Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đảo Plum

Đảo Plum - một cuốn tiểu thuyết đầy thú vị được Tuần báo Publishers nhận xét: "Sức lôi cuốn… Nhờ sự kết hợp hoàn hảo từ y học, huyền bí, các thủ tục trong ngành cảnh sát, và khám phá đại dương… cuốn sách đã đạt được thành công lớn trong việc chuyển hướng tới một kết thúc hoàn toàn bất ngờ... một cái kết nhẹ nhàng đối với một nhà văn già đầy kinh nghiệm...". *** Tác Giả Nelson DeMille: Nelson DeMille sinh năm 1943 tại thành phố New York. Ông lớn lên lại Long Island và tốt nghiệp trường đại học Hofstra về Khoa học và Lịch sử Chính trị. Sau khi làm sĩ quan bộ binh tại Việt Nam, DeMille vừa làm phóng viên vừa là nhà văn chuyên viết truyện ngắn. Ông đã viết cuốn tiểu thuyết lớn đầu tiên của mình là Bên dòng sông ở Babylon ( By the Rivers of Babylon) với tổng số bản bán ra là hơn 55 triệu bản và được dịch ra 24 thứ tiếng, và sau đó ông tiếp tục viết 11 cuốn tiểu thuyết khác đều bán chạy trên khắp thế giới. Ông sống tại Long Island. *** “Một cuốn tiểu thuyết kinh dị thật tài tình. Bạn sẽ thấy được cảm giác vui vẻ với những nút thắt là những đỉnh điểm của cuốn truyện”. - Timeout “Ớn lạnh... Cảm giác xuyên suốt cả cuốn tiểu thuyết hồi hộp này và sẽ khiến bạn luôn luôn trong suy nghĩ ngay cả khi bạn cười thật to”. - New day “Sức lôi cuốn... Nhờ sự kết hợp hoàn hảo từ y học, huyền bí, các thủ tục trong ngành cảnh sát, và khám phá đại dương... Cuốn sách đã đạt được thành công lớn trong việc chuyển hướng tới một kết thúc hoàn toàn bất ngờ... Một cái kết nhẹ nhàng đối với một nhà văn già đầy kinh nghiệm”. - Tuần báo Publishers “Ly kỳ, thú vị”. - Kirkus Reviews “Một cuốn tiểu thuyết đầy thú vị”. - Tạp chí Associated “Một cuốn sách thành công trong việc tạo tiếng cười giải trí... Kết hợp thông minh giữa thảm hoạ về sinh học và những truyền thuyết kỳ lạ về hải tặc”. - Tạp chí Associated *** Tác giả: Nelson Demille. Dịch giả: Đỗ Thúy Thể loại: Trinh thám, hành động, có chút cổ điển, phần nhiều hiện đại “Một thế kỷ trước, người ta thi thoảng mới phải đứng trước những ngã ba của cuộc đời và phải chọn lấy một hướng đi. Hôm nay, chúng ta sống bên trong một tấm vi mạch với hàng triệu con đường mở ra và đóng lại trong mỗi một phần tỉ giây. Điều tệ hơn là có ai đó đang bấm những chiếc nút”. ĐẢO PLUM Khi may mắn được biết đến tác giả Nelson Demille qua hai cuốn tiểu thuyết “Phía sau thảm họa” và “Lửa hoang”, tôi thật sự ưa thích những câu chuyện ly kỳ của tác giả này. Do đó, tôi đã để dành cuốn “Đảo Plum” khá lâu trước khi quyết định lấy ra đọc để vượt qua quãng thời gian hơi buồn chán trong việc đọc sách. Cuốn “Đảo Plum” đã giúp tôi có quá trình đọc thật sự thú vị, cười rất nhiều, say mê theo dõi những đoạn phiêu lưu máu lửa của nhân vật, và cuối cùng khép sách lại với cảm giác thỏa mãn 130%. Nhân vật chính vẫn là thanh tra cảnh sát John Corey thuộc lực lượng cảnh sát New York, nhưng lần này không có cô vợ xin-lỗi-tôi-quên-tên-cô-ấy-rồi bên cạnh. Truyện chỉ đề cập thoáng qua đến vợ cũ của ngài Corey, được cho biết rằng nghề nghiệp là luật sư. Bối cảnh truyện bắt đầu khi John Corey đang ở nhà ông cậu tại vùng North Fork của bang Long Island, New York để dưỡng thương sau khi bị bắn. Cảnh sát trưởng của vùng đến nhờ John tham gia với vai trò tư vấn vào cuộc điều tra vụ án mạng đôi, nạn nhân là hai vợ chồng nhà Gordon – từng là bạn với Corey. Vợ chồng Gordon là hai nhà khoa học làm việc tại Trung tâm nghiên cứu bệnh dịch động vật trên đảo Plum, thực chất cũng là nơi nghiên cứu về các mầm bệnh truyền nhiễm cực kỳ nguy hiểm để phục vụ tấn công hoặc phòng thủ trong trường hợp xảy ra chiến tranh sinh học / chiến tranh vi trùng. Trong quá trình điều tra, John Corey có dịp gặp gỡ những điều dễ chịu: quen được cô cảnh sát xinh đẹp thông minh Beth Penrose và chuyên gia lưu trữ tư liệu Emma Whitestone, nhưng đồng thời cũng đụng độ những gã khó nhằn và nhiễu sự thuộc FBI và CIA. Vì tình bạn với hai nạn nhân đã bị sát hại, Corey bất chấp mọi trở ngại để truy tìm hung thủ, dù điều đó thật sự gian nan. Trong cuốn tiểu thuyết này chỉ có một yếu tố mang hơi hướm hiện đại là chiến tranh sinh học, những điều còn lại vẫn khiến tôi đoán định rằng đây là một truyện trinh thám cổ điển, có lẽ vì chất nam tính cổ điển đậm đặc toát ra từ nhân vật chính. Truyện cũng không thấy nói gì đến lấy dấu vân tay, xét nghiệm nhóm máu, điều tra hiện trường kỹ lưỡng như trong những cuốn của Jeffery Deaver. Nhận xét thẳng thắn thì nhịp truyện khá chậm, quá trình điều tra được mô tả chi tiết tỉ mỉ, không ít lần dừng lại ở những đoạn chém gió giữa nam chính với nữ chính 1 và nữ chính 2, vậy mà không hiểu sao tôi vẫn kiên nhẫn + thích thú đọc từng đoạn đến hết, không lướt trang nào. Có lẽ vì giọng văn vừa nghiêm túc vừa hài hước, cách xây dựng quan hệ nhân quả đọc thấy rất hợp lý, xen kẽ giữa những đoạn suy luận sắc bén là những trường đoạn hành động rất gây cấn, đúng kiểu không thể buông sách xuống. Đầu sách có lời bình của Dan Brown rằng “Nelson Demille là một bậc thầy về tiểu thuyết trinh thám”, quả thật như vậy, tuy cuốn “Đảo Plum” không được nhiều người khen như “Phía sau thảm họa” hoặc “Lửa hoang” nhưng cá nhân tôi cho rằng chỉ riêng cuốn “Đảo Plum” cũng hấp dẫn hơn vài trong số những cuốn Dan Brown mà tôi từng đọc. Đọc cuốn này, tôi cũng thấy rằng không phải chỉ có tác giả kiêm chuyên gia hàng hải Clive Cussler là có thể tả đại dương một cách ấn tượng. Trong “Đảo Plum”, Nelson Demille đã khiến tôi (và chắc là hàng ngàn độc giả khác trước và sau tôi) khó có thể quên những trường đoạn tả cảnh hành động trên biển và trong bão biển. Dù không có lời nào trực tiếp nói rằng “thiên nhiên thật hùng vĩ và đáng sợ” nhưng trong từng khoảnh khắc người đọc vẫn sẽ cảm nhận rõ rệt thiên nhiên hùng vĩ và đáng sợ trong truyện này. “Chiếc Plum Runner lách qua eo biển hẹp vào một vịnh nước nhỏ, dường như được tạo ra không phải bởi Thượng Đế vạn năng mà là quân đoàn xây dựng, những người thích đặt những nét hoàn thiện vào những công trình của tạo hóa”. Qua những cuốn của Nelson Demille mà tôi từng đọc, tôi đã ấn tượng với tính cách của nhân vật John Corey. Đến cuốn “Đảo Plum”, nhân vật này đặc biệt thể hiện rõ nét sự ngang tàng, mạnh mẽ, vô cùng hài hước, galant với phụ nữ ngay cả khi tính mạng bản thân đang lâm nguy nhưng vẫn giữ vững bản chất “vô độc bất trượng phu”. Trong hai cuốn trước mà tôi đọc, John Corey có một người vợ cũng là cảnh sát, tính cách độc lập và xuất sắc không kém chồng. Trong cuốn này, có lẽ vì Corey đang chờ đơn ly dị và độc thân tự do quyến rũ nên nam chính chiếm 60% ‘thời lượng’ truyện. Tôi thích cách Corey rất hiếm khi kiềm chế khi bị hút về phía phụ nữ, đã thích thì tấn công dữ dội, nhưng khi quyết định không dính dáng đến nữa thì lạnh lùng như sông băng. Tuy như vậy sẽ khiến phụ nữ có chút đau lòng, vì hầu hết nữ giới luôn khao khát được khao khát, nhưng cá nhân tôi tán đồng những người đàn ông cương quyết trong tình cảm (và trong những chuyện khác), thà rằng cắt đứt từ khi chưa có gì còn hơn khiến dây tơ hồng vướng víu khắp các lối mình từng qua. ____ Có lẽ vì lý do này mà tôi bắt đầu thích nhân vật John Corey nhiều hơn cả Dirk Pitt, đang mấp mé thích hơn cả Jack Reacher! Hãy xem vài câu nói khá hay ho của John Corey: “Ngoại giao là nghệ thuật nói những thứ khốn nạn cho dễ nghe, cho đến khi tìm được một hòn đá”. “Thật khó khi bạn có nhiều câu hỏi vào lúc hai giờ sáng, bạn lại đang căng lên vì chất cà phê và không có ai muốn nói chuyện với bạn”. “Những người làm chính trị sợ bất cứ thứ gì mà