Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hỏi Hay Đáp Đúng (Thích Nguyên Tạng)

Ðạo Phật là gì?

Hỏi: Ðạo Phật là gì?

Ðáp: Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng của Ngài Sĩ-Ðạt-Ða Cồ-Ðàm, được biết như một vị Phật, đã tự mình giác ngộ ở tuổi ba mươi sáu. Ðến nay Ðạo Phật đã có mặt trên 2500 năm và có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Hàng trăm năm về trước, Ðạo Phật đã chính thức là một nền triết học của Á châu, tuy nhiên ngày nay đã phát triển và có tín đồ ở khắp châu Âu và châu Mỹ.

Hỏi: Như vậy, Ðạo Phật có phải là một triết học không?

Ðáp: Danh từ triết học - philosophy - bắt nguồn từ hai chữ "philo" nghĩa là "tình thương" và "sophia" nghĩa là"trí tuệ". Vậy triết học là tình thương của trí tuệ hoặc tình thương và trí tuê. Cả hai ý nghĩa nầy đều diễn tả một đạo Phật toàn bích. Ðạo Phật khuyên dạy con người nên cố gắng phát triển khả năng tri thức của mình đến chỗ cùng tột để có thể hiểu biết một cách rõ ràng. Ðạo Phật cũng dạy chúng ta làm lớn mạnh lòng từ bi và lòng nhân ái để mình có thể trở thành một người bạn chân thànhĩ đối với tất cả chúng sanh. Vì thế Ðạo Phật là một triết học, nhưng không chỉ là một triết học mà là một triết học siêu việt. Tìm mua: Hỏi Hay Đáp Đúng TiKi Lazada Shopee

Hỏi: Ðức Phật là ai?

Ðáp: Vào năm 624 trước Tây Lịch, một hoàng nhi đã ra đời tại một vương quốc thuộc miền Bắc Ấn Ðộ. Vị hoàng nhi ấy đã lớn lên trong nhung lụa và xa hoa, nhưng cuối cùng sớm nhận ra rằng tiện nghi vật chất và sự yên bình của thế gian không đủ để bảo đảm hạnh phúc. Chàng đã xúc động sâu xa bởi những cảnh khổ đau mà chàng đã thấy ở khắp mọi nơi, và quyết tâm tìm một lời giải đáp đưa đến hạnh phúc cho nhân loại. Năm hai mươi chín tuổi, chàng từ giả vợ và con, và tìm học với các bậc đạo sư vĩ đại đương thời. Các vị này đã dạy cho chàng rất nhiều nhưng không có người nào thật sự biết rõ được nguyên nhân khổ đau của kiếp người và phương cách vượt thoát khổ đau. Cuối cùng, sau sáu năm tu học và hành thiền, chàng đã đạt được một kinh nghiệm mà tất cả mọi phiền não vô minh được đoạn trừ và ngài đã hoát nhiên giác ngộ. Kể từ ngày ấy, Ngài được tôn xưng là Phật-đà (Buddha), một bậc Giác

Ngộ. Ngài tiếp tục ở lại thế gian trong 45 năm nữa, chu du khắp miền Bắc Ấn độ để truyền dạy cho mọi người những gì mà ngài đã chứng ngộ. Lòng từ bi và đức tính kham nhẫn của Ngài là một sự kỳ diệu đã khiến cho hàng ngàn người theo làm đệ tử của Ngài. Ở tuổi tám mươi, tuy già và bệnh, nhưng vẫn hạnh phúc và thanh thản, cuối cùng ngài đã viên tịch.

Hỏi: Ðức Phật vô trách nhiệm chăng khi Ngài rời bỏ vợ con của mình?

Ðáp: Ðiều đó không dễ dàng chút nào khi Ðức Phật rời bỏ gia đình. Ngài đã phải lo lắng và do dự trong một thời gian dài trước khi quyết định ra đi. Lúc đó, Ngài có một sự chọn lựa, hoặc là hiến dâng đời mình cho gia đình, hoặc cho thế gian. Cuối cùng, với lòng từ bi rộng lớn đã khiến ngài hy sinh đời mình cho thế gian, và cả thế gian đều được lợi lạc từ sự hy sinh của ngài. Do vậy, đó không phải là vô trách nhiệm. Có thể nói đó là một sự hy sinh đầy ý nghĩa nhất từ trước đến nay.

Hỏi: Ðức Phật đã nhập diệt thì làm sao Ngài có thể giúp đỡ chúng ta?

Ðáp: Ông Faraday, người phát minh ra điện, đã mất nhưng những gì ông phát minh vẫn còn có ích cho chúng ta. Ông Luis Pasteur, người tìm ra phương pháp điều trị nhiều bệnh tật, đã qua đời, nhưng các khám phá y khoa của ông vẫn cứu được nhiều mạng sống. Ông Leonardo da Vinci, người sáng tạo ra những kiệt tác nghệ thuật, cũng đã khuất bóng, nhưng tác phẩm của ông vẫn đem lại nhiều hứng khởi và niềm vui cho mọi người. Những thánh nhân và anh hùng đã từ giã cõi đời hàng thế kỷ nhưng khi chúng ta đọc lại những kỳ tích và thành tựu của họ, chúng ta vẫn có nhiều hứng khởi để noi theo những gì họ đã làm. Ðúng thế, Ðức Phật đã diệt độ, nhưng 2500 năm sau lời giáo huấn của Ngài vẫn giúp được nhân loại, gương lành của Ngài vẫn tạo nhiều cảm hứng cho mọi người, lời dạy của Ngài vẫn có thể cải tạo được cuộc sống. Chỉ có Ðức Phật mới có thể có một tiềm lực thu hút như thế qua nhiều thế kỷ sau khi Ngài đã nhập diệt.

Hỏi: Ðức Phật có phải là một vị thần linh không?

Ðáp: Không, Ngài không phải là một vị thần linh (god). Ngài cũng không tuyên bố rằng mình là thần linh, là con của thần linh, hoặc ngay cả là một sứ giả của thần linh. Ngài là một con người đã tự toàn thiện mình, và dạy rằng nếu chúng ta noi theo gương Ngài, chúng ta cũng có thể tự hoàn thiện được như Ngài.

Hỏi: Nếu Ðức Phật không phải là thần linh, tại sao người ta thờ cúng Ngài?

Ðáp: Có nhiều loại thờ cúng khác nhau, khi người ta thờ một vị thần, họ tán thán cung kính và cúng dường vị ấy, để cầu xin ân sủng. Họ tin tưởng rằng vị thần linh ấy sẽ nghe thấy sự tán dương, tiếp nhận sự cúng dường và đáp ứng lại lời cầu xin của họ. Người Phật tử không theo kiểu thờ cúng này. Cũng có các loại thờ cúng khác như khi chúng ta bày tỏ lòng tôn kính đối với một người nào đó hay điều gì khiến chúng ta ngưỡng mộ. Khi vị thầy giáo bước vào lớp, chúng ta đứng lên; khi gặp một viên chức cao cấp, chúng ta bắt tay; khi một bài quốc ca được trổi lên, chúng ta nghiêm chào. Ðó là tất cả những cử chỉ cung cách tôn kính tỏ bày lòng khâm phục của chúng ta đối với người hay vật. Cách thờ cúng theo Phật giáo là thực hành. Một pho tượng Phật ngồi với bàn tay nhẹ nhàng trong mãnh y và nụ cười từ ái nhắc nhở chúng ta cố gắng phát triển sự an lạc và yêu thương trong mỗi chúng ta. Mùi thơm của hương trầm nhắc nhở chúng ta về sự ảnh hưởng của đức hạnh lan tỏa khắp nơi, ngọn đèn nhắc nhở chúng ta đến ánh sáng của hiểu biết, và những bông hoa sớm tàn úa nhắc cho chúng ta lẽ vô thường.

