Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Manon Lescaut - Abbe Prevost

Đời văn của linh mục Prévost thật khác thường: người đương thời từng say mê chuyền tay nhau đọc những pho tiểu thuyết bề thế của Prévost, chăm chú lắng nghe những bài diễn giảng của ông. Nhưng đến đầu thế kỷ XIX, ánh hào quang của những áng văn đó đã lu mờ đi, những bài diễn giảng kia không còn hợp với khẩu vị của công chúng thời nay nữa. Và bản thân tên tuổi của Prévost chắc hẳn rồi cũng sẽ mai một, nếu ông không để lại tập Truyện hiệp sĩ đơ Griơ và nàng Manông Lexcô. Thiên truyện tuy chiếm một chỗ đứng hết sức nhỏ nhoi trong toàn bộ cái di sản văn chương khá đồ sộ của nhà văn, nhưng nó đã mang lại cho Prévost một vinh quang thực sự bất tử và đưa ông lên hàng những đại biểu lớn nhất của văn chương thế giới. Antoine Francois Prévost sinh ngày mồng 1 tháng Tư năm 1697 tại thành Eđen (tỉnh Arthur) trong một gia đình tư sản rất được trọng vọng. Hồi bé, cậu học tại quê nhà, trong một trường sơ học của dòng Jésuistes. Bước sang tuổi thiếu niên, Prévost đã được bố mẹ thu xếp để cậu con sẵn sàng dấn thân vào con đường phụng sự Chúa. Vừa chớm đến tuổi trưởng thành, năm 16 tuổi, ông đã là sinh đồ của một chủng viện dòng Jésuistes ở Paris. Tại đây, người ta đã nhanh chóng nhận ra những khả năng xuất sắc của chàng trai, nên chỉ hai năm sau (1715), Prévost đã được gửi tới thị trấn La Flèche, theo học tại một trong những cơ sở đào tạo lớn nhất thời bấy giờ – trường Henri IV. Theo chương trình học thì tại đây, Prévost sẽ phải nghiền ngẫm giáo lý, triết học và các khoa học nhân văn khác. Nhưng mới học chưa đầy một năm, chẳng rõ vì lý do gì, ông đã từ giã La Flèche, ra đi. Từ đó, Prévost bắt đầu dấn thân vào không biết cơ man nào là những cuộc phiêu lưu, để cho miệng thế đã không ngớt lời dèm pha, thêu dệt nên đủ mọi thứ chuyện trong suốt nhiều năm sau đó. Các nhà văn học sử đã phải tốn khá nhiều giấy mực mới đẩy lùi được những lời đơm đặt nhảm nhí, bôi lọ tiểu sử của Prévost. Nhưng chỉ cần tính riêng những điều không thể chối cãi được trong đời tư của nhà văn, ta cũng đủ thấy ông đã phải sống một cuộc đời hết sức phức tạp, đầy sóng gió và mâu thuẫn, nhất là trong những năm còn đang độ trẻ trung. Rời La Flèche, Prévost sung ngay vào quân đội, làm một anh lính thường. Tòng ngũ chưa đầy hai năm, ông lại muốn về lại với cuộc sống tu hành (năm 1719), nhưng đã bị cự tuyệt. Prévost tức tốc sang ngay La Mã, hy vọng rằng sẽ cạy cục được các đấng bề trên của dòng Jésuistes cho mình được quyền tái nhập, để tiếp tục học hành. Nhưng giữa đường, chẳng may ông thọ bệnh. Một viên sĩ quan đã đứng ra giúp đỡ Prévost, đưa ông vào nhà thương và lo liệu cơm nước, thuốc thang. Nhưng chẳng bao lâu sau ông mới vỡ nhẽ ra rằng viên sĩ quan nọ chẳng phải chỉ vì nhân từ mà cưu mang ông; trong thâm tâm, gã còn nuôi một ý định khác: dụ dỗ chàng trai quay lại với cuộc đời binh nghiệp. Các khoản chi phí ông ta bỏ ra cho Prévost, chẳng qua chỉ như là món tiền ứng trước để ít nữa sẽ khấu vào đồng lương chú lính trẻ. Bởi thế, gã buộc Prévost phải tiếp tục tòng ngũ như trước. Để khỏi tái đăng bất đắc đĩ, Prévost bỏ sang Hà Lan. Được ít lâu, ông lại quay về quê, sống với gia đình. Có lẽ đây chính là thời kỳ nhà văn phải nếm trải cuộc phiêu lưu, tương tự như cuộc phiêu lưu tả trong thiên truyện nổi tiếng sau này. Cũng giống như nhân vật chính cuốn truyện, Prévost đã nhất quyết đi theo người tình mình yêu say đắm, đang bị cảnh sát bắt giữ, nhưng giữa đường thì lăn ra ốm, không còn kịp theo chân đám tù nhân kia, và từ đó mãi mãi mất hút tăm tích người yêu. Đau khổ và tuyệt vọng, Prévost bèn tìm cách lánh đời, và ông lại quay về với kinh bổn, nhưng lần này không phải trong dòng tu cũ, mà của dòng Bénédictin, vốn nổi danh với những trước tác khoa học, nhất là sử học nói riêng, Sau một năm thụ huấn, Prévost làm lễ tuyên thệ (1721). Nhưng ông không sao kham nổi nếp sống câu thúc giữa bốn bức tường âm u, và lòng vẫn không nguôi nhớ nhung cảnh sống phóng khoáng ngày nào. Quan hệ giữa ông với các vị chức sắc cai quản dòng tu cứ trở nên ngày một rắc rối dần. Bởi thế, chỉ trong vòng bảy năm thôi (1721-1728), Prévost đã phải tám lần thay đổi nơi tu luyện. Đó chính là thời kỳ Prévost bắt đầu lao vào sáng tác. Tại các trai phòng của tu viện Blanc-Manto và Saint-Germain des Prés, ông đã hoàn thành bốn tập đầu bộ Ký sự của một trang quý tộc lánh đời, thiên tiểu thuyết đã được coi là tác phẩm đã làm rạng danh cho tác giả. Hai tập đầu thiên truyện ra mắt công chúng vào đầu năm 1728. Sự xuất hiện của hai tập tiếp theo, tập III và tập IV, trùng với thời kỳ xảy ra một bước ngoặt ghê gớm trong đời nhà văn: ông bí mật trốn khỏi tu viện, lên đường về Paris. Dòng tu Bénédictin mưu toan ỉm đi vụ xì-căng-đan đó, thuyết phục ông quay về, nhưng vô hiệu. Bởi thế, họ đã phải nhờ đến viên cục trưởng cảnh sát kinh thành can thiệp, yêu cầu bắt giữ vị tu sĩ bỏ trốn. Ngày 6 tháng Một năm 1728, cảnh sát kinh thành ký lệnh bắt giam. Nhưng đáng nực cười là trong đơn kiện, dòng tu Bénédictin đã ghi rõ ràng kẻ bị truy nã là tác giả bộ Ký sự của một trang quý tộc - thiên truyện đang làm xôn xao dư luận Paris lác bấy giờ. Chỉ mươi hôm sau, ngày 19 tháng Một, kiểm duyệt cũng đã ký lệnh cho phép in tập III và tập IV Ký sự của một trang quý tộc. Hay tin cửa ngục đang mở rộng để chờ mình, Prévost hối hả rời quê nhà, sang Anh. Từ đó lại bắt đầu một chặng đường luân lạc mới là đồng thời cũng là giai đoạn hoạt động sáng tác sôi nổi nhất của nhà văn. Prévost tha hương từ năm 1729 đến hết năm 1734. Có thời, ông đã phải làm gia sư cho một quý tộc Anh, nhưng phần lớn thời giờ và tâm huyết lại dành cho viết lách. Năm 1751, Prévost bỏ sang Hà Lan. Trong chuyến đi này, chắc hẳn nhà văn đã mang sẵn trong hành trang Truyện hiệp sĩ đơ Griơ và nàng Manông Lexcô, và định đưa cho các nhà in ở Amsterđam xuất bản, Tuy nhiên, ngây ngất với những thành công tuyệt đỉnh của bộ Ký sự, các nhà kinh doanh sách Hà Lan chỉ muốn nhận từ tay ông những tập tiếp theo của bộ tiểu thuyết đó. Vì túng bấn, Prévost phải bắt tay viết tiếp hai tập nữa, mặc dù Ký sự hoàn toàn chẳng cần phụ thêm một dòng tục biên nào. Do nhu cầu thương mại, bộ tiểu thuyết đã được gắn thêm hai tập mới trong đó có một tập là Truyện chàng hiệp sĩ đơ Griơ và nàng Manông Lexcô, mặc dù chính tác giả cũng đã phải thú thực trong Lời tựa ở đầu sách rằng câu chuyện tả ở đây chẳng hề liên quan gì với những biến cố đã thuật lại trong Ký sự. Như thế là, thiên truyện nhỏ khiến cho danh tiếng của linh mục Prévost trở nên bất tử đã ra mắt độc giả lần đầu ngay từ năm 1751, với tư cách là phụ lục của bộ Ký sự của một trang quý tộc mà ngày nay đã hoàn toàn bị lãng quên. Các sáng tác của Prévost sở dĩ được nhiều người hâm mộ trước hết là do tính hấp dẫn của chúng. Các tác phẩm của ông hầu như trang nào cũng vẽ lên một biến cố rất đỗi lôi cuốn – khi thì cảnh bắt cóc hoặc giết người, khi thì một cuộc truy nã, và đâu đâu cũng đầy rẫy những sự trùng khớp hết sức tình cờ, hành động tả ở đây phần nhiều đều diễn ra tại những căn nhà ẩm thấp, những lâu đài âm u, những cánh rừng hoang vắng hoặc những xứ sở xa lạ. Trong các nhân vật chính, bao giờ cũng phải có mặt một con “quỷ dữ”, tâm địa hắc ám, hành tích đầy bí ẩn, hiện thân cho cái ác. Người đọc còn bị lôi cuốn bởi những nét mới lạ mà Prévost lồng vào tính cách các nhân vật: tiểu thuyết nào của ông cũng khắc họa những con người tâm can bị thiêu đốt bởi những khát vọng mãnh liệt, có thể nuốt chửng hết thảy mọi thứ trên đời và lí trí không sao cưỡng nổi. Và niềm khát vọng giữ vai trò chủ chốt ở đây phần nhiều đều là những mối tình say đắm. Tình yêu trong các sáng tác của linh mục Prévost là thứ khát vọng tiền định, bản năng, không sức nào kiềm chế nổi, và phần nhiều đều bi thảm – dẫn người ta đến cho tuyệt vọng, chỉ còn biết quyên sinh, lắm khi còn đẩy người ta đến chỗ lao đầu vào những tội ác rùng rợn. Đồng thời, các nhân vật của Prévost trước sau vẫn coi tình yêu là một thứ hạnh phúc cao cả, mà chỉ những ai có diễm phúc lớn may ra mới được nếm trải; và chính vì diễm phúc đó, người ta dám sẵn sàng vứt bỏ hết thảy mọi thứ. Với tư cách là nhà tâm lý học, Prévost vốn chịu ảnh hưởng của những kịch tác gia phái cổ điển là Corneille và Racine, tác giả của những vở bi kịch mà cái giữ vai trò chủ đạo bao giờ cũng là những khát vọng không sao kìm chế nổi. Nhưng nếu những tình cảm được khắc họa trong các tác phẩm đó đều là những tình cảm trừu tượng và là số phận của những đấng anh hùng huyền thoại hoặc những nhân vật lịch sử phi phàm (các bậc vua chúa, các vị tướng soái), thì trong các thiên tiểu thuyết của Prévost, những khát vọng kia đều bùng cháy lên trong tâm can những kẻ địa vị xã hội khiêm nhường hơn; và chính nhờ vậy mà phẩm giá của họ đều vượt lên trên cái mức bình thường. Bởi thế, khát vọng nào của các nhân vật do Prévost tạo dựng cũng đều xung khắc gay gắt với những nhân tố thông thường trong cuộc sống của người đời – điều kiện vật chất, nếp nghĩ và nếp sống của gia đình, những định kiến của thế tục, v.v… Năm 1734, Prévost mới được quyền về lại quê hương: Giáo hoàng gia ân cho nhà văn được tiếp tục thử thách đức tin tại các tu viện như trước. Năm 1736, một đại quý tộc có quyền hành nhất nước Pháp thời kỳ ấy là hoàng thân Conti đã mời Prévost sung vào đoàn tùy tùng của ông ta, giữ chức linh mục trong hoàng cung, Prévost nhận lời ngay, vì đây là một chức hữu danh vô thực – không phải gánh vác một trọng trách nào, mà cũng chẳng được hưởng một thứ bổng lộc nào – nhưng lại cho phép ông được sống ở bên ngoài tu viện, danh tiếng lừng lẫy của nhà văn lớn nhất đương thời đã khiến giới thượng lưu và các xa lông văn chương mở rộng cửa đón ông, Prévost lại có thêm nhiều bạn mới là nhiều người hâm mộ mới. Tuy nhiên, cũng chính vào thời kỳ đó, Prévost đã lại phải lìa bỏ quê nhà lần nữa. Số là vào những năm đó, giới thượng lưu Pháp vốn sính một hình thức thông tin lạ đời: xuất bản các tạp chí viết tay, loan truyền đủ mọi thứ tin tức, kể cả những tin đồn thất thiệt, lẫn những chuyện đơm đặt hồ độ, chẳng đếm xỉa gì đến sự thật, của các vương tôn, công