Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Phương Pháp Giáo Dục Waldorf Steiner (Rudolf Steiner)

Việc học ở đây sử dụng nhiều phương pháp suy nghĩ, hay ít nhất nó là phương thức của những môn học khác nhau kết hợp với thực hành, nghệ thuật hay những yếu tố thuộc về nhận thức. Giáo dục Waldorf đặc biệt nhấn mạnh vai trò của trí tưởng tượng, phát triển suy nghĩ bao gồm những yếu tố sáng tạo cũng như phân tích. Mục đích của phương thức giáo dục này là cung cấp cho trẻ một nền tảng cơ bản cho sự phát triển đạo đức, thành một cá thể toàn vẹn và góp phần hoàn thiện số phận của nó. Nhà trường cũng như giáo viên có tự do nhất định trong việc đưa ra chương trình dạy học. Trường học Waldorf đầu tiên được thành lập vào năm 1919 cho con em những người công nhân làm việc trong nhà máy thuốc lá Waldorf-Astoria ở Stuttgart (Đức). Đến năm 2009 đã có khoảng 994 trường học Waldorf ở 60 quốc gia khác nhau trên thế giới và đến năm 2001 có khoảng 1400 nhà trẻ cũng như 120 viện nghiên cứu phương thức giáo dục đặc biệt này. Ngoài ra cũng có rất nhiều trường công và trường tư thục dựa trên mô hình trường Waldorf, những ý tưởng của Waldorf cũng được áp dụng ít hay nhiều trong việc mở rộng các mô hình trường học tại Mỹ ngày nay.

1. Giáo dục học và lý thuyết về sự phát triển của trẻ em

Cấu trúc của phương thức giáo dục Waldorf dựa trên lý thuyết dạy học của Steiner về sự phát triển của trẻ em. Lý thuyết này miêu tả 3 quá trình phát triển chính của trẻ, mà mỗi quá trình đòi hỏi những phương pháp giáo dục riêng:

Việc học từ thời thơ ấu chủ yếu dựa trên những điều trải qua, việc bắt chước và cảm giác. Việc giáo dục thời kỳ này đặc biệt nhấn mạnh việc học thông những hoạt động thức tế của trẻ.

Việc học (giai đoạn trẻ từ 7-14 tuổi) được so sánh giống như một thứ nghệ thuật và sáng tạo. Trong những năm này việc giáo dục nhấn mạnh việc phát triển cuộc sống tình cảm, cảm xúc nghệ thuật của đứa trẻ thông qua những cách biểu hiện và thị giác khác nhau đối với nghệ thuật. Tìm mua: Phương Pháp Giáo Dục Waldorf Steiner TiKi Lazada Shopee

-Trong quá trình trưởng thành, tầm quan trọng trong sự phát triển hiểu biết trí óc và lý tưởng đạo đức (ví dụ như trách nhiệm xã hội) có vai trò đặc biệt đối với sự phát triển khả năng suy nghĩ trừ tượng, ý kiến, và các khái niệm Trường học Waldorf cũng có những nguyên tác giống như nhiều trường học khác nhưng bên cạnh đó nó cũng có những phương pháp riêng trong việc giảng dạy của mình. Đặc biệt những trường học dạy theo phương pháp Waldorf được tài trợ bởi chính phủ có thể bị đòi hỏi tuân theo một chương trình hợp nhất trong giảng dạy

