họ ở địa vị thấp hèn nhất vẫn đồng cơ hội chạm đến chiếc chìa khóa mở Kho tàng Phước-Trí vốn sẵn nơi Tâm; xem như bảo vệ thành công Luận án kiếp người. Trong nỗ lực bước đầu chập chững hành theo Kinh điển, vẫn biết những gì chia sẻ ra trong cuốn sách nhỏ này, xét riêng về bản thân là tự chướng ngại và đang tiếp tục làm tổn thương người khác. Với lòng chân thành hết mực, cúi mong quý bạn đọc thứ tha cho những dấu vết tự ngã sâu nặng của tác giả ẩn hiện trong từng dòng chữ lẽ ra im lặng vẫn hơn. *** Nhà văn Nhụy Nguyên tên thật là Trần Nguyên Sỹ Quê quán: Phù Lưu - Lộc Hà - Hà Tĩnh Hiện công tác tại Tạp chí Sông Hương Tác giả từng viết đều ở các thể loại: thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết, tùy bút, tiểu luận. *** Thời mạt quá trọng nghi lễ, khiến cho việc hành chuyên môn giảm xuống. Không ai muốn phủ nhận việc thi hành một số lễ trước lúc người quá cố về chín suối. Người có đạo lực, họ có thể hướng dẫn linh hồn vững tin bước vào con đường sáng ở kiếp sau. Việc tụng kinh sẽ động viên hương linh thêm phần chính niệm. Đến là bậc chứng Thành nếu siêu độ thì người được nhận cũng chỉ sinh lên cõi trời Đao Lợi là cùng. Như tôi chưa hề soi thấu kiếp mình, việc tụng kinh sám hối giùm ai với tâm vọng động ngã chấp không chừng lại khiến linh hồn thêm phần hoang mang lầm lạc. Suốt đời tâm hiểm, lúc chết đâu dễ “nhờ ai” có thể giải nghiệp! Có chăng ở phút hấp hối, nếu họ nhận diện lỗi lầm, hướng nương theo Hương bát nhã, tịnh tâm niệm Phật và được nhiều người cùng hộ niệm may ra Phật lực hút khỏi Ta bà. Ở Tây Tạng hiện vẫn tồn tại tục điểu táng, có khi họ chặt khúc người chết cho chim ăn; ở sông Hằng có tục thủy táng (để người tu thấy được sự vô thường của xác thân). Ngay trong nước, cùng sự chết song ở một số nơi thuộc miền Bắc thường đưa đám trong vòng ba ngày kể cả ngày mất, còn ở phía Nam có nơi người chết để vài tuần, thối rữa… trên mặt đất! Phật giáo khai thị chí lý điều này: chỉ cần thật yên tĩnh trước, trong và sau lúc mất ít nhất 8 tiếng, sau đó mới đụng chạm đến người quá cố; tốt hơn thì trước lúc mất khuyên họ đừng tơ vương cõi trần quyến thuộc mà trụ tâm niệm Phật cầu vãng sinh Cực lạc. Làm trọn điều này còn lo chi đến ngày giờ tốt xấu. Sao khổ chủ đợi cho kỳ được ngày giờ tốt nhất mới táng người quá cố thân yêu, trong lúc người dương hoàn toàn có thể giúp bằng cách làm thật nhiều việc thiện hồi hướng cho người âm. Đó là điều có ích nhất mà họ sẽ nhận được từ chúng ta. Trong xã hội phong kiến Ấn Độ, nguyên thủy Phật không đề xướng đi cúng mà chỉ đến giảng pháp, thụ trai tại gia nếu được mời. Phát sinh việc này cũng chưa hẳn sai.  ... Mời các bạn đón đọc Vết Chân Tự Ngã Trên Đường Về Không của tác giả Nhụy Nguyên.
