Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Sống Thử

SỐNG THỬ Nguyễn Nhật Thương dtv-ebook.com Ngoại Truyện 1 Tiếng chuông báo thức vang lên inh ỏi cả căn phòng nhỏ, tôi đưa tay lên khẽ dụi đôi mắt của mình rồi lay nhẹ chị Ly đang nằm ở bên cạnh: - Chị ơi, đến giờ rồi kìa, dậy đi! Ly nghe vậy cũng cựa mình một cái rồi mở mắt: - Thôi, hôm nay tao nghỉ làm, lâu lắm rồi mày mới về đây, nghỉ một hôm tao với mày đi chơi thả ga. Tôi nghe vậy lại nhìn chị bật cười: - Điên à, khó khăn lắm mới xin được một công việc tử tế, đi làm đầy đủ cho người ta không có cái nói/ - Tao làm cả năm cả tháng chứ không có làm 1 ngày, nghỉ thì đâu chết ai. - Thôi, đi làm đi, với cả hôm nay em cũng muốn đến một vài công ty thử xin việc xem như thế nào. - Sao mày mới về mà đã lo xin việc rồi? Nghỉ ngơi cho thoải mái đã, việc thì lúc nào xin chẳng được. - Thì cũng phải lo trước chứ, đâu phải mình cứ đến xin một cái là người ta nhận liền đâu. Thôi, chị dậy đi, tối nay chúng ta sẽ đi nhậu một bữa là được chứ gì. Tôi vừ nói vừa ngồi dậy kéo chị Ly, chị thấy vậy cũng chỉ liếc xéo tôi một cái rồi thở dài: - Được rồi, mày không phải xua đuổi, tao tự đi. Nói rồi chị cũng ngồi lên bước xuống giường rồi đi vào nhà tắm làm vệ sinh cá nhân. Chị Ly đã đổi nơi trọ của mình cũng được một năm rồi, có lẽ nơi cũ kia nó có quá nhiều ký ức mà chỉ có thể rời khói đó mới cảm thấy nhẹ lòng được. Bây giờ chị cũng đã xin được 1 công việc bán giày dép cho một cửa hàng trong chợ, lương không quá cao nhưng cũng được thêm doanh thu mỗi tháng nên cũng khá ổn. Chị quay trở ra đi đến tủ thay quần áo rồi nói với tôi: - Mày đưa tao đến chợ rồi lấy xe mà đi cho tiện. - Vậy chiều em đến đón chị hả? - Sao nữa? Không lẽ mày để tao đi bộ vệ? - Hay để gọi anh Hoàng đến đón? - Hoàng gì mà Hoàng, tao với lão đây không có liên quan gì cả. Một năm trước chị Ly chuyển nơi ở, một phần cũng là chuyện nyaf. Tôi còn nhớ tối hôm đó chị khóc lóc gọi điện cho tôi, sau chuyện vợ anh Hoàng đến làm ầm ĩ ở xóm chị thì đấy là lần đầu tiên chị nhắc về anh ấy với tôi. Ly nói Hoàng và vợ đã ly dị, nguyên do chỉ là giữa hai vợ chồng có mâu thuẫn đã quá sâu sắc, chú không phải là do chị cố tình xen vào gia đình nhà người khác. Nhưng có lẽ vợ của Hoàng có nhiều cái bất mãn, nên thời gian đấy luôn tìm đến chị để làm ầm ĩ, Ly cũng một phần vì đó mà mới chuyển đi nơi khác. - Anh ấy bây giờ độc thân, chị cũng độc thật, tại sao không cho nhau cơ hội nhỉ? Ly nghe vậy lại nhìn sang tôi: - Thế sao mày không cho lão Duy cơ hội? Câu nói của chị làm tôi sững người lại, mỗi lần nhắc đến anh là tôi không thể nào vô cảm được: Cũng như ngày hôm qua gặp được anh giữa con phố đông đúc ấy, tôi đã phải tự dặn lòng mình rất nhiều mới có thể bình thản mỉm cười với anh đơn giản như một người quen rồi người đi. Tôi cứ nghĩ đủ bản lĩnh để trở về đây thì sẽ chẳng còn điều gì trở ngại nữa nhưng rồi cuối cùng đối diện với anh, tim tôi vẫn nhói lên 1 cảm giác khó tả, một chút đau đớn, một chút day dứt, và một chút của người đã cũ. - Em và Duy khác, làm sao có thể giống chị với Hoàng được. - Tao thấy chẳng có gì khác cả. Ngày ấy mày và lão cũng vì hoàn cảnh gia đình, tao và Hoàng cũng vậy. Khi đấy mày vì mất đứa bé, tổn thương quá lớn nên không dám đối diện. Tao cũng vì sự day dứt khi chen chân làm kẻ thứ ba nên cũng không dám tiếp tục nữa. Nhưng mày biết không, bây giờ nếu tao tiến đến với Hoàng sẽ vĩnh viễn bị xem là kẻ phá hoại gia đình người khác, người đời mỉa mai. Còn mày và Duy, tất cả các rào cản đều biến mất rồi. Nghe chị nói vậy bàn tay tôi bất giác lại đưa lên bụng mình, nếu lần đó đứa bé không sao thì có lẽ giờ này tôi đang cùng nó chơi đùa. Tôi cũng chưa từng hận anh vì chuyện đó, chỉ trách bản thân mình không đủ khả năng làm mẹ nhưng sự mất mát ấy quá lớn, có lẽ điều đấy khiến tôi không dám mở vết thương của mình ra xem lại nó: - Không ai đi tiếp trên lối mòn cũ cả. - Vậy sao? Nếu vậy sao mày không yêu Kiệt đi. Tao thấy anh ấy tốt lắm, giúp mày trả nợ, giúp mày xử lý con Trang, không quay trở lại Pháp chỉ đơn giản vì mày khi đó còn chông chênh, và giờ hai năm rồi, anh vẫn đang đợi mày. Đấy, con người mới, đường đi mới, sao mày không chọn? Lời chị nói làm tôi bỗng nhiên cảm thấy day dứt, đứng dậy đi vào nhà vệ sinh mà trả lời qua loa: - Kiệt quá tốt, em cảm thấy mình không xứng. Chị Ly lúc này cũng tiến lại chỗ tôi mà nói vọng vào: - Một khi đã yêu thì không có chuyện xứng và không xứng ở đây. Mày đừng lấy cái đó ra để bao biện cho việc mày vẫn đang còn yêu Duy. Không hiểu sao tôi nghe đến đấy lại cảm thấy trong lòng có chút bực bội, vệ sinh cá nhân xng quay ra nhìn chị mà gắt nhẹ chị: - Thôi, di làm nào, nói rõ nhiều. - Ơ con này, mày cáu bẩn cái gì? Là tao nói đúng quá à? - Đúng cái gì mà đúng, chị còn không đi nữa là muộn đấy. Nói rồi tôi cũng đi lại trang điểm qua loa, chỉnh trang quần áo một chút, hồ sơ xin việc cũng mang sẵn cầm ở tay rồi xách túi đi ra ngoài. Ly thấy vậy cũng không nói thêm gì nữa trở ra khóa cửa lại rồi chúng tôi cùng lên xe rời đi. Chị đưa tôi đến chợ rồi xuống xe: - Này, đi cẩn thận nhé, phố xá dạo này đông lắm, vài thằng thanh niên trẩu tổ lái nên chậm chậm mà đi thôi. Buổi trưa tao ăn cơm ở quầy luôn, không về đâu nên mày không phải đón, ra tạm quán bình dân nào mà ăn nhé. Tôi cầm lấy chiều khóa xe từ tay chị rồi nói: - Em biết rồi, chị dặn gì mà như mẹ dặn con thế. - Chẳng không à? Còn hơn mẹ ấy chứ, thôi đi đi, tao vào đây. Nói rồi chị quay người trở vào, tôi cũng lên xe lái đi thẳng. Phố xa bây giờ đông thật, ô tô đi đầy đường, xe máy lại chen chúc nhau, dừng ở các ngã tư đèn xanh đèn đỏ bây giờ phải kéo lên những vài phút, ấy thế mà vẫn có nhiều thằng trẻ trâu, đầu không mũ nón cứ vượt ầm ầm. Tôi đi dọc dọc vài khu phố, thật ra ở đây xin việc vốn không khó, nơi nào cũng cần nhân lực nhưng đa số là các cửa hàng quần áo, những công việc part time ngoài giờ cho sinh viên, rồi quán café, quán ăn...có đến ti tỉ việc để xin làm. Nhưng tôi muốn tìm một công việc phải khá ổn định, lương không cần cao nhưng cũng phải thỏa đáng, công việc không cần quá nhàn hạ nhưng hạn chế việc phát sinh làm ngoài giờ hay tăng ca, bởi sau ngày làm việc mệt mỏi tôi muốn bản thân có thời gian để chăm chút cho mình, tận hưởng cuộc sống. Đi lòng vòng vài con phố, vô tình thấy được một thông báo tuyển dụng của một nhà hàng khá đẹp mắt trông có vẻ là mới khai trương, không hiểu sao tôi lại có hứng thú rẽ vào, dù sao với chuyên ngành quản trị kinh doanh, tôi không tin vào đây tôi lại không có một vị trí để làm. Dựng xe gọn lại một chỗ, chú bảo vệ thấy tôi liền tươi cười nói: - Cứ để đó chú dắt cho, đến xin việc hả? Tôi nghe vậy cũng nhìn chú cười mà gật đầu một cái: - Dạ. - Ừ, vào trong đi, ở quầy lễ tân có cái cô trẻ trẻ tên Phương, cháu lại đưa hồ sơ cho cô ấy là được. - Vâng, cháu cảm ơn! Nói rồi tôi cũng đi vào bên trong, không gian nhà hàng này rất rộng, cách bố trí cũng khá ưa nhìn, nội ngoại thất bắt mắt, nhìn qua cũng biết là hàng chất lượng. Từ đèn, rồi những chậu hoa cảnh, đến vị trí đặt bàn ghế rất hợp lý, tạo cho người ta bước vào có cảm giác thoải mái nhưng vẫn không kém phần sang trọng. Đôi mắt dừng ở quầy lễ tân, tôi theo đó tiến lại, nhìn thấy một người phụ nữ khá đứng tuổi nhưng còn nét trẻ, nhìn cái thẻ cài ngực của chị thấy cái tên Đỗ Trúc Phương tôi mới mỉm cười một cái rồi lại gần: - Chào chị, em thấy ở ngoài kia có dán thông báo tuyển dụng, không biết bên mình còn cần không ạ? Chị ta nghe vậy cũng lịch sự mỉm cười rồi nhẹ nhàng nói: - Em có mang theo hồ sơ không? - Dạ, có! Nói rồi tôi cũng đưa bộ hồ sơ cho chị ta, chị Phượng nhận lấy mở ra xem một hồi rồi cất lại: - Hiện tại sếp không có ở đây, em cứ để hồ sơ lại, có gì chị sẽ liên lạc sau nhé. Tôi nghe vậy cũng gật đầu một cái: - Dạ, vậy có gì chị liên lạc với số điện thoại em ghi trong hồ sơ nhé, em xin phép. Nói rồi tôi cũng chào chị ta một cái mà quay trở ra ngoài, đi lại phía xe thì chú bảo vệ khi nãy lên tiếng: - Sao rồi, có xin được không? Tôi nhìn ông cười một cái: - Dạ, cháu mới đưa hồ sơ, còn phải đợi người ta xem xét nữa. Ông đi lại chỗ tôi dắt chiếc xe quay đầu ra nối nói: - Ừ, nói chung ở đây cũng dễ xin thôi mà, chú cũng mới đến làm được vài ngày, vào nói cái họ nhận luôn. Chắc sếp cũng dễ tính. - Ơ thế chú chưa biết mặt sếp ạ? - Biết đâu, chú mới đến đây làm vài ngày, biết mỗi cô Phương đấy còn sếp hình như không thấy xuất hiện, chắc mở ra để thuê nhân viên làm thôi. Tôi nghe vậy cũng gật đầu cười một cái rồi chào ông mà đi lại xe, còn chưa kịp đội mũ vào thì một chiếc ô tô dừng lại ngay trước đầu xe của tôi khiến tôi có chút khó chịu mà nghĩ thầm trong đầu: "Mẹ nó, có cái dốc để đi xuống mà nó lại chắn đi, cứ nghĩ ô tô là muốn đỗ ở đâu cũng được chắc". Tôi đợi cho cái người trong xe bước xuống là sẽ định lên tiếng nói, chỉ là cánh cửa mở ra, người bước xuống đấy làm tôi sững người. Vẫn là màu trắng quen thuộc của chiếc áo sơ mi, cũng