Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Con Chó Mùa Xuân

Patrick Modiano là Nhà văn Pháp với hơn 30 tác phẩm bao gồm tiểu thuyết, kịch bản phim,... các tác phẩm của ông đã được dịch 36 thứ tiếng trên thế giới, đạt nhiều giải thưởng danh tiếng, phải kể đến giải Nobel Văn học năm 2014. "Lối viết văn của Modiano rất dễ đọc. Các tác phẩm của ông trông có vẻ đơn giản bởi vì nó tinh tế, thẳng thắn, đơn giản và rõ ràng. Bạn mở sách đọc một trang, và sẽ nhận ra ngay là sách của ông ta, rất thẳng thắn, câu văn ngắn gọn, không cầu kỳ - nhưng nó rất là tinh vi trong cách đơn giản của nó."_ Bí thư thường trực của học viện Nobel Peter Englund Con chó mùa xuân là một trong bộ ba tiểu thuyết được phanbook phát hành vào năm nay. Vẫn với lối viết đơn giản mà tinh tế, Patick Modiano đã dần người đọc vào một hành trình lạ lùng khi hai con đường ngược nhau, cắt nhau nơi ký ức. Như một tất định của đời sống, có tồn tại rồi sẽ có lãng quên, cuối cùng thì không gì có thể níu kéo được hiện hữu thuộc về quá khứ, và tất cả được chứa đựng trong lặng im vĩnh viễn. Để từ đó người đọc có thể thấy được văn chương của Patick Modiano là văn chương của ký ức, bất định tương lai. *** Kho đựng nỗi đau (tựa gốc: Remise de peine, viết năm 1988), Hoa của phế tích (tựa gốc: Fleurs de ruine, 1991), Con chó mùa xuân (tựa gốc: Chien de printemps, 1993) được nhà văn Patrick Modiano (giải Nobel Văn học, 2014) hoàn thành trong ba mốc thời gian khác nhau, nhưng mang đầy đủ những nét đặc thù của không khí, phong cách văn chương ông. Kho đựng nỗi đau lần đầu tiên bức chân dung thời thơ ấu của chú bé Patrick cùng em trai sống trong căn hộ của những diễn viên xiếc ở vùng ngoại vi Paris. Hoa của phế tích là cuộc lần theo manh mối về một vụ tự sát với lý do bí hiểm của đôi vợ chồng kỹ sư trẻ tuổi vào một ngày tháng 3 năm 1933. Còn Con chó mùa xuân là cuộc dò tìm của một người viết tiểu thuyết trẻ tuổi với nỗ lực phục dựng bản tiểu sử của Jasen - một nhiếp ảnh gia sống và ghi chép về Paris nhưng căn cước cá nhân lại nhiều điểm mù bởi dư chấn của thời Đức tạm chiếm… Ba cuốn tiểu thuyết này là dẫn chứng xuất sắc, thuyết phục cho điều mà Patrick Modiano viết trong diễn từ nhận giải Nobel Văn học vào năm 2014: “Người ta có thể lạc lối hoặc biến mất trong một đô thị. Người ta thậm chí có thể thay đổi căn cước và sống một đời khác. Người ta có thể lao mình vào một cuộc điều tra rất dài lâu để tìm lại những dấu vết của một ai đó, và lúc khởi đầu chỉ có một hoặc hai địa chỉ trong một khu phố đã mất biệt. Chỉ dấu ngắn ngủi đôi khi hiện lên trên những phiếu tra cứu luôn luôn tìm được một âm hưởng trong tôi: Nơi cư trú cuối cùng được biết.” Trong lần ấn hành ba tiểu thuyết này, Phanbook cũng phát hành hộp giấy đựng sách Patrick Modiano với thiết kế đẹp, trang nhã dành cho độc giả sưu tầm đủ ba tác phẩm. *** VỀ NHÀ VĂN PATRICK MODIANO