Trư Cuồng - Nguyễn Xuân Khánh
"Chỉ riêng những trang tả thực cảnh sống thảm thương của một gia đình nhà văn - nhà báo nháo nhác xoay quanh cái chuồng lợn, khi sức khỏe và sự tăng trọng từng ngày của lợn là mục tiêu sống của cả nhà, lũ lợn “nhai gau gáu” hết xương ông Tchekhov đến sọ ông Dos, “nỗi lợn” làm người chồng thành bất lực trên giường… đã đủ sức đánh gục người đọc bởi sự chân thực đầy cảm xúc những trải nghiệm sống của cây bút già dặn." - Trích lời Hoàng Hưng Tác phẩm đề cập trực diện đến những vấn đề bức xúc đương thời với những nhân vật điển hình rất người đương thời. Tôi coi đây là một bán tự truyện của tác giả vì nhân vật chính có rất nhiều điểm giống ông: làm báo, bị treo bút, bị giám sát, bị túng thiếu và nuôi lợn...  (Trần Thu Trang ) *** Nguyễn Xuân Khánh sinh năm 1933 tại làng Cổ Nhuế, Hà Nội. Ông đỗ tú tài Toán, học Đại học Y khoa Hà Nội cho đến hết năm 1952 thì ra vùng tự do tham gia bộ đội. Trong khoảng mười năm, ông ở một đơn vị pháo binh, rồi dạy văn hoá tại Trường Sĩ quan Lục quân trước khi chuyển về làm việc tại tạp chí Văn nghệ Quân đội. Từ 1966, ông là phóng viên báo Thiếu niên Tiền phong trước khi về hưu non vào năm 1973. Hiện ông sống ở Hà Nội.  Nguyễn Xuân Khánh (sinh năm 1933) là tác giả của nhiều tiểu thuyết như Mẫu thượng ngàn (NXB Phụ Nữ - đạt Giải Thưởng Tiểu Thuyết Hội Nhà Văn Hà Nội 2006), Đội gạo lên chùa, Lửa đắng, Hồ Quý Ly (ra năm 2000, nối bản và tái bản 15 lần), Chuyện ngõ nghèo,... trong đó ông đã có một bộ 3 tiểu thuyết lớn đi sâu kiến giải về văn hóa dân tộc gồm "Hồ Quý Ly" (năm 2000), "Mẫu Thượng Ngàn" (2005), "Đội gạo lên chùa" (2011). Đấy đều là "trường thiên", số lượng tới con số vạn chưa kể bị in lậu, viết tay hoàn toàn và do NXB Phụ nữ làm. Ở tuổi xấp xỉ bát thập, ông đã "lội" vào những lịch sử, văn hóa, phong tục, triết học... để "chế" thành tiểu thuyết, sức lao động như thế thật đáng kinh ngạc, cảm phục. Tiểu thuyết của ông không 'phản ánh lịch sử' mà bằng sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lịch sử và văn hóa, trong đó văn hóa là cốt lõi, để làm bật lên cái hằng số duy nhất là con người. Mẫu Thượng Ngàn Đội Gạo Lên Chùa Hồ Quý Ly 'Chuyện ngõ nghèo Trư Cuồng Lửa Đắng Miền Hoang Tưởng ... *** Nhật ký này là của ông Nguyễn Hoàng; ông Nguyễn Hoàng làm nghề viết báo , kiêm nghề nuôi lợn . Có lẽ , khi làm nghề cầm bút , ông đã phạm một cái cái ”húy” gì đó nên bị thất sủng, phải về nghỉ hưu. tuy chưa đến tuổi. Ông là ngươì lớn tuổi, lại mắc bệnh nghề nghiệp nên thích ghi chép. Ông đã ghi lại khá tường tận, thú vị công việc chăn nuôi của mình. Xét thấy nhật ký này có điều hay hay, nên cố sưu góp lại để các bạn cùng đọc . Ngày… Tháng… Nhà tôi đã có ba chú lợn ỉn khoảng 10 cân mỗi con rồi, hôm nay tôi lại mua thêm một chú lợn rất đặc biệt : Chú Lợn Bò Chú lợn này chỉ nhỉnh hơn cái phích lít rưỡi một chút . Lông nó mầu hung vàng, có một chút óng ánh, giống như mầu cỏ tranh vàng ... Mời các bạn đón đọc Trư Cuồng của tác giả Nguyễn Xuân Khánh.