Khi đảnh lễ cuối đầu, chúng ta bày tỏ lòng biết ơn đối với Ðức Phật về những lời dạy của Ngài. Ðó là phương cách thờ cúng của người Phật tử.

Hỏi: Nhưng tôi nghe người ta nói rằng nhiều Phật tử vẫn thờ cúng thần tượng?

Ðáp: Những lời phát biểu như vậy chỉ phản ảnh sự hiểu lầm của người đang hành trì. Từ điển định nghĩa từ "idol" là "một hình ảnh hay một pho tượng được tôn thờ như một thần linh"( an image or statue worshipped as a god). Như chúng ta đã biết, người Phật tử không bao giờ tin rằng Ðức Phật là một vị thần linh. Vậy làm sao người Phật tử có thể tin rằng một khối gỗ hay một mảng kim loại kia lại là một vị thần?

Mỗi tôn giáo đều dùng một biểu tượng nào đó để bày tỏ quan điểm và niềm tin của riêng họ. Trong Ðạo Lão (Taoism), Âm dương được dùng để làm biểu tượng hài hòa và đối kháng. Ðạo Sikh (1), thanh gươm được xem là biểu tượng cho sự đấu tranh tinh thần. Ðạo Cơ-đốc (Christianity), con cá dùng làm biểu tượng cho sự hiện hữu của Chúa và cây Thánh giá dùng làm biểu trưng cho sự hy sinh của Chúa.

Và Phật giáo, tượng Phật được xem như những biểu tượng của sự hoàn thiện nhân cách con người.

Tượng Phật cũng nhắc nhở ta về tính nhân bản trong giáo lý nhà Phật. Thật vậy, Phật giáo luôn xem con người là trung tâm chứ không phải là thần linh, điều đó nhắc nhở chúng ta phải tìm sự toàn hảo và hiểu biết ở bên trong chứ không phải vẻ bề ngoài của hình tượng. Vì thế nói rằng người Phật tử tôn thờ hình tượng là không đúng.

Hỏi: Tại sao người ta đốt giấy vàng bạc và làm những chuyện lạ trong chùa?

Ðáp: Nhiều việc thấy lạ nếu ta không tìm hiểu về chúng. Tốt hơn nên gạt bỏ những chuyện lạ ấy mà nên cố gắng tìm hiểu ý nghĩa của chúng. Tuy nhiên, trong thực tế, đôi khi người Phật tử đã áp dụng những điều mê tín dị đoan và hiểu lầm hơn là lời dạy của Phật. Và những việc hiểu lầm như vậy không phải chỉ riêng ở Phật giáo mà thỉnh thoảng cũng được thấy ở những tôn giáo khác. Ðức Phật đã dạy rất rõ ràng và chi tiết và nếu không hiểu giáo lý của Ngài thì không thể đổ lỗi cho Ngài. Có lời dạy rằng:

Nếu một người đau khổ vì bệnh hoạn mà không chịu để điều trị, thậm chí người ấy có người thầy thuốc trong tầm tay. Ðó không phải là lỗi của người thầy thuốc..

Cũng vậy, nếu một người bị hành hạ và đau khổ bởi phiền não mà không tìm sự giúp đỡ của Ðức Phật, thì đó cũng không phải là lỗi của Ngài.-- (JN 28-9)

Không phải phật giáo mà bất cứ tôn giáo nào cũng không thể giúp cho họ nếu bản thân họ không thực hành đúng pháp. Nếu bạn muốn biết rõ ràng và chính xác về chân lý của Ðạo Phật, thì hãy đọc những lời dạy của Phật hoặc học hỏi với người hiểu đúng giáo lý này.

Hỏi: Nếu Phật giáo quá tốt đẹp như vậy, tại sao vẫn còn nhiều quốc gia nghèo khổ?

Ðáp: Ý bạn muốn nói nghèo khổ về kinh tế? Ðó là sự thật, vì vẫn còn nhiều quốc gia Phật giáo chưa phát triển về mặt này. Nhưng nếu nghèo mà ý bạn muốn ám chỉ về "phẩm chất của cuộc sống" thì có lẽ nhiều nước theo Phật giáo lại rất giàu. Chẳng hạn nước Mỹ, một quốc gia cường thịnh về kinh tế và quyền lực, nhưng lại là một trong những quốc gia có mức độ tội phạm cao nhất thế giới, hàng triệu người già bị con cái lãng quên và chết trong cô độc tại các viện dưỡng lão; nạn bạo lực ở trong gia đình và lạm dụng tình dục trẻ em là vấn đề nóng bỏng. Cứ ba cặp cưới nhau có một cặp ly dị; sách báo đồi trụy dễ dàng tìm thấy. Vì vậy, giàu theo nghĩa có tiền nhưng lại nghèo về "phẩm chất cuộc sống".

Bây giờ chúng ta thử quay sang Miến Ðiện, một quốc gia có nền kinh tế lạc hậu, nhưng cha mẹ được con cái tôn vinh và kính trọng; tỉ lệ tội phạm tương đối thấp; vấn đề ly dị và tự tử hầu như không nghe thấy; việc bạo lực trong gia đình, lạm dụng trẻ em, sách báo kích dục và nạn mãi dâm không thể có.

Một nền kinh tế chậm tiến nhưng lại có một nền tảng đạo đức xã hội cao hơn một quốc gia như Hoa kỳ.

Tuy nhiên, nếu chúng ta muốn nhìn thấy những quốc gia Phật giáo theo cái nghĩa kinh tế như vậy, thì một trong những quốc gia giàu có nhất và có nền kinh tế năng động nhất thế giới hiện nay là Nhật Bản, nơi có 93% dân số là tín đồ theo Phật giáo.

Hỏi: Tại sao bạn không thường nghe người Phật tử làm công tác từ thiện xã hội?

Ðáp: Có lẽ người Phật tử không cảm thấy cần thiết phải khoe khoang về những điều tốt của họ. Nhiều năm trước đây ông Nikkyo Niwano (2), vị lãnh đạo Phật giáo Nhật Bản đã được trao giải thưởng

Templeton qua việc ông vận động liên kết hòa hợp tôn giáo. Tương tự, một tăng sĩ người Thái đã nhận giải thưởng Magsaysay cho chiến dịch bài trừ tệ nạn ma túy. Năm 1987, Thượng tọa Kantayapiwat, người Thái Lan, cũng nhận một giải thưởng Nhi đồng Hòa Bình của Na Uy cho công việc từ thiện của ngài trong nhiều năm giúp đỡ trẻ bụi đời ở vùng nông thôn. Và hiện nay, các hội đoàn Phật giáo phương Tây đang thực hiện một số công tác từ thiện ở các vùng nông thôn Ấn Ðộ, họ đang xây dựng trường học, Trung tâm điều trị tâm thần thiếu nhi, trạm xá và những khu công nghiệp nhẹ. Người Phật tử thấy rằng việc giúp đỡ cho người khác như là một pháp môn tu tập của họ, nhưng họ cho rằng công việc ấy nên thực hiện trong thầm lặng, không cần phô trương. Chính vì thế mà bạn không nghe thấy nhiều về các hoạt động từ thiện của họ.

Hỏi: Tại sao có nhiều tông phái khác nhau trong Phật giáo?