Patrick Modiano là nhà văn người Pháp, sinh năm 1945. Ông đạt giải Nobel văn học năm 2014. Nhiều tác phẩm của Modiano đã được in tại Việt Nam. Ba tác phẩm của Patrick Modiano do Phanbook ấn hành: Kho đựng nỗi đau, Hoa của phế tích, Con chó mùa xuân, đều do Hoàng Lam Vân dịch. *** Tôi quen với Francis Jansen cái năm tôi mười chín tuổi, vào mùa xuân 1964, và ngày hôm nay tôi muốn kể một ít điều mà tôi biết về ông. Lúc đó là sáng sớm, tại một quán cà phê trên quảng trường Denfert-Rochereau. Tôi đang ở đó với một cô bạn gái cùng tuổi, và Jansen ngồi bàn đối diện với bàn chúng tôi. Ông vừa mỉm cười vừa quan sát chúng tôi. Rồi ông rút từ cái túi đặt trên băng ghế bọc moleskine, bên cạnh ông, một cái máy ảnh Rolleiflex. Tôi gần như không nhận ra là ông đã chĩa ống kính về phía chúng tôi, vì các động tác của ông vừa mau lẹ lại vừa rất thong dong. Như vậy, ông dùng một chiếc Rolleiflex, nhưng tôi sẽ không thể nói rõ các loại giấy cùng phương pháp in tráng mà Jansen sử dụng để có được thứ ánh sáng vốn dĩ tắm đẫm mọi bức ảnh ông chụp. Buổi sáng cái ngày chúng tôi gặp nhau, tôi còn nhớ mình đã hỏi ông, vì lịch sự, theo ông đâu là loại máy ảnh tốt nhất, ông đã nhún vai và bảo với tôi rằng xét cho tới cùng ông thích nhất mấy cái máy ảnh bằng nhựa màu đen mà người ta mua được ở các cửa hàng đồ chơi, chúng phụt nước ra khi ta ấn nút. Ông mời chúng tôi một tách cà phê và đề nghị chúng tôi tiếp tục làm mẫu cho ông chụp nhưng lần này là ngoài phố. Một tờ tạp chí Mỹ đã giao cho ông việc minh họa một phóng sự về tuổi trẻ tại Paris, và thế là ông đã chọn chúng tôi: Vậy thì đơn giản hơn, hẳn lại mau chóng hơn và kể cả nếu bên Mỹ họ không hài lòng thì cũng chẳng có gì quan trọng. Ông muốn trút bỏ cho xong cái công việc thuần tính cách kiếm ăn đó. Ra khỏi quán cà phê, chúng tôi bước đi trong nắng, và tôi nghe thấy ông nói, với chút âm sắc nước ngoài: - Mùa xuân chó chết[1]. Một suy tư mà ông sẽ còn hay lặp lại, cái mùa năm ấy. Ông bảo chúng tôi ngồi xuống một ghế băng, sau đó ông cho chúng tôi đứng trước một bức tường lổ đổ bóng hàng cây, trên đại lộ Denfert-Rochereau. Tôi đã giữ một trong số những bức ảnh ấy. Chúng tôi, cô bạn và tôi, ngồi trên ghế băng. Tôi có cảm giác đó là những người khác chứ không phải chúng tôi, do chỗ thời gian đã trôi qua hoặc do những gì Jansen nhìn thấy trong ống kính của ông, mà vào thời ấy chúng tôi sẽ chỉ có thể nhìn được nếu đứng trước một tấm gương: Hai đứa thiếu niên vô danh và lạc lối tại Paris. * * * Chúng tôi đi theo ông về xưởng của ông ngay gần đó, trên phố Froidevaux. Tôi cảm thấy ông e sợ nếu lại phải ở một mình. Xưởng nằm dưới tầng trệt một tòa nhà, có thể đi vào đó qua một cánh cửa mở thẳng ra phố. Một căn phòng rộng tường trắng ở cuối có cầu thang nhỏ dẫn lên gác lửng. Một cái giường chiếm toàn bộ không gian của tầng lửng ấy. Căn phòng chỉ có một trường kỷ màu ghi