1.1 Giai đoan từ lúc sinh ra đến lúc đi nhà trẻ (6-7) tuổi.

Trường học Waldorf đặt vấn đề học từ giai đoạn thời thơ ấu thông qua sự bắt chước và ví dụ. Trẻ được học trong một môi trường lớp học giống như ở nhà, mà ở đó các cả thiết bị được làm từ tự nhiên. Một môi trường như thế theo lý thuyết giáo dục của Waldorf là tốt cho sự phát triển về thể chất, cảm xúc, cũng như trí óc của đứa trẻ. Những trò chơi ngoài trời cũng được áp dụng một cách rộng rãi trong trường học với mục đích là để cung cấp cho đứa trẻ những sự trải nghiệm của tự nhiên, thời tiết và mùa trong năm. Trong những ngôi trường Waldorf thì việc phát triển khả năng ngôn ngữ của trẻ là thông qua những bài hát, bài thơ hay trò chơi vận động. Những điều này bao gồm cả thời gian kể chuyện hàng ngày của giáo viên. Dụng cụ đồ chơi được làm từ những nguồn tụ nhiên có thể biến đổi cho những mục đích khác nhau. Những con búp bê của trường Waldorf thường được làm một cách đơn giản để trẻ có thể sử dụng và củng cố khả năng sáng tạo cũng như trí tưởng tượng của nó. Trường học Waldorf không khuyến khích nhà trẻ và học sinh các lớp tiểu học sử dụng những thiết bị điện tử như là tivi, máy tính hay băng đĩa nhạc vì họ tin rằng những điều này là không có lợi cho sự phát triển của đứa trẻ trong những năm đầu này. Sự giáo dục cũng nhấn mạnh những trải nghiệm sớm cho trẻ thông qua những hoạt động hàng ngày trong cuộc sống bao gồm lễ hội..

1.2. Giáo dục phổ thông từ 6/7- 14 tuổi.

Trong những ngôi trường Waldorf thì trẻ bắt đầu học tiểu học khi gần 7 tuổi hoặc được 7 tuổi. Trường tiểu học tập trung vào một chương trình giảng dạy dựa vào nghệ thuật để phát triển trí óc, nó bao gồm những môn nghệ thuật thuộc về thị giác, kịch, các môn di chuyển nghệ thuật, âm nhạc với các dụng cụ hoặc là giọng hát [13]. Trong những năm tiểu học trẻ thường được học 2 ngoại ngữ. Xuyên suốt những năm tiểu học, những khái niệm đầu tiên được giới thiệu thông qua những câu chuyện hay hình ảnh, những giới thiệu về giáo dục được kết hợp cùng với những tác phẩm nghệ thuật hay âm nhạc. Ở đây có sự phụ thuộc rất nhỏ vào các quyển sách chuẩn, thay vào đó mỗi đứa trẻ có điều kiện để phát huy tính tự sáng tạo Một ngày học thường được bắt đầu bằng một tiếng rưỡi tới 2 tiếng học lý thuyết về một đề tài, mà đề tài này thường được kéo dài trong một khoảng thời gian (1 tháng rưỡi đến 2 tháng. Một điều đặc biệt của trường Waldorf là mỗi giáo viên sẽ theo một lớp trong suốt những năm tiểu học để dạy những kiến thức cơ bản nhất [14]. Giáo viên của trường Waldorf sử dụng khái niệm của 4 tính khí để giúp cho việc phân tích, hiểu, liên kết với cách cư xử cũng như tính cách của đứa trẻ dưới sự dạy dỗ của họ. Bốn tính cách: nóng giận, phớt lờ (lạnh lùng), sầu muộn và lạc quan được coi như đặc trưng cho bốn tính cách của con người và mỗi bản tính có phương thức riêng để trao đổi và liên lạc với thế giới bên ngoài. Việc giáo dục của Waldorf cho phép sự khác nhau dựa trên mỗi cá nhân trong việc học, với sự mong đợi rằng một đứa trẻ sẽ nắm chặt được một khái niệm hay đạt được một kỹ năng khi mà nó đã sẵn sàng. Ở đây yếu tố hợp tác là được đề cao hơn yếu tố cạnh tranh. Phương pháp giáo dục này cũng đề cao việc mở rộng giáo dục thể chất, thể thao đồng đội hay cạnh tranh ở những lớp cao hơn.