Lửa Đắng - Nguyễn Xuân Khánh
Nguyễn Xuân Khánh sinh năm 1933 tại làng Cổ Nhuế, Hà Nội. Ông đỗ tú tài Toán, học Đại học Y khoa Hà Nội cho đến hết năm 1952 thì ra vùng tự do tham gia bộ đội. Trong khoảng mười năm, ông ở một đơn vị pháo binh, rồi dạy văn hoá tại Trường Sĩ quan Lục quân trước khi chuyển về làm việc tại tạp chí Văn nghệ Quân đội. Từ 1966, ông là phóng viên báo Thiếu niên Tiền phong trước khi về hưu non vào năm 1973. Hiện ông sống ở Hà Nội.  Nguyễn Xuân Khánh (sinh năm 1933) là tác giả của nhiều tiểu thuyết như Mẫu thượng ngàn (NXB Phụ Nữ - đạt Giải Thưởng Tiểu Thuyết Hội Nhà Văn Hà Nội 2006), Đội gạo lên chùa, Lửa đắng, Hồ Quý Ly (ra năm 2000, nối bản và tái bản 15 lần), Chuyện ngõ nghèo,... trong đó ông đã có một bộ 3 tiểu thuyết lớn đi sâu kiến giải về văn hóa dân tộc gồm "Hồ Quý Ly" (năm 2000), "Mẫu Thượng Ngàn" (2005), "Đội gạo lên chùa" (2011). Đấy đều là "trường thiên", số lượng tới con số vạn chưa kể bị in lậu, viết tay hoàn toàn và do NXB Phụ nữ làm. Ở tuổi xấp xỉ bát thập, ông đã "lội" vào những lịch sử, văn hóa, phong tục, triết học... để "chế" thành tiểu thuyết, sức lao động như thế thật đáng kinh ngạc, cảm phục. Tiểu thuyết của ông không 'phản ánh lịch sử' mà bằng sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lịch sử và văn hóa, trong đó văn hóa là cốt lõi, để làm bật lên cái hằng số duy nhất là con người. Mẫu Thượng Ngàn Đội Gạo Lên Chùa Hồ Quý Ly 'Chuyện ngõ nghèo Trư Cuồng Miền Hoang Tưởng ... *** Những ngày làm nhà, Kiên phải nhờ một người bạn, kĩ sư xây dựng, giám sát thi công. Thỉnh thoảng anh mới đảo qua. Chiều nay anh tạt qua trường vợ, rủ Tần cùng đến ngôi nhà đang xây. So với cơn sốt xây nhà ở Thanh Hoa thì họ quá chậm. So với thiên hạ thì nhà của vợ chồng anh không to, không sang, không đẹp bằng. Kiên bảo vợ, tuỳ tiền biện lễ. Mình xây để ở chứ có phải để cho thuê đâu. Chỉ riêng thiết kế phí đã mất hàng chục triệu rồi. Chả chơi. Thiên hạ không biết dùng tiền làm gì mới vẽ vời kiểu cách được. Đằng này vợ chồng Kiên bán căn hộ lắp ghép mua lại mảnh đất của một ông Vụ phó Vụ Kế hoạch một bộ bán lại. Tiền xây thì ông bà Hòe cho. Vừa xoẳn. Khi nào xong, dọn đi người mua mới nhận nhà. Tần đã chuẩn bị xong bữa tối. Một đĩa thịt lợn kho dừa. Nước hàng làm cho miếng thịt, miếng dừa mang một thứ màu đặc trưng thật hấp dẫn. Nồi riêu cá là món anh thích nhất. Kiên thích riêu cá nấu mẻ. Tần không mua cả con, nhà ít người ăn không hết. Chị mua hai cái đầu chép, một bộ lòng và một buồng trứng. Chị để con ngồi một bên đầu nồi, mình một bên. Tần muốn dạy con gái phải biết đón bát bố vừa hết cơm bát canh vơi phải biết đứng lên mang bát đi múc tiếp chứ không được bê xoong ra trút vào, phải biết gắp miếng ngon cho bố mẹ v.v… ... Mời các bạn đón đọc Lửa Đắng của tác giả Nguyễn Xuân Khánh.