tử nhàn nhã. Đám thư lại có hoa tay phụ họa vào, ngồi nắn nót chép những trang tạp chí nọ để gửi đến đám khách hàng đặt mua. Prévost đã quá khinh suất, bằng lòng giúp đỡ việc biên tập về văn phong cho một trong những tạp chí loại đó. Một vị quý tộc có thân thế bất đồ đã bị tờ tạp chí này vu khống, ông ta bèn ra lệnh bắt giam chủ bút. Các nhà chức trách bắt đầu mở cuộc điều tra. Đến khi đó biết được rằng Prévost có nhúng tay vào việc biên tập, thì viên cục trưởng cảnh sát liền yêu cầu ông phải rời ngay nước Pháp. Prévost lại phải lưu lạc ở chốn đất khách quê người một năm rưỡi nữa, lúc ở Bỉ, lúc ở Frankfurt. Mãi đến lúc về lại Pháp, ông mới bắt đầu được hưởng một cuộc sống yên hàn, và danh tiếng ông mới đạt đến đỉnh cao chói lọi. Từ đó, Prévost mới được biết thế nào là sự thư thái tâm hồn và sự no đủ về vật chất. Prévost vẫn không rời bỏ sự nghiệp sáng tác cho đến tận giây phút trút hơi thở cuối cùng. Ông mất ngày 25 tháng Một năm 1763 vì vỡ tim trong một lần dạo chơi quanh điện Chanteille, ở ngoại ô Paris. *** Truyện hiệp sĩ đơ Griơ và nàng Manông Lexcô, như đã nói, ra mắt lần đầu vào năm 1731 ở Hà Lan với tư cách là phụ lục của tập VII bộ Ký sự của một trang quý tộc. Ở Pháp, kiệt tác này không được đánh giá cao ngay từ đầu, thành ra mãi đến năm 1733 mới được ấn hành. Tờ “Báo của cung đình và kinh thành Paris”, số ra ngày 21 tháng sáu năm 1733, đã đăng một mẩu tin như sau: “Mới đây, tập VII bộ Ký sự của một trang quý tộc đã ra mắt công chúng. Thiên truyện được viết tài tình và lôi cuốn đến mức ngay cả những kẻ bình thường cũng phải mủi lòng cho thân phận của một gã bịp bợm và một ả buôn phấn bán hương”. Nhưng chỉ ít lâu sau, các nhà chức trách kinh đô đã phải ký lệnh thu hồi và thiêu hủy quyển sách. Trong hồ sơ lưu trữ hiện còn giữ được biên bản tịch thu năm bản truyện của một chủ hiệu sách ở kinh thành và hai bản nữa của một chủ hiệu khác. Việc tịch thu sách trên thị trường dĩ nhiên không hề làm lu mờ danh tiếng của thiên truyện, và người đương thời vẫn háo hức chuyền tay nhau các ấn bản do nhiều nhà kinh doanh sách Hà Lan in ra, đang ồ ạt tràn vào đất Pháp tác bấy giờ. Việc cấm lưu hành Truyện hiệp sĩ đơ Griơ, coi đây là tác phẩm vô đạo đức, giữa lúc phong hóa suy đồi chưa từng thấy, giờ đây xem chừng rất khó hiểu. Nhưng có lẽ chính sự băng hoại đạo đức đó là nguyên nhân dẫn đến tình trạng không đánh giá đúng và không hiểu hết tư tưởng chính mà tác giả gửi gắm vào tác phẩm: người đương thời chỉ nhìn thấy ở đây câu chuyện về những cuộc phiêu lưu suồng sã, rẻ tiền của đôi trai gái hư thân mất nết. Đây là cách lý giải về nguyên nhân khiến người đương thời không đánh giá đúng thiên truyện của Prévost do chính A.I. Gertxen đưa ra. Sự cấm đoán đó đã thôi thúc Prévost đứng lên bảo vệ tác phẩm của chính ông trong tờ tạp chí “Đồng tình và phản đối” do bản thân nhà văn sáng lập và xuất bản từ năm 1735 – 1740. Prévost đã cố xoa dịu cái ấn tượng mạnh mẽ do tác phẩm gây ra và cải chính những lời quở trách mình là đã sáng tác ra một quyển sách “vô đạo đức”. “Công chúng đã đọc một cách say sưa tập cuối bộ Ký sự của một trang quý tộc, có in câu chuyện về cuộc phiêu lưu của hiệp sĩ đơ Griơ và nàng Manông Lexcô. Chúng tôi coi đây là một chàng trai có những thiên bẩm rực rỡ và sức lôi cuốn bất tận, say mê đến mức rồ dại một cô gái trẻ, vừa rất yêu chàng, nhưng vừa thích sống một cuộc đời phù hoa, trăng gió, hơn là đeo đuổi những hạnh phúc cao cả, có thể giúp cho người yêu bộc lộ hết những tài năng trời cho và làm rạng danh cho dòng dõi cao quý của chính chàng. Trước mắt chúng ta là một kẻ nô lệ bất hạnh của tình yêu; tuy nhìn thấy trước được mọi nỗi khốn đốn đang chờ mình, nhưng chàng trai không còn đủ sức để lẩn trốn chúng, đẩy lùi chúng; chàng đã hiên ngang đứng ra hứng chịu mọi nỗi khốn đốn ấy, mặc cho chúng giày vò mình, hoàn toàn chẳng đếm xỉa gì đến những phương sách khả dĩ giúp mình giành được một chỗ đứng dễ chịu hơn; tóm tại, đó là trang nam nhi vừa hư hỏng, vừa đạo đức, luôn đeo đuổi những ý định tốt lành, nhưng lại hành động một cách xấu xa, nếp cảm nghĩ thì rất đáng quyến rũ, nhưng hành vi thì đáng phỉ báng. Chẳng qua là một tính cách độc đáo. Tính cách của nàng Manông Lexcô lại càng độc đáo hơn. Nàng biết rõ thế nào là phải trái, thậm chí còn rất mực coi trọng lẽ phải, nhưng toàn làm những việc đáng chê trách. Nàng yêu tha thiết hiệp sĩ đơ Griơ, nhưng nỗi thèm khát cảnh giàu sang và hoa lệ đã khiến nàng phản lại những tình cảm của chính mình đối với chàng trai, chạy theo một gã tài chính lắm tiền. Phải làm chủ được một nghệ thuật thế nào mới có thể thu hút nơi cảm tình của độc giả, gợi lên nơi họ sự thông cảm đối với những bất hạnh mà cô gái hư thân mất nết này phải hứng chịu! Tuy cả hai đều là những kẻ hư hỏng, nhưng người ta vẫn thấy thương họ, vì thấy rằng sự hư hỏng ấy chung quy chỉ là hậu quả của sự yếu lòng và si mê; hơn nữa, ta cũng thấy rõ rằng trong thâm tâm, cả hai đều lên án gay gắt hành vi của chính mình và đều thừa nhận rằng cách cư xử như vậy là rất đáng chê trách. Xem thế đủ biết tuy miêu tả cái xấu, nhưng tác giả tuyệt nhiên không đem nó ra mà truyền giảng. Tác giả chỉ vẽ lên ở đây ảnh hưởng của những dục vọng cuồng si, đã khiến cho lý trí trở nên bất lực, khi mà con người bị cầm tù bởi nỗi bất hạnh là đem phó mặc lý trí của bản thân cho dục vọng thao túng…” Thiên truyện bị cấm lưu hành suốt hai chục năm dài đằng đẵng. Mãi đến năm 1735 mới lại được in ra, lần này thành hai tập mỏng, kèm theo không biết bao nhiêu sửa chữa, thậm chí còn đưa vào một tình tiết mới, tuy không hề làm thay đổi nội dung chính của câu chuyện. Từ đấy trở đi, Manông Lexcô mới giành được một chỗ đứng vững chãi trong các sáng tác xuất sắc nhất của văn chương thế giới xưa nay. *** Đề tài được Prévost luận giải trong Truyện chàng hiệp sĩ đơ Griơ và nàng Manông Lexcô là thứ tình yêu tiền định, đủ sức nhấn chìm hết thảy mọi thứ ở đời. Đây là đề tài, như đã nói, vốn chiếm vị trí chủ chốt trong sáng tác của nhà văn. Nhưng khác với những bộ tiểu thuyết trường thiên của Prévost, cốt truyện vốn hết sức phức tạp và lắt léo, Truyện chàng hiệp sĩ đơ Griơ và nàng Manông là một áng văn bố cục cân đối và hài hóa khác thường. Nét đặc sắc ấy sở dĩ có được chắc hẳn, chính là do tính chất tự thuật của nó: cái bi kịch làm chất liệu của thiên truyện cũng chính là tấn bi kịch đầy xúc động mà tác giả đã nếm trải với tất cả tâm hồn mình một cách đủ sâu sắc, đến mức chẳng cần phải thêm thắt bất cứ một suy tưởng hay một biến cố hư cấu nào. Prévost đã dựng lên được một hình tượng về một “cô gái sa đọa”, có sức lôi cuốn mãnh liệt đến mức gần như lấn át hết hình ảnh của chàng hiệp sĩ chung tình của chính mình trong cảm thức của người đọc. Một chứng cứ, thoạt nhìn rất nhỏ nhặt, nhưng đầy sức thuyết phục, là: ngay từ đầu thế kỷ trước, các nhà kinh doanh sách đã tùy tiện “đổi” lại nhan đề tập sách từ Truyện chàng hiệp sĩ đơ Griơ và nàng Manông Lexcô thành Truyện nàng Manông Lexcô và hiệp sĩ đơ Griơ; ít lâu sau, nữ nhân vật đã lấn át hẳn tên tuổi của chàng hiệp sĩ ở bìa sách: tên truyện, bây giờ chỉ còn vẻn vẹn ba chữ: Nàng Manông Lexcô. Mãi gần đây, các nhà xuất bản ở Pháp mới trở lại với cái tên cũ, do chính tác giả đặt cho quyển truyện, việc đảo ngược họ tên hai nhân vật tưởng chừng rất nhỏ nhặt, nhưng thực ra đã động chạm đến một vấn đề lớn: ai là nhân vật chính và tấn bi kịch, mà nhà văn muốn thuật lại với chúng ta trong tác phẩm, là bi kịch của người nào, và dĩ nhiên chẳng phải vô cớ mà Prévost đã để tên hiệp sĩ đơ Griơ lên ở đầu; chính chàng, hiệp sĩ đơ Griơ, chứ không phải Manông Lexcô, mới là nhân vật chính của tấn bi kịch trong truyện. Hơn nữa, mối xung đột được Prévost lồng vào các biến cố là ở đây tại chính là sự xung khắc gay gắt giữa hai tính cách: hiệp sĩ đơ Griơ và người con gái mà chàng say đắm yêu. Ví thử đơ Griơ cũng vô đạo đức như Manông thì cuộc hội ngộ giữa hai người chắc chắn sẽ chẳng kéo theo một tấn bi kịch nào: vì gắn bó số phận mình với Manông, chàng sẽ hóa thành một gã ma-cô tốt số; và với cái vẻ ngoài đầy quyến rũ của Manông, cuộc sống của họ rồi đây chắc hẳn sẽ trôi qua một cách êm ả trong no đủ, chẳng còn phải bận bịu, lo toan gì nữa… Vả chăng, cả người anh của Manông, lẫn bản thân nàng đều đã nhắc nhở hiệp sĩ nên đi theo chính con đường ấy. Nhưng toàn bộ sự tình chính là ở chỗ đơ Griơ và Manông là hai tính cách khác hẳn nhau; cả bản chất đạo đức, lẫn diện mạo tinh thần của cả hai đều rất ít có những nét chung. Bi kịch của đơ Griơ chính là ở chỗ chàng không thể chia sẻ với Manông một lý tưởng về tình yêu cao thượng, mà chỉ có nó mới đáp ứng được lòng mong mỏi của chàng; trong khi đó thì toàn bộ tấn bi kịch của Manông chung quy chỉ là sự thiếu thốn những điều kiện sinh hoạt vật chất. Nghe theo sự mách bảo của ý nguyện chính mình, Prévost đã thuật lại câu chuyện qua lời hiệp sĩ. Hình thức tự truyện cho phép nhà văn bộc lộ một cách hết sức sâu sắc và chân thực toàn bộ thế giới bên trong của nhân vật. Tấm lòng cao thượng bẩm sinh và nếp nghĩ quá thiên về lý tưởng đã không cho phép đơ Griơ nhận ra con người thực của Manông, chỉ họa hoằn lắm, và thường là vào lúc vắng bóng người yêu, đần óc chàng mới đủ sáng suốt để cảm nhận sự độc hại về đạo đức của chính mình, và càng nhận rõ được sự suy đốn đó sâu sắc bao nhiêu, chàng càng tin chắc thêm bấy nhiêu sự ươn hèn của bản thân và càng thấy rõ sẽ không còn biết lấy đâu ra sức lực nữa để mà chống trả, vì nghị lực chàng đã tiêu ma đi hết bởi lẽ vướng vào mối tình bất hạnh này. Trung thành với những lý tưởng cao cả của chính mình về tình yêu, hiệp sĩ đã cư xử với Manông như một hiện thân thuần khiết nhất của nữ tính, cần nhớ rằng trong suốt cuốn truyện, đơ Griơ đã không hề đã động lấy một lời về con người thể chất của Manông, về nét mặt của nàng. Đối với chàng, Manông là một thực thể tuyệt đối, hao hàm trong bản thân nó hết thảy mọi sự hoàn thiện. Và với tư cách một hiệp sĩ chân chính, đơ Griơ đã hiến thân cho thần tượng mình ngưỡng mộ hết thảy mọi thứ đang có – tên tuổi, địa vị xã hội, gia đình, bước đường công danh, cuộc sống sung túc; và nếu cần, sẵn sàng