quần âu đen đồng bộ như vậy, anh vẫn chẳng thay đổi gu thời trang của mình, nhưng kỳ lạ chẳng hiểu sao tim tôi vẫn như ngày ấy bỗng nhiên đập nhanh hơn một nhịp thì phải. Phan Bá Duy, thì ra tôi vẫn chưa thể nào bình tâm được với anh. Anh từng bước đi lại phía tôi, kéo đến cả một không khí căng thẳng, bởi vì lần gặp này cũng quá bất ngờ, khiến tôi không kịp phản ứng nên chỉ đứng yên ở đấy nhìn gương mặt của người đàn ông trước mắt. - Hôm qua nhìn thấy em, còn chưa kịp có lời chào. Bây giờ thật tốt quá, em khoẻ không? Tôi nghe vậy cũng nhìn anh cười gượng gạo một cái rồi trả lời: - Vẫn tốt. - Thời gian qua em đã ở đâu vậy? Tôi có đến tìm Ly và xuống nhà nhưng mọi người đều nói là không biết. Có gì lạ đâu, bởi vì mọi người đều đã bị tôi căn dặn từ trước rồi, nếu dám nói đia chỉ, tôi chắc chắn sẽ biến mất không một vết tích. - Chỉ là đến một thành phố khác để thay đổi bản thân, mọi người không biết cũng là vì tôi không nói, tôi cần yên tĩnh một thời gian. - Lần này trở lại em có đi nữa không? - Không nói trước được. Cảm thấy ở cạnh anh khiến tôi có chút lúng túng nên cũng vội dắt xe định đi sang hướng khác mà rời đi: - Tôi còn có việc phải đi trước. Khi tôi vừa mới rời được một bước, Duy bỗng nhiên đưa tay ra giữ lấy cánh tay tôi lại làm tôi có chút bất ngờ nhìn sang anh, cái giây phút đối diện nhau ở khoảng cách này, người đàn ông ấy lại làm tôi dao động bởi giọng nói trầm ổn: - Hai năm trước tôi bở lỡ em, khoảng thời gian đấy tôi cứ nghĩa đã đánh mất cuộc đời mình. Gặp lại hôm nay, trời bỗng nhiên nở nắng đẹp......tôi có thể theo đuổi em được không? Tôi cảm nhận được hai bên má đang trở nên nóng bừng, tim cũng đập nhanh dữ dội, có chút bối rối khẽ gạt tay anh ra mà dắt xe đi rồi nói: - Đồ điên! Dứt lời tôi cũng cố gắng rời khỏi đấy nhanh một chút, không khí vừa rồi thật sự khiến tôi không thể nào bình tĩnh được. Không hiểu sao nghe những lời anh nói sống mũi tôi lại trở nên cay, tôi cũng cảm nhận được đôi mắt đã long lanh nước, ngồi lên chiếc xe mà rời đi cũng chẳng muốn quay đầu nhìn lại. Nếu như là hai năm trước, nói đúng hơn là nếu như việc đau lòng của hai năm trước không xảy ra, khi nghe được những lời đấy, tôi có thể sẽ mỉm cười mà gật đầu, chỉ là sự mất mát quá lớn ấy khiến tôi đến bây giờ vẫn không thể nào bình tâm tiếp nhận được. Thời gian hai năm qua ở một nơi khác, tôi không ngày nào là không mường tưởng đến chuyện nếu đứa bé còn thì bây giờ sẽ như thế nào, gặp lại anh chỉ khiến tôi nghĩ đến những điều tồi tệ khi ấy cho dù tôi tự biết bản thân mình đối với anh vẫn chưa thể nào dứt. Chỉ là bây giờ, lý trí đã ở trên con tim rồi. Tôi vừa đi vừa thơ thẩn suy nghĩ, tiếng chuông điện thoại vang lên mấy lần mới sực tỉnh mà nghe thấy liền vội dừng xe ở bên mép đường rồi nghe máy: - Alo! - Em là Lê Bích Huyền phải không? - Dạ. - Ừ, chị là ở bên nhà hàng em mới gửi hồ sơ xin việc đấy. - A, vâng. Sao vậy chị? - Ừ, em được nhận rồi nhé, có thể đến làm việc bất cứ lúc nào. Tôi nghe vậy lại cảm thấy kinh ngạc, vừa mới đó mà được nhận rồi, cứ nghĩ phải ít nhất vài ngày hay một tuần. - Dạ, vậy để em thu xếp một chút, hai, ba ngày nữa sẽ đến làm được không chị. - Được em, vậy nhé. Hôm nào làm chị sẽ nói rõ về phần công việc của em. - Dạ Nói rồi tôi cũng tắt máy, vẫn còn đứng ngây ở đấy vì chưa tin mình được nhân nhanh đến như vậy. Lúc này chuông điện thoại lại tiếp tục vang lên, tôi nhìn cái tên được lưu trên màn hình ròi liền bắt máy: - Anh gọi đúng lúc thế, tâm trạng đang tốt. - Sao? Có chuyện gì thế? - Tối anh em mình đi nhậu một bừa nhé, hôm nay em xin được việc nên sẽ mời. - Xin việc rồi sao? Vội thế? - Vâng, nhưng mà mình muốn làm khi nào cũng được anh. - Thế công việc là làm gì? - Tốt thì là quản lý, không thì là kế toán cho nhà hàng, hôm nào đi làm em mới nhận việc. - Làm nhà hàng à? Sao không xin công việc nào nhẹ nhàng một chút, anh có người quen làm ở.... - Kiệt, như vậy là được rồi, em cảm ơn nhưng em muốn tự lực cánh sinh, không muốn dựa dẫm hay nhờ vả ai nữa. Tôi lên tiếng cắt ngang câu nói của anh, đâu bên kia bỗng im lặng một hồi rồi mới lên tiếng: - Được rồi, tối nay mấy giờ thế? Anh đến đón hai chị em nhé. - Ok, khoảng 7h nhé, có gì em sẽ gọi. - Ừ. Nói rồi tôi cũng tắt máy, lại phóng xe đi lượn lờ một vài chỗ, ngó nghiêng phố phường, ghé vào vài quán mua sắm đôi chút. Chị Ly buổi trưa không về tôi cũng chỉ về phòng pha một gói mì tôm ăn tạm rồi gọi điện về cho bố: - Bố và thằng Tí đã ăn cơm chưa? - Vừa mới ăn xong. - Con hôm nay xin được việc ở trên thành phố rồi. Chắc mai sẽ về thu xếp đồ đạc rồi chuyển lên đây. - Xin rồi sao? Công việc gì thế? Tôi nghe vậy cũng hiểu được sự lo lắng của ông, trong lòng cũng chẳng có gì tức giận: - Làm quản lý của một nhà hàng thôi. - Làm nhà hàng sao? Môi trường có tốt không con? - Bố yên tâm, 2 năm qua bố không hề nghĩ gì, tai sao bây lại lo lắng như vậy? - Huyền à, bố không phải không tin tưởng con, bó chỉ sợ có nhiều chuyện khiến con nhớ lại sẽ lại đau lòng. Tôi lại khẽ cười một cái rồi trả lời ông: - Mọi chuyên, con đã quên từ lâu rồi. Thôi, bố nghỉ trưa đi, ngày mai con sẽ về. - Ừ. À mà Huyền này. - Sao ạ? - Cô Sáu nó nói con Na nó lên đấy vừa học vừa làm, có nhờ bố bảo con, xem xem nó ở đâu thử liên lạc, có gì thì giúp đỡ nó một tí nhé. - Vâng, con biết rồi. Nói rồi tôi cũng tắt máy, thả mình xuống chiếc giường một cách thoải mái, tính ra tôi cũng chẳng ưa con Na hay cô Sáu, chỉ là hai năm qua những tổn thương kia còn xóa đi được thì dù sao hai người bọn họ cũng là người nhà, tôi có thể bỏ qua được. Không phải vì dè chừng họ, mà vì tôi muốn tâm mình thoải mái mà sống. Khi trời đã đổ về chiều, tiếng chuông điện thoại đánh thức tôi dậy, nhìn thấy là số chị Ly mới giật mình để ý đến giờ rồi bắt máy: - Em đây, ngủ quên mất, bây giờ em ra đón chị nhé. - Đón gì nữa mày, tao bắt xe ôm về rồi. Đợi mày ra đón thì tôi nay ở phòng pha mì tôm ăn à. Tao gọi mấy cuộc thấy không nghe lo có chuyện gì thôi, sở soạn đi, tao về luôn đấy. - Vâng. Tôi tắt máy rồi vội vàng đi vào nhà vệ sinh tắm rửa một chút, không hiểu sao hôm nay lại ngủ miên man đến không biết trời đát nữa như vậy. Quay trở ra ngoài đi đến phía gương trang điểm qua loa thì chị Ly cũng về đến phòng, tôi thấy vậy liền lên tiếng: - Em hẹn anh Kiệt rồi, anh ấy bảo đến đón hai chị em mình. - Ừ, chứ uống rượu rồi, tao cũng ngại lái xe lắm. Chị vừa nói vừa lao vào nhà vệ sinh, nước xối xả ở trong đấy một lúc rồi đi ra, phải nói là chị sở soạn cực nhanh, vài phút là đã phấn son, quần áo tươm tuốt. Kiệt cũng đã gọi cho tôi nói anh ấy đang chờ ở đầu ngõ, tôi và chị trở ra khóa cửa rồi đi ra ngoài, thấy chiếc xe quen đấy là liền mở cửa ngồi lên. Chúng tôi đi đến một quán nhậu khá bình thường, thật ra ăn uống ở những nơi như thế này nó thoải mái hơn rất nhiều so với nấy cái nhà hàng sang trọng kia. Ngồi vào bàn gọi lên vài món rồi thêm vài chai rượu Vodka X, đúng là xa nghề lâu rồi nhưng đi đâu ăn uống tôi đều có thói quen gọi rượu của công ty. Uống đôi ba chén, chị Ly lúc này lên tiếng: - Thế hôm nay xin được việc ở đâu rồi? Tôi nghe vậy cũng trả lời chị: - Nhà hàng MISS. - MISS? Tao nghe cái tên này quen quen, nghe ai nói qua rồi thì phải. - Nó nằm ở đường ...đấy, em vô tình đi qua, bắt mắt với cái tên nên mới vào xin, MISS - BỎ LỠ, nghe nó có cảm giác kiều gì ấy. - Thôi thôi, mày lại bắt đầu phân tích tâm lý học đi. Uống đã nào. Mời các bạn đón đọc Sống Thử của tác giả Nguyễn Nhật Thương.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bẫy-22
Trên một hòn đảo ngoài khơi nước Ý thời Thế chiến II có một liên đoàn không quân Mỹ. Một trong số lãnh đạo của họ là đại tá Cathcart, kẻ khao khát muốn gây ấn tượng với cấp trên bằng cách ép lính đi ném bom mỗi lúc một nhiều hơn. Nhân vật chính của chúng ta, Yossarian, mỗi lần đủ chỉ tiêu giải nhiệm thì lại phải đối mặt với chỉ tiêu mới. Trước sự chết chóc kinh hoàng của cuộc đại chiến, tất cả những gì y mong muốn là toàn mạng trở về. Nhưng mỗi khi chỉ tiêu ra trận tăng lên, xác suất sống sót của y lại giảm xuống. Y không có cách nào thoát ra, bởi ở đó có một cái bẫy. Bẫy-22. Thứ logic vừa giản dị vừa điên rồ của Bẫy-22 chi phối suốt ngót 600 trang sách với hàng chục nhân vật, qua chiến trường qua đạn bom, qua bệnh viện quân y và nhà bếp hậu cần, qua tướng lĩnh và lính tráng, qua cả những số phận tan nát và những kẻ trục lợi từ chiến tranh. Sự điên rồ chảy qua mọi đối thoại, sự ngớ ngẩn thấm đẫm mọi nhân vật, cho tới tận cú nhảy kết cục cuối cùng. Bộ mặt của chiến tranh hiện ra khủng khiếp trong sự nực cười, phi lý. Bẫy-22 hài hước một cách trần trụi, một cách dữ dội, một cách cay đắng, một cách man rợ, nhưng những ai có thể chịu đựng được nó thì hẳn sẽ không thể nào lãng quên. *** Catch-22 là một cuốn tiểu thuyết chiến tranh hài hước rất nổi tiếng, luôn được xếp hạng top trong các danh sách “Những tiểu thuyết hay nhất …….”