1.3. Giáo dục trung học

Hầu hết các trường Waldorf, học sinh học trung học khi bước sang tuổi 14. Ở đây mỗi môn học sẽ có một giáo viên chuyên ngành về môn đó giảng dạy. Việc giáo dục bây giờ tập trung hơn vào các môn khoa học, nhưng học sinh vẫn có thơi gian để tham gia vào các hoạt động văn hoá, nghệ thuật, âm nhạc và học nghề. Học sinh được khuyến khích phát triển lối suy nghĩ riêng và sáng tạo của riêng mình. Chương trình giảng dạy được tổ chức để giúp sinh viên phát triển một giác quan về năng lực, trách nhiệm và mục đích, để nâng cao một sự hiểu biết về nguyên tắc đạo đức, và để xây dựng tính cách có trách nhiệm xã hội.

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Phương Pháp Giáo Dục Waldorf Steiner PDF của tác giả Rudolf Steiner nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

100 Nhu Cầu Tâm Lý Con Người (Tề Đằng Dũng)
100 NHU CẦU TÂM LÝ CON NGƯỜI 1. PHÂN LOẠI TẦNG NHU CẦU Cổ xưa có câu “ăn mặc đủ mà biết lễ tiết”. Dù là ai nếu đói bụng thì nhu cầu đầu tiên là ăn uống. Sau khi người ta được giải thoát khỏi đói khát mới nghĩ đến đáp ứng yêu cầu xã hội như danh dự, địa vị, … Đem liên hệ nhu cầu giống nhau của mỗi cá nhân thì sẽ hình thành tầng nhu cầu. Trong cuộc sống người ta ở trong những tầng nhu cầu khác nhau. Mỗi cá nhân trong hiện thực đều đáp ứng mỗi loại nhu cầu để sống. Sau khi nhu cầu phấn đấu của con người được đáp ứng thì nó sẽ tự nhiên mất đi, đồng thời con người sẽ đề ra tầng nhu cầu cao hơn mà phấn đấu. Con người ta không ngừng theo đuổi nhu cầu và mục tiêu mới. Tìm mua: 100 Nhu Cầu Tâm Lý Con Người TiKi Lazada Shopee Dựa theo quan điểm tầng nhu cầu của các nhà tâm lý, đại khái chúng ta có thể phân làm 5 tầng nhu cầu sau đây: 1. Nhu cầu tâm lý 2. Nhu cầu an toàn 3. Nhu cầu yêu và nhu cầu sở thuộc 4. Nhu cầu được thừa nhận và tôn kính 5. Nhu cầu tự mình thực hiện. Cuộc đời cũng giống như bước lên một thềm, từ dưới lên trên từng bậc một cũng là từng bước đáp ứng một số nhu cầu đó. Nhưng trong cuộc sống có lúc khó tránh khỏi tụt bậc, cũng là nhu cầu con người từ tầng cao hạ xuống bậc thấp. Dưới đây chúng ta sẽ phân tích cụ thể xem trong tình hình nào côn người sẽ nảy sinh nhu cầu tương ứng nào? Để duy trì cuộc sống trước hết con người phải đáp ứng nhu cầu sinh lý. Nhu cầu sinh lý bao gồm ăn, ngủ, thở, nếu như trong thời gian dài mà một trong số nhu cầu đó không được đáp ứng thì con người không có cách nào duy trì cuộc sống bình thường. Thí dụ, người tuyệt thực có thể không ăn uống gì trong hai, ba ngày nhưng nếu một tuần không ăn gì thì e rằng sẽ chết đói. Nhưng nếu con người ta sống trong trạng thái nửa no nửa đói thì sẽ kéo dài sự sống tương đối lâu. Thực tế trên thế giới như ở châu á, châu Phi còn 1/3 số người chưa hoàn toàn giải quyết được vấn đề ăn mặc cho nên các cấp lãnh đạo vẫn không ngừng phấn đấu vì cuộc sống của công dân nước mình. Từ đó có thể thấy nhu cầu sinh lý là không những là nhu cầu cơ bản nhất mà còn là