Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ký Sự Phục Dịch Ở An Nam

Vào giữa thế kỷ XVII, sau khi người Mãn Thanh lên nắm quyền ở Trung Quốc, nhiều trung thần của nhà Minh không chịu thần phục nhà Thanh bỏ trốn sang Nhật Bản, Việt Nam cùng các nước Đông Nam Á khác nhằm mưu tìm cơ hội khôi phục nhà Minh. Trong số những Minh thần này, có một trưng sĩ tên là Chu Thuấn Thủy rất đáng được chú ý. I. Đôi nét về thân thế của Chu Thuấn Thủy Chu người Dư Diêu (cùng quê với Vương Dương Minh) tỉnh Chiết Giang, sinh năm 1600, vào đời Vạn Lịch nhà Minh. Tên thật của Chu là Chi Du, hiệu là Thuấn Thủy, tổ tiên hình như có liên hệ với Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương. Trong 5 lần đến Đàng Trong, thời gian Chu lưu trú lâu nhất là khoảng 4 năm từ năm 1654 cho đến năm 1658. An Nam cung dịch kỷ sự là “hồi ký” của Chu viết về những sự việc xảy ra vào năm 1657 trong khoảng thời gian hai tháng rưỡi kể từ khi Chu bị quản thúc ở Hội cho đến khi được cho về lại Hội An. Vị “Quốc vương” mà Chu thường nhắc đến trong An Nam cung dịch kỷ sự là chúa Nguyễn, hay nói rõ hơn là chúa Nguyễn Phúc Tần (Chúa Hiền), người cai quản Đàng Trong từ năm 1648 đến năm 1687. Về học vấn và tư tưởng, Chu đặc biệt chú trọng lối học thực hành (thực học) theo truyền thống Nho học của miền Giang-Chiết (Giang Tô và Chiết Giang). Chu xem những lối học không mang lại lợi ích cho đời, cho dầu hào nhoáng đến đâu chăng nữa, cũng không khác gì đồ bỏ. Trong bức thư trả lời câu hỏi của Andô Shuyaku về “phương pháp đọc sách và viết văn”, Chu đáp: “Điều đáng quý trong học vấn là thực hành. Nhan Hồi tuy học một biết mười, nhưng điều quan trọng là ông đứng đầu về đức hạnh”. Cái thực học của Chu so với cái học để thi cử rỗng tuếch ở Trung Quốc và Việt Nam lúc bấy giờ thì phải nói là cách xa nhau một trời một vực. 2. Nội dung An Nam cung dịch kỷ sự Chu nhận được hịch chiêu mộ người “biết chữ” của “Quốc vương” và ra trình diện ngày 3 tháng 2 năm 1657, Chu bị tống giam và bị đối đãi như “tù giặc nước ngoài bị bắt sống” (khấu lỗ). Sau đó, khi được dẫn đến nha môn, quan ra lệnh cho Chu làm một bài thơ khẩu hứng rồi viết lên giấy. Chu khăng khăng không chịu làm thơ, dùng bút giải thích là vì “cảnh nước mất nhà tan” và “không cam bím tóc” theo nhà Thanh nên Chu mới trốn sang Nước ta, “ruột gan nóng như lửa đốt, làm thơ sao đặng”. Khi biết Chu là “cống sĩ” (giống như “trưng sĩ”, nhưng trưng sĩ là cách gọi tổng quát), quan có ý xem thường, cho học lực của Chu không thể nào đọ được các vị khoa bảng nhà mình. Lúc ở Hội An, Chu thuê nhà chung với ba người Nhật. Chủ nhà là Gombê (Quyền binh vệ), cũng là người Nhật. Sáng sớm trước khi bị dẫn ra Dinh Cát, Chu tắm gội sạch sẽ, rồi căn dặn cặn kẽ người nhà phải làm gì khi trong trường hợp bị giết mà không về lại Hội An. Khi từ Dinh Cát về lại Hội An thì đồ đạc trong phòng Chu bị kẻ trộm vào lấy sạch, không còn gì cả. Trong khi hàng xóm láng giềng ai cũng đinh ninh chủ nhà là thủ phạm, Chu vẫn một mực không chút tỏ ý nghi kỵ Gombê. Sau khi điều tra biết Gombê là người vô tội, lúc bấy giờ hàng xóm mới khen Chu không phải là người tầm thường. Sau đó đến ngày 19 tháng 2, Chu được thư của Chúa mời Chu ra giúp, Nhưng đối với Chu, lúc này thì đã cạn tàu ráo máng nên Chu đã từ chối lời mời của chúa Nguyễn. An Nam cung dịch kỷ sự là một sử liệu độc đáo trên nhiều mặt. Thêm vào đó, Chu đã từng cư ngụ ở đất Thuận-Quảng nhiều lần trong khoảng 12 năm từ năm 1646 cho đến năm 1658. Bởi thế, lối quan sát và nhận định của Chu về tình hình học thuật, xã hội và chính trị của Đàng Trong, cũng như những điều Chu nhận xét về một số nhân vật mà Chu đã từng tiếp xúc trong thời gian bị câu lưu mang nét sống động của một người có óc quan sát chứ không phải là những lời bình phẩm chung chung của một khách bàng quan. Người đọc không nhất thiết sẽ đồng ý với tất cả những nhận xét của Chu. Thậm chí, một vài nhận xét của Chu có thể làm độc giả người Việt không mấy hài lòng. Chu là một nhà trí thức tuy khá am tường về Việt Nam nhưng ưu tiên của Chu là “bài Thanh phục Minh”, khác với hoài bão với những người Việt trên bước đường Nam tiến. Tuy nhiên, ý nghĩa của An Nam cung dịch kỷ sự là tập ký sự này cho ta một bức tranh về tình hình Đàng Trong vào thế kỷ XVII với một số nét chấm phá mới mẻ. Chính vì thế, việc phân tích và đánh giá An Nam cung dịch kỷ sự không phải đơn giản, đòi hỏi người đọc có thái độ muốn bình tâm tìm hiểu một cách khách quan về những nhận xét của Chu trong thời gian bị quản thúc ở Hội An và Thuận Hóa. Ngoài ra, qua tập ký sự của Chu Thuấn Thủy, chúng ta có thể tìm thấy những thông tin bổ ích khác về tình hình Đàng Trong giữa thế kỷ XVII. Chẳng hạn về ngôn ngữ, về cộng đồng người Hoa và người Nhật ở Hội An, tình hình học thuật, thư mục những sách chữ Hán ở Đàng Trong lúc bấy giờ, tình trạng thích bói toán, khuynh hướng chuộng bằng cấp hư danh, đánh giá người theo khả năng làm thơ phú chứ không chú trọng đến thực học. Nhìn trên quan điểm về nghi thức ngoại giao, những khác biệt về nhãn quan và ngộ nhận về lập trường giữa Chu và các quan sai trong phủ chúa Nguyễn là một trường hợp độc đáo cần được nghiên cứu và thảo luận kỹ càng hơn. Về điểm này, trong phần kết luận của bài giới thiệu về Chu Thuấn Thủy khoảng hơn nửa thế kỷ trước, học giả Quán Chi Đào Trinh Nhất đã đưa ra nhận xét chí lý như sau: “[... Người nước ta] tiếc một ông thầy chân nho đến ở nhà mình 12 năm ròng rã, mà nhà nho mình thuở ấy không ai biết lợi dụng khải phát được điều gì, để cho ông thầy đâm chán, đem theo cái đạo học cao xa đi xứ khác mất. Cứ xem bọn nhà nho nước Nhật ở thế kỷ XVII tôn sùng họ Chu rồi sau mới biết Khổng học một cách khác hơn”. Khuynh hướng kỳ thị trong việc sử dụng nhân tài nước ngoài - không những của chúa Nguyễn mà của các triều đại Việt Nam nói chung - đều biểu hiện một thái độ đa nghi co mình lại. Bài học lịch sử này vẫn còn đáng được cho chúng ta ngày nay suy ngẫm. Người dịch đã được xem 3 ấn bản An Nam cung dịch kỷ sự. (1) ấn bản trong Chu Thuấn Thủy toàn tập (tập Thượng) do