hiến luôn cả mạng sống của chính mình. Hình tượng của Manông, xét về các phẩm chất nghệ thuật, là một trong những hình tượng hoàn mỹ nhất của văn chương thế giới. Ở đây, nhà văn đã kết hợp được thành một thể thống nhất hai khía cạnh tương phản gay gắt – vẻ ngoài đầy sức quyến rũ và sự hạn hẹp về thế giới nội tâm của nữ nhân vật – bằng một tài nghệ phi thường đến mức người đọc luôn luôn bị quyền lực của hai tình cảm đối lập nhau chi phối: vừa thán phục và vừa căm giận. Tuy nhiên, cũng đừng quên rằng hình tượng Manông mà chúng ta cảm nhận ở đây là qua lời kể của đơ Griơ – một người thuật chuyện nhiệt thành đến mức khó có ai theo kịp. Đơ Griơ lúc nào cũng không tiếc lời biện hộ cho nàng và chỉ hãn hữu lắm mới cảm nhận được ít nhiều rõ nét những thói hư tật xấu của cô gái, Manông là một phụ nữ mất hết mọi nền nếp đạo lý, là một con người trí lực kém cỏi và tầm nhìn cực kỳ thiển cận, chật hẹp, cho nên sẽ rất lầm lạc, nếu khẳng định rằng cái ngự trị trong thiên truyện là ý niệm “tính người tối đa” (chelovecheskij maksimum). Không cần tuyên bố công khai rằng chủ nghĩa khoái lạc nhất thiết phải là bạn đồng hành cố hữu của thói xem thường các quy phạm đạo đức vẫn được xã hội chấp nhận, ta vẫn có quyền coi việc đánh đồng hình tượng Manông với ý niệm “tính người tối đa” là việc làm quá ư ngây thơ: tính người đâu phải chỉ thu gọn ở những bộ trang phục lộng lẫy, ở những bữa dạ tiệc thịnh soạn, ở những chiếc vé xem hát đắt tiền và những trò tiêu khiển miên man. Cội nguồn tạo dựng, ngay cả khi xét trong phạm vi của nữ giới đơn thuần đi nữa, cũng xa lạ đối với Manông. Ta không tài nào hình dung nổi nàng trong cương vị của một người mẹ, một người vợ, tảo tần nuôi con dạy cái và thu vén việc cửa nhà. Hơn nữa, Manông còn mang sẵn trong con người mình bản năng tàn phá – hễ tiếp cận với nàng, mọi thứ đều lập tức trở nên đồi bại. Ngay cả đám tôi tớ của Manông, do chứng kiến cảnh sống chung của nàng với đơ Griơ, cũng đã tiêm nhiễm phải những thói xấu của chủ: họ cũng lấy cắp tiền nong, tư trang của chủ, y hệt như nàng đã lấy cắp của đám khách làng chơi đến giải buồn. Manông không đủ sức mang lại hạnh phúc cho người nàng yêu: ngay cả khi đã đứng vững chân trên một mảnh đất chắc chắn như mối tình rất mực thủy chung của đơ Griơ đi nữa, nàng vẫn không sao xây dựng được một hạnh phúc lứa đôi bền chặt. Đến như tình cảm máu mủ, ruột rà, nàng cũng hoàn toàn xa lạ, Không như đơ Griơ, lúc nào cũng ngóng chờ được trở về sum họp với cha già, với người em, với người bạn thời thơ ấu, Manông không bao giờ tưởng đến gia đình và đả động đến gia đình. Ngay cả bạn gái, nàng cũng không có. Trong khi đơ Griơ bao giờ cũng canh cánh bên lòng hình ảnh người bạn Tibecgiơ, thậm chí cả khi hai người xa cách, thì Manông hoàn toàn chẳng có một ai để mà kết thân. Nàng không hề dành sẵn đất cho tình bằng hữu. Cần nhận thấy rằng trong thiên truyện của Prévost, từ phía đơ Griơ đã xuất hiện toàn những nhân vật chính diện (cha chàng, em chàng, Tibecgiơ, ông đơ T… – và thậm chí cả viên cai ngục ở nhà tù Priut nữa), thì từ phía Manông chỉ xuất hiệu toàn những nhân vật phản diện (anh nàng, đám khách làng chơi liên tục thế chân nhau). Manông tựa hồ như một thứ ma lực, chỉ lôi cuốn về phía mình toàn những cái xấu, cái ác, cũng rất đáng chú ý là hết thảy những kẻ “ngưỡng mộ” Manông, được nhà văn dựng lại trong truyện, đều chỉ đến với nàng không từ một động cơ nào khác, ngoài những dục vọng đê cấp; họ không hề ngờ vực mảy may nào sự thành công của chính họ, vì ai cũng thừa biết rằng nàng không phải là “món khó gần”. Không hề thấy một gã nào trong số họ đến với nàng là do những tình cảm chân thành thôi thúc. Nói cho công bằng, thì khi sang đến Mỹ, hành vi của Manông có phần ít đáng chê trách hơn lúc còn ở quê nhà. Nhưng vị tất đã có thể xem đây là kết quả của sự ăn năn hay sự cải hóa tự nhiên của tâm tính. Sang đất Mỹ thời ấy là cả một cuộc hành trình dài dằng dặc – hàng trăm cây số rong xé trên đất Pháp, thêm hai tháng trường lênh đênh trên thuyền buồm giữa đại đương, rồi điều kiện sống khắc nghiệt ở Tân thế giới, thân phận hèn kém của kẻ bị lưu đày, và những thiếu thốn, thua thiệt đủ mọi đường – tất cả những cái đó không thể không làm tổn hại đến sức mạnh tinh thần và thể chất của Manông. Sang đến Mỹ, nàng đã hóa thành một con người khác – đau khổ, kiệt sức, tuyệt vọng, từ bỏ hẳn lối sống buông thả và nông nổi ngày nào. Nét nổi bật của thiên truyện là Prévost đã miêu tả một cách tỉ mỉ lạ thường những đặc điểm về sinh hoạt của thời đại. Hành động tả trong truyện diễn ra đúng vào thời kỳ Trùng Hưng (1715 – 1723), khi mà xã hội Pháp say sưa lao vào một lối sống buông thả hoàn toàn, vào những năm chót cùng của triều đại Louis XIV dài lê thê. Cái ngự trị trong chốn cung đình là sự hà khắc và thói đạo đức giả. Không khí đó đã ảnh hưởng rất sâu đậm đến toàn bộ nếp sinh hoạt bên ngoài xã hội, sau ngày Louis XIV chết đi, ngôi báu đã lọt vào tay người chắt là Louis XV (vì cả con, lẫn cháu vua đều đã về chầu Chúa trước tổ phụ), bấy giờ mới chỉ là một cậu bé con thơ dại. Bởi thế, mọi quyền bính trong nước, trên thực tế, đều nằm trong tay quan nhiếp chính Philippe Orléans ham vui và nông nổi. Thần dân trong nước tức thì phản ứng ngay lại với bầu không khí tẻ nhạt, giả dối, từng chiếm địa vị thống trị dưới thời đức vua già lụ khụ ngày xưa, xã hội Pháp tức thì trút một hơi thở phào nhẹ nhõm và lao ngay vào cuộc sống ăn chơi, phè phỡn, cho bõ những ngày dài câu thúc, kiêng khem mới đây. Linh mục Prévost quả đã làm sống lại trong truyện một cách chính xác phi thường nhiều đặc điểm của nếp sống thời ấy. Các sử gia thời Trùng Hưng đều nhất trí thừa nhận rằng những tình tiết nhỏ nhặt, như thể thức lưu đày sang Mỹ những tù nhân bị khép tội phát vãng, địa điểm các sòng bạc và lề thói sát phạt của đám dân máu mê, những thể chế tồn tại trong các sở cẩm, các trại giam, cũng như các tửu điếm, v.v..., nhất nhất đều xác thực. Tác giả không tự cho phép mình bỏ qua bất cứ chi tiết nào từng được chứng kiến tận mắt. Bức tranh do nhà văn vẽ lại về cuộc sống thời bấy giờ quả chân xác đến mức khó lòng quở trách. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là những xung đột được Prévost khắc họa ở đây đều chỉ tiêu biểu cho cái thời đại lịch sử ấy, bởi lẽ những trở lực ngăn cản đơ Griơ và Manông vươn đến hạnh phúc không chỉ đơn thuần là ở các thể chế xã hội thời Trùng Hưng, mà chính là ở tính cách của Manông. Nền văn chương thế kỷ XVIII vốn không thiếu gì những sáng tác miêu tả những trở lực do các thiên kiến của giai cấp quý tộc vô tư sản dựng lên trên bước đường đi đến hạnh phúc của các đôi nam thanh nữ tú, chỉ cần đơn cử ra đây một dẫn chứng: trong Nàng Héloise mới, hạnh phúc của Julie và Xanh Pré cũng đã sụp đổ, chung quy chỉ vì Xanh Pré xuất thân từ tầng lớp bình dân. Tấn bi kịch của đơ Griơ có một ngọn nguồn hoàn toàn khác, và không thể đã hết trách nhiệm lên đầu hoàn cảnh xung quanh, nói riêng là người cha già của hiệp sĩ. Ông thân của đơ Griơ chống lại cuộc hôn nhân giữa con mình với Manông không phải vì nàng xuất thân từ tầng lớp dân thường, mà chính vì nàng là một nhân cách suy đốn về đạo đức, không thể mang lại hạnh phúc cho con trai của chính mình, cha của đơ Griơ là một người từng trải, và hiểu được thế nào là nhân tình thế thái. Câu chuyện trốn nhà ra đi của Manông với con trai ông, người nàng mới quen biết qua loa, rồi hoàn cảnh diễn ra cuộc hội ngộ đó, và chắc hẳn chính số phản phúc của Manông, đã tố giác người tình khi vừa hay biết được rằng chàng không lấy đâu ra tiền để chu cấp cho mình – tất cả những sự kiện ấy đã giúp ông thấu hiểu được chân tướng của Manông và có đầy đủ mọi lý lẽ để chống lại cuộc hôn nhân. Không một ông cha hay bà mẹ nào, chẳng riêng gì ở thời Trùng Hưng, mà ở bất cứ thời đại nào khác, lại có thể tán thành với dự tính của một anh con trai mười bảy, do chính mình đứt ruột đẻ ra, đem gắn bó số phận với một cô gái giang hồ, chuyên ăn cắp vặt và toàn ngấm ngâm mưu mô những chuyện làm ăn gian lận. Tìm cách biện hộ cho Manông, xuê xoa hay nhắm mắt làm ngơ với những căn nguyên sâu xa của cái nhân cách tồi tệ đó có nghĩa là hạn chế bớt mức độ gay gắt, tính độc đáo và tầm bao quát của hình tượng ấy, do đó, không đánh giá hết chiều sâu tâm lý và tài nghệ của nhà văn. Người bạn hơn tuổi của đơ Griơ, chàng Tibecgiơ, được tác giả khắc họa như một người bạn mẫu mực, trung thành. Từ lâu rồi, các nhà nghiên cứu đã nhận thấy: các nhân vật chính diện, nhất là trong văn chương thế kỷ XVIII, bao giờ cũng là những nhân cách kém sắc sảo, “nghèo nàn” hơn các nhân vật phản diện, Nhưng ở Tibecgiơ, đức khôn ngoan và lòng chung thủy trong hành vi tuyệt nhiên không làm hình tượng chàng trở nên mờ nhạt và vô vị. Tibecgiơ tuy kiên định trong đức tin, nhưng vẫn tỏ ra rất mực khoan dung đối với đơ Griơ; chàng rất nghiêm khắc, nhưng đồng thời vẫn rất người, ví thử Tibecgiơ chỉ là một anh chàng cố chấp, ti tiện và thông thái rởm, chỉ biết truyền giảng những bài học luân lý tẻ nhạt đơn thuần, thì không đời nào đơ Griơ lại quý trọng chàng đến thế, Tibecgiơ là người bạn chân tình, ngay thẳng, đầy lòng bao dung, nhưng không bao giờ tha thứ cho bạn về những việc làm nông nổi. Sự trung thành, tận tụy của chàng đã đạt đến đỉnh cao của đức xả thân: để cứu bạn, chàng sẵn sàng hy sinh hết thảy, theo chân bạn sang tận đến Mỹ, mặc đã chuyến đi ấy vào thời Prévost phải kéo đài hàng mấy tháng trường và phải trải qua bao nhọc nhằn, vất vả, thậm chí có khi phải mạo hiểm đến cả tính mạng nữa. Đơ Griơ đánh giá rất cao tình bạn giữa chàng và Tibecgiơ, chàng tin chắc rằng không một thử thách nào có thể bẻ gãy được mối quan hệ thân thiết đó. Tibecgiơ là người độc nhất mà đơ Griơ có thể cởi mở hết tấm lòng, và chính nhờ những cuộc tranh cãi tay đôi với Tibécgiơ, chàng đã lần gỡ được thực chất của mối tình say đắm mình đang đeo đuổi và tìm thấy lời giải đáp cho những câu hỏi đang dằn vặt tâm can. Trong những cuộc tranh cãi ấy, quan điểm của hai người hoàn toàn khác nhau, nhưng điều đó không hề cản trở họ hiểu nhau (nhất là Tibecgiơ đối với tâm tư của đơ Griơ). Lý lẽ do Tibecgiơ đưa ra, đơ Griơ hoàn toàn không thể chấp nhận được, vì những lý lẽ ấy chẳng những bao hàm cả sự kết án cách hành động của chàng, mà còn công khai bác bỏ hoàn toàn cái ảo tưởng của chàng về cuộc sống hạnh phúc với Manông. Dẫu sao, chàng hiệp sĩ bất hạnh cũng chẳng còn ai khác nữa để mà tâm sự: chàng biết rõ rằng người bạn ấy sẽ đem đến cho mình chẳng phải chỉ có những lời chỉ trích, mà còn có cả sự cảm thông, sự nâng đỡ và sự thấu hiểu. Nhân tiện cần ghi nhận rằng chưa bao giờ đơ Griơ đã thử cố trò chuyện với Manông về những đề tài thường xuyên được đề cập đến trong những cuộc tranh luận với Tibecgiơ. Trước ngày gặp Manông, đơ Griơ chắc hẳn vẫn luôn luôn chia sẻ các quan niệm của Tibecgiơ. Sự giống nhau đó chính là nền tảng của tình bạn giữa hai người, là cội rễ của sự kính trọng lẫn nhau giữa họ. Sự bất đồng quan điểm giữa đơ Griơ và Tibecgiơ chỉ là một chuyện nhất thời, và rất có thể sự bất đồng đó, nếu không hoàn toàn mất đi, thì ít ra cũng sẽ đỡ gay gắt hơn, một khi những thế lực chia rẽ họ mất tác dụng. Theo nhận định rất sắc sảo của nhà nghiên cứu văn học Arsen Usse, Tibecgiơ là lương tâm của hiệp sĩ đơ Griơ. Tài nghệ mà nhà văn đem ra để sáng tác nên Truyện hiệp sĩ đơ Griơ và nàng Manông Lexcô đã đưa thiên truyện không bao lăm trang này vào hàng những kiệt tác vĩ đại nhất chẳng những của văn chương Pháp, mà cả của văn chương thế giới. Thiên truyện được viết bằng một bút Pháp giản dị và hài hòa lạ thường; lời văn chuẩn xác, trong sáng và đầy âm hưởng, không nhường bước trước bất cứ một áng vấn mẫu mực ưu tú nào trong văn chương Pháp thời cổ điển và thời Khai sáng. Câu chuyện của đơ Griơ về những nỗi bất hạnh và đau khổ của chính chàng được thuật lại một cách chân thật, không chút khoa trương, không chút tô vẽ cốt gây ấn tượng; nhưng đằng sau cái vẻ ngoài kìm giữ đó, người đọc vẫn luôn cầm thấy một nỗi say mê sôi sục. Cả về phương điện bố cục nữa, thiên truyện cũng thật hoàn mỹ: ngay từ mấy trang đầu, tác giả đã đưa chúng ta đi thẳng vào diễn biến câu chuyện, và hứng thú của chúng ta vẫn không hề giảm sút mảy may cho đến lúc đọc dòng chót cùng tác phẩm. Nhưng công lao chủ yếu của linh mục Prévost dĩ nhiên là ở chỗ ông đã tạo dựng được hai hình tượng văn học thực sự bất hủ. Hiệp sĩ đơ Griơ là mẫu mực của một tình yêu rất mực thủy chung, của đức hy sinh và của lòng vị tha vô bờ hến. Nhà văn đã vẽ lên trước mắt chúng ta những tâm tư đau khổ và phức tạp của chàng trai một cách đầy thuyết phục đến mức ta sẵn lòng tha thứ hết cho chàng mọi lỗi lầm chàng đã phạm phải và luôn vững tin vào sự cao thượng và sự trong sạch về đạo đức của chàng. Còn hình tượng Manông thì thật khó tìm một điển hình văn học nào sánh ngang về sự hoàn mỹ trong văn chương thế giới xưa nay. Nhà văn đã ký thác nơi cô gái đầu óc trống rỗng, tâm hồn chai sạn, tầm mắt hạn hẹp và đạo đức đốn mạt ấy một vẻ quyến rũ mãnh liệt đến mức khiến ta suýt quên đi những thói hư tật xấu của nàng và sẵn sàng hâm mộ nàng cũng chẳng kém gì đích thân hiệp sĩ đơ Griơ. Arsen Usse đã nhận xét rất đúng rằng dù nhân tình của Manông có đông đến bao nhiêu đi chăng nữa, con số đó vẫn chẳng thấm tháp vào đâu so với đám người ngưỡng mộ cô nữ nhân vật mà linh mục Prévost đã dắt đến bên chân nàng. Thật vậy, đã hai thế kỷ trôi qua, nhưng Manông vẫn đầy sức quyến rũ. Từ các trang sách của nhà văn, tiếng cười say nồng của nàng vẫn vang vọng mãi không thôi và ánh mắt huyền bí, ranh mãnh của nàng vẫn lôi cuốn chúng ta như ngày nàng mới ra mắt. E. GUNST[1] Đức Dương dịch Mời các bạn đón đọc Manon Lescaut của tác giả Abbe Prevost.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Gặp Gỡ Cuối Năm
“Gặp gỡ cuối năm” – đúng như cái tên của nó – kể về cuộc gặp gỡ tại một bữa tiệc tất niên. Chị Hoàng – chủ nhà, chủ trì – đã khiêm nhường thông báo trước là bữa tiệc “rất xoàng”, vì thế, mỗi vị khách có mặt cần phải góp một câu chuyện thật hay để bữa tiệc thêm phần hấp dẫn. Điểm qua các thực khách được mời dự tiệc tất niên, có thể khẳng định đây là cuộc gặp gỡ của trí thức thuộc nhiều thế hệ khác nhau, từng đứng ở các vị trí chính trị đối lập nhau. “Gặp gỡ cuối năm”, như vậy,  là ‘hội nghị bàn tròn’ của những người trí thức về các vấn đề xã hội. Mỗi nhân vật đề cập đến một vấn đề khác nhau nhưng tất cả đều hướng đến trả lời câu hỏi: Phải sống thế nào trong năm mới, trong tương lai khi năm cũ, quá khứ đã khép lại? Qua cuộc gặp gỡ, đối thoại của các nhân vật, người đọc được phản tỉnh: Nên sống giản dị, thuận theo tự nhiên, không tham lam, không vị kỉ, nên hết sức tỉnh táo để không lầm đường lạc lối, không xa rời mục tiêu chung của dân tộc, nên là một lực đẩy chứ đừng là lực cản trong hành trình đi lên của đất nước…   Về tác giả: Nhà văn Nguyễn Khải (1930 - 2008) là một trong những gương mặt nổi bật của thế hệ nhà văn trưởng thành sau Cách mạng Tháng Tám 1945. Các sáng tác của ông thường gắn liền với những bước chuyển mình của đất nước, thể hiện sự nhạy bén và cách khám phá riêng của nhà văn với các vấn đề xã hội, vì thế ông được gọi là nhà văn thời sự. Nhà văn Nguyễn Khải đã nhận rất nhiều giải thưởng, trong đó có Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam (1982) cho tiểu thuyết "Gặp gỡ cuối năm"; Năm 2000, ông vinh dự được Nhà nước phong tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật đợt II. *** Mỗi dịp tết đến xuân về, đọc lại Gặp gỡ cuối năm của Nguyễn Khải, độc giả vẫn “gặp gỡ” nhiều điều thú vị. Tiểu thuyết được viết năm 1981, cách đây đã 37 năm, trong một sinh quyển ít nhiều khác biệt. Nhưng những vấn đề đặt ra trong truyện vẫn chưa cũ, vẫn có sức quyến rũ đối với người đọc hôm nay.   Gặp gỡ cuối năm – đúng như cái tên của nó – kể về cuộc gặp gỡ tại một bữa tiệc tất niên. Chị Hoàng – chủ nhà, chủ trì – đã khiêm nhường thông báo trước là bữa tiệc “rất xoàng”, vì thế, mỗi vị khách có mặt cần phải góp một câu chuyện thật hay để bữa tiệc thêm phần hấp dẫn. Bà chủ nhà bí ẩn này như đang muốn lắng nghe, đồng thời muốn bày tỏ một điều gì đó quan trọng khi năm cũ kết thúc, năm mới bắt đầu.   Cuộc gặp gỡ tiến diễn hết sức tự nhiên. Việt – nhà văn quân đội, người kể chuyện – đến sớm nhất. Sau Việt là anh Quý – luật sư, từng là viên chức của bộ ngoại giao ở chế độ cũ. Anh từng rất thành công trong sự nghiệp nhưng rồi anh bị rơi vào mặc cảm thất bại. Sau bao nhiêu trải nghiệm cuộc sống, bây giờ anh muốn né tránh mọi chuyện, cười nói như một kẻ vô tâm. Nhưng đó chỉ là cái vỏ bề ngoài, trong thâm tâm anh là cả “một nỗi niềm, một chí hướng, một nhớ tiếc nào đó”. Đến thứ ba là vợ chồng anh Hảo. Anh Hảo là luật sư được đào tạo ở Pháp, từng làm tri huyện nhưng sớm treo ấn từ quan để đi theo kháng chiến, từng được giao giữ chức vụ quan trọng trong chính quyền cách mạng. Là một “công tử” đi làm cách mạng, có lúc anh được tin tưởng, có lúc bị nghi ngờ nhưng lúc nào anh cũng sống đúng là mình, “dám nói to những điều anh cho là đúng”. Người đến thứ tư là anh Đại, đã tám mươi tuổi nhưng vẫn rất galant và hóm hỉnh. Anh trước kia là kĩ sư hóa học được đào tạo ở Đức, không theo khuynh hướng chính trị nào nhưng ủng hộ nhiệt tình tất cả các phong trào yêu nước. Anh bị bắt, bị tù đày, bị mất hết gia sản cũng chỉ vì yêu nước. Đến thứ năm là anh Chương và Bình. Anh Chương là người có hai bằng tiến sĩ, một luật, một văn chương. Anh từng giữ các chức vụ quan trọng: viện trưởng một viện đại học, bộ trưởng quốc gia giáo dục, làm thượng nghị sĩ trong nhóm đối lập. Sau khi hòa bình được tái lập anh phải đi cải tạo rồi trở về làm một người dân thường, tâm tính đã có nhiều thay đổi. Còn Bình thì trẻ, đẹp trai, lịch thiệp, năng động, mới tốt nghiệp đại học vài năm nhưng đã là giám đốc một công ti. Theo nhận xét của anh Hoàng thì Bình “lịch sự, tinh tế như Pháp mà lại nhanh chóng, thiết thực như Mĩ”. Đến thứ sáu là Quân. Dưới cái vỏ bên ngoài là một nhà báo quốc tế, Quân tham gia công tác tình báo đã nhiều năm. Từng gặp rất nhiều loại người, phải đối diện với rất nhiều hiểm nguy nhưng Quân vẫn một lòng vì lí tưởng cách mạng. Quan điểm sống của Quân rất rõ ràng: “Quốc gia hữu sự, kẻ thất phu còn phải gánh trách nhiệm huống hồ là anh trí thức”, “Làm người đã khó, làm trí thức lại càng khó hơn. Hàng ngày phải lựa chọn, từng việc phải lựa chọn, lầm lỡ một chút là tiếng xấu để đời”.   Điểm qua các thực khách được mời dự tiệc tất niên, có thể khẳng định đây là cuộc gặp gỡ của trí thức thuộc nhiều thế hệ khác nhau, từng đứng ở các vị trí chính trị đối lập nhau. Sự góp mặt của các nhân vật có cuộc đời không hề “nhạt nhẽo” này dự báo câu chuyện đêm giao thừa sẽ có nhiều bất ngờ thú vị.   Cuộc gặp gỡ diễn ra trong không khí thân mật ấm cúng và đầy cởi mở như ý của chủ nhà. Chỉ trong thời gian một bữa tiệc, bao nhiêu câu chuyện hấp dẫn đã lần lượt được kể ra, chuyện xưa có, chuyện nay có, chuyện kinh tế, chính trị, tôn giáo, văn hóa, khoa học… đều có. Sau mỗi câu chuyện, người dự tiệc lại đưa ra những lời bàn thể hiện quan điểm cá nhân của mình. Hình như trong lòng mỗi người đều ăm ắp tâm sự, chỉ mong có cơ hội để được phơi trải, giãi bày. Từ câu chuyện về cách ứng xử kì quặc để thể hiện khí tiết của Nguyễn Thế Truyền, Quân cho rằng đó là kiểu “trí thức trùm chăn” và anh nêu rõ quan điểm của mình về cách hành xử cần có của người trí thức khi đất nước lâm nguy. Câu chuyện về “chú Phùng” và các mối quan hệ phức tạp đầy bất ngờ của nhân vật này với nhân viên C.I.A thể hiện nhận định riêng của Quân về các mối quan hệ phức tạp của các nước trong chiến tranh Việt Nam. Vấn đề lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể trong làm ăn kinh tế, mối liên hệ giữa miếng cơm manh áo và lí tưởng sống, sức mạnh của đồng tiền… được Bình nói đến bằng những câu chuyện đời thường hết sức sinh động. Rồi câu chuyện về những ngày sống ở Mã Đảo của anh Đại. Thoạt đầu tưởng chỉ là một câu chuyện “nhạt” của một ông già đã mất hết sự minh mẫn, nào ngờ chứa trong đó là nhiều câu chuyện về âm mưu, thủ đoạn và sự giành giật đến kinh hoàng. Rồi câu chuyện về thiền của anh Chương, anh Hảo cũng được mọi người hưởng ứng sôi nổi. Đâu chỉ là chuyện thiền, đó còn là chuyện nhận thức cuộc sống, lựa chọn cách sống, tâm thế sống trước những biến động. Câu chuyện tử vi số mệnh cũng thu hút sự quan tâm của cả người già và người trẻ. Từ chuyện tử vi, vai trò của con người trong việc chủ động hoán cải số mệnh đã được củng cố. Anh Chương không ngần ngại bày tỏ nỗi đau đời, sự mệt mỏi của bản thân trong cảnh ngộ hiện tại. Câu chuyện tranh giành quyền lực và sự chi phối của đồng tiền đến việc hình thành đại cục trong chính phủ Việt Nam Cộng hòa trước kia được anh Chương và Quân nói đến một cách say sưa. Anh Đại và Bình quan tâm đến mối quan hệ giữa đồng tiền và nhân cách… Cứ thế, mỗi câu chuyện hé mở một điều mới mẻ về sự thật trong quá khứ, sự thật đang diễn ra và cuộc đối thoại bình đẳng cất lên những tiếng nói cá nhân sâu sắc.   