nhu cầu quan trọng nhất. 2. CẢM GIÁC AN TOÀN VÀ CẢM GIÁC QUY THUỘC Gần đây người Nhật Bản đi du lịch ngày càng nhiều, hy vọng có thể tìm được cảm giác mới lạ trong những đêm sinh hoạt hương đồng gió nội. Nhưng những cuộc vui đó thường bị ngắt quãng bởi tiếng còi cảnh sát, thậm chí có cả những tiếng súng nổ. chính điều đó đã khiến cho những kẻ hiếu kỳ hưởng lạc cuộc sống trong khoảnh khắc mang nặng tâm lý sợ hãi, có người phải thu dọn hành lý về nước ngay. Điều đó thể hiện nhu cầu an toàn của con người. Năm 1986, sau sự kiện Liên Xô thử vũ khí hạt nhân, chất phóng xạ bay đến các nước Bắc Âu. Khi người ta biết được tin tức này thì lập tức các tập đoàn du lịch đi châu Âu giảm quá nửa. Có những cặp vợ chồng định đi hưởng tuần trăng mật ở Châu Âu cũng thay đổi kế hoạch. Đó chính là lúc nhu cầu an toàn của con người phát huy tác dụng. Dựa theo lý luận của các nhà tâm lý học, nhu cầu sinh lý cũng là nhu cầu an toàn. Nếu như nhu cầu sinh lý không được đáp ứng thì nhu cầu an toàn cũng mất hẳn. Trong lúc đói bụng thì con người ta không từ nguy hiểm nào. Nhưng khi nhu cầu sinh lý đạt đến mức độ nhất định thì con người không dễ mạo hiểm. Nếu như người ta sống ở Nhật Bản thì họ không quá lo lắng về vấn đề an toàn, dù một phụ nữ đi một mình trên đường phố lớn vào ban đêm cũng không xảy ra vấn đề gì. Điều này khó có được ở các nước khác. Trong cuộc sống hàng ngày, thậm chí gió mưa, sấm chớp cũng khiến người ta cảm thấy nguy hiểm. Lúc đó con người ta cảm thấy có sự uy hiếp của tự nhiên nên có cảm giác muốn có được an toàn. Sau khi nhu cầu sinh lý và nhu cầu an toàn được đáp ứng thì sẽ nảy sinh cảm giác cô độc. Nếu như con người ta có cảm giác cô độc vắng vẻ thì cũng là lúc con người ta muốn giao tiếp với người khác. Đó là nhu cầu cần bạn bè, cần người thương yêu. Nếu như tình cảm đó không thực hiện được thì sẽ nảy sinh nguy cơ về mặt tình cảm. Đó chính là nhu cầu được yêu thương và sở thuộc. Con người ta lúc ở trong tầng nhu cầu an toàn thì nguyện vọng muốn yêu và được yêu hay được ở trong một tập thể càng trở nên mãnh liệt.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook 100 Nhu Cầu Tâm Lý Con Người PDF của tác giả Tề Đằng Dũng nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
99 Khoảnh Khắc Đời Người (Nguyễn An)
99 khoảnh khắc đời người Dịch giả: Nguyễn An Thông tin về ebook Lời nói đầu 1. Màn mở đầu Tìm mua: 99 Khoảnh Khắc Đời Người TiKi Lazada Shopee 2. Khoảnh khắc phát hiện mình lớn lên trông xấu xí 3. Khoảnh khắc phát hiện mình ngu đần 4. Khoảnh khắc tự cảm thấy tốt đẹp 5. Khoảnh khắc tâm tính xốc nổi không chuyên 6. Khoảnh khắc chọn định khoa, nghành học 7. Khoảnh khắc thành tích học tập giảm sút 8. Khoảnh khắc hỏng thi 9. Khoảnh khắc sa vào lưới tình 10. Khoảnh khắc chọn định bạn đời 11. Khảnh khắc thất tình 12. Khoảnh khắc cử hành hôn lễ 13. Khoảnh khắc trở thành cha mẹ 14. Khoảnh khắc phát hiện con cái không xứng đáng 15. Khoảnh khắc hôn nhân tan vỡ 16. Khoảnh