cùng hai phô tơi đồng màu. Bên cạnh lò sưởi gạch là ba cái va li da màu hạt dẻ chồng đống lên nhau. Các bức tường trống trơn. Chỉ có hai bức ảnh. Bức lớn hơn, chụp một phụ nữ, một người tên là Colette Laurent như sau đó tôi sẽ biết. Trên bức còn lại, hai người đàn ông - một là Jansen, hồi còn trẻ - ngồi cạnh nhau, trong một cái bồn tắm vỡ hoác, giữa đống đổ nát. Mặc cho nỗi rụt rè, tôi đã không sao tự ngăn mình hỏi Jansen giải thích, ông đáp đó là ông, cùng Robert Capa bạn ông, ở Berlin, hồi tháng Tám năm 1945. Trước cuộc gặp ấy, cái tên của Jansen vẫn còn xa lạ với tôi. Nhưng tôi biết Robert Capa là ai vì đã xem những bức ảnh của ông chụp chiến tranh Tây Ban Nha và đọc một bài báo về cái chết của ông bên Đông Dương. Nhiều năm đã trôi qua. Thay vì làm rối mù hình ảnh Capa và Jansen, chúng lại có hiệu ứng ngược hẳn lại: Hình ảnh ấy rõ nét trong ký ức tôi hơn nhiều so với nó từng, vào mùa xuân đó. Trên bức ảnh, Jansen hiện ra như một dạng thế thân của Capa, hay đúng hơn là một đứa em trai mà Capa thấu nhận để bảo trợ. Capa, với mái tóc rất nâu, ánh mắt màu đen, điếu thuốc lá ngậm trễ nơi khóe miệng, tỏa ra lòng quả cảm và niềm vui sống bao nhiêu, thì Jansen, tóc vàng, gầy gò, cặp mắt nhạt màu, nụ cười rụt rè và sầu muộn, có vẻ không được thoải mái bấy nhiêu. Và cánh tay Capa, đặt lên vai Jansen, không chỉ tỏ ý thân tình. Hẳn người ta có thể nói ông đang đỡ lấy bạn. Chúng tôi ngồi ở ghế phô tơi và Jansen mời chúng tôi uống whisky, ông đi vào góc phòng và mở cánh cửa dẫn sang căn bếp cũ mà ông đã cải tạo thành phòng tôi. Rồi ông quay trở lại: - Tôi rất tiếc, hết whisky mất rồi. Người ông hơi đờ ra, hai chân bắt chéo, dịch sát ra tận đầu cái trường kỷ, như thể ông chỉ là người ghé thăm nơi này. Chúng tôi, cô bạn tôi và tôi, không phá vỡ sự im lặng. Căn phòng rất sáng với những bức tường trắng của nó. Hai cái phô tơi cùng trường kỷ đặt quá xa nhau, thành thử ta có cảm giác về sự trống rỗng. Hẳn người ta có thể nghĩ rằng Jansen đã không còn sống ở nơi này nữa. Ba cái va li, mà lớp da bên ngoài phản chiếu ánh nắng, gợi về một cuộc khởi hành sắp sửa. - Nếu các bạn thích, ông nói, tôi sẽ cho các bạn xem ảnh chừng nào rửa xong. Tôi đã viết số điện thoại của ông lên một bao thuốc lá. Vả lại, tên ông có trong danh bạ Bottin, ông nói thêm với chúng tôi. Jansen, số 9 phố Froidevaux, Danton 75-21. Mời các bạn đón đọc Con Chó Mùa Xuân của tác giả Patrick Modiano & Hoàng Lam Vân (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Quán Trọ Hoa Diên Vỹ - Yoko Ogawa
Một phụ nữ lao ra khỏi phòng quán trọ Hoa Diên Vỹ chửi rủa. Tiếp theo sau là một người đàn ông với tiếng quát lạnh lùng: “Câm mồm đi, con đĩ!”. Tiếng quát đó đã mê hoặc Mari, cô con gái bà chủ đang trực quầy lễ tân. Rồi cô đi theo người đàn ông, để trái tim cùng cơ thể mình lạc lối trong một mối quan hệ nảy sinh từ tình cảm chân thực, nhưng cũng từ những ham muốn và rung động thầm kín nhất, đáng xấu hổ, nơi nền tảng là sự thống trị và phục tùng mỏng manh, yếu đuối, Mari cố gắng tìm hiểu điều gì ở người đàn ông đã hấp dẫn cô: “Thân thể tôi khi phục tùng dịch giả càng khó coi càng tốt. Như thế tôi sẽ có thể cảm giác được mình thảm hại đến đâu. Một cảm giác thoải mái trong sáng trào dâng trong lòng tôi vào cái lúc tôi biến thành một đống thịt bị hành hạ.” Quán trọ Hoa Diên Vỹ không phải là một tiểu thuyết về đề tài bạo dâm. Lối viết sáng suốt của Yoko Ogawa, một trong những nhà văn Nhật đáng chú ý nhất hiện nay, đã đưa câu chuyện vượt lên trên giới hạn của sự dung tục, tầm thường, và hơn thế nữa, trở thành một cuốn tiểu thuyết đặc biệt khó quên, với đầy đủ những nét đặc trưng trong bút pháp tinh tế mà người ta chỉ có thể tìm thấy ở Yoko Ogawa. ***     Sinh năm 1962 tại tỉnh Okayama, thuở nhỏ, Ogawa say mê văn học thiếu nhi thế giới. Trong một cuộc phỏng vấn, bà từng nhắc tới các tác phẩm Không gia đình, Pippi tất dài, Ann ở Green Gables v.v. như những trước tác mà bà yêu thích nhất. Lên trung học, cuộc gặp gỡ tình cờ với Nhật ký Ann Frank đã mang lại cho Yoko một nhận thức hoàn toàn mới lạ đối với văn chương: biểu đạt thành lời nội tâm của bản thân chính là một dạng thức tự do mà con người có được. Đây có lẽ là tác phẩm có ảnh hưởng sâu nặng nhất đối với lối viết đi sâu vào những diễn biến tâm lý tinh tế của con người mà Ogawa không ngừng theo đuổi sau này. “Tôi đưa ra hết, tôi viết hết,” nhà văn đã từng nói. “Khi cuốn sách kết thúc thì không còn gì nữa, không còn gì hết”. Năm 1986, Ogawa bắt đầu viết tiểu thuyết, sau khi thôi công việc thư ký để kết hôn với một kỹ sư của một hãng luyện thép. Các tác phẩm tiêu biểu trong sự nghiệp của bà gồm: Khi con bướm gãy cánh (giải thưởng Kaien), Nhật ký mang thai (giải Akutagawa), Giáo sư và công thức toán (giải Yomiuri), Mai táng Brahman (giải Izumi), Cuộc diễu hành của Meena (giải Tanizaki), Tình yêu bên lề, Quán trọ Hoa Diên Vỹ...Trong số các tác phẩm của Yoko Ogawa, Giáo sư và công thức toán hẳn là tiểu thuyết nồng hậu và gây xúc động nhất.  Sau đó, tiểu thuyết được chuyển thể thành phim và công chiếu rộng rãi vào năm 2006.      Thông Tin Giải Thưởng   * 1988: Giải Kaien cho tác phẩm đầu tay, Sự phân hủy của bướm (Disintegration of the butterfly, Agehacho ga kowareru toki, 揚羽蝶が壊れる時) * 1990 Giải Akutagawa cho Nhật ký mang thai (Pregnancy Calendar, Ninshin karendaa, 妊娠 カレンダー) * 2004 Giải Yomiuri cho Giáo sư và công thức toán (The Professor and his Beloved Equation, Hakase no aishita sushiki, 博士の愛した数式; dịch sang tiếng Anh với tên The Gift of Numbers) * 2004 Giải Izumi Prize cho Tang lễ của Brahman (Burafuman no maisō, ブラフマンの埋葬) * 2006 Giải Tanizaki cho Cuộc diễu hành của Meena (Meena's March, Mīna no kōshin, ミーナの行進) Những tác phẩm của Yoko Ogawa  - Cuộc diễu hành của Meena (giải