. Bản thân tác giả cũng đã từng nhập ngũ và phục vụ trong Liên đoàn không quân Mỹ trong thời kì Thế chiến thứ 2 khi mới 19 tuổi. Sau đó hai năm ông được điều đến phục vụ ở chiến trường Ý, nơi mà ông đã thực hiện 60 nhiệm vụ bay như một lính cắt bom của máy bay B-25. Đây cũng là bối cảnh thời gian và không gian chính của tác phẩm. Và nhân vật chính, John Yossarian, cũng là người cắt bom. Catch-22 là một tiêu đề rất khó dịch sang các ngôn ngữ khác. Sau khi tác phẩm này được xuất bản, Catch-22 trở thành một khái niệm mới, được bổ sung vào kho từ vựng tiếng Anh. Với ý nghĩa châm biếm hài hước, Catch-22 trở thành một khái niệm chỉ tình thế lưỡng sự (double bind), trong đó, hai sự việc có bản chất đối nghịch cùng xuất hiện một lúc. Người nào gặp phải tình trạng Catch-22 thường rơi vào cảnh huống tiến thoái lưỡng nan. Ban đầu Joseph Heller đặt tên tác phẩm là Catch-18. Nhưng để tránh trùng tên với những tác phẩm khác, gồm cả phim và sách, tác giả, lúc đó vẫn là một tay viết non trẻ và không tiếng tăm, đã phải lựa những cái tên khác như 14, 11, 20. Sau vài lần thay đổi, bỗng nhiên con số 22 xuất hiện, và sau 2 tuần được thuyết phục, Heller cuối cùng đã đồng ý vì : “22 nghe hay hơn 14”. Cũng thật trùng hợp khi số 2 cũng được cho là con số đại diện cho hiệu ứng Déjà vu, thứ được lặp lại và nhắc lại rất nhiều lần trong sách. Sau khi xuất bản vào năm 1961, Catch-22 trở nên rất phổ biến trong giới thanh thiếu niên vào thời điểm đó. Mặc dù cuốn sách viết về thời kì Thế chiến thứ 2, nhưng với bối cảnh lịch sử lúc đó, Catch-22 dường như thể hiện những cảm xúc mà những người trẻ đã có đối với những điều phi lý của cuộc chiến tranh Việt Nam. Cũng phải dành lời khen và cảm ơn cho dịch giả Lạc Khánh Nguyễn vì những ngôn từ phong phú mà dịch giả đã sử dụng. Tuy chưa được đối chiếu với bản gốc nhưng mình nghĩ tác phẩm đã được truyền tải một cách xuất sắc tuyệt vời. Ngay sau khi đọc xong mình đã phải lên mạng tìm thông tin về người dịch nhưng rốt cuộc không tìm được gì. Ngay từ trang đầu tiên, chính xác là đoạn có chữ ở một nửa trang đầu tiên, Bẫy-22 đã khiến mình liên tưởng đến Biên niên ký chim vặn dây cót. Mùi tài năng ngửi thấy được trên trang giấy và cái cách tác giả đột ngột kéo người đọc vào thế giới riêng của mình. Nếu như ở Biên niên ký là một cái gì đó xa lạ, phức tạp và vô định, thì Bẫy-22 lập tức kéo người đọc đến sự điên rồ : “ĐÓ LÀ TÌNH YÊU TỪ CÁI NHÌN ĐẦU TIÊN. Ngay từ lần đầu gặp mặt Yossarian đã say mê cha tuyên úy đến rồ dại.” Mình thì không kì thị người đồng tính, nhưng đã phải tự hỏi “Đây thực sự là cách người ta bắt đầu một tác phẩm à?”. Ngay từ phút đầu tiên tác giả đã không cho người đọc có cơ hội phản kháng và chuẩn bị, và mọi thứ tiếp theo đó thậm chí còn điên khùng hơn nữa. Và còn hài hước hơn nữa. Sự hài hước và châm biếm lớn nhất có lẽ chính là giọng văn tỉnh queo tưởng chừng như vô cảm của tác giả. Những câu văn dài nhiều vế ngồn ngộn những liên từ đa dạng trải ra liên tục những nghịch lý lặp đi lặp lại không ngớt khiến người đọc tự hỏi hay là tác giả điên mẹ nó rồi. Cách triển khai cốt truyện khá sáng tạo nhưng có thể là điểm trừ với những độc giả thích những món dễ ăn. Thực sự thì sẽ có nhiều người thấy cuốn sách này rất khó đọc. Các sự kiện hiếm khi được trình bày trọn vẹn 1 cách liên tục, mà dần được làm sáng tỏ qua các góc nhìn khác nhau và được nhắc đến hoàn toàn ngẫu nhiên. Người đọc sẽ phải tự mình liên tưởng và sắp xếp các mảnh ghép để có được cái nhìn trọn vẹn nhất về những sự kiện được nhắc đến. Viết về việc này, thì phần tóm tắt ở bìa sau cuốn sách, theo mình là, đã diễn tả lại hoàn hảo, không thể hay hơn được nữa : “Thứ logic vừa giản dị vừa điên rồ của Bẫy-22 chi phối suốt ngót 600 trang sách với hàng chục nhân vật, qua chiến trường qua đạn bom, qua bệnh viện quân y và nhà bếp hậu cần, qua tướng lĩnh và lính tráng, qua cả những số phận tan nát và những kẻ trục lợi từ chiến tranh. Sự điên rồ chảy qua mọi đối thoại, sự ngớ ngẩn thấm đẫm mọi nhân vật, cho tới tận cú nhảy kết cục cuối cùng…..” Chủ đề về chiến tranh nhưng những cảnh chiến đấu chỉ được thả lõm bõm trong một vài chương, và không hề có một cảnh nào miêu tả chân dung kẻ thù, những tên lính Đức quốc xã, theo đúng nghĩa đen. Tuy ít, nhưng những phân đoạn đó chính là giọt tinh dầu tỏa hương, là điểm sáng dẫn đường giúp người đọc xâu chuỗi được cả một tuồng những mảnh ghép rối rắm lộn xộn để có thể nhìn được trọn vẹn những sự kiện trong truyện. Những đoạn mô tả diễn biến tâm lý sống động và chân thực tuyệt vời, đa dạng và uyển chuyển, trần trụi và khô queo nhưng vẫn đầy cảm xúc. Từng nhân vật được xây dựng và đặc tả xuất sắc, ấn tượng và đáng nhớ. Nhờ đó ta có những chân dung sống động trên trang giấy. Mỗi nhân vật đều mang tính đại diện và có chiều sâu. Trải qua 600 trang giấy rồi gập sách lại, ta không thể chỉ đơn giản là chỉ nhớ tới nhân vật chính mà quên họ đi một cách dễ dàng được. Họ vốn chỉ là những hình ảnh đại diện cho những cảm xúc rất đời thường : sợ chết, sợ không được chết đúng kiểu, sợ bị lãng quên, sợ không bị lãng quên, sợ bị thất bại, sợ không được thất bại, sợ bị xa lánh, sợ bị ghét bỏ…..Chỉ có điều những cảm xúc này đã được điểu chỉnh đến mức tối đa, và cái gì quá thì cũng hóa “điên”. Nhưng nhờ thế, các nhân vật điên một cách rất thuần khiết : họ đơn giản chỉ là quá tham lam, quá hèn nhát, quá sợ hãi, quá háo danh, quá lập dị….Đơn giản là thế. Chúng ta có 2 vị Thiếu tướng tính cách hoàn toàn trái ngược nhau luôn đấu đá quyền lực. Có 1 vị đại tá hám quyền và háo danh đến độ ám ảnh và mù quáng, và dĩ nhiên không thể thiếu được tính cách đặc trưng cho những kẻ hám quyền và háo danh đến độ ám ảnh và mù quáng trong một tác phẩm châm biếm : đần độn và bất tài. Rồi còn có thêm 1 sĩ quan hậu cần, người mà thực chất có quyền lực vô biên thậm chí có thể tác động đến và điều chỉnh cuộc chiến. Và còn rất nhiều nhân vật đặc sắc khác nữa. Nhưng dù là nhân vật nào, thì ngoài những nét rất riêng, tất cả bọn họ đều có một nét tương đồng đến đáng ngạc nhiên : Không ai trong số họ nghĩ mình bị điên và cùng lúc họ nghĩ những người khác điên mẹ nó hết rồi. Nhưng thậm chí ngay cả những nhân vật “ngầm”, những người chưa bao giờ được nhắc đến cũng bị điên mẹ nó rồi. Làm thế nào mà một anh lính trơn chỉ qua một đêm đã được thăng lên tận hàm Thiếu tá? Ồ, đơn giản là vì anh ta có một cái tên quá độc đáo thể hiện sự hài hước vô bờ của người cha của anh. Xin bật mí cho các bạn nhân vật đó chính là Thiếu tá Major Major Major. Hẳn những nhân vật chóp bu quyền lực của quân đội Mỹ đã nghĩ rằng có một Thiếu tá tên là Major Major Major thì sẽ giúp họ thắng được cuộc chiến, hoặc đơn giản là vì họ thấy nó vui vãi chầy. (Thiếu tá trong tiếng Anh nghĩa là Major) Và thậm chí có một “trò đùa” nữa đã được gài gắm trước tận 200 trang, để rồi bung nở ra và “kết thúc” cuộc đời của một nhân vật. Phần còn lại của lời bạt trên bìa sau một lần nữa lại hoàn thành xuất sắc vai trò của mình : “…..Bộ mặt của chiến tranh hiện ra khủng khiếp trong sự nực cười, phi lý. Bẫy-22 hài hước một cách trần trụi, một cách dữ dội, một cách cay đắng, một cách man rợ, nhưng những ai có thể chịu đựng được nó thì hẳn sẽ không thể nào lãng quên.” Suốt nửa đầu cuốn sách, gần như trang nào cũng khiến mình cười nắc nẻ không ngớt.Nhưng qua đến nửa sau, những lời đả kích và châm biếm đột ngột rẽ theo hướng khác chỉ trong một chương. Sự điên rồ và hệ quả của nó đã tới. Các bạn sẽ được giới thiệu tới 1 cái tên, mà có lẽ với nhiều người là lần đầu tiên được nghe thấy, xanh đi ca (Syndicate) và độ bao phủ rộng lớn không tưởng của nó. Bạn sẽ nhận thấy rằng, thực chất chiến tranh cũng chỉ là một thương vụ làm ăn lớn, một cuộc đầu tư cỡ bự của một nhóm nhỏ những nhà tài phiệt, những chủ nhân đích thực của nước Mỹ. Những kẻ chi phối mọi thứ, thao túng chính trị, điều tiết cung cầu, dựng lên những mạng lưới kinh doanh khổng lồ bám rễ khắp nơi. Những chính trị gia chỉ là những con rối trong tay họ, và truyền thông chính là công cụ đắc lực nhất để tẩy não người dân như một con chó săn dẫn dắt đàn cừu. Tác giả còn không ngần ngại ném vào độc giả những tàn bạo, bất công và vô nhân đạo. Những thứ quá phi lý tới mức nó trở thành hợp lý, hợp lý trong một thực tế đang diễn ra chính xác như những gì trong cuốn sách : tàn bạo, bất công và vô nhân đạo. Những giá trị nhân văn và đạo đức làm người bị bóp méo đến teo tóp vặn vẹo. Những câu hỏi day dứt và ám ảnh cùng với một chuỗi dài những đau đớn và thống khổ, những oan ức và trái ngang như một thỏi nam châm nặng nề kéo chùng cục sắt ám ảnh trong tâm trí người đọc khiến họ không sao dứt mắt ra được. Chiến tranh thì điên rồ, nhưng con người mới là thứ điên loạn nhất. Điều kinh khủng nhất xảy ra khi người ta không hiểu lẫn nhau, họ sẽ không thể có cái nhìn thấu cảm và lòng trắc ẩn. Sự thờ ơ đôi khi là tội ác. Và do vậy, điều tuyệt vời nhất cũng là khi người với người hiểu được lẫn nhau, biết đồng cảm và vị tha. Sau tất cả, vẫn luôn có những điều