Chu Khiêm Chi chỉnh lý (Trung Hoa Thư cục, Bắc Kinh, 1981); (2) ấn bản trong Chu Thuấn Thủy toàn tập (quyển 1) do Dương Gia Lạc chủ biên (Thế giới Thư cục, Đài Bắc, 1956); (3) ấn bản do Trần Kinh Hòa hiệu đính và in lại trong bài “Chu Thuấn Thủy ‘An Nam cung dịch kỷ sự’ tiên chú” đăng trong tập san Hương Cảng Trung văn Đại học Trung Quốc Văn hóa Nghiên cứu sở Học báo (1968). An Nam cung dịch kỷ sự khi dịch đã chủ yếu dựa trên ấn bản (1), đồng thời tham khảo các ấn bản (2) và (3). Khoảng hơn 90% những chú thích trong bản dịch quốc ngữ là do sự tra khảo của người dịch. *** Sử liệu Trung Quốc và Nhật Bản cho biết trước khi sang Nhật định cư vào năm 1658, Chu Thuấn Thủy đã nhiều lần theo tàu buôn đến Việt Nam. Trong khoảng thời gian ở nước ta, không những sở học của Chu chẳng có ai nhận chân được giá trị, thậm chí có lúc Chu còn bị quản thúc và suýt mất mạng. Chắc hắn vì thế nên Chu đã từ giã Việt Nam để sang định cư ở Nhật với tư cách là một học giả về Nho học. Trước khi rời Việt Nam, Chu có viết một ký sự về khoảng thời gian bị câu lưu và phục dịch cho phủ chúa Nguyễn ở đất Thuận Quảng (Thuận Hóa - Quảng Nam). Tập ký sự này được viết vào năm 1657 và mang tên An Nam cung dịch kỷ sự (Ký sự phục dịch ở An Nam). Sau khi sang Nhật, Chu được nhiều người mến mộ tài năng nên đã có dịp thi thổ sở học của mình và đóng góp lớn vào việc nghiên cứu, phát triển Nho học trong nước Nhật lúc bấy giờ. Cho đến ngày nay, ở Trung Quốc và Nhật Bản, tên tuổi của Chu còn được nhắc nhở đến khá nhiều, trong lúc đó ở Việt Nam không mấy ai biết đến. Trên thực tế, cùng với tập Hải ngoại kỷ sự của nhà sư Trung Quốc Thích Đại Sán và cuốn Xứ Đàng Trong năm 1621 của Christoforo Borri, An Nam cung dịch kỷ sự là một sử liệu độc đáo cung cấp cho ta nhiều thông tin bổ ích về tình hình ở đất Thuận Quảng nói riêng cũng như Đàng Trong nói chung vào thế kỷ XVII. dtBOOKS CÔNG TY TNHH SÁCH DÂN TRÍ ĐC: 11C Nguyễn Kiệm, P.3, Q. Gò Vấp, TP. HCM VPGD: 65 Hồ Văn Huê. P. 9, Q. Phú Nhuận, TP. HCM ĐT: (028) 62751674-62784851 Ký sự phục dịch ở An Nam ISBN: 978-604-956-373-7 9786049 563737 8 935207 001449 Giá: 74.000₫ www.dtbooks.com.vn *** Vài nhận xét về An Nam cung dịch kỷ sự An Nam cung dịch kỷ sự là một sử liệu độc đáo trên nhiều mặt. Tác giả Chu Thuấn Thủy là một học giả có tầm cỡ, lại có nhãn quan của một người có chí kinh luân hằng ấp ủ mộng “bài Thanh phục Minh”. Thêm vào đó, Chu đã từng cư ngụ ở đất Thuận - Quảng nhiều lần trong khoảng 12 năm từ năm 1646 cho đến năm 1658. Bởi thế, lối quan sát và nhận định của Chu về tình hình học thuật, xã hội và chính trị của Đàng Trong, cũng như những điều Chu nhận xét về một số nhân vật mà Chu đã từng tiếp xúc trong thời gian bị câu lưu mang nét sống động của một người có óc quan sát chứ không phải là những lời bình phẩm chung chung của một khách bàng quan. Người đọc không nhất thiết sẽ đồng ý với tất cả những nhận xét của Chu. Thậm chí, một vài nhận xét của Chu có thể làm độc giả người Việt không mấy hài lòng. Chu là một nhà trí