Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Thề Non Nước

TIẾNG ĐÀN XUÂN : Một cuốn sách xuân đặc-biệt, in rất mỹ-thuật, phụ thêm nhiều tranh ảnh của những họa-sĩ có tiếng. Ngoài thơ, ca tiểu-thuyết còn có « thuốc nuôi xuân » dâm rượu bổ sức, cùng bùa-chú, thần-tiên pháp-thuật dạy người ta tàng hình, dùng sức thiêng-liêng cho nhân-tình yêu, thăng quan, phát tài. Chuyện là như những cuộc đấu xảo cười, đấu xảo khảo, đấu xảo chết, nhà xéc ho, v.v… do toàn những tay danh bút như Nguyễn-mạnh-Bổng, Mai-đăng-Đệ, Trịnh-đình-Dư, Vũ-duy-Thiện, Nguyễn-tiếng-Lãng, Nguyễn-Tố, Trần-văn-Huy, Nguyễn-xuân-Ngoạn, Tạ-mạnh-Khải, Nguyễn-văn-Phúc, Ái-Liên, Lê-thục-Nữ, v.v… Dày 80 trang, Giá 0p.28 một cuốn mỹ-thuật. RỪNG XANH MÁ PHẤN : Một bộ trinh-thám rất mới, rất hoạt-động vai chủ-động là một bọn thanh-niên Việt-Nam cấp tiến, đau-khổ, uất-ức vì bị cướp mất nguồn sống, gây nên một cuộc biến-đổi giữa chốn rừng xanh làm tiêu-bểu cho tất cả hủ-bại của ngàn xưa. Dày hơn trăm trang. Giá 0p.80. LY-DỊ : Ông Lê-Thanh, một phê bình gia có tài nhận xét đã vạch cho ta thấy rõ trong cuốn này những đau-khổ ngấm-ngầm của những đôi vợ chồng không thể yêu nhau, phải coi gia-đình như nấm mộ, coi những ngày chung sống như nỗi buồn-đau nhất. Giá 0p.45. Hỏi nhà xuất-bản Hương-Sơn 97, Hàng Bông, Hà-nội, mỗi cuốn thêm 0p.08 cước gửi thường, thêm 0p.40 gửi lĩnh hóa giao ngân, mỗi cuốn sau thêm 0p.04. Trả tiền bằng tem thư cũng được. *** Vân-Anh, một mình đứng giữa sân, nhìn lên giăng mà xem, thấy những đám mây bay tán-loạn thường che mờ cả mặt giăng. Cái cảm-hoài vô-hạn, bị cảnh đó khêu động, vụt nghĩ thân-thế con người ta, nhiều người bổn-lĩnh thật là quang-sáng mà phải những cảnh-ngộ ác-nghiệp làm cho đến u-âm sầu-thảm khác gì mặt giăng vốn trong sáng mà có khi phải luồn những đám mây vô-lại kia, bỗng lại nghĩ thân-thế của người ta có khi thật như đám mây bay tán-loạn, bầu giời vô-hạn, biết đâu là chỗ về. Đương nhàn-tưởng bồi-hồi, chợt nghe đồng-hồ nhà bên cạnh đã đánh mười một tiếng ; trong nhà, mẹ già gọi vào để bóp trán. Vừa quay mình vào thời thấy một người khách đến chơi. Vân-Anh mời vào. Uống nước xong, khách bảo làm cháo ăn và nói không phải gọi ai cả. Vân-Anh khi ấy xuống bếp mổ gà với đứa ở. Khách ngồi một mình, trông nhà có hai gian bằng tre, chỗ ngồi uống nước đó kê một đôi trường-kỷ tre, một cái án-thư, bên trong còn có một cái tủ chè bằng gỗ tạp ; một gian bên thời có hai cái giường kê liền nhau, cũng có hai cái chiếu cạp đỏ đã cũ, bên giường trong có mắc một cái màn trắng cũ và vá. Cách một bức phên chắn, còn một gian nhà nữa thời nghe có tiếng bà cụ già thường ho-hắng, như có ý mệt. Khách ngồi buồn, tự nghĩ một mình rằng : vào chơi nhà cô đầu, quang-cảnh thế này nghĩ thật buồn, song cũng tiện cho