khắc đi lại với người xa lạ 17. Khoảnh khắc đi lại với đồng nghiệp 18. Khoảnh khắc đi lại với lãnh đạo trực tiếp 19. Khoảnh khắc đi lại với người địa vị thấp 20. Khoảnh khắc đi lại với danh nhân quyền thế 21. Khoảnh khắc đi lại với người tính tình không hợp mình 22. Khoảnh khắc cảm thấy không biết giao tiếp 23. Khoảnh khắc cần nhờ vả người khác 24. Khoảnh khắc cùng chạm cốc 25. Khoảnh khắc xấu hổ ngượng ngùng 26. Khoảnh khắc vô cớ nghi ngờ người khác 27. Khoảnh khắc cảm thấy không thể hợp tác với người khác 28. Khoảnh khắc chỉ trích người khác 29. Khoảnh khắc nhìn thấy đồng nghiệp thất bại 30. Khoảnh khắc đem thất vọng đến cho người khác 31. Khoảnh khắc thất tín với người khác 32. Khoảnh khắc ước mơ viển vông 33. Khoảnh khắc chỉ muốn thành công và có lợi ngay 34. Khoảnh khắc lý tưởng xung đột với hiện thực 35. Khoảnh khắc cá tính trái ngược với hoàn cảnh 36. Khoảnh khắc cạnh tranh với người khác 37. Khoảnh khắc mạo hiểm tiến thủ 38. Khoảnh khắc cần phải tự hy sinh 39. Khoảnh khắc bị những việc ngoài làm bổn phận bị xáo trộn 40. Khoảnh khắc bị những việc vụn vặt bao vây 41. Khoảnh khắc do dự không dám quyết định 42. Khoảnh khắc cố chấp với thiên nhiên 43. Khoảnh khắc cần phải phục tùng trái với lương tâm 44. Khoảnh khắc sinh ra tư tưởng ngại khó khăn 45. Khoảnh khắc sinh ra tư tưởng uể oải 46. Khoảnh khắc sinh ra tâm lý nhút nhát 47. Khoảnh khắc sinh ra tâm lý ỷ lại 48. Khoảnh khắc xuất hiện hành vi tự tư tựlợi 49. Khoảnh khắc theo đòi ăn chơi kịp thời 50. Khoảnh khắc bị phê bình khiển trách 51. Khoảnh khắc gặp bất hạnh ngoài ý muốn 52. Khoảnh khắc đau ốm liên miên 53. Khoảnh khắc thất nghiệp 54. Khoảnh khắc bị bãi miễn chức vụ 55. Khoảnh khắc sa ngã 56. Khoảnh khắc cảm thấy cô lập không được viện trợ 57. Khoảnh khắc bị người khác mưu toan 58. Khoảnh khắc bản thân ở vào hoàn cảnh ác liệt 59. Khoảnh khắc bị bạn bè thân thích ruồng bỏ 60. Khoảnh khắc gặp thất bại 61. Khoảnh khắc nảy sinh ý nghĩ trả thù 62. Khoảnh khắc bỏ lỡ cơ hội 63. Khoảnh khắc cảm thấy bị kỳ thị 64. Khoảnh khắc sáng tạo thành quả không được thừa nhận 65. Khoảnh khắc gặp phải người khác từ chối 66. Khoảnh khắc gặp phải vu cáo hãm hại 67. Khoảnh khắc gặp đối xử thô bạo 68. Khoảnh khắc bị hiểu nhầm 69. Khoảnh khắc sản sinh nỗi buồn vô cớ 70. Khoảnh khắc thể nghiệm đau khổ 71. Khoảnh khắc sản sinh tâm lý tự ti 72. Khoảnh khắc cảm thấy phẫn nộ 73. Khoảnh khắc cảm thấy sống quá mệt mỏi 74. Khoảnh khắc làm điều trái lương tâm 75. Khoảnh khắc mắc nợ tinh thần 76. Khoảnh khắc sản sinh tâm lý gặp may 77. Khoảnh khắc sản sinh tư tưởng chán nghề 78. Khoảnh khắc theo đuổi hư vinh 79. Khoảnh khắc niềm tin tốt đẹp tiêu tan 80. Khoảnh khắc giận thói đời 81. Khoảnh khắc giao động trước vấp váp 82. Khoảnh khắc ham muốn không được thỏa mãn 83. Khoảnh khắc tự khoe khoang, khoác lác 84. Khoảnh khắc có quyền thế nhất định 85. Khoảnh khắc bị người khác giới cám dỗ 86. Khoảnh khắc bắt đầu tích lũy của cải 87. Khoảnh