họ không hiểu, mà họ thì lại chẳng hiểu được thứ gì”. Tôi cũng thích cả hai nhân vật nữ trong truyện: Beth Penrose xinh đẹp như người mẫu và can trường như chiến binh, Emma Whitestone tinh thông kim cổ và tự tin trong ..mmhh.. một lĩnh vực quan trọng + cần thiết của cuộc sống (tức là tình dục). Tôi tin rằng ngoài đời thực vẫn có những phụ nữ dù bị vết thương đạn bắn nhưng vẫn có thể trải qua nhiều giờ lao đao trên một chiếc tàu cao tốc giữa cơn bão biển để săn lùng hung thủ, nhưng khi đọc thấy nhân vật Beth Penrose thực hiện những điều đó, tôi vẫn vô cùng thán phục cô ấy. Cả hai nữ chính đều có thể đối đáp ngang hàng với một John Corey tếu táo trong mọi thời điểm (kể cả lúc sắp chết). Dù bản thân không thích hình tượng Mary Sue nhưng khi đọc “Đảo Plum”, tôi vẫn mơ mộng mình sẽ có được sự kết hợp những ưu điểm của cả hai nữ chính trong truyện. Vâng, tôi vừa tham lam vừa phi thực tế. Tuy từ nhỏ đã có niềm yêu thích đặc biệt đối với truyện trinh thám (từ khi tôi còn chưa biết sách chia ra nhiều thể loại và trinh thám là một trong những thể loại đó) nhưng do tham gia hội trinh thám khá muộn (4~5 năm sau khi thành lập) nên tôi đã bỏ lỡ không mua nhiều cuốn hay, trong đó có những cuốn của Lee Child và Nelson Demille. Tuy vậy, tôi rất may mắn được các anh chị trong hội quý mến và rộng lượng cho mượn thật nhiều sách, kể cả sách cũ hiếm, do đó tôi vẫn có cơ hội được đọc những cuốn không còn bán ngoài thị trường, chẳng hạn như “Đảo Plum”. Đây là một cuốn sách bản to, bìa cứng, đủ nặng để không thể nằm đọc, thuộc loại sách mà tôi rất thích ôm đọc đến khi mỏi cả tay. Truyện được dịch thuật tốt, trình bày ổn, cốt truyện và văn phong đều khiến tôi hài lòng. Điều buồn cười duy nhất là thiết kế bìa quá kỳ dị. (Sea, 10-2-2021) Xin cảm ơn chị N. đã cho em Biển mượn sách Cáo Biển Non Xanh *** Tôi nhìn qua ống nhòm. Một chiếc tàu dài hơn chục mét đậu cách bờ biển chừng vài trăm thước. Trên boong, hai cặp nam nữ độ ba mươi tuổi đang cười đùa, tắm nắng, uống bia hay thứ gì đó. Hai người phụ nữ mặc quần lót bé xíu, ngực để trần. Một trong hai gã đang ở mũi tàu trút bỏ bộ đồ tắm, đứng đó một lát, khom người rồi nhảy tùm xuống nước và bơi quanh con tàu. Đất nước này vĩ đại thật. Tôi bỏ ống nhòm và nhấp một ngụm Budweiser. Đó là cuối mùa nghỉ hè, không phải là cuối tháng Tám, mà là tháng Chín, trước Thu phân. Đã qua ngày nghỉ lễ Lao động, sắp sang nửa kia của mùa thu. Tôi là John Corey, nghề nghiệp cảnh sát đang dưỡng thương, khi đó đang ngồi dưới mái hiên sau nhà của ông cậu ruột, ngả mình trên chiếc ghế bằng liễu gai, đầu óc miên man với những ý nghĩ hời hợt thoáng qua trong đầu. Với tôi, vấn đề của sự nhàn rỗi là không biết đến khi nào cuộc đời mình kết thúc. Hiên nhà được làm theo kiểu cũ, bao bọc ba bề của ngôi nhà trong trang trại xây từ những năm 1890, thời Victoria. Tất cả đều làm vách gỗ, có trang trí, chóp nhọn, đầu hồi, đủ mọi thứ. Từ chỗ tôi ngồi có thể nhìn về phía nam tới Vịnh Great Peconic qua một bãi cỏ xanh dốc. Mặt trời đã xuống thấp ở chân trời phía tây, vị trí lúc 6 giờ 45 chiều. Tôi sống ở thành phố, nhưng lại thực sự thích những gì ở nông thôn, bầu trời và mọi thứ ở đó. Cuối cùng, cách đây vài tuần, tôi đã thấy được chòm Đại hùng tinh. Tôi mặc chiếc áo phông đơn màu và quần jean ngắn mà trước đây khi chưa sút cân còn vừa vặn. Hai chân tôi gác lên lan can, khoảng giữa hai ngón chân cái phía đằng xa chính là con tàu khi nãy. Thời gian này trong ngày là lúc ta bắt đầu nghe thấy tiếng dế, tiếng côn trùng. Nhưng tôi không hâm mộ gì những tiếng ồn ã đó của tự nhiên nên đã để một chiếc đài quay băng xách tay trên chiếc bàn con bên cạnh và nghe nhạc của nhóm The Big Chill,chai Budweiser đặt bên trái, chiếc ống nhòm để trên bụng. Trên sàn gần tay phải tôi là khẩu Smith & Wesson .38 với nòng dài năm phân, vừa khít với chiếc ví của tôi. Chỉ để đùa thôi. Trong cái khoảng hai giây chuyển từ bài When a Man Loves a Woman sang bài Dancing in the Street, tôi nghe, hay linh cảm thấy, tiếng bước chân ai đó trên ván sàn đi quanh hiên. Vì sống một mình và cũng không mong chờ ai đó đến thăm, tôi với khẩu súng bên tay phải đặt vào bọc. Các bạn đừng cho rằng tôi mắc bệnh hoang tưởng, vì tôi đang điều trị, không phải bệnh tật mà là ba vết thương do đạn bắn, hai viên loại 9 li và một viên Magnum nòng 44. Kích cỡ của lỗ đạn không thành vấn đề. Cũng như trong mua bán nhà đất, quan trọng là vị trí, vị trí và vị trí. Rõ ràng mấy vết thương này ở những chỗ không đáng ngại, vì tôi đang phục hồi, chứ không rữa ra. Tôi nhìn sang phía phải nơi góc hiên quanh qua mặt phía tây của ngôi nhà. Một người đàn ông xuất hiện và dừng lại cách tôi dăm mét, đôi mắt dõi theo những bóng dài của mặt trời sắp lặn. Kỳ thực, bóng anh ta phủ cả lên người tôi nên có vẻ như không nhìn thấy tôi. Với mặt trời phía sau lưng người đàn ông, tôi rất khó mà nhìn ra khuôn mặt hay phán đoán ý định của người đó. Tôi nói, “Có thể giúp gì được anh không?” Người đàn ông quay lại phía tôi. “Ô, John, tôi không nhìn thấy cậu ở đó”. “Mời sếp ngồi”. Tôi nhét khẩu súng vào cạp quần dưới áo và vặn nhỏ tiếng của bài Dancing in the Street. Đó là Sylvester Maxwell, gọi tắt là Max, cảnh sát trưởng của thị trấn này. Max bước đến phía tôi và tựa vào lan can, đối diện với tôi. Anh mặc chiếc áo khoác màu xanh da trời mang phù hiệu, sơ mi trắng cài khuy thấp, quần màu nâu, đi giày không tất, kiểu của dân đi tàu. Không thể biết anh đang làm nhiệm vụ hay không. Tôi nói, “Có nước ngọt trong thùng lạnh đấy.” “Cám ơn”. Anh cúi xuống lấy một chai Budweiser ra khỏi thùng đá. Max thích gọi bia là nước ngọt. Anh nhấp một chút, đôi mắt đăm chiêu nhìn vào khoảng không trước mặt. Tôi hướng lại ra phía vịnh và nghe bài Too Many Fish in the Sea của nhóm Marvelettes. Vì là ngày thứ hai nên khách đi nghỉ cuối tuần đã về hết, ơn Chúa. Nhu tôi đã nói, sau ngày lễ Lao động, hầu hết những người thuê nhà nghỉ đã đi khỏi và bạn có thể cảm nhận sự yên tĩnh trở lại. Max là người bản xứ mà lại không đi thẳng vào chuyện, nên tôi chỉ còn cách là chờ đợi. Cuối cùng, anh hỏi tôi: “Cậu là chủ nhà ở đây à?”. “Là của cậu tôi. Ông ấy đang muốn tôi mua chỗ này.” “Đừng mua bất cứ thứ gì. Phương châm của tôi là, nếu nay đây mai đó thì chỉ thuê thôi.” “Cám ơn anh.” “Cậu sẽ ở đây một thời gian chứ?” “Tới khi nào không có gió thổi qua ngực tôi nữa.” Anh mỉm cười, nhưng rôi đăm chiêu trở lại. Max có khổ người to lớn, trạc tuôi tôi, khoảng trên dưới bốn mươi lăm, tóc vàng hoe hơi gợn sóng, nước da đỏ khỏe mạnh và đôi mắt màu xanh. Dường như trong mắt phụ nữ, anh là người điển trai. Điều này rất có lợi cho một cảnh sát trưởng Maxwell độc thân lại không mắc bệnh đồng tính. Max nói, “Cậu cảm thấy thế nào rồi ?” “Không tệ lắm.” “Cậu có thấy giống như bài tập cho tinh thần không?” Tôi không đáp. Tôi đã quen biết Max mười năm nay, nhưng vì không sống ở đây nên tôi chỉ thi thoảng mới gặp anh. Cũng phải nói thêm, tôi là điều tra viên ở thành phố New York chuyên về các vụ án giết người, trước đây làm ở Bắc Manhattan cho tới khi tôi bị thương. Đó là vào ngày 12 tháng Tư. Trong khoảng hai chục năm chưa có điều tra viên nào bị bắn ở New York nên vụ của tôi gây chú ý lớn. Phòng Thông tin Công chúng của Sở Cảnh sát New York tiếp tục đưa tin vì vẫn đang trong thời gian hợp đồng. Với bề ngoài khá được của tôi, hay đại loại như vậy, họ cũng có chút lợi, với sự hợp tác của báo chí, và chúng tôi cứ tiếp tục như vậy. Trong lúc đó, hai tên thủ phạm đã bắn tôi thì vẫn nhởn nhơ bên ngoài. Vì thế, tôi mất một tháng ở Trung tâm y tế Columbia