mình được ngủ qua một tối rồi mai đi ; lại nghĩ như người ả-đầu đó, trông cũng xinh-xắn và cũng phong-cách, sao không được có đông khách hát mà ăn ở bần-tiện đến như thế. Một lúc đã thấy bưng cháo lên thời một con ở ăn-mặc cũng rách-rưới. Vân-Anh lên lấy rượu, ngồi rót mời khách uống. Khách hỏi bên gian buồng trong có tiếng bà cụ già là ai. Vân-Anh nói là mẹ đẻ, mấy hôm vẫn nhọc mệt. Khách giục Vân-Anh vào xem bà cụ có bảo gì, mặc mình tự uống rượu không cần phải ngồi tiếp, Vân-Anh chạy vào qua, rồi lại ra, lên ngồi kề gần khách, múc thìa rượu, vừa cười vừa mời uống. Khách lấy tay gạt đi, rồi cứ cầm chén uống tự-nhiên, như quên mình là ngồi ở nhà cô đầu vậy. Vân-Anh nghĩ cũng lấy làm lạ, ngồi có ý ngắm nhận người khách, ăn-mặc thời nhũn-nhặn mà vẻ mặt rất lanh-lợi điều riêng gì. Suốt bữa rượu ấy, ngoài sự ăn uống, không có câu chuyện gì cả. Rượu xong, khách đi ngủ, đến sáng dậy, chi tiền rồi đi. Cách chừng một tuần-lễ nhà Vân-Anh lại có khách uống rượu, tức là người khách uống rượu cách một tuần lễ trước, mà bận này đến lại có mang một cái va-ly. Hôm ấy giời hơi mưa, trong lúc uống rượu, khách lại tự uống một mình mà uống tất bằng chén, Vân-Anh nghĩ lại lấy làm buồn cười. Một lúc, có người nhà cô-đầu khác đến gọi Vân-Anh đi mời rượu, Vân-Anh xin phép đi. Khách chỉ tự-nhiên mặc lòng. Hôm ấy bà cụ đã khỏi mệt, sau lúc Vân-Anh đi mời rượu, ra ngồi chơi ở trường-kỷ uống nước. Khách nhân hỏi chuyện về Vân-Anh. Bà cụ nói : « Con bé nhà tôi, tên nó là Vân-Anh, vẫn gọi là cái Vân. Từ bé cháu có học chữ nho, cũng đã biết làm thơ ». Bà cụ ngồi chơi một lát, rồi vào buồng nằm nghỉ. Khách lại tự uống rượu một mình. Khoảng hơn mười hai giờ, giời mưa to, Vân-Anh về, đã loáng-choáng say rượu. Khách ở nhà, uống cũng đã say. Vân-Anh lại ngồi bên, rót rượu mời uống. Khách cười, nói rằng : « Mời rượu thời phải có hãm chứ ? » Vân-Anh : « Hãm câu gì ? » - Chỉ muốn nghe một câu hãm bằng chữ nho. - Ai biết chữ nho mà hãm ; cũng chẳng thấy ai hãm bằng chữ nho bao giờ. - Không ai hãm bao giờ mà bây giờ hãm, thế nó mới « mới ». - Khốn như tôi không biết. - Tôi biết rằng chị biết. - Ô hay, cứ buộc vào người ta. - Thôi, hãm đi. - Thế ông đặt đi cho một câu. - Ai hãm thời người ấy phải đặt lấy, nhờ người đặt hộ thời còn có thú gì nữa ! - Tôi đặt lấy thời không biết có nghe được không. - Hãy cứ hãm đi, nghe được hay không, mặc người ta. Vân-Anh vừa mỉm cười, vừa nghĩ. Khách cũng cười mà cất chén uống rượu để đợi nghe. Vân-Anh nghĩ đã xong, rót chén rượu mời, hãm rằng : 鷄鳴風雨瀟瀟天涯遊子 藍橋神仙好惡姻缘 « Kê minh, phong vũ tiêu-tiêu ; Thiên-nhai du-tử, Lam-kiều thần-tiên Hảo, ác nhân-duyên ? » Khách nghe, thần-hồn như phiêu-động ; cạn chén, hỏi Vân-Anh rằng : « Thế trước chị học chữ nho được bao năm ? » - Tôi học từ năm lên