Tanizaki) - Giáo sư và công thức toán - xuất bản 2009 (giải Yomiuri) - Quán trọ hoa diên vỹ - Mai táng Brahman (giải Izumi) - Nhật ký mang thai (giải Akutagawa) - Khi con bướm gãy cánh (giải thưởng Kaien) *** Trước khi đọc Quán trọ Hoa Diên Vỹ, mình đã đọc một câu chuyện khác, cũng của Yoko Ogawa: “Giáo sư và công thức toán”. Nói thật, lúc đầu mình hơi bất ngờ tẹo, tại mình không nghĩ người mang toán học vào văn chương một cách tinh tế có thể viết một câu chuyện trần trụi đến thế như đã làm trong Quán trọ Hoa Diên Vỹ. Dĩ nhiên, chỉ sau chừng tầm chục trang, mình đã tìm lại được bầu không khí quen thuộc. Nếu như Kazumi Yumoto nổi tiếng với seri 3 mùa, chuyên viết về những hồi ức trẻ thơ, Banana nổi tiếng với cách xây dựng hình mẫu gia đình kì quặc đầy thương tổn, hơi hướng khó hiểu kiểu Murakami thì Yoko Ogawa mang ta đến với những mảng màu trần trụi, nhưng cũng hết sức bình thường kiểu Nhật. Ừ, nếu bạn đọc một cuốn sách kể về những chuyện rất đỗi bình thường, phảng phất một gam màu trầm buồn, thêm chút băn khoăn khó hiểu khi gập trang cuối cùng của cuốn sách thì ắt hẳn đó là một câu truyện Nhật. Trở lại với cuốn sách, khi đọc nó mình vẫn luôn tự hỏi rằng họ có thực sự yêu nhau không? Khi mà khoảng cách giữa 2 người là 50 tuổi, và thứ gắn kết họ đơn thuần chỉ là sự cô đơn. Cô đơn của cô bé Mari chính là việc giam mình trong quán trọ Hoa Diên Vỹ, hàng ngày búi tóc bằng dầu trà, cam chịu trao tự do của mình cho người mẹ. Cô khao khát một người bố đúng nghĩa, người đã trao cho cô cơ hội được lựa chọn niềm vui khi cô còn 8 tuổi. Cô đơn với dịch giả đáng kính xuất phát từ nỗi đau mất vợ, từ niềm ăn năn đối với người cháu, và cả những cuộc bạo dâm. Cô đơn còn xuất phát từ việc dịch những thứ chán òm trong cuộc sống, suốt ngày vùi đầu trong từ điển. Hẳn là lúc ông đăng tin tìm người học tiếng Nga, điều ông thất vọng không phải không ai học, mà bởi ông đã không còn ai để trò chuyện, để bầu bạn. Mọi thứ chỉ thay đổi khi ông dịch Marie, khi đó, ông gặp Mari. Du thuyền trở lại trong tiếng còi rú. Bọn hải âu đậu trên cầu tàu đồng loạt bay lên. Dây xích chỗ cửa lên tàu được tháo xuống, phòng chờ vẳng tiếng phát thanh viên. _Có lẽ tôi phải đi rồi. – Dịch giả thì thầm. _Tạm biệt. – Tôi nói _Tạm biệt. Ông ta cũng nói thế. Nhưng tôi cảm giác như chúng tôi đã nói với nhau câu nói quan trọng hơn là chỉ chào tạm biệt. Từ cửa sổ tôi nhìn thấy người đàn ông đi trên cầu tàu và đang bị cuốn trong hàng người. Dù ông ta nhỏ con đến mấy tôi cũng lập tức phân biệt được bóng người mặc vest lẫn trong đám du khách. Giữa chừng ông ta ngoảng đầu lại. Tôi vẫy tay dù thấy thật buồn cười khi làm điều này với một người không biết tên cũng chẳng có quan hệ gì. Ông ta cũng định vẫy trả, nhưng rồi lại ngượng ngùng đút bàn tay đang giơ lên vào túi áo. Tàu rú còi rồi rời bến. … Tôi vẫn luôn sống một mình. Hàng ngày giam mình