Ðáp: Có nhiều loại đường khác nhau: đường vàng, đường trắng, đường kết tinh, đường cục, đường cát, đường phèn... nhưng tất cả chỉ là đường và chỉ có một vị ngọt. Nó được sản xuất từ nhiều hình thức khác nhau để nó có thể sử dụng nhiều cách khác nhau. Phật giáo cũng thế, Phật giáo Nguyên thủy, Thiền tông, Tịnh độ tông, Du già tông, Mật tông nhưng tất cả đều là Phật giáo và đều có chung một vị - vị giải thoát. Phật giáo quả thật đã phát triển qua nhiều hình thức khác nhau để nó hiện hữu và thích ứng với những nền văn hóa khác nhau. Qua nhiều thế kỷ Phật giáo có thể tồn tại phù hợp với mọi thế hệ.

Ðứng trên phương diện bề mặt, Phật giáo dường như có khác nhau, nhưng tâm điểm dị biệt ấy vẫn là giáo lý Tứ đế và Bát chánh đạo. Tất cả những tôn giáo chính, kể cả Phật giáo, đã từng bị chia ra nhiều tông phái khác nhau. Như những tôn giáo chính khác, Phật giáo bao gồm những hình thái và tông phái.

Những sự khác nhau của các tông phái ấy không bao giờ đưa tới xung đột nhau, và cho tới nay chưa bao giờ biểu lộ sự thù địch với nhau, họ đến với nhau ở những chùa viện khác và cùng cầu nguyện với nhau. Lòng bao dung, và hiểu nhau như thế quả thật là hiếm thấy.

Hỏi: Bạn luôn nghĩ tốt về Ðạo Phật. Tôi cho rằng bạn nghĩ Ðạo của bạn đang theo là đúng còn các đạo khác là sai.

Ðáp: Không có một Phật tử nào hiểu lời Phật dạy mà lại nghĩ các tôn giáo khác là sai. Không một ai có tâm hồn cởi mở lại để tâm phán xét các tôn giáo khác. Việc trước tiên bạn để tâm nghiên cứu những tôn giáo khác là để biết có bao nhiêu điểm tương đồng.Tất cả các tôn giáo đều thừa nhận rằng đời sống con người hiện tại không được thỏa mãn. Tất cả đều tin rằng nếu hoàn cảnh của con người phải cải thiện thì cách cư xử và quan điểm của họ cần phải được thay đổi. Tất cả đều truyền dạy về một nền đạo đức học về yêu thương, nhân ái, kiên nhẫn, rộng lượng và có trách nhiệm với xã hội, và tất cả đều chấp nhận có sự hiện hữu trong một vài hình thức tuyệt đối.

Họ sử dụng nhiều ngôn ngữ khác nhau, nhiều tên gọi khác nhau và nhiều biểu tượng khác nhau để mô tả và giải thích những sự việc này. Và chỉ khi nào họ bám chặt vào đường hướng của mình bằng tâm lượng hẹp hòi để nhìn sự việc thì sự ích kỷ, ngạo mạn và tự tôn liền phát sinh.

Cứ tưởng tượng một người Anh, một người Pháp, một người Trung quốc và một người Nam Dương.

Tất cả đều nhìn vào một cái ly nước. Người Anh nói "Ðây là cái cup ", người Pháp nói "Không phải, nó là cái tasse ", người Hoa bảo "cả hai ông đều sai hết, nó chính là pei ". Và người Nam Dương cười lớn nói rằng: "Các anh ngớ ngẫn làm sao, nó là cái cawan ". Người Anh lật quyển từ điển ra và chỉ cho các người kia "Tôi có thể chứng minh đây là cái cup, quyển từ điển của tôi đã viết như thế".

Người Pháp cãi lại "từ điển của tôi nói rõ đó là tasse. Người Hoa lớn tiếng cãi lại "Từ điển của chúng tôi mới chính xác, vì nó có hàng ngàn năm nay rồi, lâu hơn tất cả các từ điển của các anh, vả lại người nói tiếng Hoa nhiều hơn người nói ngôn ngữ của mấy anh, vì thế tôi nói nó là pei là chính xác nhất". Trong lúc những người này đang cãi cọ và tranh luận, một người Phật tử bước tới bưng lấy cái ly nước lên uống. Sau khi vị ấy uống xong, vị ấy nói: "Dù các anh có gọi nó là cup, tasse, pei hay cawan, mục đích của cái ly là dùng để uống nước, các anh hãy chấm dứt tranh luận và hãy uống nước để bớt cơn khát của các anh đi!". Ðây là thái độ của người Phật tử đối với các tôn giáo khác.

Hỏi: Ðạo Phật có phải là khoa học không?

Ðáp: Trước khi trả lời câu hỏi này, tốt nhất chúng ta hãy tìm hiểu về định nghĩa của từ khoa học, theo từ điển giải thích khoa học là "Kiến thức có thể được hình thành theo một hệ thống, cái tuỳ thuộc vào sự trắc nghiệm các dữ kiện và xác nhận được quy luật tự nhiên, một phần tùy thuộc vào những gì được nghiên cứu chính xác".

Trong Phật giáo có nhiều phương diện không phù hợp với định nghĩa này. Nhưng giáo lý cốt lõi của Ðạo Phật, Tứ Diệu Ðế (Four Noble Truths) thì hẳn đã phù hợp. Chân lý thứ nhất khổ đau là một kinh nghiệm và có thể xác định được. Chân lý thứ hai chỉ rõ rằng đau khổ có nguyên nhân tự nhiên của tham ái mà nó có thể định nghĩa, trải qua và đo lường được. Không cần cố gắng giải thích khổ đau theo thuật ngữ, quan điểm siêu hình hay huyền hoặc. Chân lý thứ ba, chấm dứt khổ đau không nương nhờ vào thần linh tối cao, vào niềm tin hay cầu nguyện mà đơn giản chỉ là loại bỏ nguyên nhân của khổ đau. Ðó là việc hiển nhiên. Chân lý thứ tư, con đường đưa đến sự chấm dứt khổ đau, một lần nữa cũng không có gì siêu hình mà tùy thuộc vào việc thực hiện theo phương pháp đặc biệt. Và hơn nữa thái độ phải cởi mở để xét nghiệm.

Phật giáo không thừa nhận quan điểm về một đấng cao cả, giống như khoa học và giải thích nguồn gốc và sự vận hành của vũ trụ theo quy luật tự nhiên. Hẳn những điều này là chứng minh theo tinh thần khoa học. Một lần nữa, chúng ta lại thấy tinh thần khoa học trong Phật giáo càng rõ ràng hơn qua lời khuyên của Ðức Phật, rằng chúng ta không nên tin tưởng một cách mù quáng mà ngược lại phải đặt vấn đề, tìm hiểu và thẩm tra, nhờ vào kinh nghiệm của chính mình rồi mới tin, có như thế tính chất khoa học mới được rõ ràng. Ðức Phật dạy:

"Ðừng tin tưởng theo huyền bí hay truyền thống. Ðừng tin tưởng theo tin đồn đãi hay kinh điển, đừng tin tưởng theo lời đồn hay những gì hợp lý, đừng tin tưởng theo khuynh hướng của một ý niệm nào đó, hay do một ai đó có khả năng. Và đừng tin tưởng theo ý tưởng " vị ấy là thầy của ta". Nhưng khi chính các vị biết rằng điều ấy là tốt không làm tổn hại ai, đó là sự sáng suốt đáng tán dương và khi thực hành và theo dõi rằng nó sẽ mang đến hạnh phúc, rồi hãy tin tưởng theo". -- (A I 188)

Vì thế chúng ta có thể nói rằng mặc dù Phật giáo không hoàn toàn khoa học, nhưng hẳn đã mang tính khoa học mạnh mẽ và có tính khoa học hơn các tôn giáo khác. Chính ông Albert Einstein (1879-1955) một nhà khoa học vĩ đại nhất của thế kỷ hai mươi đã nói về tính khoa học của Phật giáo như sau:

"Tôn giáo tương lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu, vượt lên trên mọi tinh thần linh, giáo điều và thần học.