sáu, đến năm mười sáu tuổi thời thôi. - Chị học ra làm sao ? - Cũng học đấy thôi, chẳng biết nó ra làm sao cả. - Trong lúc học, chị có tập làm văn, làm thơ gì không ? - Cũng có làm thơ cùng những câu đề vịnh lảm-nhảm. - Các bài của chị làm ra từ khi trước, bây giờ có bài nào còn giữ lại hay còn nhớ không ? - Kể mất đi cũng nhiều, nhưng tôi cũng giữ được một ít, vẫn cuộn để ở trong hòm, những lúc nào buồn quá thời lại giở ra xem chơi một mình. - Bây giờ chị thử lấy ra đây xem. Vân-Anh đi mở hòm, lấy cuốn văn ra. Ông khách giở xem, thấy cũng có nhiều bài thông lắm. Xem đến bài vịnh lĩnh-mai 嶺梅 có hai câu rằng : 含精不向東風笑 獨伴青松蹅雪遊 « Hàm tinh bất hướng đông-phong tiếu, Độc bạn thanh-tùng đạp tuyết du ». Nghĩ như hai câu này thời thật có phong-diệu, cốt-cách, mà tự người làm thơ cũng không đáng trụy thân vào trong đám binh-khang. Khách xem hết các bài văn thơ chữ nho, lại hỏi về văn quốc-âm. Vân-Anh đọc một bài « vịnh sen hồ Hoàn-kiếm » rằng : « Hồ Gươm, sen mới ra hoa, Cả hương, cả sắc, ai là không chơi. Sen tàn, lá rách tả-tơi, Quanh hồ lai vãng ai người tiếc-thương, Nước hồ sen đứng soi gương, Còn đâu là sắc lá hương với đời, Tủi thân sen lại giận giời, Cho chi hương sắc ? cho người trọng khinh ! » Khách nói : « Văn cũng hay, nhưng sao đặt đến buồn quá thế ! » Vân-Anh : « Bài này tôi mới làm. Trong lúc buồn có làm ra vui thế nào được ». Khách ngậm-ngùi một lúc rồi nói rằng : « Nghĩ như chị, người như thế, tài-hoa như thế, mà sao không thấy nổi tiếng ? Chắc lại cũng không được đông khách hát, cho nên trong nhà ở cũng có ý cẩu-thả ». Vân-Anh đến lúc ấy lại buồn lắm, giả nhời khách rằng : « Ông nghĩ cho như vậy, chớ như tôi thời còn có gì mà nổi tiếng. Cứ về bên chữ nho bây giờ, đến như ông Nghè, ông Cử, cũng còn nhiều ông chẳng có vinh-hiển gì ; huống hồ là một người cô-đầu biết đôi ba câu thơ, còn lấy gì làm có giá được. Từ khi tôi ra hát đến nay, hôm nay mới thấy có ông hỏi đến là một. Những cái sự ấy bây giờ đã không ai coi ra gì, nhà ở lại lụp-sụp rơm rác, cũng chẳng có mấy người buồn đến, thỉnh thoảng mới có một vài ông khách đến ăn cháo, còn thời chỉ là đi hát mảnh, lại cũng không khéo chiều quan viên, như thế tài nào mà không phải chịu bần-tiện ? » Lúc ấy đã đến hơn bốn giờ sáng, khách bảo xếp bỏ rượu để đi ngủ. Vân-Anh buông màn cho khách ngủ, rồi vào trong nhà với mẹ. Ngày mai, giời mưa dầm mãi từ sáng cho đến chiều. Lúc người khách ngủ dậy thời vào khoảng chín, mười giờ. Nguyên ý người khách đến uống rượu bận ấy, hoặc định ngủ một tối rồi sáng hôm sau đi đâu thời không biết ; nhân có một đêm nói chuyện, cái cảm tình đối với Vân-Anh thực thương tiếc vô hạn. Lại nhân hôm ấy giời mưa dầm, cho nên thánh ra lại giữ khách ở lại. Mười giờ hơn, Vân-Anh nói cùng khách xin để làm cơm sáng