Gặp gỡ cuối năm, như vậy, là “hội nghị bàn tròn” của những người trí thức về các vấn đề xã hội. Trong “hội nghị” này không có sự phân biệt tuổi tác, vai vế, tư cách chính trị, mỗi người đều được quyền nói thẳng nói thật những nhận thức, quan điểm cá nhân của mình. Tác phẩm ra đời năm năm sau khi chiến tranh kết thúc. Đây là lúc những khách mời nhìn lại lịch sử, nhìn lại chính mình sau độ lùi thời gian cần thiết để rút ra bài học cho hiện tại và tương lai. Quân và Quý có chung nhận định, không ai có thể đứng ngoài chính trị, ngay cả những người nói là họ không quan tâm đến chính trị thì “không quan tâm” đã là một thái độ chính trị rồi. Vì thế mà mỗi người, đặc biệt là mỗi trí thức, phải hết sức thận trọng, “từng ngày phải lựa chọn, từng việc phải lựa chọn”, “lầm lỡ một chút là tiếng xấu để đời”. Anh Chương – người một thời lầm lỡ – khẳng định, đã là trí thức thì không ai bán nước cả, anh Hảo thành công do đi đúng đường, còn mình thất bại là do buổi đầu lựa chọn đường đi không đúng. Với anh Đại và Bình thì con người cần có lòng tự trọng. Khi đất nước có ngoại bang xâm lược, lòng tự trọng thể hiện ở việc đóng góp sức người sức của cho đất nước, ở thái độ bất hợp tác với kẻ thù; còn thời bình, lòng tự trọng thể hiện ở việc chiến thắng những ham muốn vật chất của cá nhân, dám từ chối quyền lợi cá nhân khi quyền lợi ấy mâu thuẫn với lợi ích tập thể. Bình quyết liệt hơn khi nói tới vấn đề đồng tiền…   Mỗi nhân vật đề cập đến một vấn đề khác nhau nhưng tất cả đều hướng đến trả lời câu hỏi: Phải sống thế nào trong năm mới, trong tương lai khi năm cũ, quá khứ đã khép lại? Anh Quý nguyện sẽ không vì “mưu cái lợi riêng mà nỡ phá phách sự nghiệp chung”. Anh Chương chỉ mong muốn được trở về với gia đình, làm một người chồng, người cha tốt. Anh Hảo vẫn tiếp tục chọn cách sống thuận theo tự nhiên bởi anh đã tìm thấy ở đó sự an lạc. Bình khẳng định, nếu người trẻ để sức mạnh đồng tiền cám dỗ thì sẽ mất tất cả. Quân mong muốn được là “một cái gì đó trong khoảnh khắc ta đang sống, là một sức đẩy dẫu là yếu ớt vào cái dòng lưu chuyển chung”. Chị Hoàng tỉ mẩn chuẩn bị bữa tiệc mà mỗi món là một món khoái khẩu đối với từng khách mời; chị còn chọn mặc bộ quần áo đẹp nhất, sang nhất trong thời khắc chuyển giao năm cũ và năm mới. Chị Hảo, chị Bơ cũng góp thêm mấy món ăn thật tết, thật truyền thống mà mình kì công làm để mời mọi người… Dù mỗi người mang một nỗi niềm, một tâm sự riêng nhưng đến giờ phút giao thừa, không ai bảo ai, tất cả cùng hân hoan nâng li chúc mừng năm mới. Qua cuộc gặp gỡ, đối thoại của các nhân vật, người đọc được phản tỉnh: Nên sống giản dị, thuận theo tự nhiên, không tham lam, không vị kỉ, nên hết sức tỉnh táo để không lầm đường lạc lối, không xa rời mục tiêu chung của dân tộc, nên là một lực đẩy chứ đừng là lực cản trong hành trình đi lên của đất nước…   Gặp gỡ cuối năm của Nguyễn Khải đã vượt lên giới hạn của buổi tiệc tất niên thông thường khi năm hết tết đến của một gia đình để trở thành cuộc gặp gỡ mang ý nghĩa xã hội sâu sắc. Đó là cuộc gặp gỡ cần thiết của các thế hệ, của những trải nghiệm sống, những kinh nghiệm thành công cũng như thất bại trong quá khứ để có thêm bài học cần thiết cho hiện tại và tương lai. Tác phẩm này cứ vẫn tươi mới chừng nào con người không thôi thiện chí và khát vọng làm mới mình, làm mới cuộc đời. *** T ôi là người đến đầu tiên trong đám khách được bà chị tôi mời tới ăn bữa cơm cuối năm. Theo chị nói, Tết này chị không ăn Tết, chỉ làm một mâm cơm cúng tối Ba mươi, ngày mồng Một đóng cửa không tiếp khách, ngày mồng Hai xoa mạt chược, ngày mồng Ba ngủ, từ ngày Bốn trở ra mọi sự lại như năm cũ. Cũng chẳng có năm cũ và năm mới, ngày hôm qua và ngày mai, ngày ngày đều giống nhau, người người thì tàn tạ, tiền bạc hiếm hoi dần, tin vui thưa vắng dần, nhưng vẫn cứ phải sống, chẳng có ai chết, họ nội họ ngoại suốt năm năm nay không có một ai chết. Người bảy mươi sắp sang tuổi bảy mốt, người tám mươi sắp sang tuổi tám mốt, như vẫn còn muốn sống thêm cả chục năm nữa, lạ thật, quái quỷ thật, trêu chọc nhau thật. Tôi nói: - Nhưng sang ngày mai chị vẫn cứ phải thêm một tuổi, ví như năm nay chị sáu mươi, qua đêm nay tuổi chỉ sẽ là sáu mươi mốt. Chị Hoàng vội xua tay: - Không khiến nịnh, nỡm ạ. Năm nay tao sáu tư, sang năm đã là sáu nhăm. - Đấy nhé, vẫn cứ là "sang năm". - Ừ, ừ, có ai bảo ngày hôm nay không là ngày cuối cùng của một năm đâu. Nhưng ngày mai là ngày gì? Là ngày đầu tiên của một năm mới à? Với các anh thì phải, nhưng với tôi vẫn là một năm cũ, mãi mãi là một năm cũ, mỗi năm mỗi cũ đi! Mỗi năm mỗi cũ đi, có lẽ đúng, với chị là đúng. Người chị mập hơn, các thớ thịt trên mặt như lỏng ra, chảy dần xuống. Tóc chưa bạc nhưng thưa nhiều, nhìn rõ cả da đầu. Cũng là cũ rồi, mỗi năm mỗi cũ, tôi thầm nhắc lại rồi bật cười: - Bữa cơm tất niên gì mà lạ, không có người mới ra, chỉ có những người cũ đi. - Mày thì sao? - Cũng đang cũ dần đi. - Năm mươi ngoài chỉ có cũ đi chứ mới ra thế nào được. Tôi trách: - Một lũ người ọp ẹp, cũ kỹ ngồi cạnh nhau, ngắm nhìn nhau để đón hy vọng một năm mới! Cái trò chơi độc ác này chắc là phát minh của riêng chị. Chị Hoàng nhìn chăm chú những ngón tay mới sơn móng đỏ chót, cười nhạc không nói gì. Bà chủ đã tiều tụy tang thương, mà cái nơi để trú nấp, để vào ra cũng tả tơi, lở lói, tan nát, là phòng chờ của nhà ga, là quán trọ của tỉnh lẻ, chứ không thể là nơi của một gia đình. Từ hai năm nay chỉ có hai vợ chồng già sống với nhau tại số nhà này, còn con trai, con dâu và các cháu nội đã lần lượt ra nước ngoài bằng nhiều đường bí mật khác nhau, phiêu bạt tại nhiều nơi nhưng đều bình an cả. Người ở lại sống để chờ đợi đến lượt mình cũng sẽ ra đi, tất nhiên là phải đi thật đàng hoàng, có giấy xuất cảnh và nhập cảnh, có tiễn và có đón. Nhưng là bao giờ? Là tháng sau? Là năm tới? Cái đó còn tùy ở sự may rủi, ở mệnh trời. Lại mệnh trời! Bà con trong này mười người có đến chín tin ở mệnh trời. Ông đồng bà cốt nở như sâu. Trong các khoản tiền chi hàng tháng có một khoản chi cho việc xem tướng số, "mua hy vọng" người ta bảo thế, không có hy vọng thì sống làm sao? Ông anh tôi là một trường hợp ngoại lệ. Ông là một viên chức gương mẫu, là cái đinh, cái vít của một guồng máy hành chính tinh xảo, là giáo sư trường Quốc gia Hành chánh thời chế độ cũ. Tóm lại, là người chỉ tin ở những gì trong phạm vi hiểu biết và tính toán của chính mình, trong tầm tay với của chính mình. Thậm chí đến sự buồn, vui, mừng, giận cũng có thể tự kiềm chế được. Một gương mặt bất động, một dáng đi lặng lẽ, tiếp chuyện ai thì nghe và nhìn, chỉ nói khi rất cần, tiếp nhận chứ không ban phát, thi hành chứ không bàn luận, cần sự chuẩn xác chứ không cần sự bay bướm, là người rất hiền và rất lành như nhận xét của cả họ, là "type" viên chức hoàn hảo nhất, theo nhận xét của riêng tôi. - Anh đi đâu nhỉ? - tôi hỏi - Chiều Ba mươi vẫn có người mời xoa à? - Đi làm đẹp, hớt tóc, cạo râu, đón xuân mới. Tôi cười ngờ vực: - Ồ, ông già còn lạc quan nhỉ? - Cũng buồn rồi, nóng ruột lắm rồi, có bữa chị để ý thấy mặt anh đỏ bừng, hai bàn tay nắm chặt lại nện khe khẽ lên tay ghế. Muốn điên lắm đấy. - Còn chị? Chị Hoàng nhìn tôi, mắt nhìn như dại đi: - Chị hả? Chị đã trải qua các thời kỳ. Bây giờ thì trống rỗng, hoàn toàn trống rỗng. Có thể, chị nói là có thể lát nữa, trước đông đủ mọi người chị sẽ nói rõ cái ý định sắp tới của chị. Tôi vẫn cười cợt: - Chị có thể cho em biết trước được không? Chị vẫn nhìn tôi chằm chặp: - Không, không thể cho biết trước được. Tối nay đối với anh chị sẽ là một tối không bình thường. Chuyện gì thế nhỉ? Chuyện gì có vẻ nghiêm trọng đến thế nhỉ? Nhưng phải đợi lát nữa. Những ai sẽ có mặt tại nhà này trong lát nữa? o O o Người khách đến sau tôi là anh Quý, xuất thân luật sư, sau làm viên chức của Bộ ngoại giao các chính quyền của chế độ cũ. Một nhà ngoại giao cũng có tên tuổi, nghe người ta bảo thế, bạn thân của cả hai anh chị tôi từ vài chục năm nay và hiện giờ là khách xoa mạt chược những ngày chẵn của gia đình. Thoạt làm quen tôi không ưa anh lắm. Anh cười đùa như một kẻ vô tâm, tránh né mọi sự bình phẩm và hoàn toàn không có ý kiến gì về thời cuộc. Mỗi lần gặp tôi chỉ trò chuyện với anh qua loa, vì cái ông già lễ phép và lãnh đạm chẳng có gì buộc tôi phải chú ý. Nhưng có một bận nghe anh đọc và bình một đoạn thơ trong "Ly Tao" của Khuất Nguyên, tôi mới nhận ra mình đã hiểu lầm người. Cái ruột trong rất khác với cái vỏ ngoài. Anh cũng có một nỗi niềm, một chí hướng, một nhớ tiếc nào đó. Bữa ấy tôi hết lời tán tụng cái giọng đọc thơ của anh vì không tiện đả động tới cái khác. Nhưng chính anh lại gợi: "Cậu chỉ khen cái giọng thôi à?". Tôi nóng mặt: "à, có cả cái khác nữa chứ, cái bên trong, cái tâm tư của anh!". Anh cười ha hả: "Tôi nhìn vào cậu để đọc đoạn thơ này, cậu phải thế nào tôi mới đọc được hay đến thế chứ?" Bà chị tôi nói dằn dỗi: "Còn tôi chỉ là cái túi thịt trong con mắt các người, có phải không?". Anh vẫn cười: "Thế bà còn muốn gì hơn nào". Họ vẫn ăn nói với nhau chớt nhả, suồng sả như vậy, nhưng chẳng ai giận ai cả, bè bạn với nhau những mấy chục năm mà. Rồi anh khoe cũng có làm nhiều thơ lắm, làm cho mình chứ không dám đọc cho ai nghe. "Cái tâm mình thì thật mà chữ nghĩa sao nó cũ kỹ, khuôn sáo thế. Thì ra, cái sáo của nghề ngoại giao đã thấm nhiễm vào tôi quá lâu rồi", anh tự thú nhận như vậy. Mời các bạn đón đọc Gặp Gỡ Cuối Năm của tác giả Nguyễn Khải.