thức tuy khá am tường về Việt Nam nhưng ưu tiên của Chu là “bài Thanh phục Minh”, khác với hoài bão với những người Việt trên bước đường Nam tiến. Tuy nhiên, ý nghĩa của An Nam cung dịch kỷ sự là tập ký sự này cho ta một bức tranh về tình hình Đàng Trong vào thế kỷ XVII với một số nét chấm phá mới mẻ. Chính vì thế, việc phân tích và đánh giá An Nam cung dịch kỷ sự không phải đơn giản, đòi hỏi người đọc có thái độ muốn bình tâm tìm hiểu một cách khách quan về những nhận xét của Chu trong thời gian bị quản thúc ở Hội An và Thuận Hóa. Với tư cách là “trưng sĩ”, Chu trên thực tế là một trí thức hàng đầu của nhà Minh. Tuy sang Việt Nam lánh nạn, Chu không những là một di thần của nhà Minh mà còn là một trí thức tiêu biểu trong vận động “bài Thanh phục Minh” ở Trung Quốc, Việt Nam và Nhật Bản. Theo trật tự Đông Á trước thời cận đại với Trung Quốc là trung tâm, chỉ có người trị vì ở Trung Quốc mới được xưng là “hoàng đế”, còn vua của các nước trên vòng ngoại vi của Trung Quốc như Việt Nam, Triều Tiên chỉ được xưng hay gọi là “vương” (trên nguyên tắc phải được hoàng đế Trung Quốc sắc phong) trong các quan hệ chính thức với Trung Quốc. Chu xem mình nếu đã là “trưng sĩ”, là “tôi” của “hoàng đế” Trung Quốc, thì không thể lạy vua An Nam - một nước mà theo “trật tự thế giới của Trung Quốc” chỉ là một phiên quốc. Chu cho rằng việc bắt Chu lạy là trái với “lễ nghi” trong quan hệ sắc phong và triều cống giữa Trung Quốc với các nước “phên giậu” láng giềng. Trong tập ký sự, Chu nhắc đi nhắc lại chữ “lễ” nhiều lần chính vì Chu muốn nhấn mạnh điểm này. Trong khi đó, các quan sai của phủ chúa Nguyễn khi thấy Chu không chịu lạy vị chúa của mình đã cho rằng Chu đã “cậy thế Trung Quốc là nước lớn” nên không chịu lạy. Ngày trước, khi những sứ thần của Trung Quốc chính thức sang thăm viếng Việt Nam, vì các nghi lễ tiếp đón đã quy định sẵn nên có lẽ không mấy khi xảy ra những trường hợp phức tạp như thế này. Tuy nhiên, khi Chu trình diện với chúa Nguyễn, vấn đề nghi lễ trở nên gay cấn đến cực độ, bởi lẽ trong khi phủ chúa Nguyễn chỉ xem Chu như một người “biết chữ” (thức tự) có thể tuyển mộ để giúp về việc thảo văn thư chữ Hán, Chu lại tự coi mình như là một trí thức đại diện của phong trào phục Minh. Vì đứng trên lập trường đó nên Chu đã xem nhiệm vụ hàng đầu của chúa Nguyễn là phải giúp Chu trong nỗ lực khôi phục nhà Minh, trong khi mối quan tâm trước mắt của chúa Nguyễn - như chúng ta đã biết - là một mặt tiếp tục cuộc tranh hùng dai dẳng với chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, một mặt mở mang bờ cõi ở phương Nam. Nhìn trên quan điểm về nghi thức ngoại giao, những khác biệt về nhãn quan và ngộ nhận về lập trường giữa Chu và các quan sai trong phủ chúa Nguyễn là một trường hợp độc đáo cần được nghiên cứu và thảo luận kỹ càng hơn. Có điều khá rõ ràng là khi sang Nhật, không những Chu đã không bị bắt lạy mà còn được trọng vọng, Mitsukuni đã tiếp Chu như một quốc sư. Trong một bức thư gửi về Trung Quốc, Chu đã viết về Mitsukuni như sau: “Ông đầy đức độ và lòng dũng cảm, thông minh, và có văn hóa cao. Ông không ngần ngại theo lời khuyên của kẻ dưới… Giá có một vị chúa như vậy ở Trung Quốc, với sự giúp đỡ của những người có tài năng, ông ta có thể xây dựng một xã hội hòa hợp và thanh bình không mấy khó khăn”[13]. Tìm được đất dụng võ, Chu quyết định ở lại Nhật suốt hơn hai mươi năm cho đến lúc tạ thế để truyền bá Nho học. Về điểm này, trong phần kết luận của bài giới thiệu về Chu Thuấn Thủy khoảng hơn nửa thế kỷ trước, học giả Quán Chi Đào Trinh Nhất đã đưa ra nhận xét chí lý như sau: “[… Người nước ta] tiếc một ông thầy chân nho đến ở nhà mình 12 năm ròng rã, mà nhà nho mình thuở ấy không ai biết lợi dụng khải phát được điều gì, để cho ông thầy đâm chán, đem theo cái đạo học cao xa đi xứ khác mất. Cứ xem bọn nhà nho nước Nhật ở thế kỷ XVII tôn sùng họ Chu rồi sau mới biết Khổng học một cách khác hơn”[14]. Ngoài ra, qua tập ký sự của Chu Thuấn Thủy, chúng ta có thể tìm thấy những thông tin bổ ích khác về tình hình Đàng Trong giữa thế kỷ XVII. Chẳng hạn về ngôn ngữ, Chu cho biết một số cách xưng hô trong phủ Chúa mà từ trước đến nay không thấy ghi lại trong các tư liệu Việt Nam. Dựa theo các chú thích về cả hai mặt nghĩa và âm của tác giả, ta biết chúa Nguyễn tự xưng là tau (tức là tao) khi nói chuyện với quần thần; hoặc giả chữ mi (tức là mày) cũng là cách gọi phổ biến của người trên với người dưới, không những trong dân gian mà cả trong phủ Chúa. Chu còn cho chúng ta thấy đôi nét về cộng đồng người Hoa và người Nhật ở Hội An, tình hình học thuật, thư mục những sách chữ Hán ở Đàng Trong lúc bấy giờ. Tập ký sự của Chu còn đề cập đến tình trạng thích bói toán, khuynh hướng chuộng bằng cấp hư danh, đánh giá người theo khả năng làm thơ phú chứ không chú trọng đến thực học trong phủ Chúa lúc bấy giờ[15]. Điều này khác hẳn thái độ của chúa Sãi khi thu dụng Đào Duy Từ chỉ mới cách đấy có hai đời chúa. Khuynh hướng kỳ thị trong việc sử dụng nhân tài nước ngoài - không những của chúa Nguyễn mà của các triều đại Việt Nam nói chung - đều biểu hiện một thái độ đa nghi co mình lại. Chính vì thiếu ý thức tuyển dụng và nung đúc nhân tài nhằm xây dựng một nền thịnh trị lâu dài cho đất nước, nên một nhân vật có tầm cỡ như Chu Thuấn Thủy vẫn không tìm được đất dụng võ ở Việt Nam, phải đợi cho đến khi họ Chu sang Nhật mới có thể phát huy được sở học và tài năng của mình. Bài học lịch sử này vẫn còn đáng được cho chúng ta ngày nay suy ngẫm. Mời các bạn đón đọc Ký Sự Phục Dịch Ở An Nam của tác giả Chu Thuấn Thủy & Vĩnh Sính (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ký Ức Phiên Lãng - Tô Hoài