ăn, khách cũng ừ nhưng không có đưa tiền. Trong nhà Vân-Anh từ tối hôm trước chỉ còn có một con gà thời đã làm rượu rồi mà cũng phải vay thêm đồ ăn mới đủ dọn ; đến lúc ấy không biết làm thế nào, nghĩ người khách đi lại chưa thân, cũng không tiện ra hỏi. Hai mẹ con ra vào thì thầm bàn cùng nhau, khách cũng hiểu tinh ý, nhưng cứ tự nhiên như không biết, chỉ nằm xem những bài thơ văn của Vân-Anh, rồi lại mở va-li ra, lấy giấy bút để viết. Độ 12 giờ hơn, thấy có cơm bưng lên, cũng lịch-sự. Khách bảo Vân-Anh mời cả bà cụ ra cùng ăn cơm, nhưng bà cụ xin từ chối. Bữa ấy hai người cùng ngồi uống rượu ; ngoài bức mành thưa, giời vừa mưa vừa gió, những người đi ngoài đường thật là lận-lội mà trong chỗ mâm rượu thời một người du-tử ngồi đối một mỹ-nhân cùng thù tạc, đàm-đạo những nhân tình thế cố cùng là sự làm văn làm thơ. Khách tuy không phải là người say đắm ở nơi bình-khang, nhưng lúc ấy bất-giác cũng cao hứng. Đương lúc tửu-hứng, Vân-Anh nói rằng : « Tôi có một bức tranh sơn-thủy, là của gia-bảo, vẫn cuộn để trong hòm, thường muốn đề một bài quốc-văn mà nghĩ lại không xứng ; nay không mấy khi được gặp cao-nhân, xin hạ bút đề cho một bài, thực là quí hóa quá ». Khách nói : « Sự đề vịnh nguyên đã không dễ, lại đề vào một bức họa trân-trọng thời thực không dám nhận ; nhưng chị thử lấy cho xem thời hay lắm ». Vân-Anh đi mở hòm lấy bức tranh đem ra, khách giở xem, thực là một bức cổ-họa. Trông khoảng trên có đề ba chữ triện, không hiểu là chữ gì. Vân-Anh nói đây là chữ nôm Khách nhận ra thời là ba chữ « THỀ NON NƯỚC » Vân-Anh nói : « Cứ ba chữ này, nguyên nghĩa thường thời là chỉ non thề nước ; đề vào đây thời là làm sao ? » Khách nghĩ một lúc, rồi nói : « Đây hoặc là người ta mượn câu sẵn mà khiến về nghĩa riêng. Ba chữ đề đây, phải nhận nghĩa là non với nước, hai cái thề với nhau. Như thế, có nhẽ mới hợp ý bức họa ». Vân : « Dẫu nhận là như thế, nhưng đây chỉ vẽ một dẫy núi, còn không thấy sông nước gì cả lấy gì làm hai cái thề với nhau ? » Khách : « Đây dẫu không có vẽ sông nước, nhưng nhận kỹ một ngàn dâu ở chân núi này, ý tức là sông nước khi xưa mà tang-thương đã biến-đổi ». Vân : « Dẫu nhận cho là như thế nhưng lấy gì làm thề ? » Khách : « Nguyên bức họa này, ý chỉ là một bức tang-thương, cho nên ở dưới vẽ một ngàn dâu tựa như thế khúc sông ; trên núi thời như mây, như tuyết, như mấy cây mai già, như bóng tà-dương, đều là để tả cái tình-cảnh thê-thảm. Bởi thế cho nên ba chữ đề này, dẫu là lấy câu sẵn mà đề vào, song thực tỏ ra được cái tình thương nhớ của dẫy núi tức là vì dẫy núi mà cảm nỗi tang-thương. Bây giờ tất cứ trong bức họa mà muốn tìm cho ra thế nào là thề, như thế thời nệ vì chữ đề mà hại đến nguyên ý của bức họa ». Vân : « Vậy thế bây giờ muốn đề một bài thời thế nào là phải ? » Khách : « Bây giờ nếu muốn đề một bài phải nên trông vào bức họa, mà lại lấy ba chữ đó làm đầu đề. Chú-trọng vào một chữ non, lấy chữ non làm chủ, vì rằng non đó thực là chủ-trương trong bức họa mà lại có ở trong đề ; còn chữ thề với chữ nước thời trong họa không có mà trong đề có, cũng phải nhận như có mà chỉ nên nói nhẹ như không, vì là thề thời về sự đã qua mà nước thời không trông thấy ở đó. Nghĩa như thế, hoặc có phải chẳng ? » Mời các bạn đón đọc Thề Non Nước của tác giả Tản Đà.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Sông Đông Êm Đềm - Mikhail Aleksandrovich Sholokhov
Sông Đông Êm Đềm là bộ tiểu thuyết vĩ đại nhất của nhà văn Nga Mikhail  Aleksandrovich Sholokhov. Với tác phẩm này, Sholokhov đã được tặng Giải Nobel văn học năm 1965. Sông Đông Êm Đềm miêu tả một giai đoạn lịch sử mười năm từ 1912 đến 1922 trong phạm vi địa lý rộng lớn: mặt trận miền Tây nước Nga trong Thế chiến thứ nhất, Ukraina, Ba Lan, România cho đến Sankt-Peterburg, Moskva nhưng chủ yếu diễn ra ở hai bờ sông Đông và tập trung vào một làng Cossack ven sông. Trong phần đầu của tiểu thuyết, Sholokhov đã quay lại quá khứ của gia đình Melekhov từ thời người ông nội với cô vợ người Thổ Nhĩ Kì bị người dân Cossack xa lánh và dị nghị do lối sống kì lạ. Gregori Melekhov là con thứ hai trong một gia đình ông nội là người Cossack, bà nội là người Thổ Nhĩ Kỳ. Gregori đem lòng yêu Aksinia, vợ một người hàng xóm và nhằm ngăn cản mối quan hệ này, gia đình Melekhov cưới Natalia cho chàng. Để được tiếp tục sống bên nhau, Gregori và Aksinia cùng bỏ nhà đi làm thuê. Tủi nhục, phẫn uất, Natalia đã quyên sinh nhưng không chết. Gregori phải đi lính khi đến tuổi và cùng với những chàng trai Cossack khác, trong đó có người anh Pyotr nhập ngũ trước đó chiến đấu chống lại quân Áo, Đức trong những năm đầu của Thế chiến thứ nhất. Tham gia chiến tranh, do cứu sống một Trung tá bị thương, chàng được tặng Huân chương thánh Gorge đồng thời cảm nhận thấy tính chất tàn bạo, vô nghĩa của chiến tranh và luôn day dứt về điều đó. Ở quê nhà, Aksinia sống trong cơ cực, cô đơn, tuyệt vọng, đứa con đầu lòng cũng không sống nổi vì bệnh tật, nàng đã chấp nhận quan hệ với Evgeni, con trai của chủ nhà. Bị thương và về phép, biết được chuyện của Aksinia, Gregori quay trở về sống với Natalia và sau khi chàng trở lại quân ngũ ít lâu thì Natalia sinh đôi một trai, một gái. Cách mạng tháng Mười nổ ra, trong những ngày hỗn loạn ấy, Gregori bị xô đẩy hết từ "bên Đỏ" rồi lại sang "bên Trắng". Mặc dù chán ghét và không ý thức được mình chém giết để làm gì nhưng vó ngựa Cossack của Gregori vẫn phiêu bạt khắp các chiến trường, lao vào những trận đánh đẫm máu. .... Mời các bạn đón đọc Sông Đông Êm Đềm của tác giả Mikhail Aleksandrovich Sholokhov.