tốt đẹp đáng để ta chiến đấu, mà thứ trước nhất đó chính là quyền được sống, được tự chủ của mỗi con người. Cảm ơn tác giả vì sau những đằng đẵng điên cuồng mà ông đưa ra, mình vẫn cảm thấy rất bất ngờ và hài lòng với cái kết. Tuyệt vời. Bẫy-22 hấp dẫn đến độ trong quá trình đọc, mình đã phải đột nhiên tạm dừng rất nhiều lần để soạn cho xong một câu cảm nhận vừa lóe lên trong đầu. Đây là kiểu sách mà, ngay khi đọc xong, bạn muốn lập tức chia sẻ cảm xúc của mình với ai đó. Thực ra, khi ấy cái cảm xúc đó không phải là vấn đề chính, mà quan trọng là ai đó kìa. Mỗi một suy nghĩ của chúng ta lúc đó là một thông điệp, là một lá thư một chiều không có hồi âm gửi đến chính ta ở tương lai. Một cuốn sách hay là khi đọc xong nó, ta để lại một phần của chính mình lại và dùng một phần của nó để tạo lên chính ta, của tương lai. Không hẳn đọc sách là chỉ để hiểu được điều tác giả muốn truyền đạt, mà mỗi cuốn sách chính là một lời truyền đạt của ta đến chính mình. Tại sao lại là cuốn sách này? Tại sao bạn chọn nó? Tại sao bạn đọc nó? Không hiểu sao, đọc một tác phẩm về chiến tranh, mình bỗng nhớ đến, hay “nhận được”, “lá thư” mà mình ở trong quá khứ đã gửi : “Tình yêu, đôi khi với một số người, giống như những lá thư thất lạc mà mãi tận 10 năm sau mới đến được tay người nhận….” Vậy, nếu như bạn sẽ đọc Bẫy-22, hoặc bất kỳ cuốn sách hay nào khác, sau khi đọc xong, hãy tự hỏi mình : Bạn muốn gửi gắm điều gì cho chính mình ở tương lai? Người review: Giao Bùi *** “Bất cứ ai muốn ngừng ra trận đều không thực sự điên.” Bẫy-22, của Joseph Heller, hoàn toàn không phải là một cuốn tiểu thuyết thành công… “Theo chuẩn mực thông thường thôi nó chẳng bén mảng được tới cái gọi là hay.”[1]Bài điểm cuốn Bẫy-22 đăng trên New York Times bắt đầu như vậy, dẫu tác giả của nó sau đó phải công nhận đây là một tác phẩm kỳ lạ bậc nhất. Kỳ lạ là một từ nói giảm nói tránh, với hệ thống nhân vật dày đặc, với các sự kiện sắp xếp không theo trật tự tuyến tính, với chất hài hước đen kịt và bạo lực đầy rẫy, với sự phi lý lấp đầy mọi đối thoại và cảnh huống, Bẫy-22 là một cuốn tiểu thuyết lớn, còn hơn cả vĩ đại, nó là một đại danh tác, không chỉ về Đại chiến thế giới thứ 2, không chỉ về chiến tranh, mà là về con người, và hành vi con người.   “Đó là tình yêu từ cái nhìn đầu tiên. Ngay lần đầu gặp mặt Yossarian đã si mê cha tuyên úy đến rồ dại”: như mọi câu đầu trong tác phẩm của Heller, câu đầu của Bẫy-22 mò đến với tác giả, trọn vẹn, và chỉ trong vòng một tiếng rưỡi, gần như toàn bộ câu chuyện đã nằm trong đầu ông, với tuyến nhân vật, tình tiết, dẫu cái tên Yossarian thì chưa xuất hiện. Ấy vậy mà, khởi thảo viết từ 1953, đến 8 năm sau, Heller mới xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tay, và để luôn ở đời một Bẫy-22.   Bẫy-22 bắt đầu một cách không thông thường như vậy, ở giữa bệnh viện, ở giữa cái gọi là trật tự thời gian truyện kể, ở giữa mọi tuyệt vọng và nỗ lực quẫn bách của Yossarian để sống sót. Bẫy-22, với tâm điểm là nhân vật đại úy John Yossarian, kể về một liên đoàn không quân Mỹ trong Thế chiến thứ 2, đóng quân trên đảo Pianosa ngoài khơi của Ý. Thay vì phải bay một số lần nhất định, những chuyến bay thả bom xuống quân địch, đến khi hoàn thành thì được giải ngũ, nếu vẫn còn tính mạng, lính của liên đoàn dưới sự lãnh đạo của đại tá Cathcart, liên tục bị nâng số chuyến bay, từ 25, lên 30, 35, 40, 45, 50, 55, 60, 65, 70, 80. Hậu quả đi liền, đầy nghiêm trọng, của việc tăng số lần bay để gây ấn tượng với cấp trên, để có những tấm ảnh chụp từ trên cao xuống mặt đất cảnh bom nổ tan tác thật đẹp, chính là những người lính đó, dần nướng sống chính mình.   Trong cái cảnh huống tưởng chừng bị coi là điên rồ thuần túy ấy, có ai nhận ra rằng đây là trò điên của một kẻ điên, lợi dụng cái gọi là lòng yêu nước, cái gọi là sự trung thành, để tận diệt chính hạ cấp của mình hay không? Người đọc rơi ngay vào một thảm cảnh: một trại điên tập thể. Như chính người kể chuyện tường thuật bằng một giọng tỉnh bơ, “Khắp nơi trên thế giới, các gã trai ở cả hai bên chiến tuyến đang ngã xuống cho thứ mà người ta bảo họ là tổ quốc, và dường như chẳng ai thèm bận tâm, ít nhất là chẳng ai trong số những gã trai đang ngã xuống ấy.”   Bẫy-22 là một trại điên vui nhộn nơi không ai tự nhận mình điên và tất cả đều nghĩ người khác điên và lần lượt các nhân vật đều bị các nhân vật khác gọi là điên, mà trùm cuối của điên chính là Yossarian. Với 228 từ điên, với nhân vật liên tục kết cho nhau là điên, nào “các anh điên rồi,” “bọn họ toàn những kẻ điên,” nào “bệnh điên rất dễ lây lan,” nào “Clevinger nghĩ Yossarian điên,” “McWatt bị điên,” “Nately cũng điên không kém,” “Orr cũng là một trong mấy gã điên,” “Hungry Joe bị điên,” “Dubar bị điên,” “thượng sĩ White Halfoat nghĩ bác sĩ Daneeka bị điên.” Họ lần lượt vu cho nhau điên, thuyết phục nhau rằng mày điên, tao không điên. Nhưng họ vẫn lần lượt bay, hoàn thành 25 chuyến, bị đẩy lên 30, bay luôn 30 chuyến, đẩy lên 40, bay 40 chuyến. Một sự phục tùng không phản đối bí hiểm đến khó hiểu.   Vậy vấn đề nằm ở đâu, khi không ai nhận ra mình cần phải thoát khỏi những mệnh lệnh quái quỷ đó, phải thoát khỏi hệ thống quan liêu áp đặt đó, giữa ngần ấy điên khùng và chết chóc? Đó chính là thứ mà Heller chỉ ra trong cái tình huống tắc tị này, nơi Yossarian và đồng đội của mình bị kẹt cứng trong cái gọi là Bẫy-22. Nếu anh bị điên thì anh có thể được nghỉ bay, chỉ cần anh đưa ra yêu cầu, và chính thời điểm anh đưa ra yêu cầu được nghỉ bay thì chính là lúc anh cho thấy rằng mình không bị điên và tiếp tục phải ra trận. Trong cái bộ luật quân sự quan liêu ấy, không có chỗ tồn tại cho sự bảo vệ an toàn của bản thân. Heller đã trải qua rất nhiều cái tên, Bẫy-11, Bẫy 18, Bẫy-14, để rồi đậu lại ở Bẫy-22: một cái tên vô nghĩa, đầy tính chất võ đoán, phi logic. Yossarian là người duy nhất cố gắng thoát ra khỏi hệ thống, anh càng nỗ lực ra khỏi hệ thống thì càng bị cho là kẻ điên, nhưng chỉ có thoát khỏi hệ thống, anh mới bảo toàn được tính mạng của mình.   Bẫy-22 chính vì thế là một trò đùa dai đầy chết chóc và phi lý, với một loạt nhân vật sắc nét, điên rồ, với những đối thoại luẩn quẩn, phi logic mà lại đầy có lý. Bẫy-22 là một cú tấn công vào sự quan liêu, vào bộ máy thiết chế, vào những phi lý thường trực trong chiến tranh cũng như trong đời sống con người. Ở một khía cạnh nào đó, việc nâng số lần bay lên ở Bẫy-22 mang đầy không khí thần thoại. Nó khắc họa thật tỉ mỉ sự quẫn bách của Yossarian, khi gần đạt tới được số lần bay quy định để được về nhà, thì lại ngay lập tức bị lưu đày tiếp tục. Nó như một công cuộc đẩy hòn đá lên đỉnh núi của Sisyphus. Yossarian và đồng đội y hệt như vị vua Tantalus bị các vị thần trừng phạt bằng cách cho đứng ở một hồ nước ngập đến cằm nhưng mỗi lần khát định uống thì nước rút đi, trên đầu là hoa quả trĩu cành mỗi lần đói định ăn thì mọi thứ biến mất. Nó là một trạng thái trêu ngươi kéo dài, là một sự trừng phạt không lối thoát, mà trong quá trình trừng phạt đó, hẳn nhiên là tan xác trong lúc bay ra trận. Yossarian không chịu đợi tới chuông nguyện hồn mình, như Groden, McWatt, Nately, Clevinger…   Trong thời gian ngắn ngủi từ đầu 1944 đến cuối năm, 12 tháng, Yossarian lần lượt tìm mọi cách để chống trả lại thiết chế, bằng cách trốn vào bệnh viện, giả đau gan, giả vàng da, trần truồng từ chối không chịu bay, cầu xin được tuyên bố là điên nhưng chính vào lúc cầu xin là lúc cho thấy anh tỉnh táo hơn hết thảy và ngay lập tức phải bay tiếp. Dẫu có trốn đi Rome, có yêu gái điếm, có lạy bốn phương giời, lạy mười phương phật, thì cái thiết chế phải bay ấy, Yossarian cũng không thoát nổi. Chính vì thế, có thể nói Bẫy-22 là một tiểu thuyết trào lộng về cảnh huống bi kịch đầy những nan đề của con người. Trong một bài trả lời lại một tấn công vào cuốn tiểu thuyết của mình, Heller tuyên bố, khi nhà phê bình chê Bẫy-22 dám chế giễu chiến tranh: Thực tế thì chuyện “chế giễu” chiến tranh là việc bất khả, cũng giống như không thể nào chế giễu mùa đông hay cơn đói. Tôi rất xấu hổ phải chỉ ra rằng đối tượng của chế giễu, trong gần như mọi tiểu thuyết và kịch, theo lẽ thường là con người và hành vi con người, và một trong những ý tưởng mà tôi muốn phát triển là hành vi của một số người và nhóm xã hội nhất định trong thời bình chẳng khác gì với hành vi của cũng những con người và nhóm xã hội đó trong thời chiến.[2] Với hàng loạt đối thoại như thể lệch kênh giao tiếp, với các sự kiện và chết chóc trùng trùng điệp điệp xáo xào trộn lẫn vào nhau, với một hệ thống các nhân vật với những câu nói và đặc điểm riêng được nhào nặn cực đặc biệt, Bẫy-22 tạo ra một thế giới bi đát mà đẫm hài hước, nơi điên loạn ngự trị, nơi một cá nhân, bằng những nỗ lực phi thường, liên tục tấn công vào hệ thống và các thiết chế, bởi chúng chính là một sự đè ép đến ngạt thở cái gọi là lương thức thông thường. Zét Nguyễn Mời các bạn đón đọc Bẫy-22 của tác giả Joseph Heller.