Mối Tình Đầu - Veronique Olmi
Qua tác phẩm ta nhận thấy một điều tác giả như muốn nhắn gửi với bạn đọc: mối tình đầu chỉ như một thứ gia vị làm cho cuộc sống điểm sắc màu chứ không phải là điều quyết định cho cuộc sống của ta. Cuộc sống gia đình chồng vợ vẫn là vĩnh cửu. Người phụ nữ tuổi ngũ tuần đã phải thốt lên "Tôi chỉ muốn được gặp Marc lúc này chỉ có anh mới có thể đưa tôi ra khỏi những ý nghĩ rối ren những ý tưởng điên khùng không lối thoát. Ôi tôi muốn anh có mặt tại đây lúc này biết bao..." và Marc chính là chồng chị người đã chia sẻ cuộc sống với chị từ hai mươi lăm năm nay. Với lối viết nhẹ nhàng dễ đọc văn phong trau truốt tình tiết hấp dẫn mọi nút thắt cứ lớn dần theo những chi tiết hết sức đời thường để rồi cuối cùng tác giả dẫn chúng ta đến một bến bờ nhất định và giúp ta cởi những nút nơ vô hình buộc chặt: gia đình tình yêu vợ chồng. Đó như một lời khẳng định. Cuốn sách vừa phát hành cuối tháng giêng năm 2010 nhưng đã tiêu thụ gần 20.000 bản và đã liên tục lọt vào danh sách best sellers. Đã được nhượng bản quyền cho ba NXB nước ngoài và đã được một hãng phim mua bản quyền dựng thành phim. Đôi lời về tác giả: Véronique Olmi sinh năm 1962 tại thành phố biển thơ mộng miền đông nam nước Pháp: Nice. Sau khi đã theo học ngành nghệ thuật sân khấu bà đã từng làm trợ lý cho hai nhà làm phim danh tiếng của Pháp là Gabriel Garran và Jean-Louis Bourdon từ năm 1990 đến 1993. Tác giả chuyên viết kịch bản sân khấu nhưng năm 2001 bà đã xuất bản cúôn tiểu thuyết đầu tay mang tên Bord de Mer (Bên bờ biển) và đã ngay lập tức giật giải Prix Alain Fournier. Cho đến nay bà đã viết bảy kịch bản sân khấu và Mối tình đầu là cuốn tiểu thuyết thứ chín của bà và trong số ấy nhiều cuốn đã được dựng thành phim. Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu cuốn tiểu thuyết đầy lãng mạn nhưng không phải không khiến ta suy ngẫm đến những hoài niệm và quan điểm sống của chính mình. *** Đôi khi chỉ cần một việc gì đó cỏn con cũng khiến cuộc đời chao đảo. Một lúc vô ý trên đường. Một cuộc bãi công của Công ty Đường sắt Quốc gia. Một hàng xóm mới. Một vụ kẹt thang máy. Một lá thư. Một cú điện thoại trong đêm. Cuộc đời tôi đã chao đảo ngày 23 tháng Sáu năm 2008 lúc 20 giờ 34 phút, ngay khi tôi mở tờ giấy báo quấn chai rượu vang Pommard, lẽ ra dùng để ăn với miếng vai cừu nấu trong lò từ 26 phút trước đó. Chai Pommard vừa lột đi tờ giấy báo, đã không bao giờ được mở. Miếng vai cừu không bao giờ được nấu chín. Tôi đã nhớ tắt lò trước khi bỏ đi Ý. Tôi cũng không quên tắt những ngọn nến thắp rải rác khắp phòng khách. ... Mời các bạn đón đọc Mối Tình Đầu của tác giả Veronique Olmi.