khắc gật gù đắc chí 88. Khoảnh khắc được khen ngợi 89. Khoảnh khắc bị người khác ghe tị 90. Khoảnh khắc giành được thành công 91. Khoảnh khắc hám hưởng thụ quá mức 92. Khoảnh khắc biết được mình không còn trẻ nữa 93. Khoảnh khắc biết được 94. Khoảnh khắc cảm thấy tinh lực không còn dồi dào 95. Khoảnh khắc cảm thấy 96. Khoảnh khắc trí nhớ suy giảm 97. Khoảnh khắc đối mặt ánh tà dương 98. Khoảnh khắc đi đến kết thúc cuộc đờiĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook 99 Khoảnh Khắc Đời Người PDF của tác giả Nguyễn An nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
90 Giây Để Thu Hút Bất Kỳ Ai (Nicholas Boothman)
Lời nói đầu _______________ Không phải là quá khó để tìm ra “bí quyết” của thành công. Bạn càng giỏi giao tiếp với mọi người thì cuộc sống của bạn càng dễ chịu. Lần đầu tiên tôi phát hiện ra những bí quyết để hoà hợp với mọi người khi đang làm nghề nhiếp ảnh thời trang và quảng cáo. Cho dù là chụp ảnh một người mẫu cho tạp chí Vogue hay 400 người trên boong tàu để quảng cáo cho chiếc tàu du lịch biển của Na Uy, tôi đều thấy rõ sự thành công của nhiếp ảnh có liên quan với con người hơn là với chiếc máy ảnh. Hơn nữa, việc chụp ảnh diễn ra trong sảnh khách sạn Ritz ở San Francisco hay tại một túp lều xiêu vẹo trên sườn núi châu Phi đều không quan trọng: những nguyên tắc của việc thiết lập quan hệ là như nhau. Từ trước tới nay, tôi có thể hoà hợp được với mọi người rất dễ dàng. Đó có phải là năng khiếu không? Liệu có khả năng thiên phú dễ hoà đồng với mọi người hay đó chỉ là điều ta có thể học dần? Tìm mua: 90 Giây Để Thu Hút Bất Kỳ Ai TiKi Lazada Shopee Và nếu đó là thứ có thể học được thì liệu có dạy được nó cho người khác không?Tôi quyết định đi tìm câu trả lời. Từ kinh nghiệm 25 năm làm nghề chụp ảnh cho các tạp chí trên khắp thế giới, tôi biết rằng thái độ và ngôn ngữ cơ thể là điều quan trọng nhất để tạo ấn tượng hình ảnh có sức thuyết phục - những quảng cáo trên tạp chí chỉ có chưa đến 2 giây để thu hút sự chú ý của độc giả. Tôi cũng nhận thức được rằng ngôn ngữ cơ thể và giọng nói có thể khiến những người hoàn toàn xa lạ cảm thấy thoải mái và sẵn sàng hợp tác. Việc dùng từ ngữ hay cũng có thể khuyến khích người khác biểu lộ tâm trạng và hành động trong hầu như tất cả mọi chủ đề. Nằm lòng những hiểu biết như vậy, tôi quyết định đi sâu nghiên cứu vấn đề này. Tại sao ta lại dễ dàng thân thiện với một số người này hơn là những người khác? Tại sao ta có thể trò chuyện say sưa với một người vừa mới gặp trong khi người đó lại bị xem là tẻ nhạt và đáng sợ? Rõ ràng là có điều gì đó diễn ra ngoài sự nhận thức có chủ ý của chúng ta, nhưng đó là gì vậy? Chính trong quá trình tìm kiếm tôi tình cờ đọc được cuốn sách của Tiến sỹ Richard Bandler và John Grinder thuộc Đại học UCLA viết về vấn đề với cái tên dài dòng là Lập trình Ngôn ngữ Thần kinh học, gọi tắt là NLP. Hai tác giả và đồng nghiệp của họ đã dẫn chứng bằng tài liệu và phân tích cái