Những Đứa Con Rải Rác Trên Đường
Một tiểu thuyết bằng 3 truyện dài. TRUYỆN THỨ NHẤT: Thư đi không thấy thư lại TRUYỆN THỨ HAI: Đời biết mấy chuyến xe TRUYỆN THỨ BA: Chuyến thu gom xuyên Việt Những trang đầu tiên là chuyện du học vô cùng thời sự. Khiến lập tức có thể thu hút tất cả những bậc cha mẹ nếu có quan tâm đến tương lai của con cái. Và dường như là đương nhiên, sau đó, rải rác, là những bất hạnh bí mật của từng gia đình bắt nguồn từ hạnh phúc của người khác mà không phải ai cũng không biết. Nhưng đây không phải là cuốn sách viết về chuyện gia đình. Dù là chuyện dẫn theo cuộc đời của nhân vật vốn làm lái xe trong thời chiến và cả trong thời bình. Một lối viết hiện thực xen lẫn huyền ảo đã là phong cách của Hồ Anh Thái hơn chục năm nay, vậy mà vẫn có thể đọc liền một mạch và khó thể rời. Tác giả đã gói gọn nhiều sự kiện của từng thời vào trong một câu chuyện. Sự ác liệt, tàn bạo, đầy bất trắc của chiến tranh. Nỗi thống khổ, sự nhũng nhương, cứng nhắc của thời bao cấp. Và sự hỗn loạn khi vào cơ chế thị trường: tham nhũng, thực dụng, vô đạo đức… cũng có đầy đủ tại đây. Những đặc điểm rõ nét của từng thời hiện lên mồn một, đến mức khắc nghiệt. Và đều là điển hình.Không cần phải đọc đến chuyện buôn người, vượt biên, hay cả chuyện mua bằng của tiến sĩ giấy, mà ngay từ đầu, luôn đi theo là hoảng hốt trong lòng người đọc, một nỗi hoang mang, đâu là chân, đâu là giả. Luôn luôn tồn tại một nỗi sợ mơ hồ. “Đời sống trải dài mấy chục năm qua, từ chiến tranh sang hòa bình, thời cải tạo tư thương qua ngăn sông cấm chợ, từ thời bao cấp cho đến khi mở cửa kinh tế thị trường. Những số phận tha hương ở xứ người và xứ mình nhiều trắc trở, cùng những kết cục có hậu và không có hậu. Hiện thực đan xen huyền ảo. Tất thảy được tái hiện bằng giọng văn nghiêm ngặt, bi thương hòa trộn với giễu cợt, hài hước.” *** Bố ạ, ở trường con vừa rồi xảy ra một chuyện ghê rợn vô cùng. Một thằng bên trường Kiến trúc vác súng sang bắn chết thầy hiệu trưởng trường Nghiên cứu quốc tế. Con chứng kiến. Ngay trước mắt. Nói cho chính xác thì thầy ấy không chết. Ai cũng tưởng thầy ấy đã chết nhưng đưa đi cấp cứu thì hóa ra không chết. Không chết nhưng đạn bắn toét người. Sống cũng thành dở người. Sinh viên phải quyên góp trợ giúp thầy. Ai cũng đóng góp. Con cũng phải đóng góp. Một khoản không hề nhỏ bố ạ. Bố chuyển tiền sớm cho con nhé.   Ban đầu nó định viết là thầy hiệu trưởng chết, chết hẳn hoi, chết đứ đừ, làm sao để cho bố nó hoảng, bố nó rợn tóc gáy, bố nó tim đập chân run, từ đó mà cuống lên gửi tiền ngay. Nghĩ lại, thấy không nên để thầy giáo chết, nó viết thêm đoạn thứ hai, chính xác thì thầy ấy không chết. Nỗi kinh hoảng ở đoạn đầu tiên được dây dưa kéo dài sang đoạn thứ hai, đây chính là chỗ dành cho việc miêu tả chi tiết. Đạn bắn toét người. Không chết mà như thế thì mức độ cũng quá nghiêm trọng. Lại còn bình luận về tình trạng cuộc sống bi đát của thầy trong tương lai. Khơi gợi sự mủi lòng ở người đọc thư. Tất cả những điều nó viết ở trên rốt cục là dẫn đến việc nhắc nhở bố nó gửi tiền. Tiền. Tiền. Tiền. Và phải sớm. Kinh hoàng như thế. Ghê rợn như thế. Bi thảm như thế. Thế thì phải gửi sớm. Sớm. Sớm. Sớm. Đây là khoản tiền đột xuất. Chắc là bố mẹ nó đã quen với những bức thư xin tiền đột xuất kiểu này. Quen với những bức thư nhắc gửi tiền định kỳ ba tháng một lần. Du học nước ngoài, tiền học, tiền ăn ở, tiền sinh hoạt và các khoản phụ trợ, mỗi năm mấy chục nghìn đô la Mỹ. Mấy chục nghìn đô không gửi luôn một lần mà chia ra thành từng quý, mỗi năm gửi bốn lần. Nhưng không phải bốn lần mà xong. Thỉnh thoảng có những bức thư bất chợt như bức thư xin tiền đột xuất này. Quyên góp bất ngờ. Thầy giáo chết. Quên, thầy không chết mà chỉ bị thương be bét khắp khắp người. Lần khác thì bà cụ thân sinh của ông chủ nhà chết, phải đi cùng ông ấy về thị trấn quê hương cách vài trăm dặm. Lần khác thì một đứa bạn cùng lớp chết. Toàn là chết. Nó không ngại chết nhiều thế sẽ thành một lý do đáng ngờ. Chết đúng ra là lý do chí lý. Còn có gì đau buồn hơn. Còn có gì gây chấn động hơn. Còn có gì đáng mủi lòng hơn. Thực ra thì trong những bức thư trước, nó còn nêu những lý do khác nữa, nhưng người đọc cứ bình tĩnh, tuần tự rồi sẽ biết tất cả. Trở lại với bức thư điện tỏ lần này. Có chuyện một thằng bên trường Kiến trúc vác súng sang trường Nghiên cứu quốc tế thật. Có thật. Nhung nó sang bắn thầy hiệu trưởng bên này thì không đúng. Không có. Hoặc là chính xác nó bắn ai thì đang điều tra, chưa biết được. Chưa biết. Đúng lúc nó vác súng vào trường thì chú chàng nhà ta bị gọi lên phòng hiệu trưởng. Lên phòng thầy hiệu trưởng uống nước chè đã thành tục ngữ trong đám sinh viên. To take a cup of tea with the director. Ở đây người ta gọi thầy hiệu trưởng là giám đốc chứ không gọi là hiệu trưởng headmaster. Suốt cả năm học có khi chẳng bao giờ nhìn thấy mặt thầy hiệu trường, mà cũng chẳng cần nhìn thấy mặt thầy làm gì. Thình lình một ngày đẹp trời giáo viên chủ nhiệm bảo ta giờ ấy ngày ấy đến phòng thầy hiệu trưởng. Chả được cốc nước chè nào đâu. Lên đấy hoặc là nhắc nhở hoặc là răn đe hoặc là kỷ luật hoặc là buộc nghỉ học. Nói chung là lành ít dữ nhiều. Chè cà phê nước ngọt bia bọt, đừng có mơ. Mời các bạn đón đọc Những Đứa Con Rải Rác Trên Đường của tác giả Hồ Anh Thái.
Mưa Đỏ
Mưa Đỏ là tiểu thuyết sử thi mới nhất của nhà văn Chu Lai. Tiểu thuyết lấy bối cảnh chính là 81 ngày đêm huyết chiến bảo vệ Thành cổ Quảng Trị mùa hè rực lửa năm 1972. “Đáy sông Thạch Hãn đâu chỉ có “bạn ta nằm” mà còn có cả những đồng loại nhưng không đồng chiến tuyến nằm” - nhà văn Chu Lai chia sẻ tại buổi giao lưu. Chủ ý của nhà văn khi viết cuốn sách này là muốn trình hiện thêm một tiếng nói quyền lực của văn chương, trong việc lay thức con người nỗ lực phòng tránh chiến tranh cũng như hòa hợp, hòa giải dân tộc, chiến truyến. “Mưa đỏ” là ký ức lương thiện của một thế hệ “đem thân xơ xác giữ sơn hà”, là một tác phẩm ghi dấu sự thành công mới của Chu Lai, chứng tỏ sự trường sức, trường vốn của nhà văn này, khẳng định độ phong nhiêu của đề tài lực lượng vũ trang và chiến tranh cách mạng. *** *** Chu Lai là một trong những nhà văn quân đội có tên tuổi trong nền văn học sau 1975. Đã từng một thời khác áo lính, ông rất thành công với đề tài chiến tranh. Và tiểu thuyết là thể loại mà Chu lai đã khẳng định được tài năng và phong cách của mình. Nắng Đồng Bằng là một trong những tác phẩm để đời của nhà văn khi viết về đề tài chiến tranh với câu chuyện và những phận người đầy gai góc. Người lính trong Nắng đồng bằng không chỉ biết có chiến đấu vì lý tưởng, biết đấu tranh, giành giật sự sống trước bom đạn, trước kẻ thù mà cũng có những suy tư, tính toán thiệt hơn... nhưng cuối cùng họ vượt qua tất cả để góp phần làm nên chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Chính Chu Lai từng bộc bạch "Cuộc đời có thể xô đẩy người lính, quăng quật người lính nhưng người lính vẫn bật lại để sống xứng đáng với màu xanh áo lính". Có thể nói mỗi trang văn của Chu Lai là một câu chuyện của những cái tận cùng, cố gắng hướng đến cái tận cùng, nỗi khổ niềm vui, hy vọng và tuyệt vọng, can đảm và yếu hèn, tất cả đều được nổi lên một cách đậm nét và hết sức chân thực. Một số tác phẩm của tác giả Chu Lai: Cuộc Đời Dài Lắm Mưa Đỏ Phố Nắng Đồng Bằng Ăn Mày Dĩ Vãng Út Teng Truyện Ngắn Chu Lai Hùng Karô Chỉ Còn Một Lần Khúc Bi Tráng Cuối Cùng Người Im Lặng Nhà Lao Cây Dừa 3 Lần Và 1 Lần Sông Xa Vòng Tròn Bội Bạc Bãi bờ hoang lạnh Gió không thổi từ biển *** Nhà văn quân đội Chu Lai là tác giả của những tiểu thuyết đồ sộ về đề tài chiến tranh cách mạng và lực lượng vũ trang, như: “Nắng đồng bằng” (1978), “Ăn mày dĩ vãng” (1991), “Phố” (1992), “Ba lần và một lần” (1999), “Cuộc đời dài lắm” (2001), “Khúc bi tráng cuối cùng” (2004), “Chỉ còn một lần” (2006)… Và một số kịch bản phim như: “Hà Nội đêm trở gió”, “Người đi tìm dĩ vãng”, “Người Hà Nội”… “Mưa đỏ” là tiểu thuyết sử thi mới nhất của ông, kết quả sau nhiều năm trăn trở và sáng tạo. Tiểu thuyết lấy bối cảnh chính là cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị mùa hè năm 1972, cả ở hai bên chiến tuyến (ta và địch), xoay quanh trục hai nhân vật chính: Cường (chiến sĩ Giải phóng) và Quang (tên chỉ huy hắc báo của ngụy). Bên cạnh đó là bối cảnh trên bàn đàm phán ở Pa-ri với nhân vật bà mẹ của Cường - một nhà ngoại giao là thành viên của đoàn đàm phán phía ta… Tác giả đã mượn phông nền của một sự kiện lịch sử điển hình nhưng cũng khá “nhạy cảm” trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước để dựng lại bức tranh bi tráng về cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ 81 ngày đêm mùa hè đỏ lửa năm 1972. Bằng ngòi bút đậm chất văn miêu tả, không ôm đồm đi vào “bề rộng” của không gian cuộc chiến, mà đi vào chiều sâu của những chi tiết, những nhân vật; lột tả tính chất khốc liệt và bi tráng, tác giả nhập hồn vào từng nhân vật để giúp bạn đọc thấy được tâm trạng giằng xé trong từng cảnh huống: Cả sự dũng cảm và đớn hèn, cái thiện và cái ác,… sự bùng nổ những trạng thái tích cực và tiêu cực… của những con người từng giây, từng phút phải đối mặt với sự hy sinh, chết chóc đến bất cứ lúc nào. Đan cài trong những trang miêu tả cuộc chiến đọc đến gai người là những khoảng bình yên, lãng mạn đầy chất thơ của tình yêu nảy mầm trong lửa đạn, của những sự hào hoa, phóng túng rất đời… Nhóm nhân vật “phía ta” trong tiểu thuyết (chiếm dung lượng nhiều nhất) chỉ là một đơn vị cấp tiểu đội. Tiểu đội ấy như một gia đình nhỏ, với một Tiểu đội trưởng Tạ “chừng ba mươi tuổi, tóc rễ tre, trán vuông cằm vuông, cái chóp mũi hình như cũng vuông nốt, da đen mun, dáng nông dân chắc nịch vùng đồng bãi…”, và các chiến sĩ thì mỗi người một quê, một vẻ: Sen - chiến sĩ lớn tuổi người Sài Gòn, Cường - sinh viên nhạc viện người Hà Nội, Bình vẩu - cựu sinh viên mỹ thuật quê Đông Hà, Hải gù - công nhân điện nước quê Hà Tây, và người trẻ nhất là Tú, một chiến sĩ mới tròn tuổi mười sáu (sau đó, tiểu đội còn được bổ sung một chiến sĩ mới mười lăm tuổi là Tấn). Theo dòng chảy của trận chiến 81 ngày đêm đó, tác giả đã khắc họa rõ nét tâm lý, cảm xúc, tình cảm của từng thành viên trong tiểu đội này như những thước phim quay chậm, có lúc toàn cảnh, có lúc cận cảnh, thậm chí đặc tả, đại đặc tả rõ đến từng chi tiết. Trong cuộc chiến sinh tử ấy, con người đã bộc lộ rõ nhất bản năng. Tất cả tiểu đội này đều ngã xuống (trừ nhân vật Tấn). Mỗi người hy sinh cũng một kiểu. Có sự hy sinh rất đỗi “nhẹ nhàng”, có sự hy sinh mà thi thể còn bao lần bị đạn bom cày đi xới lại, có sự hy sinh lại để “xóa lý lịch có vấn đề” (nhân vật Hải gù), hay có sự hy sinh đã xóa đi lỗi lầm hèn nhát trước đó của chính mình (nhân vật Sen)… Nhân vật chính được khắc họa đầy đủ nhất trong tiểu thuyết là Đặng Huy Cường - một người lính đại diện cho lớp sinh viên “tài hoa ra trận”. Anh là một sinh viên nhạc viện xuất sắc, con trai một cựu chiến binh thời chống thực dân Pháp, có anh trai là liệt sĩ. Đáng lẽ sẽ đương nhiên được đi học nước ngoài, phát triển tài năng âm nhạc, nhưng anh đã tình nguyện “gác bút nghiên” để lên đường chiến đấu. Người lính cựu sinh viên ấy đã có mặt ở Thành cổ Quảng Trị trong suốt gần trọn 81 ngày đêm bi hùng đó. Và, trong sự sống mong manh, cái nét lãng mạn, hào hoa của chàng trai Hà Nội vẫn được bộc lộ, tỏa sáng; tâm hồn âm nhạc vẫn được thăng hoa để anh viết nên bản hòa tấu với những nốt nhạc đầy cảm xúc. Bản giao hưởng ấy rung lên những âm điệu bi tráng của chiến tranh, hòa trộn âm điệu của hòa bình, và cuối cùng, hòa bình vẫn là sự vĩnh cửu, trường tồn dù nó phải đổi bằng máu đỏ… Anh đã hy sinh trong trận đánh ở ngày gần cuối cùng của chiến dịch, máu của anh, của đồng đội anh như Tiểu đội trưởng Tạ, cùng bao chiến sĩ tuổi còn xanh đã hòa vào dòng sông Thạch Hãn ngầu đỏ để góp phần làm nên thắng lợi quyết định trên bàn đàm phán ở Pa-ri, buộc đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai phải chấp nhận ký vào bản Hiệp định hòa bình. Nhà văn Chu Lai cũng không áp đặt theo lối mòn (ta tốt, địch xấu…), mà đã khắc họa cả những nét nhân văn, nhân đạo đằng sau cái hung hãn, tàn bạo của kẻ địch (nhân vật Quang - toán trưởng hắc báo ngụy). Ở đây, nhóm nhân vật “phía bên kia chiến tuyến” được tác giả đầu tư rất công phu, sâu sắc, chiếm một dung lượng vừa đủ để những con người bằng xương bằng thịt và tính cách, diễn tiến tâm lý được lột tả đến tận cùng của bản ngã con người trong cuộc chiến khốc liệt, mà như một lẽ tự nhiên, không gò ép, đã khiến bạn đọc cảm giác thỏa mãn. Khép lại tiểu thuyết là cảnh hai bà mẹ của hai nhân vật chính ở hai chiến tuyến cùng trở lại Thành cổ viếng mộ con, họ tình cờ gặp nhau, cùng thắp nén hương lên hai ngôi mộ, để lại nhiều sự day dứt trong lòng người đọc, nhưng lại sáng lên một niềm tin rằng, xóa bỏ những hận thù, khép lại quá khứ bi thương đã qua để cả dân tộc cùng chung tay xây dựng đất nước hòa bình… Trong cuộc giao lưu chào mừng Ngày sách Việt Nam (21-4) và giới thiệu tiểu thuyết “Mưa đỏ” do Nhà xuất bản Quân đội nhân dân phối hợp với Trường Sĩ quan Chính trị tổ chức mới đây, nhà văn Chu Lai chia sẻ rằng, ông đã từng viết nhiều tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch bản phim truyện về những vùng đất mà ông từng trực tiếp chiến đấu trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, và cả những địa bàn mà ông chỉ qua nghiên cứu tư liệu, tiếp xúc với nhân chứng… Nhưng riêng về Thành cổ Quảng Trị thì ông chưa một lần chạm vào, dù đã nung nấu từ bao năm như một món nợ lớn chưa trả được. Đã bao lần ông cùng vợ ông, nhà văn Vũ Thị Hồng đi về vùng đất ấy, và mỗi lần, trong trái tim người lính chiến từng trải của ông lại rung lên mãnh liệt rằng phải viết về nó, và phải viết một cách sâu sắc, chứ chưa dám nghĩ đến sự “xứng tầm” với những mất mát, hy sinh mà bao đồng đội đã ngã xuống để bảo vệ từng xăng-ti-mét vuông Thành cổ mùa hè đỏ lửa năm 1972 ấy. Lăn lộn trong nhiều tháng trời ở nhiều nhà sáng tác do Trung tâm Hỗ trợ Sáng tác Văn học nghệ thuật - Bộ Văn hóa-Thể thao và Du lịch đầu tư, bao ngày đêm một mình đối mặt với từng con chữ, từng chi tiết, nhân vật, “Mưa đỏ” cũng từng trang từng trang hiện ra. Món nợ của ông cũng như được vơi đi… Và người đầu tiên, độc giả đầu tiên đọc nó, góp ý chỉnh sửa, hoàn thiện nó, không ai khác, chính là người bạn đời yêu quý của ông, nhà văn Vũ Thị Hồng. Bà tâm sự: “Khi đọc lần đầu tiên bản thảo ngổn ngang câu chữ, tôi đã nhiều lần ngấn nước mắt vì xúc động. Có lẽ sự đồng cảm của người từng có những năm tháng cầm súng, từng đối mặt với bao thử thách đã khiến tôi như người trong cuộc để cảm nhận những gì mà người lính trong cuộc chiến bảo vệ Thành cổ đã trải qua…”. Khi được hỏi, nhân vật nào, chi tiết nào mà bà tâm đắc nhất trong