Trại Trẻ Đặc Biệt Của Cô Peregrine - Ransom Riggs
AudioBook Trại Trẻ Đặc Biệt Của Cô Peregrine Trại trẻ đặc biệt của cô Peregrine là câu chuyện kể về Jacob – một thiếu niên sống cuộc đời sung túc nhờ sự giàu sang của cha mẹ. Cuộc sống của Jacob chẳng có gì thú vị ngoại trừ những câu chuyện của ông nội về cuộc sống ở trại trẻ của cô Peregrine cùng những người bạn phi thường của mình: một cô bé biết bay, một cậu bé có khả năng tàng hình, một cô bé tạo ra lửa từ hai bàn tay… Và còn có những sinh vật ghê rợn, những quái vật mồm đầy xúc tu. Mỗi câu chuyện của ông nội Jacob kể đều kèm theo một bức ảnh mà sự kì dị của nó sánh ngang với nhân vật mà nó làm nhân chứng cho sự tồn tại. Năm tháng qua đi, Cậu bé Jacob lớn lên, ông nội Abe của cậu thì ngày một già đi, không ai còn tin những câu chuyện hay bức ảnh của ông nữa. Jacob cũng dần dần thoát ly khỏi những điều phù phiếm. Cậu đặt những bước đi đầu tiên vào một cuộc sống nhung lụa êm đềm do bố mẹ bày sẵn trước mắt.Không ai nói ra nhưng mọi người đều nghĩ ông cần vào viện dưỡng lão, trừ Jacob. Rồi một ngày kia, ông nội qua đời trên tay Jacob. Cái chết đầy mờ ám giữa bãi đất sau nhà, cả cơ thể bị cào xé. Cái chết của ông đã khiến Jacob chìm vào những day dứt, ám ảnh về cuộc đời mình. Mỗi ngày qua đi, cậu lại nhớ về ông nội và những câu chuyện kỳ quái từng gắn bó với tuổi thơ của mình. Để thoát khỏi những cơn ác mộng triền miên, theo lời trăng trối của ông, Jacob cùng bố lên tàu tìm kiếm hòn đảo Cairnholm, địa điểm toạ lạc trại trẻ của cô Peregrine năm xưa, nơi sinh sống của những cô cậu thiếu niên dị thường. Và tại đó, cậu kinh hoàng nhận ra sự tồn tại của họ là hoàn toàn có thật! Trại trẻ đặc biệt của cô Peregrine dẫn dắt người đọc vào một chuyến phiêu lưu ly kỳ, tràn ngập những cung bậc cảm xúc biến hóa, có lúc hồi hộp, có lúc lại xúc động thổn thức. Điểm nhấn của câu chuyện là những bức ảnh hoài cổ do chính tác giả sưu tầm và thực hiện, chúng khiến độc giả bị cuốn vào những câu chuyện nửa thực nửa hư kỳ lạ, giống như chính cảm xúc mà Jacob đã trải qua.  Tác phẩm vừa có màu sắc trinh thám, vừa pha một chút kinh dị nhưng lại tràn ngập cảm hứng lãng mạn này có thể làm xiêu lòng bất kỳ người lớn hay trẻ em nào. Trại trẻ đặc biệt của cô Peregrine đã được hãng 20th Century Fox mua bản quyền và chuyển thể thành phiên bản điện ảnh. Phim do Tim Burton làm đạo diễn, có sự tham gia của Eva Green và Samuel L. Jackson, được ra mắt vào tháng 3/2016. Mời các bạn đón đọc Trại Trẻ Đặc Biệt Của Cô Peregrine của tác giả Ransom Riggs.