Tôn giáo ấy phải bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản của ý thức đạo lý, phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi lĩnh vực trong cái nhất thể đầy đủ ý nghĩa. Phật giáo sẽ đáp ứng được các điều kiện đó. Và nếu có bất cứ một tôn giáo nào có thể đương đầu với những nhu cầu của nền khoa học hiện đại, thì đó là Phật giáo vậy."

-----

Ghi chú: (1) Sikhism: một đạo phát triển từ Ấn giáo từ thế kỷ 16, chỉ tín ngưỡng một vị thần. (2) Pháp sư Nikkyo Niwano (1906-1999), người khai sáng Hội Phật Giáo Lập Chánh Giảo Thành (Rissho Kosei-kai, phát xuất từ phái Pháp Hoa Nhật Liên Tông của Nhật bản), là nhà lãnh đạo Hội

Tôn Giáo và Hòa Bình Thế Giới, Hiệp Hội Tự Do Tôn Giáo, Hiệp Hội Hòa Bình Niwano, Liên Ðoàn Tân Tôn Giáo Nhật Bản, là tác giả của nhiều tác phẩm Phật học quan trọng. (Người dịch)

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Hỏi Hay Đáp Đúng PDF của tác giả Thích Nguyên Tạng nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Lecomte Du Noüy Và Học Thuyết Viễn Đích (Nguyễn Văn Thọ)
MỤC LỤC Tựa của Phạm Đình Tân Thư của Bà Mary Lecomte du Noüy Lời nói đầu PHẦN THỨ NHẤT: Tìm mua: Lecomte Du Noüy Và Học Thuyết Viễn Đích TiKi Lazada Shopee THỜI ĐẠI, THÂN THẾ VÀ SỰ NGHIỆP TƯ TƯỞNG LECOMTE DU NOÜY Chương 1: Chương dẫn nhập - Nền văn minh hiện đại với những ưu, khuyết điểm của nó. - Sự phân hóa, thác loạn của thế giới hiện tại. - Giải pháp Lecomte du Noüy đối với cuộc khủng khủng hoảng hiện tại. Chương 2: Thế kỷ 19 và thế kỷ 20 Tiết 1. Thế kỷ 19. - Đặc điểm: + Những phát minh khoa học. + Những thực hiện kỹ nghệ. - Các chủ nghĩa: + Duy vật. + Cơ khí + Duy lý + Thực nghiệm + Tất định + Tiến hóa + Sùng thượng khoa học Tiết 2. Thế kỷ 20. - Đặc điểm: + Những phát minh lớn: * Các chất phóng xạ * Nguyên tử lực + Niềm tin vào khoa học bị lung lay + Nền móng khoa học bị rung chuyển + Thuyết tương đối + Nguyên lý bất định của Heisenberg + Quan điểm Henri Poincaré và khoa học đoàn họp tại Vienne + Phong trào xét lại các lý thuyết khoa học, các khái niệm cơ bản toán học và lý học + Sự mất lòng tin của các nhà bác học đối với khoa học + Tri thức luận mới của thế kỷ 20. Chương 3: Thân thế Lecomte du Noüy - Cuộc đời Lecomte du Noüy - Cuộc tình duyên của Lecomte du Noüy với cô Mary Bishop Harrimann - Bà Mary Lecomte du Noüy với sự nghiệp của chồng. - Ảnh hưởng của Taine, Renan, Heisenberg và Ch. Guye - Các tác phẩm triết học của Lecomte du Noüy Chương 4: Lược khảo văn phẩm và tư tưởng Lecomte du Noüy Tiết 1. Lược khảo văn phẩm Lecomte du Noüy Đại ý các quyển: - Con người trước khoa học - Tương lai tinh thần - Phẩm giá con người - Định mệnh con người Tiết 2. Đại cương học thuyết và toát lược tư tưởng Lecomte du Noüy Toát lược tư tưởng Lecomte du Noüy: - Cuộc tiến hóa có viễn đích - Từ bình diện hình hài sinh lý, cuộc tiến hóa đã chuyển vào hướng tâm thần - Viễn đích của cuộc tiến hóa: Sự xuất hiện của những thần nhân - Cố gắng và tự do rất cần thiết cho công cuộc tiến hóa - Tôn giáo và khoa học cần cộng tác với nhau để thực hiện cuộc tiến hóa - Thế giới đại đồng, hoàng kim mai hậu. PHẦN THỨ HAI: HỌC THUYẾT VIỄN ĐÍCH Chương 1: Phê bình và nhận định về khoa học Tiết 1. Giá trị tương đối của khoa học Tiết 2. Những thất bại của khoa học A. Ngẫu nhiên không giải thích được sự xuất hiện của sự sống. Chứng minh toán học. B. Các định luật lý hóa, vật chất không đủ để giải thích các hiện tượng sinh lý I. Nguyên lý Dương tiêu Âm trưởng của Carnot không giải thích được các hiện tượng sinh lý II. Toán xác suất của Gibbs Boltzmann không áp dụng được vào phạm vi sinh lý III. Các định luật lý hóa không đủ để giải thích các hiện tượng sinh lý Tiết 3. Chấp nhận Thượng Đế là một thái độ khoa học Chương 2: Cuộc tiến hóa vũ trụ quần sinh Tiết 1. Cuộc tiến hóa vũ trụ và vật chất vô cơ - Các lý thuyết liên quan đến sự xuất sinh của thái dương hệ - Các phương pháp dùng để ước lượng tuổi tác vũ trụ và địa cầu - Cuộc tiến hóa vô cơ Tiết 2. Cuộc tiến hóa sinh linh A. Cuộc tiến hóa sinh linh thật ly kỳ B. Cuộc tiến hóa sinh vật còn đầy bí ẩn - Các vấn đề nan giải C. Phương tiện khảo sát của chúng ta còn có nhiều khuyết điểm D. Các thuyết tiến hóa - Nhận định tổng quát theo Lecomte du Noüy và Caullery Chương 3: Giả thuyết viễn đích Tiết 1. Đại cương Các thỉnh lý và giả thuyết của Lecomte du Noüy: a/ Cần phải chấp nhận phản ngẫu nhiên hay Thượng Đế b/ Cuộc tiến hóa có chiều hướng c/ Cuộc tiến hóa đã chuyển hướng về phía nội tâm, tâm thần, từ khi con người xuất hiện d/ Viễn đích của cuộc tiến hóa: sự xuất hiện của Thần nhân Tiết 2. Cuộc tiến hóa quần sinh bắt buộc ta chấp nhận có Thượng Đế Tiết 3. Cuộc tiến hóa được hướng dẫn một cách tinh vi tế nhị để toàn bích hướng về một viễn đích Tiết 4. Cuộc tiến hóa đến con người đã tiến vào bình diện óc não và nội tâm - Chứng minh bằng những dữ kiện tiền sử - Chứng minh bằng thánh kinh Tiết 5. Viễn đích cuộc tiến hóa là thực hiện một giống người siêu đẳng, những thần nhân Chứng cứ: Đã có những thần nhân siêu nhân xuất hiện trong dĩ vãng Lý luận chứng minh con người sẽ tiến về chiều hướng tinh thần, chiều hướng thần nhân Tiết 6. Toát lược thuyết