Presbyterian, sau đó nghỉ vài tuần trong căn hộ của tôi ở Manhattan trước khi cậu Harry gợi ý căn nhà nghỉ mùa hè của ông là nơi thích hợp với một người hùng. Sao lại không nhỉ? Tôi đến đây vào cuối tháng Năm, ngay sau ngày Tưởng niệm Liệt sỹ*. Max nói, “Chắc cậu biết Tom và Judy Gordon.” Tôi nhìn anh. Ánh mắt hai người gặp nhau. Tôi hiểu. Tôi hỏi, “Cả hai người à?” Anh gật đầu. “Cả hai.” Sau một thoáng yên lặng kính cẩn, anh nói, “Tôi muốn cậu đến xem hiện trường.” “Tại sao lại là tôi?” “Tại sao lại không? Coi như giúp tôi. Trước khi có người khác lần ra được điều gì đó. Tôi đang thiếu điều tra viên án giết người.” Kỳ thực, cảnh sát thị trấn Southold không có lấy một điều tra viên án giết người nào và điều này cũng chẳng sao vì rất ít khi có ai đó bị giết. Mà nếu có thì cảnh sát quận Suffolk sẽ nhảy vào cuộc, còn Max đứng ngoài. Max không thích điều này. Cần nói thêm một chút về nơi này. Đây là vùng North Fork của đảo Long Island, bang New York. Theo một tấm bảng trên đường cao tốc, thị trấn Southold được một số người từ New Haven, bang Connecticut dựng lên vào những năm 1640. Theo tất cả những gì được biết, những người này đang trên đường chạy trốn khỏi sự truy đuổi của nhà vua. Vùng South Fork của đảo Long Island nằm ở phía bên kia của vịnh Peconic là một Hamptons đầy sành điệu: các nhà văn, nghệ sĩ, diễn viên, các hạng người được công chúng biết đến và đủ thứ hỗn tạp khác. Còn ở North Folk này, dân cư hầu hết là nông dân, ngư dân hay đại loại như vậy. Và có lẽ có một kẻ sát nhân. Ngôi nhà của cậu Harry nằm ngay trong thôn Mattituck, khoảng một trăm dặm đường bộ từ Đường 102 Tây, nơi hai quý ông trông như dân Latinh xả mười bốn, mười lăm phát đạn chào tạm biệt, ba phát trúng vào mục tiêu di động cách chừng dăm sáu mét. Không phải là một màn trình diễn ấn tượng, nhưng tôi không chê bai hay phàn nàn gì. Thị trấn Southold chiếm phần lớn vùng North Fork, bao gồm tám thôn và một ngôi làng, có tên là Greenport. Lực lượng cảnh sát gồm khoảng bốn mươi sỹ quan có tuyên thệ và Sylvester là cảnh sát trưởng. Max nói, “Trông cậu không có vẻ đau đớn.” “Có chứ. Điều gì sẽ xảy ra nếu tôi có trát đòi ra làm chứng ngoài này vào một thời điểm không mấy dễ chịu? Tôi không được trả tiền để làm điều này.” “Tôi đã gọi cho giám viên của thị trấn và được chấp nhận cho thuê cậu về làm chính thức với tư cách cố vấn. Một trăm đô la mỗi ngày.” “Chà. Nghe như thứ công việc mà tôi phải tiết kiệm để có được.” Max tự cho mình nở nụ cười. “Này, nhưng bao cả tiền gas và điện thoại của cậu. Với lại hiện giờ cậu cũng không làm gì.” “Tôi đang cố chữa lành vết thương ở phổi bên phải.” “Công việc này cũng không nặng nhọc gì lắm.” “Làm sao anh biết.” “Đây là cơ hội để cậu trở thành công dân tốt của thị trấn Southold đấy.” “Tôi là người New York. Không ai bắt tôi phải làm công dân tốt.” “Này, cậu có biết rõ nhà Gordon không? Họ là bạn của cậu à?” “Đại loại thế.” “Vậy còn gì nữa? Đó là động cơ cho cậu. Thôi nào, John. Đứng dậy. Chúng ta đi. Tôi sẽ nợ cậu chuyện này. Đặt một vé nhé.” Quả thật, tôi đã chán ngán, nhưng vợ chồng nhà Gordon là những người tốt... Tôi đứng dậy và đặt chai bia xuống. “Tôi sẽ nhận công việc với mức lương một đô la mỗi tuần để làm chính thức.” “Tốt. Cậu sẽ không tiếc đâu.” “Đương nhiên là sẽ tiếc.” Tôi tắt nhạc bài Jeremiah Was a Bullfrog và hỏi Max, “Có nhiều máu không.” “Ít thôi, vết thương ở đầu.” “Anh nghĩ tôi có cần xỏ dép không?” “Ồ... một ít óc và xương sọ vỡ phía sau...” “Được.” Tôi xỏ dép rồi cùng Max đi vòng theo hiên ra đường xe phía trước. Tôi ngồi vào chiếc xe cảnh sát không phù hiệu của Max, chiếc Jeep Cherokee màu trắng có lắp điện đài cảnh sát với thứ âm thanh loạc xoạc. Chúng tôi đi dọc theo con đường dài từ nhà ra. Con đường được phủ bằng vỏ sò và hến cá từ trăm năm nay do cậu Harry và những người trước đó trải chúng lên đường cùng với tro và xỉ than của lò sưởi để tránh bùn và bụi. Dù sao đi nữa, chỗ này trước đây đã từng được gọi là trang trại của vịnh, giờ vẫn nằm phía trước vịnh, nhưng hầu hết diện tích của trang trại đã bị bán hết. Cây cối ở đây hơi quá lứa, chủ yếu là những thứ không còn dùng đến, như cây đầu xuân, liễu tơ và những hàng rào thủy lạp. Ngôi nhà sơn màu kem với những đường trang trí màu xanh, mái nhà cũng màu xanh. Tất cả đều rất đẹp, thực sự đẹp. Có lẽ tôi sẽ mua nó nếu mấy tay bác sĩ của cảnh sát nói tôi phải nghỉ hẳn. Tôi phải tập ho ra máu mất thôi. Về chuyện vết thương, tôi được trả lương hưu miễn thuế suốt đời vì tỉ lệ thương tật ba phần tư. Chuyện này ở Sở Cảnh sát New York chẳng khác gì đến thành phố Atlantic, sà vào sòng bạc Trump’s Castle, chúi đầu vào một chiếc máy đánh bạc trước sự chứng kiến của một luật sư chuyên về nợ. Độc đắc rồi! “Cậu nghe thấy tôi nói không?” “Gì cơ?” “Tôi nói, một người láng giềng phát hiện ra họ lúc 5 giờ 45 chiều.” “Tôi được tính lương ngay lúc này đấy à?” “Chắc chắn rồi. Mỗi người bị bắn một phát vào đầu. Người láng giềng phát hiện ra họ nằm ở hiên sau nhà.” “Max, tôi sẽ xem xét toàn bộ hiện trường. Còn người láng giềng kia thì sao?” “Đó là Edgar Murphy, một ông già. Ông ta nghe tiếng tàu của vợ chồng Gordon về lúc 5 giờ 30. Khoảng mười lăm phút sau ông ta đi qua thì thấy họ đã bị giết. Không nghe thấy tiếng súng nào.” “Ông ta dùng máy trợ thính à?” “Không. Tôi đã hỏi ông ta. Edgar nói bà vợ ông ta cũng vẫn thính tai. Vì thế, có thể là súng giảm thanh. Cũng có thể tai họ không được tốt như họ nghĩ.” “Nhưng họ đã nghe thấy tiếng con tàu. Edgar chắc chắn về thời gian à?” “Rất chắc chắn. Ông ta gọi cho chúng tôi lúc 5 giờ 51 chiều, tức là gần thời điểm đó.” “Đúng.” Tôi nhìn đồng hồ. Lúc này là 7 giờ 10 phút. Chắc hẳn ngay sau khi đến hiện trường, Max đã có ý tưởng sáng suốt là tìm tôi. Tôi đoán các nhân viên điều tra án mạng của quận Suffolk hiện đang ở đó. Có lẽ họ đến từ một thị trấn nhỏ có tên là Yaphank, nơi đặt trụ sở của cảnh sát quận và cách chỗ vợ chồng Gordon sống khoảng một giờ lái xe. Max nói đủ thứ dài dòng, còn tôi cố tập trung suy nghĩ. Nhưng đã năm tháng nay tôi chưa phải nghĩ đến những điều như thế này. Tôi định ngắt lời, “Chỉ các sự kiện chính thôi, Max!”, nhưng tôi lại để anh tiếp tục lải nhải. Cùng lúc đó, âm điệu của bài hát Jeremiah Was a Bullfrog vẫn luẩn quẩn trong đầu tôi. Các bạn biết đấy, thật sự rất khó chịu khi không thể dứt hẳn một điệu nhạc ra khỏi đầu. Nhất lại là thứ này. Tôi nhìn ra ngoài qua cửa xe. Chúng tôi chạy dọc theo con đường chính theo hướng đông-tây có cái tên nghe dễ chịu là đường Main Road, tới một nơi gọi là Nassau Point, nơi vợ chồng Gordon sống - hoặc đã từng sống. North Folk gần giống như Cape Cod, vùng đất gió lộng nhô ra biển, ba bề là nước, một nơi có nhiều sự kiện lịch sử. Dân cư bản địa không nhiều, chỉ khoảng hai mươi nghìn, nhưng lượng người đi nghỉ hè và nghỉ cuối tuần đến đây rất đông. Những xưởng sản xuất rượu vang cũng thu hút khách đến rồi đi trong ngày. Cứ thử mở một xưởng rượu, bạn sẽ có cả chục nghìn tay ăn chơi từ thành thị gần nhất đến nhâm nhi. Đố bao giờ sai. Chúng tôi rẽ theo hướng nam tới Nassau Point. Nơi đây là một dải đất dài hai dặm giống như một lưỡi dao cắt vào vịnh Great Peconic. Từ cầu tàu ở nhà tôi tới nhà Gordon khoảng bốn dặm. Nassau Point trở thành một điểm nghỉ hè từ khoảng những năm 1920. Nhà cửa ở đây từ những căn nhà gỗ đơn giản đến những tòa nhà hoành tráng. Albert Einstein cũng đã từng đến đây nghỉ hè, và chính từ đây, vào khoảng những năm 1930, ông đã biết “Bức thư Nassau Point” nổi tiếng gửi Roosevelt thúc giục ngài tổng thống tiến hành việc nghiên cứu chế tạo bom nguyên tử. Phần còn lại, như người ta nói, là cả lịch sử. Một điều thú vị là Nassau Point vẫn là nơi ở của một số nhà khoa học. Một số người làm việc tại Phòng Thí nghiệm Quốc gia Brookhaven, cơ quan nghiên cứu hạt nhân bí mật hay gì đó cách đây khoảng ba mươi lăm dặm. Một số nhà khoa học làm việc trên Đảo Plum, khu vực tuyệt mật nghiên cứu sinh học đáng sợ tới mức phải đặt nó trên một hòn đảo. Đảo Plum cách khoảng hai dặm từ mũi Orient Point, điểm cuối cùng trên đất liền ở North Folk - điểm dừng tiếp theo là châu Âu. Không phải ngẫu nhiên, Tom và Judy Gordon là hai nhà nghiên cứu sinh học làm việc trên Đảo Plum. Bạn có thể đánh cược là cả Sylvester Maxwell và John Corey đều đang nghĩ đến điều đó. Tôi hỏi Max. “Anh đã gọi cho cơ quan liên bang chưa?” Anh lắc đầu. Mời các bạn mượn đọc sách Đảo Plum của tác giả Nelson DeMille & Đỗ Thúy (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Vị Khách Chủ Nhật