Giá Như Yêu Được Một Người
XI   Bây giờ thì Quê đã hoàn toàn trắng tay. Cái vốn liếng cuối cùng của đời cô là thằng cu Tẩm cũng không còn nữa. Lê My đã không ngần ngại mà nói toẹt cho Quê biết: Ông Toại không có liên quan gì đến vụ mất tích thằng Tẩm. Suốt chặng đường từ Hà Tuyên về, Quê ngồi rũ như một tàu lá úa. Cuộc đời Quê còn gì? Quê không có thời thiếu nữ. Mười sáu tuổi Quê đã trở thành người đàn bà. Làm đàn bà nhưng không được hưởng cái e ấp, hồi hộp, rộn rạo của đêm động phòng. Quê như một trái non bị chín ép, bị châm chọc, vày vò cho ung rữa. Mười bảy tuổi Quê đã phải làm mẹ, làm mẹ khi mà cô vẫn còn trẻ con, vẫn chưa có một hành trang gì cho cuộc sống gia đình. Rồi cả hai đứa con đều sinh ra trong những hoàn cảnh khốn khổ. Ngoài Quê ra không có ai mong chúng ra đời. Chúng là những đứa con hoang trong những cuộc hôn phối giữa Quê và quỉ. Giá như đời Quê được yên ổn, dù trên cái xó rừng heo hút kia. Quê sẽ lầm lũi nuôi con, Quê sẽ bới đất, vạch cây mà tìm ra thức ăn nuôi chúng. Vậy mà cái mơ ước giản dị ấy cũng không thể có được. Lại bị dồn đuổi, lại bị truy bức đến cùng. Dồn đuổi đến mức bán thân nuôi mình, nuôi con vẫn còn chưa đủ. Bây giờ, hai đứa con đã bán cả rồi, trắng tay rồi, còn thiết sống gì nữa. - Này Quê, em phải bình tâm lại - Lê My an ủi - Để chị về báo cáo với các đồng chí lãnh đạo. Nhất định rồi bọn chị sẽ tìm được thằng cu Tẩm cho em. Có nhiều trường hợp mẹ mìn đã mang trẻ con sang bên kia biên giới mà rồi công an ta vẫn tìm được cơ mà… - Nhưng mà em biết nói với anh Hiển thế nào? Ở trong tù anh ấy đã khốn khổ lắm rồi. Bây giờ biết tin cu Tẩm mất tích thì anh ấy sẽ phát điên lên mất… - Vậy là Hiển vẫn không hề biết cu Tẩm là con của ông Toại ư? Câu hỏi của Lê My cũng chính là điều mà Quê tự hỏi mình suốt mấy năm trời. Càng sống với Hiển, cô lại càng bị dày vò bởi cái điều bí mật mà chỉ có mình cô biết ấy. Đã bao lần cô định tự thú với Hiển, rằng thằng cu Tẩm không phải là con anh, rằng anh hãy tha thứ cho mẹ con cô. Cô hoàn toàn không có ý định lừa dối anh. Chỉ riêng một hành động cao thượng là anh nhặt mẹ con cô từ ngoài đường về nhà đã đủ khiến cho cô có thể làm nô lệ cho anh suốt đời. Nhưng rồi Quê không thể nói với anh, không có gan để thú nhận với anh được. Như thế thì tàn nhẫn quá. Sự thật nhiều khi nói ra còn tàn nhẫn hơn cả bản thân nó. Thà rằng hãy cứ dối trá để cho Hiển sống trong ảo vọng. Cũng như tôn giáo vậy thôi, người ta phải cố thêu dệt ra một chốn thiên đường, một cõi niết bàn cho phần hồn để an ủỉ cái phần xác khốn khổ của mình. Chỉ thương cho Hiển. Dường như anh không hề biết Quê đã lặng lẽ lừa dối anh, hoặc giả anh biết mà anh làm như không biết gì. Anh quí thằng cu Tẩm thực sự, anh yêu nó như chính nó là giọt máu đích thực của mình. - Em cũng không biết là anh Hiển có biết gì về thằng cu Tẩm không - Quê nói - Hồi em đẻ, có người nghi ngờ thừng bé không phải là con anh Hiển, nhưng anh ấy không tin. Anh ấy bảo: “Miệng lưỡi thế gian biết thế nào mà lường. Em đừng nghĩ ngợi gì”. Suốt mấy năm trời, chưa bao giờ anh ấy đánh mắng nó. Thằng Tẩm cũng tin rằng chính anh Hiển là bố đẻ của nó. Tuần nào nó cũng giục em vào nhà giam thăm bố Hiển. Nó chỉ mong bao giờ bố Hiển được ra tù để nó đi phụ giúp bố Hiển đạp xích lô… Thế đấy chị ơi, rồi em biết nói với anh Hiển thế nào? Không, dù thế nào đi nữa, ngay ngày mai em phải báo cho anh Hiển biết tin này… - Đừng báo vội, Quê ạ - Lê My tìm cách hoãn binh - Cứ để một hai tuần nữa để bọn chị tìm kiếm xem đã. - Nhưng anh ấy hỏi thăm cháu thì em biết nói thế nào? Lê My thở dài. Chị bỗng nhớ lại cái buổi vào nhà giam hỏi cung Hiển, nhớ lại gương mặt chất phác, cương trực của anh. - Quả tình chị không ngờ có những người như Hiển mà lại bị vào tù. - Trong tù cũng có nhiều người vốn rất lương thiện. Họ bị hoàn cảnh dồn đẩy đến tội ác. Cũng có khi vì họ chống lại cái ác mà bị cái ác tròng vào người. Anh Hiển bị tù là oan lắm đấy chị ạ. Chính hai vợ chồng mụ Quỉ mới đáng bị tù kia. Trời ơi, chị có biết không, trên đời này không có người đàn ông nào tốt với mẹ con em như anh ấy - Quê vừa nói vừa ôm mặt khóc. Lê My thấy mủi lòng. Chị định nói với Quê rằng chính ông Toại đã đón thằng Tẩm về nuôi, rằng chị đã đồng tình với nguyện vọng của ông ấy, đó là giải pháp tốt nhất lúc này cho Quê, bởi cô không có đủ điều kiện để làm mẹ cả hai đứa trẻ. Nhưng thôi. Đành phải dối Quê vậy. Cứ mặc cho cô ấy đau khổ. Người mẹ nào chẳng có nỗi đau khi mất con, nhưng họ không hề biết có một nỗi đau hơn là họ không có khả năng nuôi nổi được chính đứa con của mình. Chuyến đi này, với Quê có thể là một chuyến đi thất bại, nhưng với Lê My thì đó lại là một thành công không ngờ. Chị hoàn toàn yên tâm về bé Rớt và thằng cu Tẩm. Chúng sẽ được cô giáo Điệp và ông Toại nuôi dạy chu đáo. Cùng với việc giải quyết đưa bà cụ Nụ về với vợ chồng Danh Vọng, Lê My đã góp phần giúp ba con người tránh được những con đường bất lương trong cuộc đời. Còn với Quê? Liệu Lê My có thể giúp được cô thoát khỏi tình cảnh bi thảm hiện giờ không?   *   Khi Lê My và Quê vừa về đến khu tập thể thì Đặng Phong đã ngồi chờ họ sẵn ở quán nước bên đường. Hai ngày qua anh nhớ Lê My và mong chị từng giờ. Sau bốn năm ly thân, sau bao nhiêu lần đi lại toà án đến mòn cổng, cô vợ của anh đã đồng ý chấp nhận cho anh được ly hôn. Còn mười lăm ngày nữa cuộc ly hôn mới có hiệu lực, nhưng Đặng Phong không thể chờ đợi được hơn nữa. Anh đã đến tìm Lê My bốn lần, đến để thông báo cái tin vui này với chị, để được ngắm nhìn chị và để được nghe chị nói rằng: “Từ nay em sẽ là của anh”. Nhưng Lê My thật quá vô tâm, hoặc vì sự xuất hiện của Phong khiến chị chỉ nghĩ đến cái công việc mà chị đã nhờ anh, nên không kịp để Phong nói điều gì, chị đã hỏi ngay: - Thế nào anh, công việc ở làng SOS mà em đã nhờ anh có kết quả gì không? Đặng Phong như người bị dội gáo nước lạnh. Anh buồn vì Lê My chẳng nghĩ gì đến anh cả. - Sao? Anh nói em nghe đi. Em đã nói chuyện với Quê rồi. Anh hãy báo cho Quê một tin vui gì đi. Em nghĩ rằng anh đến chính là vì cái tin ấy… - Vì một cái tin khác… Nhưng thôi, lúc này nói cũng chẳng có ý nghĩa gì… - Anh cứ nói. Hay anh giận em à? - Lê My chợt sững người khi nhìn thấy đôi mắt Phong sầm tối lại - Em xin lỗi. Em đoán rằng có một chuyện gì đó mà anh muốn nói riêng với em… Lẽ ra Phong cứ nên yên lặng, chờ đến một lúc khác. Nhưng vì anh quá đột ngột bởi sự vô tâm của Lê My nên anh đã trở nên vụng về. - Về chuyện của Quê, tôi đã làm hết sức mình nhưng cho đến giờ có thể nói rằng hoàn toàn không có hy vọng. Có một trăm bảy mươi hai lá đơn xin vào làm việc ở làng SOS. Cần phải ưu tiên trước hết cho những người vợ liệt sĩ, những người có cống hiến, những người đã qua trường lớp đào tạo, những người có quá trình làm việc từ thiện nhiều năm… Ngay cả những công việc lao động giản đơn nhất cũng đều phải xét trên những tiêu chuẩn ấy… - Không có một trường hợp ngoại lệ nào sao? - Lê My nhìn Quê và thở dài. - Nếu như chúng ta mở ra một trăm làng SOS thì cũng vậy thôi. Có biết bao nhiêu người lương thiện còn đang không có công ăn việc làm… Vậy là không có một việc gì cho Quê, ngoài… Lê My cay đắng nghĩ. Chị mường tượng ra cảnh đêm mai Quê sẽ lại đi lang thang ra bờ hồ, vật vờ dưới gốc cây trong ánh đèn nhập nhoạng. Biết tìm cách gì để giúp Quê được? Chính bản thân chị, với đồng lương ít ỏi của mình cũng phải chật vật lắm mới nuôi nổi bé Trang, huống chi lại phải cõng thêm một người nữa, dù chỉ trong thời gian dăm bữa nửa tháng. - Anh muốn gặp riêng em để nói một câu chuyện - Chần chừ mãi cuối cùng Đặng Phong cũng phải nói với Lê My một cách khẩn khoản. - Hãy đợi em một chút. Chúng mình sẽ nói chuyện trên đường em đi đón bé Trang. Lê My vào phòng tắm ào qua và thay quần áo. Rồi chị bảo Quê: - Quê ở nhà nấu cơm để tí nữa chị đón cháu về cùng ăn nhé. Em cứ ở lại đây với chị nhé. Không được bỏ đi như lần trước đâu đấy. Khi Lê My và Phong vừa đi khỏi, Quê vội quay vào nhà và khóc tức tưởi. Trên đời này chưa bao giờ Quê thấy ai lại quá tốt với mình như Lê My.   *   Tối ấy, trong công viên, gần “khu rừng chiến khu” rất thân thuộc của Quê, lần đầu tiên sau ba năm quen biết nhau, Lê My đã gục đầu vào ngực Phong, để mặc anh ôm riết trong niềm hạnh phúc bao ngày kìm nén. Chị tưởng mình đã khô cằn chai sạn đi trong tình yêu, nhưng đâu phải. Những nụ hôn vẫn say đắm, nồng thắm như lần đầu. Họ, đôi tình nhân muộn màng ấy không hề hay biết rằng, đúng cái lúc họ đang trao cho nhau những cái hôn cháy bỏng nhất thì có một người lặng lẽ bỏ ra đi. Người ấy chính là Quê. Quê không để lại một dòng chữ nào. Cô chuẩn bị sẵn cho mẹ con My bữa cơm trên bàn, rồi như một cái bóng, ra đi không để lại một dấu tích gì. Dường như cô muốn những ngày cô gặp gỡ, làm phiền nhiễu Lê My vừa qua chỉ là ảo ảnh, rằng bản thân cô, cái con người nhơ nhếch và khốn khổ của cô không đáng để một vết tích gì trong cuộc đời một người quả giàu lòng nhân ái và vị tha cho Lê My. Quê đi đâu? Như một bản năng đã được hình thành từ những ngày sống cuộc đời bờ bụi. Quê lại đi qua cái lỗ chó chui để dẫn vào cái góc "chiến khu” trong công viên. Ở đây người và ma, thánh thần và quỉ dữ đều có thể tìm thấy hạnh phúc của mình, có sao đâu? Rất có thể là Quê đã đi ngang qua, hoặc đi sát gần cặp tình nhân. Bóng tối đã giúp họ không nhận ra nhau. Và, sau hôm Quê bỏ đi mấy ngày, từ nhà giam thành phố. Lê My nhận được một tin mới: phạm nhân Nguyễn Văn Hiển đã trốn khỏi trại, mặc dù chỉ còn bốn tháng nữa gã sẽ mãn hạn tù. Không ai biết vì sao cái gã tù nhân Nguyễn Văn Hiển lại dại dột bỏ trốn khi mà gã sắp có cơ hội trở thành người tự do. Chắc chắn chỉ có mình Lê My mới hiểu được cuộc chạy trốn của cả Quê và Hiển. Chị ân hận vô cùng vì đã trót nói dối Quê rằng thằng cu Tẩm bị mất tích. Chao ơi, cuộc đời đầy rẫy những éo le phức tạp. Để giúp được người này thì lại làm cho người kia khổ. Có cách chi để yêu trọn được tất cả mọi người? Suốt từ hôm ấy, một trong những công việc của Lê My luôn canh cánh bên lòng là để tâm tìm kiếm Quê và Hiển. Tìm, để nói với họ rằng, họ hãy yên tâm về thằng cu Tẩm. Nó không bao giờ còn phải lang thang trên những vỉa hè để làm một đứa trẻ bụi đời ngửa tay xin cơm thiên hạ. Nhưng mà Quê và Hiển bây giờ ở đâu? 17 phố Trần, Hà Nội, 30-4-1991 H.M.T. Tác phẩm viết về người phụ nữ trên mặt trận bảo vệ an ninh Tổ Quốc. Bìa 4 Trong số hàng trăm can phạm mà nữ trung uý công an Lê My có dịp tiếp xúc, Đào Thị Quê dường như là một phép thử đối với lương tâm và phẩm chất nghề nghiệp của chị. Nếu lần gặp gỡ 10 năm trước, khi Quê vừa 16 tuổỉ đã bị bắt cóc vào cuộc chơi tình cờ, thì cuộc gặp gỡ bây giờ chính là sự sắp đặt của định mệnh. Mười năm, số phận đã đẩy Quê trượt dài xuống đáy… Làm đàn bà ngay từ tuổi thiếu nữ. Hai lần sinh con ngoài giá thú là hai lần một mình vượt cạn. Trốn lên rừng xanh rồi mà vẫn không thoát được “lầu xanh”... Nữ trung uý Lê My sẽ làm gì với cô gái khốn khổ ấy? Lạnh lùng chối bỏ ư? Hay sẽ khinh bỉ, hắt hủi? Mời các bạn đón đọc Giá Như Yêu Được Một Người của tác giả Hoàng Minh Tường.
Từ Nước Mắt Đến Nụ Cười - Tận Cùng Khổ Đau Đến Ngời Sáng Tâm Hồn
Tận cùng khổ đau đến ngời sáng tâm hồn • “Phương thuốc tự nhiên” đến từ tình yêu thương và sự tha thứ sẽ giúp xoa dịu những nỗi đau và chữa lành chứng trầm cảm. • Chứng trầm cảm có thể là một sự khởi đầu thiêng liêng dẫn vào hành trình giác ngộ Những tổn thương, mất mát, nỗi thống khổ, hay sự trầm cảm là những điều mà không ai trong chúng ta muốn đón nhận, nhưng lại không thể tránh khỏi trong cuộc đời. Tuy nhiên, Marianne Williamson - tác giả của cuốn sách - khẳng định “Trầm cảm có thể là một sự khởi đầu thiêng liêng dẫn vào hành trình giác ngộ”. Cuốn sách được xem là sự suy tư về nỗi đau của con người, căn nguyên của chứng trầm cảm, và đặc biệt là sự siêu việt mà nó mang lại cho chính chúng ta. “Từ nước mắt đến nụ cười là cuốn sách đào sâu vào gốc rễ của chứng trầm cảm. Sau đó, sẽ giúp bạn nắm bắt được những giải pháp để vượt qua chúng và tiếp tục tiến về phía trước. Đây là một cuốn sách lý tưởng dành cho tất cả chúng ta” - nhà sáng lập Spirituality & Health bình luận về cuốn sách. Cuốn sách mở đầu bằng câu chuyện về cuộc đời của Jonathan - người từng đứng ở đỉnh cao của cuộc đời, đã rơi xuống vực thẳm sâu hoắm và đen tối khi đánh mất gia đình, nhà cửa, tiền bạc, và cả sự nghiệp. Những bất trắc ấy đã khiến Jonathan rơi vào chứng trầm cảm, và buộc phải tham gia những buổi trị liệu của bác sĩ tâm lý để tìm thấy sự chữa lành. Từng là một người cao ngạo và tự mãn, giờ đây, Jonathan đã phải rơi lệ, chịu cúi đầu và khiêm nhường trước người khác để mong cầu sự giúp đỡ. Nếu Jonathan đã phải rất khổ sở mới có thể thốt lên rằng “Tôi mất hết tất cả rồi”, thì tác giả - cũng chính là bác sĩ tâm lý của anh - lại nhẹ nhàng xoa dịu bằng câu nói của một nhà sư: “Cốc phải cạn thì mới có thể rót đầy”. Đôi khi mọi chuyện phải trở nên tồi tệ rồi mới bắt đầu tốt lên. Thế nên, nhiều lúc cuộc sống của chúng ta trở nên trống rỗng lại là một điều tốt đẹp, Marianne Williamson chia sẻ. “Từ nước mắt đến nụ cười” được chia thành 12 phần chính: 1. Phó thác nỗi buồn 2. Xuyên qua bóng tối, vào ánh sáng 3. Chống lại sự tê dại 4. Vũ trụ diệu kỳ 5. Văn hóa muộn phiền 6. Tha thứ 7. Thiên đường quan hệ, địa ngục quan hệ 8. Thay đổi chính mình, thay đổi thế giới 9. Ánh sáng của Đức Phật 10. Ánh sáng của Moses 11. Ánh sáng của Chúa Jesus 12. Nước mắt tới hân hoan Xuyên suốt cuốn sách, Marianne Williamson hướng mọi người đón nhận và trưởng thành từ những nỗi đau thay vì né tránh như cách mà chúng ta hay làm. Nữ tác giả tin rằng: càng phủ nhận những tổn thương, chúng ta càng kéo dài nỗi đau do chúng gây nên. “Chừng nào còn chưa được chữa lành, những vết thương ấy còn tiếp tục đưa cuộc sống của chúng ta đi theo những hướng bất lợi”. Những “phương thuốc tự nhiên” giúp bạn đọc đối diện và vực dậy khỏi những tổn thương mà Marianne Williamson đã nói đến trong cuốn sách bao gồm: Cho phép được buồn, Thoát khỏi quá khứ, Tha thứ cho chính mình, Nhân từ Đặc biệt, với cương vị là một nữ chính trị gia và nhà lãnh đạo tâm linh, thông qua tác phẩm của mình, Marianne Williamson còn đem đến cho độc giả kiến thức về hành trình giác ngộ. Cuốn sách chứa đựng những đoạn kinh ngắn, được sử dụng trong đạo Phật, Công giáo, và đạo Chúa để chữa lành những tổn thương và tìm thấy sự thanh tịnh trong tâm hồn. Với lối văn súc tích, dễ hiểu cùng những câu chuyện đời thường xen kẽ, “Từ nước mắt đến nụ cười” đã chạm đến trái tim của nhiều bạn đọc, đặc biệt là những ai đang phải đương đầu với những mất mát, tổn thương, và sự trầm cảm. Cuốn sách đã nhanh chóng có mặt trong danh mục những tựa sách bán chạy nhất tại Mỹ ngay khi vừa mới phát hành. Về tác giả Marianne Williamson là một tác giả, diễn giả, nhà hoạt động chính trị và lãnh đạo tâm linh nổi tiếng trên toàn thế giới. Đặc biệt, cô là một trong những ứng cử viên tổng thống Hoa Kỳ thuộc đảng Dân chủ năm 2020. Tính đến nay, Marianne Williamson là tác giả của 14 cuốn sách, với hơn 3 triệu bản được bán ra trên thị trường, trong đó có 4 cuốn lọt vào danh mục sách bán chạy nhất theo The New York Times. Sách của Marianne Williamson chủ yếu bàn về những giá trị tinh thần và tình yêu thương con người, giúp độc giả khám phá bản thân và vượt lên trên những nghịch cảnh để tìm thấy niềm vui và sự an yên trong cuộc sống. *** Trong một thế giới vồn vã, quay cuồng và đầy ngổn ngang này, bạn và tôi, có lẽ chúng ta đều có nhiều hơn một lần bị những nỗi khổ đau ăn mòn tâm trí. Có phải bạn đã từng có những suy nghĩ như “Tại sao mình phải chịu đựng những thứ này?”, “Vì cớ gì mà mình lại đau khổ đến như vậy?”, “Giá trị thực sự của mình nằm ở đâu?”, “Mình là ai?”,... cứ quanh quẩn và giày vò trí óc bạn mỗi ngày? Tôi muốn nói với bạn rằng, bạn không chỉ có một mình thôi đâu. Ai trong mỗi người chúng ta trên trái đất này, cũng đều có những lúc mà nỗi đau của sự tồn tại dường như vượt quá sức chịu đựng. Và vì lẽ đó, ai cũng đều có một niềm khao khát, có thể là một niềm khao khát cháy bỏng, đối với tình yêu và cả hạnh phúc. Nếu bạn là một người đang mang trên mình nhiều vết thương tinh thần, một trái tim không lành lặn chứa đầy vết xước đến rỉ máu, hay bạn đang khao khát vươn tay chạm tới thứ ánh sáng phía cuối đường hầm tăm tối, khao khát tìm một hướng đi giải thoát cho thực tại khốn khổ của mình, tôi nghĩ bạn nên tìm đọc cuốn sách Từ nước mắt tới nụ cười - Tận cùng khổ đau đến ngời sáng tâm hồn của tác giả Marianne Williamson. Bạn có thể tìm thấy ở đây một số mảnh ghép mà bạn chưa từng biết. Một bí ẩn. Và, có thể, là một phép màu. Con người ta dường như luôn bị những nỗi lo sợ chi phối trong cuộc sống hàng ngày. Trong khi một sự thật hiện hữu rằng, không ai có thể thật sự chi phối được chúng ta ngoài chính linh hồn sâu thẳm bên trong mỗi người. Khi thứ dịch bệnh Covid ám ảnh cả thế giới bùng phát trở lại ở Việt Nam một lần nữa, nỗi lo sợ mới lại được hình thành, quẩn quanh những âu lo trong cuộc sống thường nhật của mỗi người. Chúng ta có hàng tá lý do cho phép nỗi sợ hãi, muộn phiền hiện diện: lo không thể về được quê của mình, sợ công việc đang làm sẽ có sự thay đổi, lo thu nhập bị ảnh hưởng, sợ mình có thể bị mắc bệnh,... Nỗi sợ càng lớn bao nhiêu, thứ tâm bệnh tà ác ta rước thêm vào người càng nhiều bấy nhiêu. Bạn muốn thoát ra khỏi mớ cảm xúc và suy nghĩ hỗn độn ấy chứ? Cuốn sách Từ nước mắt đến nụ cười - Tận cùng khổ đau đến ngời sáng tâm hồn của tác giả Marianne Williamson có thể sẽ trở thành một sự động viên tinh thần, giúp bạn không còn cảm thấy một mình trên cuộc hành trình vượt qua những khổ đau và nỗi lo hãi trong cuộc sống chìm nổi này. Và tôi nghĩ, cuốn sách này đặc biệt dành tặng cho những người đang cố gắng đấu tranh hằng ngày với căn bệnh trầm cảm ẩn sâu bên trong mình. Về tác giả và cuốn sách Marianne Williamson là một người phụ nữ tài giỏi. Bà vừa là một nhà hoạt động chính trị và là một nhà lãnh đạo tâm linh. Đồng thời, bà cũng chính là tác giả của 14 cuốn sách nổi tiếng, trong đó có bốn cuốn đã được lọt vào danh mục sách bán chạy nhất của The New York Times. Bà là người sáng lập ra Project Angel Food, một tổ chức phi lợi nhuận cung cấp hơn 12 triệu bữa ăn tình nguyện phục vụ cho những người bị AIDS ở nhà và cả các bệnh nhân đang hàng ngày đấu tranh với căn bệnh hiểm nghèo đe dọa đến tính mạng khác. Bên cạnh đó, bà cũng là người đồng sáng lập của Liên minh Hòa bình, một tổ chức giáo dục và vận động cơ sở phi lợi nhuận hỗ trợ các dự án xây dựng hòa bình. Bạn thấy đấy, Marianne quả là một người phụ nữ đa tài. Nhưng tôi hiểu bà đã phải cố gắng đến mức nào để có thể tiếp tục đi con đường của bản thân. Suy cho cùng, trên đường đi của mỗi người, chí ít thì ai cũng có đôi lần phải nếm trái đắng nhỉ? … Có một số người bị nỗi đau đớn tận cùng đè nặng, khó thể nào nguôi ngoai, dù chỉ một chút nhỏ nhoi. Ta chìm mỗi lúc một sâu hơn trong giếng nước mắt của chính mình, chìm vào bóng tối thăm thẳm dường như không đáy. Ta tự hỏi tất cả những đau đớn này đến từ đâu. Và ta tự hỏi nó có bao giờ kết thúc? Nếu bạn, hoặc một người nào đó mà bạn yêu thương, đang phải trải qua khoảng thời gian như thế - khi việc thở thêm một hơi nữa, sống thêm một ngày nữa, dường như cũng là quá sức - Thì tôi rất vui vì bạn đọc cuốn sách này. Tôi biết khổ sở là gì, vì tôi đã hai lần bị chẩn đoán trầm cảm. Tôi đã trải qua bi kịch cá nhân và cái chết của những người thân yêu. Tôi đã phải chịu đựng sự phản bội và thất vọng. Hơn một lần, tôi cảm thấy mất hết mọi cơ hội hạnh phúc từng có. Tôi đã ở quá gần với đau khổ, không chỉ trong cuộc sống của chính tôi, mà còn cuộc sống của nhiều người khác mà tôi đã gặp trong sự nghiệp của mình. Không gì giúp bạn nhìn rõ được nỗi khổ của người khác hơn khi chính bạn cũng phải chịu khổ. Tôi biết khuôn mặt của trầm cảm mà, tôi biết rõ! Nhiêu đó thôi cũng đủ khiến tôi nghĩ rằng bạn nên đọc cuốn sách này. Một người đã từng trải qua trầm cảm, đã chiến đấu và đánh bại được nó, hẳn cũng có thể dẫn dắt và giúp đỡ bạn tự đánh bại được tâm bệnh trong chính mình. Bạn không hề chiến đấu đơn độc một chút nào. Cuốn sách trọn vẹn 293 trang được chia thành 12 chương nhỏ: Phó thác nỗi buồn Xuyên qua bóng tối, vào ánh sáng Chống lại sự tê dại Vũ trụ diệu kỳ Văn hóa muộn phiền Tha thứ Thiên đàng quan hệ, địa ngục quan hệ Thay đổi chính mình Ánh sáng của Đức Phật Ánh sáng của Moses Ánh sáng của Jesus Nước mắt tới hân hoan Cuốn sách Từ nước mắt đến nụ cười là một sự suy tư tinh thần về nỗi đau khổ của con người, cả về căn nguyên và sự siêu việt của nó. Bên cạnh đó, cuốn sách còn chạm đến bề mặt