viễn đích theo ngôn ngữ Lecomte du Noüy Toát lược theo ba tác phẩm: - Tương lai tinh thần - Phẩm giá con người - Định mệnh con người Chương 4: Những suy luận theo nhãn quan tiến hóa và viễn đích Tiết 1. Những suy luận và hậu quả do thuyết viễn đích xuất sinh - Thuyết viễn đích áp dụng vào luân lý: + Cần phải chống lại thú tính trong con người + Phẩm giá con người phải vất vả mới thực hiện được - Thuyết tiến hóa áp dụng vào đạo giáo: + Mê tín và chân đạo + Những vay mượn của Công giáo ở nơi các đạo xưa + Ngoại giáo và nội giáo - Thuyết viễn đích áp dụng vào đời sống xã hội + Cá nhân vi quý + Đạo giáo, quốc gia, xã hội vi khinh Tiết 2. Toát lược các hậu quả của thuyết viễn đích theo Lecomte du Noüy - Hậu quả triết lý: + Tâm thần cần được biến thành một đối tượng của khoa học + Phân tách tâm thần và thể xác - Hậu quả xã hội nhân sinh: + Mỗi người phải cố gắng không ngừng để tiến tới lý tưởng + Phải dạy dân trọng nghĩa thay vì trọng lợi. Phải cải tạo con người bên trong, thay vì cải tạo hình thức bên ngoài + Con người cần được hoàn toàn tự do - Hậu quả luân lý thực hành: + Trở về với tinh thần Thiên Chúa giáo đồng thời tẩy trừ những tàn tích mê tín dị đoan đã xâm nhập vào Thiên Chúa giáo + Khoa học cần tiếp tay với đạo giáo + Muốn tiến hóa con người cần cố gắng PHẦN THỨ BA: NHẬN ĐỊNH VÀ PHÊ BÌNH Chương 1: Nhận định về thân thế và tư tưởng Lecomte du Noüy Tiết 1. Nhận định về thân thế và nhân cách Lecomte du Noüy - Lecomte du Noüy con người chính trực - Lecomte du Noüy con người say sưa lý tưởng - Lecomte du Noüy con người yêu chuộng độc lập tự do - Lecomte du Noüy con người yêu chuộng những gì phổ quát đại đồng - Ý kiến của Yves Laroquer, Millikan và một nữ mục sư về quyển Định mệnh con người Tiết 2. A. Nhận định về tư tưởng Lecomte du Noüy - Toát lược những tư tưởng chính yếu của Lecomte du Noüy - Tin tưởng có Thượng Đế - Vũ trụ được cai trị bằng những định luật vĩnh cửu - Cuộc tiến hóa sẽ tiến tới thần nhân - Trong con người có tiềm ẩn thiên lý, thiên chân - Đại đạo có một, tôn giáo có nhiều - Hòa bình thái thịnh phải được xây dựng trên sự cải thiện tâm hồn của con người B. Đối chiếu tư tưởng Lecomte du Noüy với tư tưởng các danh nhân lịch đại Ngẫu nhiên và sự sống với hai quan niệm thuận, nghịch: a/ Nghịch: François Redi, Spallanzani, Pasteur, Lecomte du Noüy, Charles Guy. b/ Thuận: Oparin, Harold Urey, L. Miller. - Chủ trương con người mai hậu sẽ được hiển dương của Lecomte du Noüy đối chiếu với: + Billy Graham + Isaie (Is. 65; 17-25) + Jérémie (Jér. 31; 31-34) + Thánh Paul (Romains 8; 18, 18-23) ( Cor. I: 15; 44-49). - Quan niệm đạo tại tâm của Lecomte du Noüy đối chiếu với thánh kinh: + Luc (Luc 17; 20, 21) + Deutéronome (30; 11-14) + Mathieu 15; 8-9. + Isaie 29, 13. + Psaume 78, 36a. + Amos 5; 21-25. + Isaie 1, 11-16. + Osée 8, 11-13. + Galates 4, 10-11. - Lời bình luận của Naniel Rops về tư tưởng Lecomte du Noüy - Tư tưởng Lecomte du Noüy đối chiếu với: + Tinh thần Vaticano II + Nội dung bức thư của Đức Hồng y Ottaviani. + Nội dung bản phúc trình của Đức Tổng Giám Mục Lefèbre. + Thái độ của Lecomte du Noüy đối với Chúa Cơ Đốc, đối chiếu với thái độ của Cát Hồng đối với Lão Tử, và của Romain Rolland đối với Ramakrishna. + Quan niệm đạo tại tâm của Lecomte du Noüy đối chiếu với quan niệm của: * Bồ Đề Đạt Ma * Các Đạo gia * Các Nho gia + Quan niệm tự lực tự cường của Lecomte du Noüy đối chiếu với quan niệm Trung Dung + Quan niệm tu thân vi bản của Lecomte du Noüy đối chiếu với quan niệm của Đại Học + Định mệnh con người với quan điểm của Victor Hugo + Hai chiều biến hóa của tinh thần và vật chất theo quan niệm Lecomte du Noüy đối chiếu với hai chiều thuận nghịch của Hà Đồ, Lạc Thư + Quan niệm tam tài về con người và sự xuất hiện của thần nhân trong tương lai đối chiếu với chủ trương của các đạo giáo Chương 2: Bình luận về thuyết tiến hóa Tiết 1. Những cường điểm của thuyết tiến hóa 1/ Thuyết tiến hóa bành trướng mặc dù có sự chống đối của pháp lý và giáo quyền + Vụ án Hohn Thomas Scopes + Vụ án Susan Epperson + Tranh luận giữa Giám mục Wilberforce và Huxley 2/ Những sự thay đổi trên bình diện giáo lý của Giáo hội La mã. + Thông điệp của Đức Giáo Hoàng Pio XII tháng 8-1950. + Thông điệp Providentissimus Deus của Léon XIII. + Quyết định của Ủy ban nghiên cứu Thánh kinh ngày 30-6-1909 3/ Phương pháp thích nghi để giải thích Thánh kinh. 4/ Thời gian địa chất và thời gian Thánh kinh 5/ Những giả thuyết mới về thủy tổ loài người và nơi phát tích của loài người + Những người tiền sử + Những bích hoạ tiền sử 6/ Ảnh hưởng của thuyết tiến hóa đối với chính trị + Chủ nghĩa Lamarck đối với những người Mác xít. + Chủ nghĩa Darwin và các chính trị gia Tây phương. 