“… Những ngọn núi sau lưng ông sừng sững như một đại giáo đường. Chúng trỗi lên thẳng đứng từ mặt biển, vĩ đại và hùng tráng, già lão và nhàn nhĩ, mỗi ngọn có khuôn mặt xám xịt riêng. Những khuôn mặt luôn luôn thay đổi, có sống cả đời cũng chưa đủ để ghi nhận hết. Khúc nhạc đại phong cảm của gió tàn phá chúng với tốc độ vô cùng chậm chạp nhưng không bao giờ ngơi nghỉ. Ông chẳng để ý gì đến chúng nữa cả. Lúc nào chúng chả đứng đó. Những người khác đến đây để ngây ngất chiêm ngưỡng núi, để trèo lên đó và lại gần bầu trời thêm một chút, có lẽ để được diện kiến các đấng thánh thần chăng. Nhưng ông cũng như những người cư ngự khác ở đây, đối với ông núi non là sự mặc định. Phải chăng có sở thích triết luận và suy tư thì ắt ông sẽ coi chúng là những người lính gác, là rào chắn mọi hiểm nguy rình rập. Đã có lần ông rời đảo, đã cố gắng đoạn tuyệt nó mà không thành. Từ đó ông chỉ vào bờ khi chẳng dừng, và đôi khi làm một chuyến du ngoạn trọn gói về phương Nam. Bây giờ ông là một người khác. Sống một cuộc sống điều độ. Ngày xưa ai dám tin chuyện đó? Cũng đôi khi tâm trí ông trôi về dĩ vãng, song ngày càng hiếm hơn . Tốt hơn hết là cái gì đã qua thì cứ để nó yên. Nhưng không phải lúc nào cũng làm được thế. Con bé ấy đã biến đi đâu? Liệu có bao giờ ông biết được không?...” - “Khi bạn đã kiệt sức và từ bỏ Dostoyevsky, hãy đọc Kanger. Nó chính là phương thuốc chữa trị tình yêu đang phai nhạt mà bạn dành cho việc đọc sách”. – Upsala Nya Tidning - “Thomas Kanger đã trở thành một tác giả trinh thám tài năng ngang tầm những tên tuổi có uy tín trong thể loại này như Mankell, Edwardson và Nesser”. – Varnamo Nyheter. - “Văn phong của Kanger ấn tượng một cách tàn nhẫn. Không đối trọng nào được phép xuất hiện trong lời tường thuật của ông. Nó cũng tương tự phương pháp sắt đá đặc sắc của Hemingway” – Eskilstuna-kurien. - “Thomas Kanger và nhân vật Elina Wiik của ông nổi bật lên như ngôi sao sáng chói nhất trên bầu trời văn học trinh thám Thụy Điển” – Gefle Dagblad. *** Hồi hộp và lôi cuốn, tác phẩm trinh thám này không chỉ lần theo dấu vết hung thủ của một vụ án sắp hết thời hiệu khiếu kiện mà còn dẫn dụ độc giả khám phá thế giới tâm lý nhân vật ở những tầng sâu thẳm… Review Tác phẩm: Vị khách chủ nhật Một vụ án mạng từ hai mươi tư năm và mười một tháng trước, chính xác là còn hai mươi lăm ngày nữa sẽ khép lại vĩnh viễn. Một phụ nữ trẻ bị bóp cổ chết. Năm tháng sau xác của cô được phát hiện với những vết răng sói cắn. Đứa con gái hoàn toàn mất tích. Bộ hồ sơ dài tới ba nghìn trang với những phần điều tra tỉ mỉ và đầy nỗ lực… Nữ cảnh sát Elina Wiik đã quyết định lật lại vụ án này từ nỗi ám ảnh của một đồng nghiệp thân thiết, khi anh bị chứng nhồi máu cơ tim. 35 tuổi, xinh đẹp và đầy bản lĩnh, Wiik mang đến cảm giác đầu tiên về một “người đàn bà thép”, khi đã quyết là không rời bỏ mục tiêu lựa chọn của mình. Và Wiik đã chọn nạn nhân Ylva Marieanne Malmberg của gần hai mươi lăm năm trước, bắt đầu từ một xuất phát điểm mà chính cô cũng thừa nhận đây là một chuyện viển vông, một vụ chưa ai làm nổi bao giờ. Có bao điều phiền toái kéo theo từ vụ án tưởng chừng đã được khép lại ấy. Công việc thường ngày của Wiik là giải quyết những vụ trộm vặt, đánh nhau đã vì thế mà bê trễ. Ba nghìn trang hồ sơ không chỉ ngốn hết thời gian của Wiik mà còn lan sang cả một vài đồng nghiệp trong cơ quan. Điều này khiến vị sếp trong cơ quan hết sức bực bội. Đã có lúc Wiik bị dồn tới bước đường cùng, buộc phải rời bỏ vụ án. Tuy nhiên, người phụ nữ trẻ này lúc nào cũng biết tìm cho mình một lối để tiếp tục đi. Có tới ba mươi tư nghi phạm được Wiik liệt kê từ những cuốn nhật ký để lại của Ylva. Và cô đã quay ngược lại thời gian để tái hiện lại tất cả những gì đã xảy ra với nạn nhân trước đó. Những kẽ hở của hồ sơ đã được phát hiện, và Wiik lúc nào cũng tin tưởng sẽ giải quyết được vụ án mạng này tới cùng. Đầy cuốn hút với các nhân vật dường như ai cũng có xu hướng không muốn bày tỏ bản thân quá nhiều. Lôi cuốn với hai tuyến nhân vật cùng lao về quá khứ, một bên là nữ cảnh sát tài ba và chuyên nghiệp, một bên là cô gái trẻ Kari muốn kiếm tìm sự thật nguồn gốc của mình. Hồi hộp với những mắt xích mãi tận đẩu đâu có thể tình cờ ghép nối được với nhau, hé mở một cách bất ngờ. Và điều kỳ diệu mà Thomas Kanger đã làm được: chỉ để tội phạm xuất hiện ở phút cuối, và kèm theo một tiết lộ gây sửng sốt không kém. Vị khách chủ nhật là cuốn sách thứ tư trong bộ tiểu thuyết trinh thám sáu tập của nhà văn Thụy Điển Thomas Kanger. Khác với những cuốn trước đó, tác phẩm này được xây dựng hoàn toàn từ hư cấu. Với cặp mắt quan sát của một phóng viên điều tra, Thomas Kanger đã đưa vào Vị khách chủ nhật cái nhìn quyết liệt tới tận cùng sự thật, khiến văn phong của ông ấn tượng một cách tàn nhẫn. Đó là lý do để Thomas Kanger và nhân vật Elina Wiik của ông nổi bật lên như ngôi sao sáng chói nhất trên bầu trời văn học trinh thám Thụy Điển. Tác phẩm này đã được dịch ra nhiều thứ tiếng như Đức, Pháp, Tây Ban Nha, Na Uy, Phần Lan, Đan Mạch, Hà Lan…, được đề cử giải Tiểu thuyết hình sự Thụy Điển và hiện đang được Hollywood dựng thành phim. Thomas Kanger sinh năm 1951, sống gần Stockholm. Trước khi bước vào nghiệp viết tiểu thuyết trinh thám, ông là phóng viên thường trú nhiều năm ở nước ngoài. Là nhà văn, nhà báo, Thomas Kanger đã chín lần sang Việt Nam giảng dạy về báo chí, và dấu ấn này ít nhiều lưu lại trong Vị khách Chủ nhật, mở đầu với một khung cảnh ở Việt Nam. Bản lĩnh của phóng viên đã mang đến cho tác giả một cái nhìn chiều sâu sau những tác phẩm trinh thám, mà ông từng tâm sự: “Làm báo, tôi quan tâm đến vấn đề lạm dụng quyền lực; còn khi viết tiểu thuyết tôi muốn tìm hiểu xem tại sao người ta lại hành động theo cách này hay cách khác, sự phát triển trong xã hội đã ảnh hưởng đến con người ra sao, đặc biệt đối với phụ nữ”. Phúc Yên - vnexpress.net *** Tác giả Nhà văn, nhà báo Thụy Điển nổi tiếng Thomas Kanger sinh năm 1951, lớn lên ở Uppsala, sau đó sống gần hai mươi năm ở Västerås, hiện sống gần Stockholm, ông bắt đầu làm báo từ năm 1980, mười năm sau chuyển sang làm phóng viên truyền hình, từng là phóng viên thường trú nhiều năm ở nước ngoài. Thomas Kanger đã viết tổng cộng chín cuốn sách, bao gồm: năm tiểu thuyết trinh thám, một tiểu thuyết kinh dị, một cuốn sách nghiên cứu, hai cuốn sách điều tra. Thomas Kanger cũng hợp tác với Truyền hình Quốc gia Thụy Điển làm phim tài liệu phóng sự điều tra. Đề tài trong tác phẩm của ông thường gây được sự chú ý mạnh mẽ trong dư luận xã hội không chỉ ở Thụy Điển mà cả ở nước ngoài. Thomas Kanger làm báo và viết văn với niềm