gọi là “nghệ thuật và khoa học của sự vượt trội cá nhân”, trong đó có nhiều điều tôi đã thực hiện theo trực giác của một nhà nhiếp ảnh. Trong nguồn dồi dào những nhận thức mới, họ chỉ ra rằng ai cũng có “giác quan được ưa chuộng nhất”. Tìm ra giác quan đó, bạn sẽ có chìa khoá mở cửa tâm hồn và trí tuệ của người khác. Khi ý tưởng mới trở nên rõ ràng hơn, tôi gác máy ảnh sang một bên và quyết tâm tập trung tìm hiểu nội tâm cũng như vẻ bề ngoài của con người. Mấy năm sau đó, tôi theo học Tiến sỹ Bandler tại London và New York và giành được giấy phép hành nghề Lập trình Ngôn ngữ Thần kinh học. Tôi đã học Những mô hình ngôn ngữ quyến rũ ở Mỹ, Canada và Anh, rồi nghiên cứu sâu về những gì liên quan đến vai trò của bộ não trong mối liên hệ giữa người với người. Tôi đã làm việc với các diễn viên, nghệ sỹ hài, giáo viên sân khấu ở Mỹ và những người kể chuyện ở châu Phi để cải biến những bài luyện, ứng tác thành những bài tập củng cố kỹ năng hội thoại. Kể từ đó, tôi đã tổ chức những buổi hội thảo và nói chuyện trên khắp thế giới, làm việc với tất cả các nhóm và cá nhân khác nhau, từ những người bán hàng đến giáo viên, từ những người đứng đầu các tổ chức, những người tự vỗ ngực cho mình là hiểu biết, đến những đứa trẻ nhút nhát tới mức người ta nghĩ chúng ngu đần. Và sự việc trở nên rõ ràng: làm cho người khác thích bạn trong vòng 90 giây là một kỹ năng có thể dạy được cho người khác một cách dễ dàng và tự nhiên. Mọi người cứ luôn bảo tôi rằng: “Nick, vấn đề này hay đấy. Sao anh không viết thành sách?”. Thế là tôi nghe họ, bắt đầu viết. Và đây là cuốn sách. - N.BĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook 90 Giây Để Thu Hút Bất Kỳ Ai PDF của tác giả Nicholas Boothman nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
90 Giây Để Thu Hút Bất Kỳ Ai (Nicholas Boothman)
Lời nói đầu _______________ Không phải là quá khó để tìm ra “bí quyết” của thành công. Bạn càng giỏi giao tiếp với mọi người thì cuộc sống của bạn càng dễ chịu. Lần đầu tiên tôi phát hiện ra những bí quyết để hoà hợp với mọi người khi đang làm nghề nhiếp ảnh thời trang và quảng cáo. Cho dù là chụp ảnh một người mẫu cho tạp chí Vogue hay 400 người trên boong tàu để quảng cáo cho chiếc tàu du lịch biển của Na Uy, tôi đều thấy rõ sự thành công của nhiếp ảnh có liên quan với con người hơn là với chiếc máy ảnh. Hơn nữa, việc chụp ảnh diễn ra trong sảnh khách sạn Ritz ở San Francisco hay tại một túp lều xiêu vẹo trên sườn núi châu Phi đều không quan trọng: những nguyên tắc của việc thiết lập quan hệ là như nhau. Từ trước tới nay, tôi có thể hoà hợp được với mọi người rất dễ dàng. Đó có phải là năng khiếu không? Liệu có khả năng thiên phú dễ hoà đồng với mọi người hay đó chỉ là điều ta có thể học dần? Tìm mua: 90 Giây Để Thu Hút Bất Kỳ Ai TiKi Lazada Shopee Và nếu đó là thứ có thể học được thì liệu có dạy được nó cho người khác không?Tôi quyết định đi tìm câu trả lời. Từ kinh nghiệm 25 năm làm nghề chụp