7/ Đại đa số các nhà bác học đã công nhận thuyết tiến hóa Tiết 2. Những nhược điểm của thuyết tiến hóa 1/ Nhược điểm của chủ trương loài nọ biến sang loài kia + Thiếu liên tục về phương diện cổ sinh vật học + Thiếu các sinh vật trung gian + Liên lạc tiên hậu không phải liên lạc phụ tử 2/ Nhược điểm của chủ trương vạn vật xuất sinh từ một tế bào nguyên thủy + Thiếu sinh vật trung gian + Những biến hóa nghiệm thấy thường hữu hạn 3/ Nhược điểm của thuyết di truyền tập tính + Phái cổ võ: Lamarck, Darwin, Herbert Spencer, Lecomte du Noüy + Phái đả kích: Jean Rostand, Wallace, Weismann, De Vries. + Lý do đả kích: Tập tính tác dụng đến hình hài (soma) chứ không đến chủng tử (germen). Không thể nói được rằng không có cái gì bẩm sinh, mà cái gì cũng tập thành cả. 4/ Nhược điểm của thuyết đấu tranh sinh tồn, tuyển lựa tự nhiên + Tuyển lựa tự nhiên không sinh ra được đặc tính mới + Cuộc đấu tranh sinh tồn được quân bình hóa bằng năng suất sinh sản, bằng những phương pháp ẩn thân, bằng tình tương thân, tương ái, tương trợ 5/ Nhược điểm của thuyết sậu biến + Đa số các sậu biến thường tảo vong, yểu tử + Sậu biến không cát nghĩa được chiều hướng tiến hóa 6/ Thuyết tiến hóa có nhiều tranh chấp nội bộ 7/ Các nhà bác học đôi khi cũng mắc phải những lầm lẫn lớn lao, và đôi khi cũng có gian ý ngụy tạo chứng cứ. + Câu chuyện Bathybius Hoeckeli + Vụ Dawson ngụy tạo ra xương người tiền sử Piltdown + Vụ ngụy tạo hầu nhân Java của bác sĩ Dubois + Vụ ngụy tạo của Hoeckel + Vụ ngụy tạo chứng cứ của Paul Kammerer 8/ Các biện chứng nêu ra trong các sách giáo khoa được trình bày một cách rất khéo léo, bằng cách tung ra một vài bằng chứng, còn bao nhiêu khó khăn đều được đậy diệm bỏ qua đi Tiết 3. Tổng luận về thuyết tiến hóa 1/ Cường điểm + Đặt lại các vấn đề siêu hình: * Sự biến thiên của vạn hữu * Nhất thể vạn thù + Thuyết tiến hóa đã thúc đẩy các bộ môn khoa học tiến bộ hết sức mau chóng 2/ Nhược điểm: + Đã hữu ý loại bỏ hết các ảnh hưởng tâm thần + Đã gạt bỏ hết mọi ý tứ, mục đích 3/ Các phản ứng: + Chủ trương tiến hóa có mục đích ý tứ: Charles Richet, L. Cuénot, Dognon + Đề cao tâm thần: Lamarck, Schopenhauer, Teilhard de Chardin + Nhắc lại quan điểm của thánh Paul và các thánh hiền Đông Á 4/ Nhận định và kết luận: a/ Các thái độ khác nhau của các nhà bác học * Chấp nhận thuyết tiến hóa với ẩn ý chính trị hay triết học (hoặc vì tinh thần bài đạo, bài giáo sĩ hoặc vì mục đích chính trị) * Phủ nhận thuyết tiến hóa: Louis Vialleton, Jean Serviers, Paul Lemoine * Chấp nhận thuyết tiến hóa với nhiều thay đổi về phương diện lý thuyết: Lecomte du Noüy, Teilhard de Chardin. b/ Kết luận + Thuyết tiến hóa chỉ là một giả thuyết (N. Abélard Encyclopédie Planète) + Niềm tin về thuyết tiến hóa hiện nay còn thuộc về trực giác siêu hình chứ chưa phải khoa học (Lecomte du Noüy) Chương 3: Bình luận về học thuyết viễn đích của Lecomte du Noüy 1/ Thuyết viễn đích của Lecomte du Noüy khác với các thuyết tiến hóa hiện hành 2/ Thuyết viễn đích khác với thuyết mục đích của: Cuvier, Lamarck, Von Nageli, Kolliker. 3/ Thuyết viễn đích khác với quan điểm về tận thế của Công giáo 4/ Thuyết viễn đích có một lập luận và một cấu tạo vững chãi 5/ Lecomte du Noüy nhận định về thuyết viễn đích của ông 6/ Phê bình: + Nền tảng thuyết viễn đích tức là thuyết tiến hóa là một nền tảng không vững chải + Thuyết viễn đích tránh không bàn đến những vấn đề siêu hình trọng đại như vấn đề bản thể + Thuyết viễn đích có quan niệm không dứt khoát về hồn, xác, về vấn đề thiên phú hay tiềm ẩn + Thuyết viễn đích vụ Âu khinh Á vì cho rằng chỉ có bạch chủng là có thể tiến hóa + Thuyết viễn đích chủ trương thần nhân sẽ xuất hiện nhưng không xác định tương quan của thần nhân đối với Thượng Đế, khác với Renan và Teilhard de Chardin 7/ Học thuyết viễn đích đối chiếu với các học thuyết triết học, khoa học, và đạo giáo. Ba quan điểm: a/ Vạn vật được tạo dựng từ hư vô do Thiên Chúa b/ Vạn vật ngẫu nhiên sinh và biến hóa theo các định luật tự nhiên (thích ứng, đào thảo, tự nhiên, sậu biến, v.v…) c/ Vạn vật là do một nguyên lý phân hóa + Sự biến hóa có chu kỳ + Sự hoàn thiện lúc chung cuộc và sự lai hoán bản nguyên (quan niệm vạn vật biến hóa từ một căn bản duy nhất, biến hóa có lớp lang, thứ tự để cuối cùng đạt được sự hoàn thiện, hoàn mỹ và trở về nguyên bản có thể gọi được là quan niệm chung của các thánh hiền không phân biệt đạo giáo Đông Tây, đó là quan niệm của phái Khắc Kỷ, của thánh Paul, Jean, của Bà La Môn, của Phật giáo, Lão giáo, Nho giáo, của Cabbale, của Huyền học thần bí.) KẾT LUẬN Thuyết viễn đích có thể bắc một nhịp cầu thông cảm giữa các học thuyết triết học và đạo giáo Đông Tây Chương 4: Tổng luận A. Thuyết tiến hóa và biến dịch đối với Đông phương a/ Quan niệm biến dịch trong dân gian và trong tiểu thuyết b/ Quan niệm Ấn giáo và Phật giáo về tiến hóa, biến dịch: Thuyết luân hồi c/ Quan niệm tiến hóa, biến dịch của Dịch Kinh B. Phương thức biến hóa a/ Hình hài biến hóa: ảnh hưởng của thủy thổ (quan niệm của Liệt Tử) b/ Tâm hồn biến hóa: Luân hồi c/ Thần biến hóa (tức là thuyết Nhất thể vạn thù của các đạo giáo Á Châu) C. Nhận xét tổng quát Thuyết tiến hóa có thể đúng mà cũng có thể sai. Dù sai hay đúng, nó cũng là một giả thuyết hết sức phong phú. D. Sự đóng góp của Lecomte du Noüy Vạch rõ chiều hướng tiến hóa và bao quát toàn bộ thời gian. Vạch rõ mục đích của cuộc tiến hóa, đó là sự xuất hiện của những thần nhân. Đề nghị những biện pháp để sớm thực hiện mục phiêu ấy. E. Tổng luận Thuyết viễn đích của Lecomte du Noüy là một học thuyết hết sức phong phú, rất cao siêu và rất ích