tin tạo ra những tác động góp phần loại bỏ những điều xấu trong xã hội. Với tài năng và tầm ảnh hưởng ngày càng mở rộng của ông, điều này đã phần nào trở thành hiện thực. Các tiểu thuyết của ông được dịch ra nhiều thứ tiếng, dựng thành phim. Thomas Kanger từng tham gia phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam tại Mỹ, đã đến Việt Nam chín lần để giảng dạy về báo chí. Tiểu thuyết trinh thám Vị khách Chủ nhật mở đầu với một khung cảnh Việt Nam lần đầu được dịch sang tiếng Việt sẽ là những trang sách hấp dẫn giới thiệu với độc giả Việt Nam một nhà văn tài năng đến từ đất nước Thụy Điển xa xôi. *** Chuyện kể ngày xưa lần đầu tiên sói và tuần lộc gặp nhau. Trông thấy cặp sừng to tướng và đôi mắt đen của tuần lộc, sói thất kinh. “Cậu cần sừng nhọn làm gì vậy?” sói hỏi. “Cậu nói đúng, sừng tớ nhọn lắm,” tuần lộc đáp. “Nhưng tớ vừa ra đời nên chưa rõ dùng sừng làm việc gì cả.” Không vì thế mà sói thấy yên tâm. “Tại sao đôi mắt đen to tướng của cậu lại nhìn tớ chằm chằm vậy?” sói muốn biết. “Tớ không muốn làm cậu sợ đâu, hay là tớ quay mặt đi vậy nhé,” tuần lộc nói. Giờ thì đến lượt tuần lộc hỏi sói. “Thế cậu là ai? Trông thấy răng cậu vàng khè và họng cậu đỏ chót tớ sợ phát run lên.” Nghe tuần lộc nói sợ mình, sói khẽ vẫy đuôi và gầm gừ: “Hãy liệu hồn khi gặp ta, vì lúc nào ta cũng thấy đói.” Từ đó trở đi sói là kẻ mạnh hơn và tuần lộc là con mồi của nó. Ông quen tay thả dây buộc lưỡi câu trượt xuống nước. Trời xám xịt đầy mây, không khí đã ứ hơi mưa, và xung quanh im ắng lạ thường so với biển Baltic thường ngày. Chiếc thuyền con lúc lắc trườn tới một cách thận trọng. Kinh nghiệm cho ông biết thời tiết có thể đột ngột thay đổi. Đang lặng gió đấy mà cũng có thể ầm ào ngay đấy, song chưa bao giờ vì thế mà ông không chèo thuyền ra biển. Ra tận ngoài khơi, cách xa bờ, chỉ ở đó ông mới thấy thanh thản. Những ngọn núi sau lưng ông sừng sững như một đại giáo đường. Chúng trồi lên thẳng đứng từ mặt biển, vĩ đại và hùng tráng, già lão và nhàu nhĩ, mỗi ngọn có khuôn mặt xám xịt riêng. Những khuôn mặt luôn luôn thay đổi, có sống cả đời cũng chưa đủ để ghi nhận hết. Khúc nhạc đại phong cầm của gió tàn phá chúng với tốc độ vô cùng chậm chạp nhưng không bao giờ ngơi nghỉ. Ông chẳng để ý gì đến chúng nữa cả. Lúc nào chúng chả đứng đó. Những người khác đến đây để ngây ngất chiêm ngưỡng núi, để trèo lên đó và lại gần bầu trời thêm một chút, có lẽ để được diện kiến các đấng thánh thần chăng. Nhưng ông cũng như những người ngụ cư khác ở đây, đối với ông núi non là sự mặc định. Phải chăng có sở thích triết luận và suy tư thì ắt ông sẽ coi chúng là những người lính gác, là rào chắn mọi hiểm nguy rình rập. Đã có lần ông rời đảo, đã cố gắng đoạn tuyệt nó mà không thành. Từ đó ông chỉ vào bờ khi chẳng đừng, và đôi khi làm một chuyến du ngoạn trọn gói về phương Nam. Bây giờ ông là một người khác. Sống một cuộc sống điều độ. Ngày xưa ai dám tin chuyện đó? Cũng đôi khi tâm trí ông trôi về dĩ vãng, song ngày càng hiếm hơn. Tốt hơn hết là cái gì đã qua thì cứ để nó yên. Nhưng không phải lúc nào cũng làm được thế. Con bé ấy đã biến đi đâu? Liệu có bao giờ ông biết được không? Mời các bạn mượn đọc sách Vị Khách Chủ Nhật của tác giả Thomas Kanger & Lê Quang (dịch).
Vẫy Vùng Giữa Vũng Lầy
Mọi chuyện bắt đầu vào một đêm tháng Tư thanh mát, khi cô vợ xinh đẹp nóng bỏng bị hất khỏi chiếc du thuyền sang trọng xuống lòng đại dương ngay vào đêm kỷ niệm hai năm ngày cưới bởi chính người chồng yêu dấu! Bội bạc, ngoại tình, hay còn mưu toan ghê gớm gì khác khiến gã phải làm chuyện tày đình? *** "Vẫy vùng giữa vũng lầy" - Bình Bồng Bột dịch từ tác phẩm "Skinny Dip" - mang nội dung tội phạm theo phong cách hài hước. Bình Bồng Bột (tên thật: Trần Minh) dành một năm qua để dịch tiểu thuyết xuất bản năm 2004 của Carl Hiaase. Anh chọn tựa đề Vẫy vùng giữa vũng lầy nhằm thể hiện thế mắc kẹt của nhân vật chính và cả những người liên quan trong cuộc sống, công việc và sự lựa chọn của họ. Nhan đề cũng liên quan chặt chẽ tới vùng đầm lầy Evanglades, bang Florida, bối cảnh diễn ra phần lớn câu chuyện. Tác phẩm có khởi đầu "mở toang": Một vụ mưu sát mà thủ phạm hạ sát nạn nhân ngay từ trang đầu tiên. Tuy nhiên, cách dẫn dắt của tác giả Carl Hiaasen khiến người đọc phải tò mò, do nạn nhân không chết, còn nguyên nhân của vụ án hết sức mù mờ. Độc giả sẽ cố lần theo trang sách tìm cho ra nguyên nhân người chồng hất cô vợ xinh đẹp, nóng bỏng, thông minh và giàu có xuống biển từ boong du thuyền ngay trong đêm kỷ niệm hai năm ngày cưới. "Vẫy vùng giữa vũng lầy" do Nhà xuất bản Hội Nhà văn và Tao Đàn ấn hành, ra mắt trong tháng 1. Ảnh: Tao Đàn. Đi theo hành trình của người vợ lần tìm lý do chồng hạ sát mình, cuốn truyện đưa độc giả đến với những bí mật động trời của giới nhà giàu Mỹ, nhưng cũng là những câu chuyện hết sức thời sự trên thế giới: nạn đầu độc môi trường, chuyện chính quyền cấu kết với giới tài phiệt lũng đoạn kinh tế, bóc lột người lao động, hay nạn mua bán bằng cấp, làm giả số liệu, tống tiền... Dưới ngòi bút của tác giả Carl Hiaasen - một cựu nhà báo của Miami Herald và Tribune Content Agency - các câu chuyện, hội thoại hài hước mang đậm văn hóa đại chúng Mỹ liên tiếp hiện ra, với những ví von về các ngôi sao ca nhạc, điện ảnh, thời trang, thể thao như ban nhạc The Beatles, nữ hoàng nhạc đồng quê Shania Twain, danh hài Jim Carrey, phim James Bond. Cũng như nhiều tác phẩm hiện đại Mỹ, tiểu thuyết có nhiều nhân vật kỳ dị, hành động khác thường khiến độc giả phì cười nhưng không quá bất ngờ. Không cần một cái kết đóng, dứt khoát hay có hậu, Vẫy vùng giữa vũng lầy làm độc giả thỏa mãn khi khép lại trang cuối vì đã trải qua một hành trình hồi hộp, gay cấn nhưng dần dần gỡ được các nút thắt một cách hợp lý. Giống các tiểu thuyết tội phạm Mỹ, truyện không thiếu các màn nổ súng, rượt đuổi lẫn tình ái mùi mẫn. Bình Bồng Bột có bản dịch khá thành công, truyền tải được nguyên vẹn nội dung và còn sáng tạo trong việc chuyển ngữ. Bản dịch thể hiện được giọng văn hài hước, châm biếm, sử dụng đầy rẫy ngôn ngữ thời thượng phù hợp với lớp trẻ những vẫn không mất đi "chất Mỹ", đem lại sự thú vị và sảng khoái cho người đọc. Nếu cần hoàn thiện hơn, có lẽ chỉ là việc còn nhiều thuật ngữ, danh từ riêng cần được chú thích rõ ràng hơn cho bạn đọc đại chúng ở lần tái bản. Tiên Long - vnexpress.net *** Trong 3 ngày cuối mùng của Tết vừa qua (mùng 6 đến mùng 9 Tết) mình đã xuất sắc đến không tin được khi đã đọc xong cuốn sách mới nhất của Tao Đàn là Vẫy vùng giữa vũng lầy của Carl Hiaasen (dịch Bình Bồng Bột). Cuốn tiểu thuyết 420 trang sặc mùi bạo lực, chính trị, xã hội, môi trường và cả những cảnh phim con heo nữa. Quá nhiều yếu tố thuộc nhóm sách mình chưa bao giờ ưu tiên tìm đọc trước giờ. Lý do duy nhất mình đọc nó chính là do anh Bình Bồng Bột dịch. Mình mê anh Bình Bồng Bột sau khi đọc Phút 89: Tự truyện Lê Công Vinh, “CR7 vs Messi, Khổ luyện và Thiên tài” và gần nhất cuốn Tự truyện siêu nặng ký nghĩa đen lẫn nghĩa bóng: Mike Tyson – Sự thật trần trụi (lúc này ảnh để tên chấp bút là Trần Minh). Mình được biết là ảnh còn 2 cuốn tự truyện khác nữa là Tự truyện Hoàng Thùy Linh: Vàng anh và phượng hoàng với Tôi là Ibrahimovic. Nhưng vì đã đọc 3 cuốn thể loại tự truyện rồi nên mình không có dự định đọc tiếp 2 cuốn này. Vì vậy khi biết và thấy những người anh, chị chia sẻ cuốn tiểu thuyết dịch mới nhất của anh Bình Bồng Bột mình vứt hết liêm sỉ đã xin vợ lì xì ngay. Mời các bạn mượn đọc sách Vẫy Vùng Giữa Vũng Lầy của tác giả Carl Hiaasen & Bình Bồng Bột (dịch).