ở đảo và chỉ làm mỗi việc dịch thuật, nên hầu như không có bạn. Vả lại, tôi cũng không có một cô con gái vừa trẻ lại xinh đẹp như cô. Đã mười năm rồi tôi không được nếm trải cảm giác có ai đó vẫy tay tiễn đưa như vậy. Tôi thường lên thuyền từ chỗ cầu tàu, nhưng lúc nào cũng chỉ một mình. Tôi cũng chưa lần nào ngoảnh đầu lại từ chỗ đó cả. Cô đã vẫy tay với tôi làm như chúng ta đã quen biết từ lâu. Có lẽ với cô đó chỉ là một cử chỉ vặt vãnh, nhưng với tôi nó lại có ý nghĩa sâu sắc. Tôi muốn cảm ơn cô về điều đó. Chân thành cảm ơn cô. Đoạn trích trên kể về lần đầu họ gặp nhau. Ai trong chúng ta có lẽ cũng thấy đồng cảm với người đàn ông ấy. Bởi lẽ, nỗi cô đơn là chuyện chẳng hiếm hoi trong thế giới này. Người ta dễ dàng xao xuyến trước những điều be bé tốt đẹp. Một cái vẫy tay, một nụ cười, một tin nhắn. Chúng tạo nên sự thân mật gắn kết giữa người với người, không gì có thể xóa bỏ. Và điều đáng khâm phục, họ đã vượt qua mọi rào cản, để tìm đến nhau. Có thể, bạn chả đồng ý với mình đâu. Gì chứ, không thể chấp nhận được chuyện yêu nhau tội lỗi như thế. Ừ, mình cũng hem có phản đối đâu. Vì suy cho cùng, như một cái note nào đấy đã viết “văn chương khơi dậy sự cảm thông”, hoặc là mình đã tự huyễn hoặc bản thân rồi.​
Mãi Đừng Xa Tôi
Mãi Đừng Xa Tôi     Thông Tin   Tên truyện: MÃI ĐỪNG XA TÔI Tác giả:   Kazuo Ishiguro    Thể loại:   Tiểu thuyết, Tình cảm, Ngôn tình, Hư cấu, Giả tưởng, Văn học Nhật bản, Văn học phương đông NXB:  Văn học Người dịch:   Trần Tiễn Cao Đăng   Nguồn: Romance Book Đăng:  Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com Giới Thiệu   Kathy, Ruth và Tommy xuất thân từ một ngôi trường đặc biệt: trường nội trí Hailsham. Những con người ở đó đều có chung một số phận được định đoạt. Họ chấp nhận số phận, nhưng vẫn khát khao trì hoãn. Với giọng điệu bình thản như mặt biển sóng ngầm, câu chuyện kể về một hiện thực đáng sợ diễn ra trong một thế giới “giả tưởng”, nhưng cũng không xa lắm thế giới “thật tưởng” mà chúng ta đang sống. Câu chuyện ám ảnh chúng ta bởi tiếng kêu đau đớn đến xé lòng về tình yêu và hạnh phúc. Nó buộc chúng ta phải suy nghĩ lại về giá trị Người của chính mình.   Nhận định    “Vừa hấp dẫn vừa xúc động lòng người… một tiểu thuyết kỳ tài, với sự căng thẳng thắt gút và với nỗi đớn đau chôn chặt.” – Time “Gây bứt rứt đến cùng cực, tiết chế đến độ hoàn hảo… Sức mạnh không cưỡng nổi của cuốn sách là nhờ năng lực vô song của Ishiguro trong việc phô bày phần cốt lõi tăm tối của nó một cách cẩn thận, từng tí một.” – Entertainment Weekly
Mùa Thu Của Cây Dương - Kazumi Yumoto