lợi cho cá nhân cũng như cho xã hội. Nó có thể góp phần vào công cuộc nhân cách hóa, thần thánh hóa con người. SÁCH THAM KHẢODưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Nguyễn Văn Thọ":Tính Mệnh Khuê Chỉ Toàn ThưDịch Kinh Đại Toàn - Tập 1 Yếu ChỉDịch Kinh Đại Toàn - Tập 2 Thượng KinhDịch Kinh Đại Toàn - Tập 3 Hạ KinhHà Đồ Và Lạc ThưLão, Trang Giản LượcĐạo Đức Kinh Lão TửÂm Phù KinhPhật Học Chỉ NamTrung Dung Tân KhảoTìm Hiểu Kinh Hoa NghiêmKhổng Học Tinh HoaHướng Tinh ThầnĐường Vào Triết Học Và Đạo HọcChân Dung Khổng TửThiên Địa Vạn Vật Đồng Nhất ThểTrời Chẳng Xa NgườiCon Đường Huyền Nhiệm Trung DungCon Đường Qui Nguyên Phản Bản Theo Nho GiáoĐịnh Luật Tiến HoáKhổng Giáo Vô Thần Hay Hữu ThầnKinh Dịch Với Đông YĐức Lão Tử Và Con Đường Huyền Nhiệm Tâm LinhLecomte Du Noüy Và Học Thuyết Viễn ĐíchLễ, Nghĩa, Liêm, SỉNê Hoàn - Nhâm - ĐốcQuan Niệm Tam Tài Với Con NgườiRa Đời, Vào ĐạoSẫm VioletThất Huyền CầmĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Lecomte Du Noüy Và Học Thuyết Viễn Đích PDF của tác giả Nguyễn Văn Thọ nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Đức Lão Tử Và Con Đường Huyền Nhiệm Tâm Linh (Nguyễn Văn Thọ)
Hôm nay, nhờ lòng ưu ái của quí vị trong ban lãnh đạo Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam mà tôi được hân hạnh đến đây thuyết trình cùng quí vị đề tài: «ĐỨC LÃO TỬ VÀ CON ĐƯỜNG HUYỀN NHIỆM TÂM LINH» Cho nên, lời nói đầu tiên của tôi là xin chân thành cảm tạ quí vị Đạo Trưởng trong ban lãnh đạo Cơ Quan. Tôi cũng xin quí liệt vị trong cử tọa hiện diện nhận nơi đây lời chào thành kính chân thành và lòng kính mến của tôi. Có thể bài thuyết trình nầy sẽ chiếm thêm nhiều phút ngoài giờ đã qui định. Xin cáo lỗi trước với quí vị. Thưa Quí vị, Tìm mua: Đức Lão Tử Và Con Đường Huyền Nhiệm Tâm Linh TiKi Lazada Shopee Đến đây, trình bày đề tài nầy cùng quí vị, tôi đã phạm lỗi đánh trống qua cửa nhà sấm, vì tôi biết, có nhiều vị nơi đây chuyên khảo về Lão giáo, tu theo Lão giáo. Nhưng sở dĩ tôi dám đề cập tới đề tài nói trên, là vì tôi nhớ lại lời của Sử gia Tư Mã Thiên thuật lại lời đức Khổng nhận định về đức Lão Tử như sau: «Con chim, ta biết nó có thể bay, con cá, ta biết nó có thể lội, con thú, ta biết nó có thể chạy. Chạy, thời có thể chăng dò; lội, thời có thể chăng lưới; bay, thời có thể bắn tên; đến như rồng, thời ta không thể biết: Nó cưỡi mây mà lên trời. Hôm nay ta gặp Lão Tử, Ngài thực là rồng vậy.» Và tôi nhớ lại sách xưa bàn về rồng như sau: «Rồng có thể tối hay sáng, nhỏ hay to, ngắn hay dài. Xuân phân bay bổng lên trời, Thu phân lặn sâu đáy vực.» Như vậy, tức là rồng thiên biến vạn hóa, tức là đức Lão Tử thiên biến vạn hóa. Đã thiên biến vạn hóa, thì chúng ta khó có được một cái nhìn toàn bích về Ngài. Quí vị cùng tôi, chúng ta đều được mục kích cái thiên biến vạn hóa ấy, nhưng mỗi người chúng ta chỉ nhìn thấy một khía cạnh. Tôi hôm nay mạo muội đem trình bày những khía cạnh, những nhãn quan của tôi về Lão Tử, chỉ cốt mong là để làm giàu thêm cho những khía cạnh, những nhãn quan mà quí vị đã có về đức Lão Tử, chỉ vậy thôi.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Nguyễn Văn Thọ":Tính Mệnh Khuê Chỉ Toàn ThưDịch Kinh Đại Toàn - Tập 1 Yếu ChỉDịch Kinh Đại Toàn - Tập 2 Thượng KinhDịch Kinh Đại Toàn - Tập 3 Hạ KinhHà Đồ Và Lạc ThưLão, Trang Giản LượcĐạo Đức Kinh Lão TửÂm Phù KinhPhật Học Chỉ NamTrung Dung Tân KhảoTìm Hiểu Kinh Hoa NghiêmKhổng Học Tinh HoaHướng Tinh ThầnĐường Vào Triết Học Và Đạo HọcChân Dung Khổng TửThiên Địa Vạn Vật Đồng Nhất ThểTrời Chẳng Xa NgườiCon Đường Huyền Nhiệm Trung DungCon Đường Qui Nguyên Phản Bản Theo Nho GiáoĐịnh Luật Tiến HoáKhổng Giáo Vô Thần Hay Hữu ThầnKinh Dịch Với Đông YĐức Lão Tử Và Con Đường Huyền Nhiệm Tâm LinhLecomte Du Noüy Và Học Thuyết Viễn ĐíchLễ, Nghĩa, Liêm, SỉNê Hoàn - Nhâm - ĐốcQuan Niệm Tam Tài Với Con NgườiRa Đời, Vào ĐạoSẫm VioletThất Huyền CầmĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Đức Lão Tử Và Con Đường Huyền Nhiệm Tâm Linh PDF của tác giả Nguyễn Văn Thọ nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Kinh Dịch Với Đông Y (Nguyễn Văn Thọ)
Dịch Kinh là một pho sách tối cổ của Trung Hoa đã được bốn vị đại thánh sau đây soạn thảo: - Phục Hi (c.2852) (vẽ tiên thiên bát quái) - Văn Vương (1231- 1135) (vẽ Hậu thiên bát quái, viết Thoán từ) - Chu Công (c.1100) (viết Hào từ) - Khổng Tử (551- 479) viết Thập dực. Thập dực gồm: Thoán (thượng, hạ truyện), Tượng (Thượng, hạ truyện), Hệ từ (Thượng, hạ truyện), Văn ngôn truyện, Thuyết quái truyện, Tự quái truyện, Tạp quái truyện) Tìm mua: Kinh Dịch Với Đông Y TiKi Lazada Shopee Dịch, theo từ nguyên, trên có chữ Nhật (chỉ sự thường hằng) dưới có chữ Nguyệt (chỉ sự biến thiên). Ý muốn nói: Dịch bao quát cả hai phương diện «biến, hằng» của vũ trụ. Vì thế, Dịch có ba nghĩa: - Bất biến. - Biến thiên. - Dễ.