Kẻ Cắp Sách
“Một. Biên. Kịch. Bị. Rơi. Vào. Khủng. Hoảng. Phong. Độ. Đã. Giết. Một. Biên. Kịch. Khác. Và. Rồi. Ăn. Cắp. Cuốn. Sách. Của. Người. Chết.” Ơ! Hơn hai mươi chữ cái rồi. Ôi thật là, không được vượt quá hai mươi chữ. Biên kịch đã dặn không cần đếm xỉa gì đến mấy cái tác phẩm có bản tóm tắt dài quá hai mươi chữ. Hay là thế này? “MỘT. BIÊN. KỊCH. RƠI. VÀO. KHỦNG. HOẢNG. PHONG. ĐỘ. NÊN. GIẾT. NGƯỜI. RỒI. ĂN. CẮP. NGUYÊN. TÁC. CỦA. NGƯỜI. CHẾT”   “Kẻ Cắp Sách mang đến hơi thở mới cho thể loại sách trinh thám Hàn Quốc. Nó thật sự có ma lực khiến tôi không thể nào rời mắt cho đến tận trang cuối cùng.” - Giám đốc Cha Seungjae - Chế tác phim “Ký ức kẻ sát nhân”, “Gian lận” “Căn phòng giam cầm trong Kẻ Cắp Sách kinh hãi đến rùng mình. Đâu đó trong xã hội hiện nay, cái phòng giam ấy cũng đang tất bật quay trở lại.” - Nhà văn Son Aram *** Trong khi ấy, “Kẻ cắp sách” là tiểu thuyết trinh thám Hàn Quốc của tác giả You Sun Dong từng đạt giải Sáng tác Văn học Hàn Quốc lần thứ 3 và được chuyển thể thành bộ kịch nổi tiếng.  Cuốn sách là câu chuyện về một biên kịch tiếng tăm sắp “hết thời”, đến gần cái tuổi 40, ông ta trở nên thất bại và chìm dần trong giới biên kịch… Bằng lối kể chuyện điềm tĩnh, giọng văn sâu lắng không kém phần ly kỳ của mình, You Sun Dong đã tái hiện lại câu chuyện ấy bằng những lát cắt rất sinh động, hồi hộp cho người đọc. Đây là thể loại sách trinh thám có đủ các yếu tố ganh ghét, tình yêu, phản bội, sỉ nhục, bắt cóc và trả thù. Căn phòng giam cầm trong “Kẻ cắp sách” phản ánh mặt tối đâu đó trong xã hội hiện nay. Nhà văn Tiểu Chi chia sẻ, dù mỗi người đều có cảm giác và định nghĩa khác nhau về sự hạnh phúc, nhưng hạnh phúc cũng có thể tăng lên khi chia sẻ với những người xung quanh. Đây thật sự là câu chuyện ấm áp về tình bạn và tình yêu thương với mọi người. Đó cũng là nét văn học rất hiện đại, song song giữa với các giá trị truyền thống, giống như một đất nước Hàn Quốc thu nhỏ. *** YOU SUN-DONG Biên kịch, đạo diễn người Hàn Quốc, xuất thân từ khoa kịch nói, trường Đại học HanYan. Là một người không ngừng cố gắng với mong muốn mang đến cho khán giả những tác phẩm xuất sắc. Ông từng viết kịch bản cho các bộ phim "Tác phẩm đại tác chiến", "Hãy bán vào trái tim tôi" và đạo diễn những tác phẩm điện ảnh như "Công tố viên ma cà rồng” (phần 2), "Câu chuyện thứ hai: thực tập sinh". *** LỜI GIỚI THIỆU TÔI NGHĨ RẰNG, CUỘC ĐỜI KÌ DIỆU Ở CHỖ NHỮNG VIỆC NẰM TRONG KẾ HOẠCH THÌ KHÔNG THÀNH, NHƯNG NHỮNG THỨ KHÔNG CÓ TRONG KẾ HOẠCH LẠI ẬP ĐẾN BẤT NGỜ. Ngay cả quá trình tôi bắt đầu làm biên kịch viết kịch bản, rồi trở thành đạo diễn, và trong cuộc sống riêng tư, kết hôn rồi sinh hai đứa con, không thể nói đó là những việc nằm trong kế hoạch dự tính của tôi, mà đơn thuần chỉ là một chuỗi những việc “bất ngờ ập đến”. Năm 2017, một lần nữa, chuyện nằm ngoài kế hoạch lại xảy đến, tôi bắt đầu viết tiểu thuyết. Cơ duyên ra đời của Kẻ Cắp Sách diễn ra thế này. Lúc ấy, bộ phim nằm trong “kế hoạch” tôi dự tính đã không thành công, còn vợ tôi thì đang mang thai đứa con đầu tiên ngoài “kế hoạch”, nên tôi nghĩ mình phải làm gì đó để xua tan nỗi cực nhọc của cô ấy. Thế là, tôi quyết định mỗi ngày sẽ kể vợ nghe đôi chút những câu chuyện hay lẩn quẩn trong đầu mình bấy lâu nay với hy vọng chúng mang lại niềm vui nho nhỏ cho cái bụng ngày càng to kia. Dĩ nhiên, cùng lúc đó, tôi cũng muốn tự trói mình vào sợi dây cương của kẻ viết văn, để bản thân đừng xao nhãng những con chữ. Những kỳ truyện của Kẻ Cắp Sách cứ thế xô đẩy nhau thành dòng chữ nằm ngay ngắn trên trang giấy, đều đặn mỗi ngày giống như mấy kỳ tiểu thuyết được đăng tải trên tạp chí. Nhưng khác là nó chỉ phục vụ duy nhất cho một độc giả mà thôi. Giờ đây ngồi nghĩ lại, thật sự không thể hiểu tại sao khi ấy, mỗi ngày trôi qua, tôi lại có thể viết ra những thứ không tốt cho thai nhi như thế. Nhưng cũng thật may mắn, vợ tôi cảm thấy thích thú và vui vẻ tận hưởng từng dòng chữ. Hơn nữa, cô ấy còn dành cho tôi những lời động viên ấm áp và không quên kèm theo mấy lời khuyên “lạnh lùng buốt giá”. Quan trọng hơn cả, nếu tôi lỡ dù chỉ một ngày truyện thôi, vợ sẽ dồn ép đến tận chân tường hỏi cho ra lẽ vì sao thất hứa với độc giả. Lúc đó, trông cô ấy không khác gì người vừa bị kẻ khác xù tiền vậy. Cuối cùng, Kẻ Cắp Sách đã đoạt giải trong cuộc thi “Sáng tác văn học toàn quốc Hàn Quốc” và được chuyển thể thành kịch cũng như truyện tranh webtoon. Dù vậy, tôi không dám nghĩ sẽ chuyển thể nó thành tiểu thuyết. Dẫu cho cuốn sách đã dày 150 trang giấy A4, nhưng đối với tôi, nó chỉ mang dáng dấp của một tác phẩm tiểu thuyết, còn để gọi là tiểu thuyết thực thụ thì có phần ngượng ngùng và xấu hổ. Bẵng đi vài năm bị xếp trong góc, thì giờ đây, tôi lại cầm đến nó sau lời đề nghị của giám đốc Park Kwang Woon đến từ nhà xuất bản. Anh mong muốn nhìn thấy Kẻ Cắp Sách được hóa thân thành tác phẩm tiểu thuyết. Giờ đây, đọc lại bản thảo sau vài năm xa cách, tôi nhận ra những khiếm khuyết chưa từng thấy trước đây, và thầm nghĩ, nếu khắc phục được chúng thì ít nhất, nó có thể trở thành một “áng văn gần giống với tiểu thuyết”. Hoặc nếu không được, thì chí ít, nó cũng là một tác phẩm thú vị, đáng để đọc. Vì thế, tôi hạ quyết tâm phải biến nó thành tiểu thuyết. Cho đến tận ngày hôm nay, tôi vẫn mong muốn được gửi lời cảm ơn đến tất cả những vị giám đốc, họa sĩ và giáo sư đã giúp tôi khai sáng “tâm thế người biên kịch” trong mình, tìm ra nguồn cảm hứng và chuyển thể thành công cuốn sách này. Cũng xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân đã luôn ủng hộ dù bản thân con còn nhiều thiếu sót. Con yêu mọi người nhiều. Và anh cũng không quên dành tặng cuốn sách này cho em - người vợ thương yêu, độc giả đầu tiên và cuối cùng của anh. Mặc dù, trong lòng anh chưa bao giờ thôi băn khoăn liệu cuốn sách này có phải món quà phù hợp dành tặng cho vợ hay không. Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến bạn, quý độc giả đáng mến đang cầm trên tay cuốn sách này. Vì có bạn, tôi mới tồn tại. Một ngày tháng 12 khép lại năm 2017. You Sun Dong *** MICHELANGELO NGẨN NGƠ NHÌN KHỐI ĐÁ HOA CƯƠNG CAO SÁU MÉT SUỐT BA THÁNG TRỜI. Cuối cùng, ông cũng phát hiện David trốn trong đó. Công việc cần làm bây giờ chỉ đơn giản là dùng búa và đục gọt đẽo những phần thừa của phiến đá. Vì vẻ đẹp tuyệt đối ngự trị hoàn hảo trong chính sắc thái vốn có và tự bản thân nó. Bên trong căn phòng tối. Cái không khí đen quánh khiến người ta chẳng rõ đó là phòng hay nhà kho. Chỉ có chút ánh sáng yếu ớt, lập lòe phát ra từ màn hình laptop, hắt lên dáng hình một chàng trai bắt chéo chân, ngồi bất động như đá. Gương mặt thô ráp, nhợt nhạt. Râu ria lộn xộn, đôi môi nứt nẻ. Đầu tóc rối như người vô gia cư, còn móng tay thì đầy ghét cáu bẩn, đang đặt trên bàn phím. Nếu ai đó tận mắt thấy, hẳn sẽ nôn mửa mất. Đôi mắt kia mà ngừng chớp, người ta sẽ chẳng lý gì không tin người đàn ông ấy là một xác chết. Rốt cuộc, trạng thái đó, tư thế đó đã duy trì bao lâu rồi? Một tuần, hai tuần, một tháng hay ba tháng, như Michelangelo từng làm? Như vậy đó. Bây giờ, anh ta nhìn chăm chăm vào màn hình laptop, hệt Michelangelo trước đây từng ngắm nghía phiến đá không rời. Màn hình trống trơn, không có lấy một con chữ. Duy chỉ có con trỏ đang nhấp nháy như trêu ngươi. Với một nhà văn, còn nỗi sợ hãi nào lớn hơn? Nhưng càng sợ thì lại càng phải nhìn kỹ. Vì đến một khoảnh khắc nào đó, nỗi sợ sẽ biến mất, nhường chỗ cho nhà văn nhớ về quá khứ, nhìn thấy hiện tại và nghe tương lai thì thầm. Đã đến lúc dùng búa và đục để gọt bỏ những thứ không cần thiết. Cứ như thể trạng thái đó, bản chất đó đã từng tồn tại. Những ngón tay trên bàn phím bắt đầu nhúc nhích, như chiếc máy hoen gỉ được khởi động sau một thời gian dài, với tiếng kim loại va vào nhau ken két. KẺ CẮP SÁCH Đã viết được 3 chữ. Có lẽ là tựa sách. Tiểu thuyết này phải trở thành sách hay nhất anh từng viết. Nhất định là như thế. Mời các bạn mượn đọc sách Kẻ Cắp Sách của tác giả You Sun-Dong & Đoàn Văn Thuỳ (dịch).