Trong làng văn học Việt Nam rất hiếm có nhà văn nào nhận được sự yêu thương, mến mộ từ nhiều thế hệ độc giả khác nhau như nhà văn Tô Hoài. Nếu các bạn nhỏ biết đến ông như một người bạn dí dỏm, đáng yêu qua kiệt tác Dế mèn phiêu lưu ký và series truyện ngộ nghĩnh về loài vật, thì độc giả lớn tuổi biết đến ông như một cây đại thụ của làng văn với nhiều tác phẩm đã trở thành những tượng đài bất tử như Vợ chồng A Phủ, Cứu đất cứu mường, Chuyện đầm sen đền Đồng Cổ… Tưởng nhớ một năm ngày Cụ trở về với cát bụi, Công ty Sách Phương Nam đã cho xuất bản và tái bản những tuyệt phẩm để đời của nhà văn, như một lời tri ân sâu sắc kính dâng lên Cụ. Ký Ức Phiên Lãng ghi lại những hồi ức đẹp về con người, về những vùng đất khác nhau trong ký ức của nhà văn Tô Hoài. Ông có dịp đi qua nhiều nước, được gặp gỡ nhiều người và bằng ngòi bút chân thực của mình ông đã ghi lại những con người vừa chân chất, vừa mền khách, vừa anh dũng không chịu khuất phục trước gông xiềng nô lệ. Đó là đất nước Lào với những con người hiền hòa mến khách, là một Campuchia vừa thoát khỏi chế độ diệt chủng Pôn Pốt đang từng bước xây dựng lại đất nước, là một Ê-ti-ô-pi-a dù đang đương đầu với chiến tranh nhưng vẫn luôn hiền hòa tràn đầy hi vọng... Với bút pháp miêu tả bậc thầy nhà văn Tô Hoài đã tái hiện lại mảng ký ức đẹp về con người và đất nước bạn. Giờ đây nó không chỉ là ký ức của riêng ông mà còn sống mãi trong lòng người đọc Việt. *** Tô Hoài (tên khai sinh: Nguyễn Sen; 27 tháng 9 năm 1920 – 6 tháng 7 năm 2014) là một nhà văn Việt Nam. Một số tác phẩm đề tài thiếu nhi của ông được dịch ra ngoại ngữ. Ông được nhà nước Việt Nam trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật Đợt 1 (1996) cho các tác phẩm: Xóm giếng, Nhà nghèo, O chuột, Dế mèn phiêu lưu ký, Núi Cứu quốc, Truyện Tây Bắc, Mười năm, Xuống làng, Vỡ tỉnh, Tào lường, Họ Giàng ở Phìn Sa, Miền Tây, Vợ chồng A Phủ, Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ.     Tô Hoài sinh ra tại quê nội ở thôn Cát Động, Thị trấn Kim Bài, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông cũ trong một gia đình thợ thủ công. Tuy nhiên, ông lớn lên ở quê ngoại là làng Nghĩa Đô, huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (nay thuộc phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam. Bút danh Tô Hoài gắn với hai địa danh: sông Tô Lịch và phủ Hoài Đức. Bước vào tuổi thanh niên, ông đã phải làm nhiều công việc để kiếm sống như dạy trẻ, bán hàng, kế toán hiệu buôn,… nhưng có những lúc thất nghiệp. Khi đến với văn chương, ông nhanh chóng được người đọc chú ý, nhất là qua truyện Dế Mèn phiêu lưu ký. Năm 1943, Tô Hoài gia nhập Hội Văn hóa cứu quốc. Trong chiến tranh Đông Dương, ông chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực báo chí, nhưng vẫn có một số thành tựu quan trọng như Truyện Tây Bắc. Từ năm 1954 trở đi, ông có điều kiện tập trung vào sáng tác. Tính đến nay, sau hơn sáu mươi năm lao động nghệ thuật, ông đã có hơn 100 tác phẩm thuộc nhiều thể loại khác nhau: truyện ngắn, truyện dài kỳ, hồi ký, kịch bản phim, tiểu luận và kinh nghiệm sáng tác. Ông mất ngày 6 tháng 7 năm 2014 tại Hà Nội, hưởng thọ 94 tuổi. *** HÀ NỘI - QUẢNG CHÂU, Air Việt Nam bay một tiếng ba mươi phút. Cất cánh bờ sông Hồng chân Tam Đảo, uống một lon bia thì trông thấy thành phố Quảng Châu bên sông Châu Giang với núi Bạch Vân mùa đông mù mịt. Trong các phương tiện đi lại ngày nay, con