(Dễ, vì nếu ta biết mọi khía- cạnh biến- hằng của hoàn- cảnh, sự- vật, thì sự đời cũng như công chuyện đối phó sẽ trở nên dễ dàng). Dịch là một bộ sách triết học, dùng: - Tượng (ký hiệu - Symboles) - Từ (Lời lẽ - Paroles) - Số (Nombres) Để mô tả căn do cũng như sự sinh thành, sự biến hóa của vũ trụ, quần sinh, và mọi giai đoạn danh hư, tiêu trưởng của vạn hữu cốt là để theo dõi được mọi sự biến tiên va cũng là để đoán định cho ra điều hay, điều dở (cát, hung), do đó sinh ra (Chiêm = đoán) Dịch coi: - Thái cực là nguồn gốc sinh ra vạn tượng, vạn hữu, vũ trụ, quần sinh. - Âm Dương là hai động lực vừa tương thừa (complémentaires) vừa tương khắc (opposées ou contraires) tác động lẫn trên nhau, mà sinh ra mọi biến hóa. - Tứ tượng, ngũ hành là những trạng thái biến hóa chính của một nguyên khí. Nguyên thể khi trải qua các giai đọan, từ khinh thanh đến trọng trọc và ngược lại (du subtil au grossier et vice- versa), theo những chu kỳ cố định, diễn biến theo luật định: Sinh (naissance), trưởng (croissance), liễm (retrait), tàng (latence, mort). - Bát quái tượng trưng cho vạn tượng, vạn hữu (êtres, phénomènes) - Sáu mươi tư quẻ tượng trưng cho mọi hoàn cảnh (situations) mà vạn tượng, vạn hữu trrong khi gặp gỡ, giao dịch với nhau đã gây nênDưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Nguyễn Văn Thọ":Tính Mệnh Khuê Chỉ Toàn ThưDịch Kinh Đại Toàn - Tập 1 Yếu ChỉDịch Kinh Đại Toàn - Tập 2 Thượng KinhDịch Kinh Đại Toàn - Tập 3 Hạ KinhHà Đồ Và Lạc ThưLão, Trang Giản LượcĐạo Đức Kinh Lão TửÂm Phù KinhPhật Học Chỉ NamTrung Dung Tân KhảoTìm Hiểu Kinh Hoa NghiêmKhổng Học Tinh HoaHướng Tinh ThầnĐường Vào Triết Học Và Đạo HọcChân Dung Khổng TửThiên Địa Vạn Vật Đồng Nhất ThểTrời Chẳng Xa NgườiCon Đường Huyền Nhiệm Trung DungCon Đường Qui Nguyên Phản Bản Theo Nho GiáoĐịnh Luật Tiến HoáKhổng Giáo Vô Thần Hay Hữu ThầnKinh Dịch Với Đông YĐức Lão Tử Và Con Đường Huyền Nhiệm Tâm LinhLecomte Du Noüy Và Học Thuyết Viễn ĐíchLễ, Nghĩa, Liêm, SỉNê Hoàn - Nhâm - ĐốcQuan Niệm Tam Tài Với Con NgườiRa Đời, Vào ĐạoSẫm VioletThất Huyền CầmĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Kinh Dịch Với Đông Y PDF của tác giả Nguyễn Văn Thọ nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Khổng Giáo Vô Thần Hay Hữu Thần (Nguyễn Văn Thọ)
«Khổng giáo vô thần hay hữu thần» đó là một đề tài đã gây sóng gió hơn một trăm năm tại Trung Hoa và Âu Châu. Cho nên khảo về vấn đề này và đặt lại nó vào hoàn cảnh lịch sử của nó, ta sẽ hiểu rõ tại sao xưa, người ta lại có những quan niệm tương phản nhau, và nhân đó cũng sẽ giúp cho chúng ta có một ý niệm chính xách hơn về vấn đề. Trong bài này tôi sẽ trình bày vấn đề một cách khách quan và sẽ lần lượt bàn về: 1) Thái độ của các vị giáo sĩ khi sang giảng đạo bên Trung Hoa. 2) Quan niệm của ít nhiều giáo sĩ dòng Tên về Khổng giáo và phương pháp giảng giáo của các Ngài. Tìm mua: Khổng Giáo Vô Thần Hay Hữu Thần TiKi Lazada Shopee 3) Quan niệm của đa số các giáo sĩ khác về Khổng giáo và phương pháp giảng giáo của các ngài. Thái độ của các Giáo hoàng. 4) Quan điểm của vua Khang Hi. 5) Quan niệm về Thượng đế qua Tứ Thư Ngũ Kinh. 6) Quan niệm về Thái Cực của Tống Nho. 7) Tổng luận. Muốn bàn về vấn đề này chúng ta hãy cùng nhau trở về dĩ vãng, sống lại khoảng đầu thế kỷ XVII, khi mà các giáo sĩ Âu Châu bắt đầu sang truyền giáo tại Trung Hoa một cách qui mô và liên tục. Nói thế có nghĩa là trước thế kỷ XVII, các giáo hoàng và vua chúa Âu Châu cũng đã từng có những liên lạc ngoại giao với Trung Quốc. Giáo hoàng Innocent IV (1241-1254) đã gửi một sứ thần tên là Jean de Plan sang vua Thái Tổ (Gengis Khan) nhà Nguyên ở Karakourum. [2] Vua Louis IX (1214-1270) nước Pháp đã tìm cách ngoại giao với vua chúa Trung Hoa qua trung gian Guillaume Ruysbroeck. [3] Giáo hoàng Clément IV (1265-1268) cũng đã có liên lạc ngoại giao với vua Thế Tổ nhà Nguyên (Koubilai Khan) ở Bắc Kinh. [4] Những liên lạc ngoại giao ấy nhằm vào hai mục đích: giảng giáo và tìm một liên minh mạnh mẽ có thể uy hiếp Hồi giáo ở phía sau lưng. [5] Năm 1269, Nguyên Thế Tổ cũng đã gửi sứ thần sang Tòa Thánh xin Giáo hoàng gửi cho 100 đại biểu đến họp đại hội các tôn giáo ở Bắc Kinh. Nhưng mãi đến đầu thế kỷ XVII, các giáo sĩ Âu Châu mới sang Trung Hoa đông đảo. Chúng ta ghi nhận: Linh mục Matteo Ricci, dòng Tên, đã tới Bắc Kinh năm 1598, và đã xin vào bệ kiến vua Khang Hi ngày 4-4-1601, với tư cách một nhà bác học thông thiên văn, địa lý, toán học, sẵn sàng phục vụ nhà vua… [6]Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Nguyễn Văn Thọ":Tính Mệnh Khuê Chỉ Toàn ThưDịch Kinh Đại Toàn - Tập 1 Yếu ChỉDịch Kinh Đại Toàn - Tập 2 Thượng KinhDịch Kinh Đại Toàn - Tập 3 Hạ KinhHà Đồ Và Lạc ThưLão, Trang Giản LượcĐạo Đức Kinh Lão TửÂm Phù KinhPhật Học Chỉ NamTrung Dung Tân KhảoTìm Hiểu Kinh Hoa NghiêmKhổng Học Tinh HoaHướng Tinh ThầnĐường Vào Triết Học Và Đạo HọcChân Dung Khổng TửThiên Địa Vạn Vật Đồng Nhất ThểTrời Chẳng Xa NgườiCon Đường Huyền Nhiệm Trung DungCon Đường Qui Nguyên Phản Bản Theo Nho GiáoĐịnh Luật Tiến HoáKhổng Giáo Vô Thần Hay Hữu ThầnKinh Dịch Với Đông YĐức Lão Tử Và Con Đường Huyền Nhiệm Tâm LinhLecomte Du Noüy Và Học Thuyết Viễn ĐíchLễ, Nghĩa, Liêm, SỉNê Hoàn - Nhâm - ĐốcQuan Niệm Tam Tài Với Con NgườiRa Đời, Vào ĐạoSẫm VioletThất Huyền CầmĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Khổng Giáo Vô Thần Hay Hữu Thần PDF của tác giả Nguyễn Văn Thọ nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.