chiều sâu tinh thần của sự sáng suốt trong các giáo lý tôn giáo và tâm linh vĩ đại với hy vọng đến được nơi đang bị che khuất đằng sau những tấm màn phủ giáo điều cùng những hiểu lầm từ xa xưa. Xuyên suốt cuốn sách, các bạn sẽ thường xuyên được nhìn thấy “Chúa Trời”. Chúa Trời mà tác giả nhắc đến trong cuốn sách này không phải chỉ là Chúa Trời trong thiên chúa giáo nói riêng, mà đó còn là từ dùng để chỉ các Đấng Thiêng Liêng của mọi tôn giáo nói chung. Xã hội này đã rước trầm cảm đến bằng cách coi thường tình yêu. Chúng ta đã bán linh hồn của mình cho một mớ hầm bà lằng. Sự tồn tại của con người không chỉ là một tình tiết ngẫu nhiên, chẳng vì mục đích nào ngoài việc tất cả chúng ta đều nên có được những gì mình muốn. Nhìn nhận theo cách đó, không có lớp phủ tinh thần, cuộc sống của chúng ta dường như không còn ý nghĩa tối thượng, trong khi linh hồn khao khát ý nghĩa chẳng khác nào cơ thể thèm khát oxy. Khi không có một khung sườn tinh thần, chúng ta biết các cơ chế của cuộc sống nhưng lại hầu như không hiểu được. Và bởi không hiểu cuộc sống, chúng ta sống sai. Và bởi sống sai, chúng ta gây đau khổ - cho bản thân và cho người khác. Hành trình thiêng liêng của Đức Phật bắt đầu khi Ngài thấy đau khổ lần đầu tiên; Moses xúc động trước những thống khổ của người dân Israel; và Chúa Jesus chịu khổ trên cây thập giá. Nhưng vấn đề không chỉ đơn giản là Đức Phật thấy nỗi khổ, mà là Ngài đã vượt qua nó bằng sự giác ngộ của mình. Vấn đề không chỉ đơn giản là người Do Thái bị bắt làm nô lệ, mà là họ đã được giải cứu và dẫn đến miền Đất Hứa. Vấn đề không chỉ đơn giản là chúa Jesus bị đóng đinh, mà là ngài đã được hồi sinh. Sự đau khổ của con người chỉ là vế đầu của phương trình, điều quan trọng hơn là những gì xảy ra sau khi Chúa Trời cho ta thấy bàn tay của Người. Tận cùng khổ đau Xã hội càng hiện đại, áp lực cuộc sống càng đè nặng lên đôi vai của mỗi người. Gánh nặng ấy không chỉ đến từ những lo toan cuộc sống hàng ngày, mà nó còn đến từ những áp lực của đời sống tinh thần, nặng nề hơn, và đáng sợ hơn. Bạn có thể dễ dàng thấy được những con số thống kê về tỷ lệ người tự tử vì trầm cảm hàng năm trên các phương tiện thông tin đại chúng. Đa phần trong số đó đều là những người còn rất trẻ. Phải chăng người trẻ của hiện đại đang thiếu đi sự đề kháng với áp lực? Nhiều người nghĩ rằng đó là những hành động nông nổi và bồng bột của giới trẻ. Bạn có thể dễ dàng bắt gặp được câu nói của những người lớn tuổi như “ngày xưa còn khổ hơn gấp nhiều lần mà còn chịu được đó thôi”. Nhưng sự thật thì có thật sự là như vậy hay không? Khi người trẻ chọn tử tự là cách để giải thoát nỗi buồn, theo bạn, đó là điều đáng lên án hay là điều đáng được cảm thông?  Cơ hội lớn nhất cho sự sống còn của loài người trong thế kỷ 21 không nằm ở việc mở rộng tầm hiểu biết về thế giới bên ngoài mà là đào sâu thêm thế giới bên trong chúng ta. Điều đó áp dụng cho mỗi cá nhân, và cũng áp dụng cho toàn thể. Chừng nào còn chưa làm được điều đó, thì ta còn buồn bã. Cơ thể của chúng ta, các mối quan hệ của chúng ta, sự nghiệp của chúng ta, chính kiến của chúng ta sẽ tiếp tục là ngọn nguồn đau khổ trong khi đáng ra nên là nguồn vui. Ẩn trong tất cả các giáo lý tâm linh vĩ đại là chìa khóa để xoay chuyển cục diện. Khi tìm thấy và xoay chìa, chúng ta sẽ ngạc nhiên bởi những gì ẩn giấu đằng sau cánh cửa đã bị khóa trái với Chúa Trời. Không phải là không có hy vọng, chỉ là chúng ta chưa nhìn thấy nó mà thôi. Không phải là không có sức mạnh, chỉ là chúng ta chưa thỉnh cầu. Không phải là không có tình yêu, chỉ là chúng ta chưa sống với tình yêu. Nhìn thấy được những điều này, cuộc sống của chúng ta bắt đầu thay đổi. Tâm trí của chúng ta được đánh thức. Phép màu xảy ra. Và cuối cùng trái tim ta vui sướng. Các bạn có tin vào phép màu không nhỉ? Tôi thì tin vào phép màu lắm. Đôi khi chúng ta hay bỏ quên một điều diệu kỳ của tuổi thơ, đó là chúng ta tin vào phép màu, tin vào những câu chuyện thần tiên cổ tích đầy màu sắc và âm thanh của hạnh phúc. Hẳn là bạn đã từng xem bộ phim hoạt hình Disney nổi tiếng có tên “Lọ Lem” rồi nhỉ? Bạn có còn nhớ lời bài hát trong bộ phim đó không? Tôi xin được tạm dịch một câu trong lời bài hát đó mà tôi nhớ mãi: “Dù bạn có phải chịu đau khổ tới mức nào, nếu bạn tiếp tục giữ niềm tin, giấc mơ sẽ trở thành sự thực”.  Khả năng ta phải đau lòng luôn tồn tại; nó là một phần trải nghiệm của con người. Ở đâu có tình yêu, ở đó có hạnh phúc. Nhưng nơi nào mối ràng buộc của tình yêu tan vỡ, nơi đó có nỗi đau. Nếu thế giới bị chi phối bởi nỗi sợ, và vì vậy chống lại tình yêu theo nhiều cách khác nhau, thì làm sao trái tim chúng ta lại không thể bị xé toạc ra bởi nỗi đau của việc chỉ đơn giản là ta đang sống? Khi đã sống đủ lâu, bạn sẽ hiểu. Nó đến với bạn, và bạn sống với nó một cách yêu kiều. Bạn học cách nhận đòn và biết rằng đó chỉ đơn giản là một phần của cuộc sống. “Chào ông bạn cũ bóng tối, tôi lại đến nói chuyện với ông nữa đây” không chỉ là lời bài hát của Simon và Garfunkel, nó mô tả một thái độ chấp nhận rằng tuần này, tháng này, hoặc thậm chí năm này có thể khó khăn đấy, nhưng bạn biết bạn sẽ vượt qua. Và theo một cách nào đó, con người mà chúng ta sẽ trở thành bởi vì đã sống qua khoảng thời gian đó là một người còn sống động hơn - và có lẽ đẹp hơn - con người lúc trước. Theo lời của Elisabeth Kubler-Rose: “ Nếu che chắn hẻm núi khỏi những cơn bão, bạn sẽ không bao giờ nhìn ra được vẻ đẹp thực sự của những dấu phong hóa.” Cuốn sách này cho tôi nhận thấy được rằng tâm bệnh đến với mỗi người bởi lẽ tâm hồn chúng ta thiếu thốn sự yêu thương, đặc biệt là thiếu thốn sự yêu thương đối với chính bản thân mình. Có nhiều người nghĩ rằng mình đang yêu thương mình, nhưng thực ra, đó có thể lại là sự ích kỷ. Chúng ta nghĩ rằng chúng ta yêu thương những người thân xung quanh, nhưng cách yêu thương của ta liệu có phải là đúng? Điều đó giống như trong cuốn Yêu của Osho đã chỉ ra, rằng cái cách mà cha mẹ yêu thương con đã không đúng như nhiều cha mẹ đang nghĩ rồi. Nếu bạn đã trót rơi vào vũng bùn lầy lội và tăm tối của tâm bệnh, bạn có muốn thoát ra khỏi nó không? Mời các bạn đón đọc Từ Nước Mắt Đến Nụ Cười - Tận Cùng Khổ Đau Đến Ngời Sáng Tâm Hồn của tác giả Marianne Williamson.
Tất Cả Em Cần Là Tình Yêu
Hạ Hương chẳng hề là kiểu phụ nữ độc nhất, kì lạ, hiếm thấy, nghìn người có một, cô là một cô gái đô thị điển hình: xinh đẹp, tài năng, học thức, nhạy cảm thiên bẩm, khát yêu đến mức tôn thờ. Có khác chăng là cô không ngồi chờ phép màu của định mệnh mà xông pha vào chỗ gian khó của chiến trường hẹn hò như một dũng sĩ bất chấp hiểm nguy để tìm cho ra một bóng tình nhân hoàn hảo. Cô chẳng trang bị thứ vũ khí hữu dụng nào hơn một trái tim luôn biết rung động với cảm xúc yêu đương và một niềm tin kinh điển "phải hôn nhiều con ếch mới gặp được hoàng tử". Cô đã đi, và đã gặp một nửa của mình sau chặng hành trình đầy đam mê, nước mắt, niềm thương, sự hối tiếc. Chính điều đó đã khiến cho thành quả cuối con đường trở nên ngọt ngào viên mãn hơn. Còn bao nhiêu cô gái băn khoăn trên bước đường tình của mình, còn bấy nhiêu người sẽ tìm được sự đồng cảm với Hạ Hương. Cuốn tiểu thuyết không "nặng" mùi triết lý, không nhiều thủ thuật trong ngôn ngữ nhưng sự gần gũi, nhẹ nhàng và lãng mạn của nó đã khiến những trái tim yêu rung động. Ai đó sẽ dễ dàng nhận thấy vài tình huống trong câu chuyện mình cũng đã từng trải qua nhưng có thể cách xử lý của mỗi người mỗi khác... và cách xử lý tình huống của nữ nhân vật chính biết đâu lại là những gợi ý rất tế nhị cho những cô gái cùng lứa tuổi đang bối rối khi yêu và đang cần được học cách sống thật hơn với chính mình nhưng vẫn giữ được sự duyên dáng tự nhiên... để đạt được những cảm xúc yêu tuyệt vời nhất! ...Và chỉ có tình yêu mới có thể viết được một tiểu thuyết nồng nàn đến thế! *** 'Tất cả em cần là tình yêu' - Hành trình đi tìm hoàng tử "Tất cả em cần là tình yêu" của tác giả trẻ Quỳnh Scarlett là một câu chuyện tình yêu tiếp nối đầy cảm xúc và đam mê. Quỳnh Scarlet tên thật là Ngô Như Quỳnh, từng là giáo viên dạy Văn trước khi đạt giải Én bạc cuộc thi Người dẫn chương trình truyền hình năm 2008. Cô hiện là BTV của Đài truyền hình TP.HCM, MC kiêm sản xuất các chương trình: Chào ngày mới, Đàn ông nói, Bật mí phim truyền hình. Câu chuyện của nữ nhân vật chính – Hạ Hương cùng hành trình đi tìm chàng hoàng tử cho cuộc đời mình với quan niệm rất mới và lạc quan: “Phải hôn nhiều con ếch mới gặp được hoàng tử”.  Vì thế, Hạ Hương sống, làm việc và yêu theo bản năng, cảm xúc và luôn tìm kiếm. Cô nhanh chóng rung động, lao vào tình yêu như vũ bão, trải lòng mình, dâng hiến hết tâm tư, tình cảm để mong nhận ra một tấm chân tình. Nhưng Hạ Hương với một tâm hồn nhạy cảm, một trái tim dễ xao xuyến, yêu cuồng nhiệt vẫn luôn hoài nghi, đắn đo liệu con ếch mình đang hôn có thể biến thành hoàng tử… Cuốn tiểu thuyết không "nặng" mùi triết lý, không nhiều thủ thuật trong ngôn ngữ nhưng sự gần gũi, nhẹ nhàng và lãng mạn của nó đã khiến những trái tim yêu rung động. Ai đó sẽ dễ dàng nhận thấy vài tình huống trong câu chuyện mình cũng đã từng trải qua nhưng có thể cách xử lý của mỗi người mỗi khác... Cách xử lý tình huống của nữ nhân vật chính biết đâu lại là những gợi ý rất tế nhị cho những cô gái cùng lứa tuổi đang bối rối khi yêu và đang cần được học cách sống thật hơn với chính mình nhưng vẫn giữ được sự duyên dáng tự nhiên... để đạt được những cảm xúc yêu tuyệt vời nhất! ***   Mời các bạn đón đọc Tất Cả Em Cần Là Tình Yêu của tác giả Quỳnh Scarlett.