Là Tôi Đã Giết Cô Ấy
Vùng nông thôn yên bình, một cô gái bị bệnh tâm thần thắt cổ ở rừng đào. Trên cổ cô ấy có không biết bao nhiêu vết bóp cổ, trên người còn có dấu vết bị ngược đãi. Cảnh sát Lương Hi vừa từ thành phố đến vùng nông thôn này, cô cố chấp cho rằng không phải cô gái kia tự sát, quyết định vi phạm chỉ đạo của đồn trưởng mà điều tra vụ án này. Chồng của cô gái tâm thần là một người què, gã phủ nhận việc mình giết hại vợ, cũng nói cho Lương Hi một sự thật kinh người: Đứa bé trong bụng vợ không phải của gã. Lương Hi lần theo manh mối này mà tiếp tục điều tra, và rồi, cô biết được rất nhiều chuyện mà cô gái này không muốn người khác biết. Người chết hai mươi mốt tuổi, đã từng hoạt bát, rộng rãi, là người duy nhất có hy vọng thi đậu vào đại học trọng điểm của trường trung học trấn Lương Vân. Sau khi người chết bỏ học đã từng ở bệnh viện tâm thần hai tuần. Người chết và tên côn đồ trên đường có quan hệ mờ ám. Người chết có nghi vấn bị gã bán hàng rong xâm hại. Người chết có mâu thuẫn với chủ cửa tiệm băng đĩa trên đường. … Vì sao người chết lại bị mắc bệnh tâm thần? Và vì sao lại trở thành thi thể trong rừng đào bí ẩn kia? … Chân tướng về cô gái này dần được Lương Hi điều tra và vạch trần. … Tag: Tình yêu chốn nông thôn, huyền nghi trinh thám, trưởng thành, thời đại mới. Lập ý: Tự cứu vớt chính mình. *** Mùa hè nóng nực. Tào Quốc An đi một đôi sandal da màu nâu dơ bẩn, tay ông đang xách một chiếc túi ni lông màu đỏ đựng bánh bao thịt, ông loạng choạng đi đến cổng lớn của đồn cảnh sát. Ông liếc nhìn tấm biển của đồn cảnh sát, mấy chữ “xã Lục Trình” trông cực kỳ chướng mắt, không biết một nét trong chữ “đồn” đã bị tên nhóc nào lấy mất, chỉ còn lại một vết keo bẩn thỉu. Vừa nghĩ đến khoản phí “như trứng chọi đá” phải bỏ ra cho tấm biển tồi tàn này, ông đã cảm thấy đau răng, chắc là chẳng cần sửa lại làm gì, được ngày nào thì hay ngày đó vậy. Tào Quốc An tặc lưỡi, ông đẩy cánh cửa sắt loang lổ vết gỉ sét ra, xốc đôi sandal rồi đi về phía căn nhà gạch loang lổ màu xám trắng trước mắt. Ông đi một cách ung dung, ánh mắt quan sát mọi nơi một cách đầy ngẫu nhiên, đầu thuốc lá rơi trên mặt đất, vết bẩn trên tường, cỏ dại giữa các viên gạch, chiếc xe Santana màu đen mà đơn vị khác bỏ đi – cũng là chiếc xe mà Tào Quốc An tốn trăm cay nghìn đắng mới lấy được từ trong huyện về, tất cả đều đập vào trong mắt. Chớp mắt một cái mà ông đã đến nơi này bốn năm rồi, mới đầu ông còn tràn đầy nhiệt huyết mà chạy đến đây lập nên đồn cảnh sát xã Lục Trình, còn bây giờ thì không chỉ mỗi công việc rối tinh rối mù, mà cuộc sống cũng rối bời không thôi, Tào Quốc An nghĩ thôi mà đã thấy bực bội. Ông xoa xoa lồng ngực, chỗ hôm qua bị đánh hãy còn âm ỉ đau, nếu không phải là một cảnh sát, thì e là hôm qua Tào Quốc An đã đánh đồ chó đó một trận thật tàn nhẫn rồi. Tào Quốc An vừa âm thầm chửi bới vừa đi vào phòng làm việc. Phòng làm việc bố trí sáu chiếc bàn làm việc đối diện nhau, chiếc bàn làm việc ở giữa bên trái có một cậu trai trẻ đang vùi đầu bận rộn. Cậu tên là Lâm Sinh Nguyên, đã đến đây được hai năm, do Tào Quốc An tuyển cậu vào. Tào Quốc An lặng lẽ đi đến bên cạnh Lâm Sinh Nguyên, ngón trỏ cong lại, khẽ gõ lên chiếc bàn. Lâm Sinh Nguyên mơ mơ màng màng mà ngẩng đầu lên khỏi đống tài liệu, thấy Tào Quốc An, sắc mặt cậu chợt sợ hãi: “Đồn… đồn trường, chú đến rồi.” “Ừm.” Tào Quốc An đằng hắng giọng, nhìn về phía chếch chếch đối diện, hỏi với chất giọng trầm thấp: “Lão Phương đâu?” “Chú ấy… chú ấy nói là muốn đi bón phân cho ruộng nên sẽ đến muộn một chút ạ.” Tào Quốc An nhíu mày, ông đưa cổ tay lên mà nhìn đồng hồ, bây giờ đã hơn chín giờ rồi, Phương Châu Minh này thật là, ỷ vào lý lịch của mình mà thường xuyên làm việc cầm chừng, chẳng chịu coi ông ra gì cả. Tào Quốc An không vui, ông bèn ném túi ni lông xuống, hương thơm của bánh bao toả ra và quẩn quanh chóp mũi Lâm Sinh Nguyên ngay tức thì. “Của cậu!” Tào Quốc An chỉ để lại hai chữ như thế. Lâm Sinh Nguyên cúi đầu ngửi ngửi, sắc mặt sáng sủa hẳn lên, cậu vạch mở túi ni lông ra, âm thanh của chiếc túi ni lông vang lên sột soạt. “Cảm ơn đồn trưởng ạ, bây giờ không có cơm của chú Dương nên cháu cứ phải ra ngoài quán ăn, cháu sắp không ăn nổi nữa rồi.” Cậu nói. “Ngày mai anh ấy sẽ quay về.” Tào Quốc An nói xong thì đi đến bên cạnh bàn làm việc sát cửa sổ. Trên bàn làm việc đặt hai bình mực nước, một đỏ một đen, một chiếc điện thoại để bàn, có cả một chồng tài liệu, mấy quyển sách, mấy cây bút. Đồ đạc được sắp xếp rất ngăn nắp, chỉ có một xấp giấy báo ném lộn xộn trên bàn, trông nó vô cùng nổi bật. Tào Quốc An cầm một xấp trên cùng lên, nhanh chóng lướt mắt qua và nhìn vào. Ngày tháng trên trang đầu tiên của xấp báo là: Thứ hai, ngày 21 tháng 7 năm 1997. “Mẹ nó.” Tào Quốc An ném tờ giấy báo lên bàn rồi nói: “Bưu điện có đáng tin không vậy, lại muộn mất hai ngày, tin tức mới cũng thành tin tức cũ, còn xem cái quái gì nữa!” “Đồn trưởng…” Lâm Sinh Nguyên vừa nhai vừa giải thích cho Tào Quốc An: “Bọn họ nói, trừ phi lái máy bay, còn không thì không có cách nào nhanh hơn nữa.” Tào Quốc An “hừ” một tiếng, kéo ghế ra rồi đặt mông ngồi xuống, ông ngã về phía sau, chiếc ghế cũ nát đó phát ra âm thanh kẽo kẹt. Sau đó ông lại mò mẫm túi áo đồng phục để lấy hộp thuốc lá và cái bật lửa, bật lửa chỉ còn lại một chút ít gas dưới đáy, ông bật mấy lần liền mới quẹt ra được đốm lửa nhỏ. Tào Quốc An châm điếu thuốc, hút mạnh mấy ngụm, ông dựa vào lưng ghế, ngẩn ngơ mà nhìn lên trần nhà. Quạt trần trên đỉnh đầu quay quay phát ra tiếng kêu cọt kẹt, tiếng ve sầu ngoài cửa sổ vang lên những thanh âm chói tai, đường phố ngoài kia truyền đến tiếng nổ rang ầm ầm của xe máy đi ngang qua. Tào Quốc An dựa vào lưng ghế, hết hút thuốc rồi lại nhả khói, trong đầu ông thì lại đang nghĩ đến cuộc điện thoại mà mấy ngày trước vừa nhận được. Trong trí nhớ của Tào Quốc An, không có người nào bằng lòng đến chỗ xa xôi hoang vắng như xã Lục Trình này, thị trấn nhỏ hẻo lánh này cách huyện hàng trăm ki-lô-mét, núi thì cao mà đường thì lại xa, một chuyến xe khách đi từ huyện đến đây phải mất hơn ba tiếng đồng hồ. Cũng vì giao thông không thuận lợi, kinh tế kém phát triển, nên có hơn một nửa số lao động trẻ tuổi khỏe mạnh của xã đã đi ra ngoài để kiếm sống, còn một nửa thì đang làm nghề trồng trọt, kiếm sống dựa vào ông trời. Tào Quốc An từng rất chán ghét nơi này, nhưng ông là quân nhân đã xuất ngũ, quân nhân xem việc phục tùng mệnh lệnh là thiên chức, ông phục tùng mệnh lệnh của cấp trên nên mới cắm rễ ở chỗ này. Ban đầu, khi vừa đến nơi này, ông không nể nang ai mà tìm ủy ban xã mượn nhà, ủy ban không lay chuyển được nên đành cho ông mấy căn phòng chuẩn bị làm chỗ mua bán súc vật trên phố, nơi đó chính là đồn cảnh sát xã Lục Trình hiện giờ. Đồn cảnh sát có hai dãy phòng, trước và sau, dãy trước là khu vực làm việc, có năm căn phòng, phía trong cùng bên trái là phòng thẩm vấn và phòng tạm giam, bên phải là phòng hồ sơ, căn phòng lớn nhất ở giữa là phòng làm việc; dãy sau là khu vực sinh hoạt, có bốn căn phòng, một nhà bếp, ba phòng ngủ, có một phòng riêng là nhà vệ sinh. Tào Quốc An, Lâm Sinh Nguyên và cả chú Trần đều sống ở trong đồn, Phương Châu Minh thì ở tại nhà của mình. Tào Quốc An vẫn luôn nói với bên trên rằng, trong đồn cần có “nguồn máu” tươi mới, nhưng bên trên lại chẳng chịu điều người đến, sau khi Tào Quốc An thúc giục mấy lần thì cũng không thúc giục nữa, ông nghĩ, về công việc thì ba người bọn họ có thể miễn cưỡng mà đảm đương được, thêm một người nữa đến thì phải nhường chỗ ở, phiền phức lắm, chẳng thà cứ cho qua