tiểu thuyết, nhà văn Vũ Thị Hồng chia sẻ rằng, rất nhiều, khó có thể kể hết, nhưng bà cứ day dứt mãi về những nhân vật nữ trong đó. Đặc biệt là nhân vật bà mẹ của Cường. Rồi nhân vật khác tên Hồng, một nữ cán bộ xã đội xinh đẹp, dũng cảm. Những đoạn văn mô tả chị chèo đò chở bộ đội qua sông, lộ bắp chân trần trắng nhễ nhại, hay chi tiết chị gặp Cường, nhân vật chính và đem lòng yêu anh… là những đoạn văn, chi tiết mà bà ám ảnh mãi… Nhân đây, xin được dẫn lời nhà lý luận phê bình văn học Nguyễn Thanh Tú khi nói về cảm nhận ban đầu đọc “Mưa đỏ”: “Chu Lai trong “Mưa đỏ” đã đẩy ngòi bút lách sâu, nhập thân vào nhân vật, gọi ra ở nhân vật những trăn trở, dằn vặt rất con người không chỉ ở phía ta mà cả ở phía địch. Để cho bạn đọc thấy, thì ra đã là người Việt ai cũng đều máu đỏ chung dòng giống. Câu chữ khép lại còn ý nghĩa thì mở ra: Hãy cùng yêu thương nhau, cùng yêu hòa bình, cùng nhau gắn nối và gắn kết để dân tộc mãi trường tồn, đất nước ngày càng giàu mạnh…”. Sự thành công của việc tái dựng lại bức tranh bi tráng về cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị mùa hè năm 1972 còn chờ sự cảm nhận của bạn đọc và nhận xét của giới nghiên cứu, phê bình văn học. Nhưng qua tiểu thuyết mới của Chu Lai, có thể khẳng định, sức sống mãnh liệt và sức hấp dẫn vẫn còn vẹn nguyên, đủ để lay động trái tim người đọc của đề tài lớn: Lực lượng vũ trang và chiến tranh cách mạng, mà có lúc nhiều người bi quan cho rằng dường như đang bị nhạt phai… NGUYỄN HOÀNG SÁU *** Hà Nội. Xanh. Một màu xanh yên ả nhưng trống trải trong những ngày hòa bình đầu tiên. ★ Hà Nội đã chớm bước vào hè, trời nín gió nhưng phố phường lại bồi hồi dịu mát như có ngọn gió hanh hao mơ hồ nào thổi dọc theo những hàng cây, mái ngói vào tận mỗi khoảnh sân, góc nhà khiến cho niềm vui bảng lảng, ngây ngất trong ánh mắt người cứ rờ rỡ nhen lên, vỡ ra, lan tỏa, lẫn cả lắng chìm, hụt hẫng. Dẫu biết rằng cái gì phải đến sẽ đến nhưng khi nó đến sao lòng dạ lại cứ thấy bất chợt ngổn ngang, xốn xang, ngỡ ngàng dường như không phải, không có thật, dường như đang mơ thế này! Phải chăng chưa có thời khắc linh diệu nào của dân tộc, của một vùng đất lại xen lẫn nhiều tâm trạng trái chiều nhau đến thế? Bởi có những người cha, người chồng, người con, từ trong rừng xanh đã xiêu vẹo trở về, nhưng cũng còn biết bao người cha, người chồng, người con cho đến giờ phút này vẫn chưa thấy hình bóng và có thể sẽ không bao giờ thấy hình bóng ở nơi đâu. Nụ cười xen nước mắt, nỗi đau trộn niềm vui, cái sống cái chết, cái thăng hoa điều mất mát cùng lúc òa ập, len lỏi, giằng xé, quẫy đạp trong đáy sâu lòng dạ những con người vừa kiệt sức vặn mình trong chiến cuộc, trong đợi chờ. Hà Nội hân hoan như sống lại, trẻ lại nhưng Hà Nội cũng lặng thầm xao xác. Mặt Hồ Gươm sáng nay xanh hơn nhưng cũng dường như man mác buồn hơn. ★ Giữa cái đan xen, ngào trộn ấy, vẫn có một nơi mà ở đó con người đang tìm về cõi tĩnh để được nghe, được thả hồn, được giãi bày, được lắng kết, được vơi nhẹ phần nào cái tâm trạng không mấy nhẹ nhàng của mình trong một không gian kiến trúc thâm nghiêm, cổ kính có từ đầu thế kỷ 20 do người Pháp để lại. Không gian Nhà hát Lớn. Trong ánh sáng mờ ảo thấp thoáng chút cô tịch thần thánh, một bản giao hưởng hợp xướng sâu thẳm đang vang lên vỗ ào ạt vào khắp bốn bức tường mang màu hồng nhạt. Bản nhạc như một âm hưởng thao thiết chạy suốt chiều dài cuộc chiến, làm thức dậy trong lòng người những cảm xúc bồi hồi khác lạ. Cả khán phòng im phắc với những đôi mắt nhìn lên đắm chìm như thấm từng nốt nhạc. Đó là những giai điệu về chiến tranh, về khát vọng yên hàn, về sự mất mát và lòng kiêu hãnh, về tình yêu và chia ly, về cái lãng mạn và điều trần trụi, về cái nhất thời và cái vĩnh cửu của cuộc đời... về tất cả. Nét nhạc bùng lên lúc cuồn cuộn lúc sâu lắng, lúc trải ra lúc nén lại, khi vỡ nổ khi trở trăn, chân thật, gợi mở, mãnh liệt đến khốn cùng, khi lại như tiếng gọi thì thầm đưa con người trở về với những khoảng tối của rừng, khiến cho không ít người đã không kìm được những giọt nước mắt cứ chực trào ra nơi bờ mi. Trong đó, ở hàng ghế giữa, nhòa chìm trong bóng tối huyền ảo là khuôn mặt thanh thoát, phúc hậu của một người đàn bà ngoài năm mươi tuổi. Bà không khóc nhưng đôi mắt mù mịt, trống rỗng của bà đang nhìn lên kia còn đau hơn là khóc. Cô gái mặc áo bà ba, quấn khăn rằn khá xinh đẹp, một vẻ đẹp mộc mạc mặn mòi đặc trưng cho nét đẹp nắng gió của con gái miền Trung ngồi bên cạnh thỉnh thoảng lại đưa tay sang nắm lấy tay bà, siết nhẹ. Bà để yên, khẽ mỉm cười, một cái cười trống trải, vô hồn, héo hắt... Trên kia, dưới ngón tay của những nhạc công tài hoa và của vị nhạc trưởng đứng tuổi, gầy gò, nét nhạc từ từ rơi vào khoảng lặng rồi bất thần vươn tới cao trào như một tiếng kêu kiêu hãnh và bi thiết của định mệnh. Bản nhạc dừng lại kết thúc chương Một trong tiếng Saxophone trầm khàn, ánh ỏi ngân lên lần cuối. Cả nhà hát lắng đi giây lát trước khi bật vang lên những tràng vỗ tay không ngớt, kéo dài. Để chuyển tiếp sang chương kế tiếp, từ trong cánh gà, một người đàn ông tóc bạc bước ra, giọng ông trầm ấm nhưng không giấu được chút nghẹn ngào cố nén phát ra từ lồng ngực: - Thưa tất cả các quý vị và các bạn! Bản giao hưởng hợp xướng mà các quý vị được nghe phần một vừa rồi là tác phẩm đầu tay nhưng cũng là tác phẩm cuối cùng của một nhạc sĩ tài hoa. Bởi vì trước, trong và sau bản nhạc này, anh đã chiến đấu và ngã xuống như một người lính dũng cảm trên chiến trường Thành cổ Quảng Trị năm 1972. Bản nhạc này anh viết tặng mẹ và lúc này đây, người mẹ ấy đang ở đâu, làm gì, rất tiếc là chúng tôi chưa bắt liên lạc được. Bàn tay cô gái lại nắm chặt lấy tay người đàn bà. Toàn thân bà rung lên nhưng khuôn mặt lại cúi xuống như để che đi, giấu đi sự hiện diện của mình. Bản nhạc lại tiếp tục, trầm hùng, bi tráng, da diết hơn với những giai điệu dồn dập, xoáy buốt, nóng rẫy như có lửa cháy phần phật bên trong. Đôi mắt người đàn bà nhìn lên, mở to, mở to nữa rồi từ trong đôi mắt ấy, như có một tiếng nổ khủng khiếp xé toạc không gian. Sân khấu biến mất, dàn nhạc biến mất, cả khán phòng cũng biến mất. Trước mắt bà chỉ còn là bom đạn mù mịt, lửa khói cuộn sôi, gạch đá và cả những thân xác cũng văng lên, hạ xuống... Rồi một bức tường thành hiện ra lở loét, trắng xác, nát vụn như một bộ xương hóa thạch méo xếch và từ trên cao, bầu trời bỗng nổi cơn sấm chớp thịnh nộ, soi nhấp nhóa xuống dòng sông chạy cạnh khu thành đang dâng nước réo gào như có trận đại hồng thủy kinh hoàng từ thế giới hồng hoang ngàn xưa tràn về. Nước dâng ngang trời, nước ngập kín đất, nước đỏ bầm màu máu. Mưa xối xả, những giọt mưa cũng mang màu máu... Đôi vai mảnh của người đàn bà co rút lại, mắt nhắm chặt, hai tay ôm cứng lấy đầu, toàn thân rung lên như đang vào cơn sốt rét ác tính. “Má ơi!”... Cô gái khẽ kêu lên một tiếng rứt ruột rồi ôm chặt lấy bà, ép sát tấm thân bà vào ngực mình như chở che, như an ủi. Người đàn bà dần hồi tỉnh, mồ hôi vã ra, khẽ nở một nụ cười mộng mị, lúc ấy mới để mặc cho những giọt nước mắt khe khẽ chảy ra...   Mời các bạn đón đọc Mưa Đỏ của tác giả Chu Lai.
Oskeola Thủ Lĩnh Da Đỏ
TIỂU THUYẾT Số trang: 385 Khổ sách: 13x19cm NGUYỄN ĐỨC QUYẾT dịch NHÀ XUẤT BẢN TỔNG HỢP KIÊN GIANG - 1989 NGUYÊN BẢN Tiếng Anh Thomas Mine Reid “Oskeola, the Leader of Seminols” LỜI GIỚI THIỆU Tiểu thuyết Oskeola đến tay các bạn khi nó vừa tròn 130 tuổi. Hơn một thế kỷ đã trôi qua, nhưng dư âm cuộc chiến hào hùng và bi thiết của một dân tộc thượng võ, yêu tự do chống tại xâm lăng da trắng bạo tàn và xảo quyệt vẫn dội lên trong trang sách của Thomas Reid. Thomas Mine Reid sinh năm 1818 tại Irland xác xơ, nghẽo đói. Là một người rất giàu nhân ái, Reidcăm thù tận xương tủy bạo lựcvà độc tài trên đất nưóc mình, từ bỏ sắc áo thầy tu tin lành mà cha ông đã định trước. Hai mươi hai tuổi. Reid vượt biển sang Mỹ Châu, bắt đầu cuộc sống mới đầy phiêu lưu sóng gió. Trước khi trở thành cây bút bênh vực các cựu chủ nhân bất hạnh trên Tân lục địa, tác giả của những “Kỵ sĩ không đầu'’. “Thiếu nữ Cvarteron “Thủ lĩnh trắng”. “Chiếc vòng vàng”. “Trườn trên vách đá... lừng danh thế giới. Reid đã trải khá nhiều nghề.. Dạy học, buôn bán, làm nhà báo, diễn viên... Đặc biệt, chính Reid một thời cũng đã từng là lính, trong một trận đánh ngập máu với người da đỏ ông bị trọng thương, vùi giữa đống xác người và đã bị báo tử trên báo chí. May thay. “Con người một đời hai lần chết” (theo cách gọi của chính Reid.) ấy đã không sớm giã biệt,cuộc đời, nếu không hậu thế hẳn đã phải chịu thiệt thòi - thiếu những tác phẩm đầy hào khí da đỏ của ông. Trước Reid đã không ít người viết về chiến tranh da đỏ. Nhưng những cuốn sách sặc mùi thực dân của họ. Thôngqua các captivity (tù binh của người da đỏ) và Indian hater (kẻ thù địch, bài xích người da đỏ)đã bóp méo lịch sử, trơ tráo bôi đen danh dự, đạo lý, phẩm cách của các dân tộc da đỏ. Thomas Reid đã không làm như vậy. Tác phẩm của ông thấm đượm thiên cảm nồng nhiệt và kính phục chân thành đối với một dân tộc cao thượng, quả cảm, khẳng khái, giàu tình yêu, nhưng lịch sửbất công đã đang tâm áp đặt số phận hẩm hiu. “Oskeola” là một tiểu thuyết sử thi, với thủ lĩnh huyền thoại mà lịch sử và nghệ thuật đã và còn truyền tụng. Trong cuộc đấu tranh bền bỉ, không cân sức của các dân tộc da đỏ chống lại người Mỹ da trắng tàn bạo, Oskeola nổi lên như một thủ lĩnh kiệtxuất. Là một người yêu nước nhiệt thành, một nhàquân sự tài ba, một