  AudioBook Mùa Thu của Cây Dương   Việc cầm một cuốn sách trên tay và đọc nó đem lại cho bạn nhiều thi vị hơn là đọc sách qua màn hình máy tính nhờ ebook hay các trang web đọc sách trực tuyến. Tôi còn nhớ mãi cái cảm giác của mình khi đọc “Mùa thu của cây dương” vào những ngày tết vừa rồi. Đó là một ấn tượng đặc biệt tới từ trang bìa bắt mắt hình thảm lá rơi vàng rực, từ mùi thơm nhẹ nhàng của bookmark kẹp trong trang giấy, từ cuốn sách nhỏ chỉ dày hơn 200 trang mà tôi có thể cầm trong tay hay để gọn nơi đầu giường vào mỗi đêm sau khi đọc.        Nhưng điều cuốn hút nhất của một cuốn sách bao giờ cũng đến từ chính câu chuyện và thế giới ngôn ngữ của tác giả. “Mùa thu của cây dương” với tôi cũng vậy. Truyện mở ra trước mắt tôi một thế giới đậm chất Nhật Bản với không khí u nhã đặc trưng.        Gấp sách lại, bạn sẽ nhớ khu trang viên cây dương ngập sắc vàng vào mùa lá rụng, những căn phòng đơn sơ nơi hằng ngày những con người chất phác vẫn sinh hoạt, trò chuyện và dành tặng nhau bao điều ấm áp của cuộc sống, giúp đỡ nhau vượt qua khó khăn. Nhân vật trung tâm của câu chuyện – cô bé Chiaki đã lớn dần lên cùng với cây dương, cái cây mỗi thu, đông sang hay mỗi lúc xuân về đều thủ thỉ cùng chuyện trò; với sự chăm sóc của mẹ và bà cụ, sự gần gũi của cô Sasaki, anh Osamu hay sự đôn hậu của bác Nishioka. Cứ thế, những con người này lặng lẽ cũng nhau chia sẻ bao nhiêu vui buồn của cuộc sống, mặc năm tháng trôi đi. Trang viên cây dương như một nơi để người ta quên đi rằng thời gian vẫn chảy ở bên ngoài.        Đọc truyện, người đọc có dịp ngẫm suy sâu hơn về sự sống và cái chết. Truyện mở đầu bằng cái chết của bố Chiaki, kết thúc bằng cái chết của bà cụ. Suốt dọc câu chuyện là nỗi hoang mang ngây thơ của cô bé Chiaki về cái chết, cô sợ cái chết sẽ giống như một cái hố đen ngòm một ngày nào đó sẽ lôi tuột mình và người thân xuống đó, cô sợ lúc ngăn tủ đựng thư của bà cụ đầy chặt cũng là lúc bà sẽ phải qua đời để làm nhiệm vụ chuyển những bức thư cho người chết. Thế nhưng, cách Kazumi Yumoto nói về cái chết không gây cảm giác sợ hãi ở người đọc. Nỗi hoang mang vẩn vơ của cô bé rồi đây sẽ được bà cụ giúp giải tỏa. Sống trong tình cảm ấm áp của mọi người, Chiaki dần quên đi những sợ hãi, âu lo. Vì thế kết lại bằng cái chết, nhưng câu chuyện vẫn để lại một dư âm gì đó thật sáng tươi.        Con người không thể trốn chạy khỏi sự thật về cái chết, nhưng chúng ta có thể xua đi ám ảnh về nó và làm cho những ngày ta đang sống đẹp thêm, ý nghĩa hơn nhờ một thứ phép màu, đó chính là YÊU THƯƠNG.        Cùng với niềm vui của giây phút hồi hộp mở cuốn sách ra, giờ đây tôi có thêm niềm vui khi gấp sách lại mà vẫn thấy ấm áp, tựa như có một thứ ánh nắng đang chiếu vào tâm hồn mình từ những tán lá dương có màu của mùa thu. Nguồn: facebook        Trong cuốn sách này, các nhân vật đều quan tâm và chia sẻ với nhau những điều nhỏ nhặt, giản đơn nhưng đặc biệt ấm áp. Cốt truyện giản đơn, nhưng tác giả Kazumi Yomoto đã cuốn độc giả vào một không gian tinh tế, như khi Chiaki nhổ cỏ cùng bà cụ chủ nhà, bà thường lén bỏ một ít cỏ vào giỏ của cô bé để em khỏi xấu hổ về việc mình nhổ được ít; khi bà cụ ăn vận kimono đẹp đẽ sang trọng để đi xin lại việc cho bác hàng xóm; hay khi bà cụ đã láu cá bịa ra đủ thứ chuyện với mọi người…      Với giọng điệu dịu dàng, lời văn đẹp, giàu chất thơ, lồng ghép những triết lý nhẹ nhàng, sâu sắc, “Mùa thu của cây dương” thực sự đã mang đến một cách cảm, cách nghĩ đậm chất phương Đông. Trích Mùa thu của cây dương: Giản dị mà day dứt mãi - Đinh Phương Linh Nguồn: Website: www.kienthuc.net.vn (http://kienthuc.net.vn/)              Không cầu kì, kiểu cách, không đao to búa lớn, “Mùa thu của cây dương” cũng nhẹ nhàng như một chiếc lá dương vàng óng xoay xoay theo làn gió thu rớt xuống khu vườn. Một câu chuyện giản dị nhưng sâu sắc lạ thường. Một câu chuyện về tình yêu, tình người, và một lần nữa, về cái chết. Nói “một lần nữa” bởi đây cũng là chủ đề xuyên suốt trong tác phẩm “Khu vườn mùa hạ”. Cái chết trong câu chuyện của Yumoto Kazumi có lẽ không hề đáng sợ như nhiều người vẫn nghĩ. Cái chết, với bà cụ chủ nhà giống như một chuyến đi, một nghĩa vụ, một công việc phải làm. Cũng chính bởi thế, nên đám tang của bà cụ không hề buồn bã như những đám tang khác. Có nỗi tiếc thương cho người đã khuất, nhưng tâm trạng của ai cũng nhẹ nhõm hơn hẳn. Có lẽ bởi ai trong số họ cũng đinh ninh rằng, bà cụ đang thực hiện chuyến đi của mình, đang làm công việc mà bà đã dành thời gian nhiều năm chuẩn bị - công việc chuyển những lá thư.      Một mùa thu nữa lại trải lá vàng trên căn hộ Cây Dương, nơi lưu giữ những kỷ niệm về một con người kì lạ. Bà cụ ấy không hề được tác giả nhắc tên, suốt từ lúc bà xuất hiện trong cuộc đời cô bé Chiaki cho đến lúc qua đời. Khi bà ra đi, cũng không có ai là họ hàng thân thiết, nhưng bà lại có vô số bạn bè. Những người bạn đưa tiễn bà bằng sự quý trọng, bằng tình yêu, tình người, và trên tất cả, là một sự thanh thản, nhẹ nhàng mà không phải đám tang nào cũng có. Bà sẽ sống mãi trong trái tim họ như một biểu tượng về lòng tốt thầm lặng. Một lòng tốt giản đơn thôi, dễ dàng thôi, lòng tốt của người dưng qua đường, lòng tốt giữa con người với con người, nhưng mấy ai trong đời này có được? Trích "Mùa thu của cây dương" - Có những lòng tốt giản đơn thôi Nguồn: Website Afamily.vn (http://afamily.vn/) Giới thiệu tác giả Kazumi Yumoto   Kazumi Yumoto sinh năm 1959 tại Tokyo. Cô theo học khoa sáng tác tại Đại học Âm nhạc Tokyo. Trong khoảng thời gian đó, cô từng viết lời cho các vở opera, kịch nói trên sóng phát thanh và truyền hình. Cuốn tiểu thuyết đầu tiên của của Kazumi - Khu vườn mùa hạ (Natsu no niwa) xuất bản lần đầu năm 1992 đã nhanh chóng giành được thành công ở trong và ngoài nước. Tác phẩm tiếp theo của cô - Mùa thu của cây dương (Popura no Aki) cũng nhận được rất nhiều chú ý từ dư luận, được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới.   Những tác phẩm của Kazumi Yumoto - Mùa Thu Của Cây Dương - 2010 - Khu Vườn Mùa Hạ - 1992