đi thôi. Nhưng mấy hôm trước bên trên lại gọi điện thoại đến, nói có một sinh viên vừa tốt nghiệp muốn đến xã Lục Trình làm việc. Đã thế, người này còn là phái nữ. Tào Quốc An nghe tin này mà như sét đánh ngang tai, ông nhấn mạnh với bên trên rằng, người mà đồn cảnh sát cần là đàn ông trẻ tuổi, chứ không phải là một nữ sinh được nuông chiều. Nữ sinh viên thì có thể làm được gì cơ chứ? Được nuông chiều từ bé, tính tình nóng nảy, không gây ra phiền phức gì đã là tốt lắm rồi. Nhưng thái độ của bên trên kiên quyết, không cho ông bất kỳ cơ hội thương lượng nào. Tào Quốc An nói không lại, chỉ đành thỏa hiệp, mấy ngày nay ông nôn nóng khó chịu, ngày nào cũng buồn rầu u ám vì chuyện này. Thấy hôm nay chính là ngày mà cô gái đó đến, Tào Quốc An càng không yên lòng. “Lúc nào cô gái đó đến vậy?” Tào Quốc An mặt ủ mày chau hỏi Lâm Sinh Nguyên. Lâm Sinh Nguyên sững sờ, lập tức hiểu người mà Tào Quốc An đang hỏi đến là đồng nghiệp mới chưa từng gặp mặt đó, cậu nói: “Sáng hôm nay nhận được điện thoại rồi ạ, nói là chuyến xe khách hơn mười giờ sáng đó.” “Đợi gần tới khi ấy thì cậu đi đón cô ấy.” “Hả?” “Lẽ nào để tôi đi à?” “Không phải, đồn trưởng. Cô ấy nói…” Lâm Sinh Nguyên đằng hắng, dùng giọng điệu lạnh nhạt mà Tào Quốc An chưa từng nghe thấy bao giờ mà nói lại rằng: “Không cần đón, tự tôi có chân.” Mắt Tào Quốc An nheo lại, ông ném ánh mắt sắc lẹm về phía Lâm Sinh Nguyên. Lâm Sinh Nguyên giật mình, giải thích: “Cô ấy nói thế thật đấy ạ, cháu không bịa đặt đâu.” Tào Quốc An hừ lạnh một tiếng: “Một cô nhóc thôi mà giọng điệu cũng ghê gớm thật đấy, không đón thì không đón, chúng ta đợi cô ta.” Đồng hồ trên tường cứ tích tách, tích tách mà xoay đều, theo dòng thời gian dần trôi, mặt trời cứ lên cao dần, sự khô hanh trong không khí càng lúc càng nhiều, Tào Quốc An không ngừng thay đổi tư thế, nhưng dù có thay đổi thế nào thì vẫn thấy không thoải mái, cơn đau từ vết thương nơi lồng ngực làm ảnh hưởng đến ông, nếu không nghĩ đến chuyện mình là cảnh sát, thì hôm qua ông rất muốn đánh người đó một trận dữ dội. “Mấy giờ rồi?” Lâm Sinh Nguyên quay đầu nhìn lên trên tường, nói: “Mười giờ rồi ạ.” Tào Quốc An liếc nhìn về phía cổng đồn cảnh sát, chẳng có ai xuất hiện cả, ông chuyển sang nhắm mắt lại, dựa người vào lưng ghế, hơi thở phì phò phát ra từ lỗ mũi như đã giải tỏa bao khó chịu trong lòng ông. Mấy phút sau, hình như ngoài cổng vang lên tiếng “bịch bịch bịch”. Tiếng động này vang từ xa đến gần, Tào Quốc An mở mắt ra, lòng đầy cảnh giác mà nhìn ra bên ngoài. Một bóng người gầy yếu đứng ngay cửa phòng làm việc, cô đứng ngược chiều sáng nên người ta chẳng thể thấy rõ khuôn mặt của cô. Tào Quốc An vừa muốn mở lời hỏi chuyện thì bóng người đó đã nói: “Xin hỏi ai là Tào Quốc An – đồn trưởng Tào?” Giọng nói trong trẻo nghe hơi nghiêm túc, khiến cho Tào Quốc An chợt nhớ đến vị lãnh đạo bộ đội, ông trả lời: “Là tôi. Cô là Lương Hi?” “Vâng.” Lương Hi đi về phía trước, chìa tay ra và cúi chào: “Chào đồn trưởng Tào, tôi là Lương Hi, cảnh sát mới đến.” Chân mày Tào Quốc An nhíu chặt lại, ông cẩn thận quan sát Lương Hi, gương mặt trắng ngần, mắt phượng mày ngài, dáng người mảnh khảnh, tóc dài chạm bả vai, cô đang mặc một chiếc áo sơ mi sọc ca-rô và quần jeans, chân thì đi một đôi giày thể thao thời thượng, tay trái cô đang đỡ một chiếc vali màu đỏ có bánh xe, tay phải thì cầm một chiếc bình giữ nhiệt, trông có vẻ rất đắt tiền. Vừa nhìn đã biết là cô chưa từng trải qua bất kỳ nỗi khổ cực gì, Tào Quốc An thầm thở dài. Tào Quốc An không biết rằng, trong lúc ông đang quan sát Lương Hi thì cô cảnh sát nhỏ mới đến này cũng đang lén quan sát ông. Khi còn ở trong huyện, Lương Hi đã từng nghe đến tiếng tăm của Tào Quốc An, cô cho rằng vị quân nhân đã xuất ngũ – cũng là người lập nên đồn cảnh sát xã Lục Trình trong miệng người khác là một người trung niên có tinh thần khá tốt, thế nhưng, xem ra là không phải như thế rồi. Tào Quốc An trước mắt đang khom lưng, sắc mặt giống như trái khổ qua già đã qua mùa vụ thu hoạch, trên người ông đang mặc một bộ đồng phục cảnh sát không hề vừa người, hai chiếc cúc áo gần cổ áo đang mở bung ra, cái bụng bị quần áo thít chặt lại, dây nịt trên lưng không thể nịt lại được, cả người trông vừa lôi thôi nhếch nhác vừa sa sút tinh thần. Khác xa với dáng vẻ trong tưởng tượng của Lương Hi, Lương Hi bất giác lộ ra vẻ mặt thất vọng. “Cô chính là Lương Hi à, nghe danh không bằng gặp mặt, tôi là Lâm Sinh Nguyên.” Mạch suy nghĩ của Lương Hi bị Lâm Sinh Nguyên gọi về, cô thu ánh mắt lại, nhìn về phía người trước mắt này. Người tên Lâm Sinh Nguyên này thì lại mặc đồng phục khá cẩn thận tỉ mỉ, có điều, vẻ mặt cậu vàng như nến, gầy trơ xương, trên đầu ngón tay gầy nhom còn dính mấy giọt mực carbon, xem ra là người làm công việc liên quan đến giấy tờ. “Xin chào.” Lương Hi duỗi tay ra, bắt tay tượng trưng với Lâm Sinh Nguyên. “Đây là bàn làm việc của cô, chúng tôi đều làm việc trong phòng làm việc này.” Lâm Sinh Nguyên được bàn tay mềm mại nhẵn mịn của Lương Hi nắm lấy nên tâm trạng phơi phới bủa vây cậu, cậu nhiệt tình chỉ vào vị trí còn trống bên cạnh cho Lương Hi. Bấy giờ Lương Hi mới có thời gian quan sát môi trường bên trong phòng làm việc. Cô nhìn quanh một lượt cả phòng làm việc này, trên vách tường có mấy miếng dán tường đã tróc, vốn dĩ căn phòng đã không lớn cho lắm, mà vì có thêm sáu chiếc bàn nên trông nó có vẻ chật chội hơn hẳn, chuyện khiến Lương Hi thấy khó hiểu hơn nữa đó chính là, sáu chiếc bàn làm việc này có kích cỡ không đều nhau, màu sắc không giống nhau, giống hệt như chúng được vơ vét từ nơi khác đến vậy. Trước khi đến thì Lương Hi đã chuẩn bị tư tưởng xong xuôi, thế nhưng, cô không ngờ rằng ngay cả môi trường làm việc mà cũng lộn xộn như thế này. Cô đi theo Lâm Sinh Nguyên đến bên cạnh bàn, quay sát chiếc bàn và cái ghế một chút, rồi cô duỗi một đầu ngón tay ra lau lau mặt bàn. “Tôi vừa mới lau, sạch sẽ lắm.” Lâm Sinh Nguyên nói. Lương Hi khẽ gật gật đầu, bình tĩnh gỡ bình giữ nhiệt xuống, đặt lên trên bàn. “Cảm ơn.” Cô nói. “Đừng khách sáo, trong hộc tủ thì tôi đã đặt mấy món đồ văn phòng phẩm cho cô, cô tự lấy nhé.” “Được,” Lương Hi chợt hỏi: “Còn một người đồng nghiệp nữa đâu rồi?” “Hả?” Lâm Sinh Nguyên sững sờ. “Ở đây,” Lương Hi chỉ vào vị trí bên cạnh, nói: “Chắc là có người mà nhỉ? Sao chú ấy lại không đến?” Lâm Sinh Nguyên bỗng hiểu ra: “Lão Phương à, chú ấy đi…” “Anh ấy đi thị sát rồi.” Tào Quốc An ngắt lời Lâm Sinh Nguyên: “Người mới, chuyện không nên quan tâm thì đừng quan tâm.” Lương Hi bĩu môi. “Cô là người của Học viện Cảnh sát tỉnh thật ư?” Tào Quốc An nhìn Lương Hi, như thể là đang dò xét, hình như ông đang nghi ngờ lai lịch của cô. “Đúng, chắc chắn là thật, chuyên ngành trinh sát hình sự.” Lương Hi đáp. Tào Quốc An ngả người ra sau, nói: “Chỗ này của chúng tôi chỉ là một chốn nhỏ bé, không cần đến chuyên ngành có học vấn cao như thế.” Theo bản năng, Lương Hi phản bác: “Chốn nhỏ bé cũng có thể sẽ có người phạm tội.” Tào Quốc An kinh thường mà liếc Lương Hi, kiểu người trẻ tuổi này ông đã gặp nhiều rồi, tự cho mình là đúng, tự cho mình là giỏi, ắt rằng sau này sẽ phải chịu khổ. Ông hừ lạnh một tiếng, lười biếng dạy bảo rằng: “Tôi không quan tâm cô thế nào, nếu đã đến xã Lục Trình thì phải tuân thủ quy tắc, đừng gây chuyện.” Lương Hi còn muốn nói thêm vài câu, có điều, cô còn chưa kịp mở lời thì một giọng nói thảm thiết đã ập vào màng nhĩ cô. “Không ổn rồi! Đồn trưởng Tào! Tai nạn chết người rồi!” Một bóng người vội vã xông vào đồn cảnh sát.. Mời các bạn mượn đọc sách Là Tôi Đã Giết Cô Ấy của tác giả Mặc Dữ.