nhà ngoại giao xuất sắc, một chiến binh quả cảm, một tâm hồn cao thượng, thủy chung... Oskeola đã trở thành linh hồn cho cuộc kháng chiến, là niềm tin yêu, kính trọng của cả cộng đồng, là mối khiếp sợvà nể phục đối với kẻ thù xâm lược cùng lũ tay sai phản bội đồng bào và là mối cảm hoài đầy thi hứng cho các thế hệ sau. Trong cuốn tiểu thuyết không phải tất cả mọi chi tiết đều trung thành với sự thật lịch sử. Song điều có thật ấy là kẻ thù đã phải nhỏ lệ khi vĩnh biệt người con lỗi lạc của núi rừng da đỏ. Trước ngày Oskeola qua đời, lòng kính trọng sâu sắc đối với anh đã thôi thúc họa sĩ Jorge Ketlin hoàn tất chân dung chàng thủ lĩnh kiêu hùng lưulại cho hậu thế. Cuốn tiểu thuyết có một sức lôi cuốn kỳ lạ. Bạn đọc không những chỉ quan tâm đến kết cục cuộc chiến vô cùng gian khổ và kiêu dũng của người da đỏ xeminol, mà còn nóng lòng muốn biết số phận trung úy Jorge Rendolf cùng mối tình đầu đằm nàn, nồng thắm của chàng đối với nàng tiên da đỏ mà nữ thần ái tình Aphrodite phải ngậm ngùi nhường nhan sắc - Maiuymi, em gái Oskeola; số phận của Virginia, tiểu thư da trắng “trái tính trái nết”, em gái Jorge Rendolf và là người để Oskeola chôn chặt một khối tình vô vọng: số phận đại úy Gallaher yêu đời, chân thành và máu mê đấu súng: số phận Jec Đen trung thành, can đảm cùng nàng Viola xinh đẹp ; số phận ông lão săn cá sấu Hicmen... Và dĩ nhiên, độc giả rất muốn biết và nóng lòng chờđợi giờphút trừng phạt tên Jec Vàng phản phúc, lòng lang dạ thú mà cá sấu đớp không chết, cũng nhưgãArens Ringgold đểu cáng, thâm hiểm... Sau “Oskeola” đã có không biết bao nhiêu tiểu thuyết về người da đỏ bằng đủ các thứ tiếng khác nhau. Nhiều cuốn trong số đó đã từng vang bóng một thời, nhưng theo thời gian đã lùi dần vào quên lãng và an phận trong thư tịch, Riêng “Oskeola” cùng những tác phẩm tuyệt vời khác của Thomas Reid - những bài ca bất tuyệt về ý chí tự do, lòng nhân ái, và phẩm cách cao quí của con người - vẫn tràn đầy sinh lực, khỏe khoắn vượt qua bụi bặm của thời gian, đến với độc giả để chắc chắn chiếm lĩnh một góc tâm tư trân trọng và mến mộ. 1-1989 NHÀ XUẤT BẢN TỔNG HỢP KIÊN GIANG *** Thomas Mayne Reid là một tiểu thuyết gia người Mỹ gốc Scotland. Thomas Mayne Reid đã chiến đấu trong Chiến tranh Mỹ-Mexico. Nhiều tác phẩm của ông là về cuộc sống của người Mỹ. Trong các tác phẩm này, tác giả đã mô tả chính sách thuộc địa ở Hoa Kỳ, nỗi kinh hoàng của lao động nô lệ và cuộc sống của người da đỏ Mỹ. *** Bố tôi là chủ một đồn điền indigo - trồng chàm. Ông tên là Rendolf, và tôi cũng tên như vậy: Jorge Rendolf. Tôi mang trong mình dòng máu pha trộn với người da đỏ, bố tôi nguyên thuộc về dòng họ Rendolf vùng sông Roanoc, dòng dõi của công chúa Pocakhontas*. Ông rất tự hào về gốc gác da đỏ của mình, gần như kiêu hãnh nữa là khác. Có lẽ một người châu Âu bình thường sẽ cảm thấy điều đó có vẻ kỳ quặc, nhưng rõ ràng ở châu Mỹ những người da trắng, có tổ tiên da đỏ lại rất tự hào. Là một người metis* không phải là điều sỉ nhục, nhất là nếu anh ta có tài sản kha khá. Hàng trăm cuốn sách ca ngợi lòng cao thượng của người da đỏ cũng không thuyết phục bằng một sự thực giản dị là tất cả chúng tôi không một ai cảm thấy ngượng ngùng khi nhận mình là con cháu họ. Hàng trăm gia đình da trắng hiện giờ vẫn khẳng định họ là dòng dõi của công chúa miền Virginia ngày xưa. Nếu như những tự hào, gắn bó với họ là xác đáng thì công chúa Pocakhontas xinh đẹp thuở ấy hẳn phải là một kho báu vô giá đối với ông chồng. Tôi nghĩ rằng bố tôi đích thực là con cháu của công chúa. Chí ít thì ông cũng xuất thân từ một gia đình thuộc địa danh giá cũ. Hồi trai trẻ ông đã có hàng trăm nô lệ da đen, nhưng lòng hiếu khách và tính hoang tàng đã làm ông tán gia bại sản. Không chịu được tình cảnh sa sút khốn khổ, ông nhặt nhạnh mớ tài sản còn sót lại rồi đi xuống phía nam, làm lại cuộc đời. Tôi ra đời trước khi xảy ra biến cố đó, và quê hương tôi vẫn là Virginia, nhưng khi tôi bắt đầu nhận thức được thì gia đình tôi đã ở bên bờ sông Xuoni xinh đẹp, miền đất Florida*. Tuổi ấu thơ của tôi đã êm đềm trôi qua tại đây, cũng tại đây tôi đã đón nhận những niềm vui sướng đầu tiên của tuổi trẻ, đã ngất ngây, rạo rực với mối tình đầu. Giờ đây tôi vẫn nhớ như in ngôi nhà gỗ sồi xinh xắn sơn màu trắng, vẫn thấy rõ những tấm rèm xanh bên khung cửa sổ. Quanh nhà có gác hiên với những cột gỗ khắc chạm công phu đỡ mái. Bên phải khu nhà là rừng cam, bên trái là cả một khu vườn mênh mông. Xa xa, phía ngoài bãi cỏ là khu rừng thưa xanh rì chạy thoai thoải tới tận bờ sông. Dòng sông tới đúng chỗ này thì gấp khúc, trông giống như một mặt hồ khá rộng với những cù lao nho nhỏ, hai bên bờ thấp thoáng rừng cây. Quanh hồ vô số chim chóc bay lượn rợp trời, từng bầy thiên nga nô giỡn ào ào trên mặt nước. Dải rừng thưa cạnh nhà mọc đủ thứ cây - những cây cọ với những tàu lá dài nhọn hoắt, những cây dải quạt lá xòe rộng bản, những bụi mộc liên, bụi hồi trổ bông thơm ngát, những khóm dây cầu vồng sặc sỡ. Trong rừng còn có một cây sồi khổng lồ, cành cây mọc ngang thân với tán lá dầy xanh tốt quanh năm, che mát cả một khoảng rộng dưới bãi cỏ. Tôi nhìn thấy dưới bóng sồi một cô bé xinh đẹp bận váy mỏng mùa hè. Chiếc khăn trắng trùm đầu không che kín những lọn tóc xoăn dài vàng óng. Đó là Virginia, em út và em gái duy nhất của tôi. Mớ tóc vàng óng ấy Virginia thừa hưởng của mẹ, nhìn mái tóc không ai có thể nghĩ rằng cô có gốc gác da đỏ. Cô đang giỡn với hai con thú yêu quí của mình - con hươu dama và chú hươu con bé xíu có bộ lông sặc sỡ. Virginia bóc cam cho hai mẹ con hươu ăn, chúng rất thích cam. Cạnh đó còn một con vật nữa mà Virginia cũng rất yêu - chú sóc đen lông mượt láng với cái đuôi luôn ngúc ngoắc. Chú sóc hiếu động nhảy thoăn thoắt, mỗi lần nhảy là mỗi lần làm hươu con hoảng sợ, nép sát vào hươu mẹ hay chay lại nhờ em gái tôi che chở. Quanh nhà rộn tiếng chim lanh lảnh. Rồi tiếng chó sủa, tiếng mèo kêu, ngựa hí. Phía sau nhà là một cảnh tượng hoàn toàn khác, có thể không hấp dẫn bằng nhưng không kém phần sôi động. Mọi người đang làm việc. Sát nhà là một khoảng rộng, rào kín bằng cọc sắt. Chính giữa là một mái che khổng lồ tựa trên những dãy cột gỗ to và khỏe. Dưới mái che thấy rõ hàng dãy máng ngâm bằng gỗ trắc bá. Các máng ngâm xếp thành ba tầng, nối với nhau qua hệ thống vòi mở. Đó là nơi người ta ngâm chàm để chế phẩm nhuộm màu xanh. Phía xa là những nếp nhà nhỏ xíu xếp thành dãy của người da đen. Những ngôi nhà bé nhỏ ấy dường như cố co lại, giấu mình trong khu rừng cam. Không khí thơm ngát mùi hoa rộ vàng, rồi mùa trái chín. Phía trên những mái nhà cũng lại những thân cọ đường bệ vươn cao hay ngả mình xòe lá giống hệt như ở bãi cỏ trước nhà. Bên trong bức tường vây có mấy dãy nhà nữa, trông thô kệch, tường ghép gỗ súc sù sì, mái ván. Đó là khu chuồng ngựa, kho ngũ cốc và nhà bếp. Từ nhà bếp có một hành lang ngỏ ăn thông lên tòa nhà chính, mái hành lang lợp ván, cột đỡ dựng bằng gỗ bá hương. Ra sau tường vây tới cánh đồng bát ngát, chạy tít tắp tới những viền rừng trắc bá che khuất chân trời. Đây chính là khu vực trồng chàm. Tuy vậy ở đây cũng có ngô, lúa, khoai tây, mía. Các loại lương thực đó chỉ đủ đáp ứng nhu cầu tại chỗ chứ không bán. Indigo trồng thành hàng lối thẳng tắp. Rừng chàm mọc không đồng bộ: chỗ thì vừa mới trồng, lá nhỏ xíu giống như cỏ chĩa ba, chỗ đã trưởng thành, cao đến hơn hai foot*, hoa nở rộ. Đôi khi hoa chàm nở giống hệt như những con bướm nhỏ, nhưng người ta không để cho chúng nở hết độ. Chúng phải chịu một số phận khắt khe: người ta sẽ cắt nghiền những cánh hoa màu huyết dụ không thương tiếc. Bên trong bức tường vây và ngoài ruộng chàm hàng trăm người tất bật với công việc. Ngoại trừ một, hai người trong số họ, số còn lại đều là nô lệ người Phi. Đông nhất là dân đa đen, trong đó kể chung cả dân mulat, xambo, tertxeron, cvarteron*. Tuy nhiên, ngay những người thuần túy gốc Phi cũng không phải ai cũng đen cả, nhiều người da màu đồng. Một số trông khá dị hình - môi dày, trán thấp, mũi tẹt và dĩ nhiên không thể có vóc dáng cân đối. Nhưng số khác thân hình, khá đẹp, thậm chí có nhiều người trông rất hấp dẫn. Nhiều cô gái cvarteron trong số họ trông gần như da trắng. Tất cả mặc quần áo lao động. Đàn ông mặc quần vải gai mỏng, sơ mi màu rực rỡ, đội mũ đan bằng lá cọ. Dăm ba người ăn bận khá bảnh, một số lại cởi trần trùng trục, nước da đen bóng láng dưới nắng trưa trông như phiến gỗ lim. Phụ nữ ăn mặc sặc sỡ hơn, họ mặc váy sọc hoa và quấn khăn vải kẻ ca rô. Nhiều người mặc váy thêu rất đẹp. Mái tóc quấn như khăn xếp càng làm cho họ có một vẻ đẹp đặc biệt. Cả đàn ông và đàn bà đều làm việc ở đồn điền indigo. Họ cắt chàm và bó thành bó, tốp thợ khác kéo chàm về dưới mái che, quăng lên máng ngâm trên cùng. Rồi lại một tốp thợ nữa tiếp tục công việc - dẫn nước vào và “ép” chàm. Số thợ còn lại dùng xẻng gạt chất bột lắng vào cửa kênh tháo, chuyển xuống khâu cuối cùng là sấy khô và đổ khuôn. Mỗi người làm một việc nhất định, và phải nói là họ làm khá vui vẻ. Họ cười nói, đùa giỡn, hát hò suốt buổi. Tuy nhiên, tất cả bọn họ đều là nô lệ của bố tôi. Bố tôi đối xử với họ rất tốt, rất hiếm khi ông dùng đến roi vọt, có lẽ vì thế mà đám thợ luôn vui vẻ và thoải mái. Những hình ảnh dễ chịu ấy đã in sâu vào trí nhớ tôi. Chính nơi ấy tôi đã đi qua những tháng năm thơ bé, chính nơi ấy tôi đã khởi đầu cuộc sống có ý thức của mình.   Mời các bạn đón đọc Oskeola Thủ Lĩnh Da Đỏ của tác giảe Thomas Mayne Reid.