Chim Ó Biển - Rafael Sabatini
“Chim ó biển” là tác phẩm kinh điển đầu tiên của Rafael Sabatini viết về đề tài cướp biển, lấy cảm hứng từ cuộc chiến có thật trên Địa Trung Hải. Câu chuyện xoay quanh Sir Oliver Tresslian, một nhà quý tộc trẻ vùng Cornwall nước Anh, người có tất cả: tuổi trẻ, sự giàu sang, tiếng tăm và cả trái tim cô láng giềng xinh đẹp Rosamund Godolphin. Điều duy nhất chàng cần là chút kiên nhẫn chờ đến khi Rosamund tròn mười tám tuổi để có thể cưới nàng bất chấp sự phản đối của anh trai cô, Peter Godolphin và Sir John Killigrew, người bảo trợ của hai anh em nhà Godolphin.   Chim ó biển là tác phẩm có thể hấp dẫn cả nữ giới và nam giới. Nhân vật Oliver là nguyên mẫu điển hình của những nhân vật anh hùng trong thể loại tiểu thuyết “áo choàng và thanh kiếm” vào thế kỷ XIX: chính trực, gan dạ, kiên cường, giàu tình cảm. Nhân vật này đã tạo tiền đề cho chính nhà văn sáng tác các tiểu thuyết cùng đề tài về sau này, đồng thời trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho các nhà làm phim Hollywood thời bất giờ. Bên cạnh đó, Sabatini đã khéo léo lồng ghép một thiên tình sử lãng mạn vào giữa những cuộc chiến đấu cam go, khiến tiểu thuyết vừa có yếu tố gay cấn lại vừa mang màu sắc thi vị, tựa như một bản anh hùng ca giàu chất thơ.  Tuy nhiên, khác với những tiểu thuyết đăng dài kỳ trên báo có số lượng trang khổng lồ của Alexander Dumas hay nhiều nhà văn khác cuối thế kỷ XIX, tác phẩm của Sabatini được viết với văn phong cô đọng, hiện đại hơn. Thay vì nhiều đối thoại và tự sự, Sabatini dành cho nhân vật của mình nhiều thời gian hơn để hành động, có lẽ vì thế mà các cậu chuyện của ông luôn rất "sống", hành động luôn nối tiếp nhau không dừng từ đầu cho tới cuối câu chuyện.  Rafael Sabatini (1875-1950) mang trong mình hai dòng máu, Italy và Anh. Có thể nói, Chim ó biển là một dấu son chói lọi trong sự nghiệp sáng tác của ông. Cùng với Scaramouche - Kiếm sĩ không trái tim, Này chiến trận, này cuồng si,… đây là một trong những tác phẩm đưa tên tuổi ông sánh ngang hàng cùng các bậc tiền bối của thể loại tiểu thuyết “áo choàng và thanh kiếm” như Dumas, Scott. Mời các bạn đón đọc Chim Ó Biển của tác giả Rafael Sabatini.
Tâm Chiếu Bất Huyên - Lục Xu
Anh vẫn là anh, em vẫn là em, chỉ là chúng ta lại không còn là chúng ta nữa rồi. TÁC GIẢ LỤC XU Sinh ngày 15 tháng 2 năm 1991 Sống tại thành phố Trùng Khánh, Trung Quốc. Yêu thích văn từ nhỏ. Mong muốn lớn nhất là, một ngày nào đó, có thể đi ngao du sơn thủy khắp mọi miền tổ quốc. Có thể dùng câu chữ để ghi lại tất cả những gì mình đã trải qua, bày tỏ hỉ nộ ái ố của chính bản thân, biểu đạt cảm xúc chân thật của chính mình. Mời các bạn đón đọc Tâm Chiếu Bất Huyên của tác giả Lục Xu.