ảnh cho các tạp chí trên khắp thế giới, tôi biết rằng thái độ và ngôn ngữ cơ thể là điều quan trọng nhất để tạo ấn tượng hình ảnh có sức thuyết phục - những quảng cáo trên tạp chí chỉ có chưa đến 2 giây để thu hút sự chú ý của độc giả. Tôi cũng nhận thức được rằng ngôn ngữ cơ thể và giọng nói có thể khiến những người hoàn toàn xa lạ cảm thấy thoải mái và sẵn sàng hợp tác. Việc dùng từ ngữ hay cũng có thể khuyến khích người khác biểu lộ tâm trạng và hành động trong hầu như tất cả mọi chủ đề. Nằm lòng những hiểu biết như vậy, tôi quyết định đi sâu nghiên cứu vấn đề này. Tại sao ta lại dễ dàng thân thiện với một số người này hơn là những người khác? Tại sao ta có thể trò chuyện say sưa với một người vừa mới gặp trong khi người đó lại bị xem là tẻ nhạt và đáng sợ? Rõ ràng là có điều gì đó diễn ra ngoài sự nhận thức có chủ ý của chúng ta, nhưng đó là gì vậy? Chính trong quá trình tìm kiếm tôi tình cờ đọc được cuốn sách của Tiến sỹ Richard Bandler và John Grinder thuộc Đại học UCLA viết về vấn đề với cái tên dài dòng là Lập trình Ngôn ngữ Thần kinh học, gọi tắt là NLP. Hai tác giả và đồng nghiệp của họ đã dẫn chứng bằng tài liệu và phân tích cái gọi là “nghệ thuật và khoa học của sự vượt trội cá nhân”, trong đó có nhiều điều tôi đã thực hiện theo trực giác của một nhà nhiếp ảnh. Trong nguồn dồi dào những nhận thức mới, họ chỉ ra rằng ai cũng có “giác quan được ưa chuộng nhất”. Tìm ra giác quan đó, bạn sẽ có chìa khoá mở cửa tâm hồn và trí tuệ của người khác. Khi ý tưởng mới trở nên rõ ràng hơn, tôi gác máy ảnh sang một bên và quyết tâm tập trung tìm hiểu nội tâm cũng như vẻ bề ngoài của con người. Mấy năm sau đó, tôi theo học Tiến sỹ Bandler tại London và New York và giành được giấy phép hành nghề Lập trình Ngôn ngữ Thần kinh học. Tôi đã học Những mô hình ngôn ngữ quyến rũ ở Mỹ, Canada và Anh, rồi nghiên cứu sâu về những gì liên quan đến vai trò của bộ não trong mối liên hệ giữa người với người. Tôi đã làm việc với các diễn viên, nghệ sỹ hài, giáo viên sân khấu ở Mỹ và những người kể chuyện ở châu Phi để cải biến những bài luyện, ứng tác thành những bài tập củng cố kỹ năng hội thoại. Kể từ đó, tôi đã tổ chức những buổi hội thảo và nói chuyện trên khắp thế giới, làm việc với tất cả các nhóm và cá nhân khác nhau, từ những người bán hàng đến giáo viên, từ những người đứng đầu các tổ chức, những người tự vỗ ngực cho mình là hiểu biết, đến những đứa trẻ nhút nhát tới mức người ta nghĩ chúng ngu đần. Và sự việc trở nên rõ ràng: làm cho người khác thích bạn trong vòng 90 giây là một kỹ năng có thể dạy được cho người khác một cách dễ dàng và tự nhiên. Mọi người cứ luôn bảo tôi rằng: “Nick, vấn đề này hay đấy. Sao anh không viết thành sách?”. Thế là tôi nghe họ, bắt đầu viết. Và đây là cuốn sách. - N.BĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook 90 Giây Để Thu Hút Bất Kỳ Ai PDF của tác giả Nicholas Boothman nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.