ngựa, con thuyền, tàu thủy, tàu hỏa, chiếc xe và đôi chân người thì cái tàu bay đã làm cho kẻ lữ hành nhãng mất cảm tưởng xa gần nơi đến nơi đi. Quảng Châu tôi chưa bao giờ được tới mà đã sẵn gần gũi rồi. Dẫu cho dọc đường dưới kia có nhọc nhằn ngày đi đêm nghỉ biết mấy thì phương trời này với tôi không phải từ hồng hoang. Khi mới biết mặt chữ, những trang vỡ lòng đã cho chúng tôi thuộc làu làu những Lĩnh Nam, những Ngũ Lĩnh, những Lĩnh Nam trích quái , những quân quan tuần thú phương nam trong sử sách mà bao nhiêu năm về sau còn cảm thấy trập trùng thiên sơn vạn thủy khi nghe bài hát Nhị Lang Sơn . Thành Phiên Ngung bây giờ là một thị trấn vệ tinh của Quảng Châu. Trên đại lộ giữa Quảng Châu hiện đại, năm 1983 mới phát hiện mộ Nam Việt Vương - mối tình bi thảm Mỵ Châu - Trọng Thủy xa gần nguồn gốc từ đây. Công viên đồi Hoàng Hoa, mộ liệt sĩ Phạm Hồng Thái (1904 - 1924), bia khắc năm ông hy sinh, tôi khi đó mới chập chững biết đi. Trước mặt, doi đất Sa Diện bờ Châu Giang, địa phận tô giới Pháp - Anh ngày trước, khách sạn Victoria vẫn như xưa. Phạm Hồng Thái ném bom định giết Mec-lanh toàn quyền Đông Dương rồi băng ra sông Châu - chỗ ấy ngã ba kênh đào, liệt sĩ đã bỏ mình giữa nơi sông nước mênh mang này. Đến đây, hôm nay mới thấy, nhưng chúng tôi đã nghe được kỳ tích anh hùng Phạm Hồng Thái từ tuổi thanh niên. Lịch sử thế nào, con người và thời gian thì vừa ngắn ngủi vừa lâu dài. Nơi Bác Hồ đã sáng lập và làm báo Việt Nam Thanh niên Cách mệnh Đồng chí Hội ở phố Văn Minh, một phố cũ như Hàng Đường, Hàng Giấy Hà Nội. Nhà ở và cửa hàng chen khít, một cổng ngách sâu vào nhà trong. Nghĩ về hang đá Pác Bó ở rừng Hà Quảng Cao Bằng hơn hai mươi năm sau. Thì đây đã là một hang Pác Bó giữa nơi phồn hoa, Người vì lý tưởng, sá gì ở chỗ nào, thế nào. ... Mời các bạn đón đọc Ký Ức Phiên Lãng của tác giả Tô Hoài.
Độc Thoại Hai Mươi - Mạc Thụy
“Giữa đời sống bộn bề và tấp nập, có khi nào bạn kịp nhận ra mình đang đi quá nhanh? Có khi nào bạn nghe được đời sống đang nghiêng nghiêng, thầm thì? Có khi nào bạn ngoái lại nhìn một điều gì trong nuối tiếc? Tôi nghĩ, đời sống có nhiều thứ diễm lệ và khí chất hơn việc chỉ khư khư sầu đau mỗi chuyện ái tình” Độc thoại hai mươi là cuốn sách ghi lại hành trình của những xê dịch. Xê dịch từ những miền đất chàng trai trẻ đó đã đi qua; xê dịch những cảm xúc trong tâm hồn giữa buồn, vui, hờ hững, nuối tiếc, cả những cảm xúc không gọi thành tên; xê dịch để cảm nhận và xê dịch để chiêm nghiệm. Đọc những con chữ của Mạc Thụy, người đọc như được buông mình giữa những hối hả của cuộc sống hàng ngày. Đôi khi người ta bắt gặp chính mình, nỗi niềm đó, cảm xúc đó, tâm trạng đó dưới những dòng ghi chép tản mạn của chàng trai trẻ. Những thứ vu vơ rất thật, những nỗi buồn chênh vênh của một thời tuổi trẻ, những hoài niệm về chuyện cũ đã qua, và cả những yêu thương ấm áp của mối tình đầu. Mạc Thụy đã rong ruổi ngồi sắp lại tất cả những điều đó trong 58 bài viết của cuốn sách này. *** Nhận định "Thằng Thụy sến, nhưng cái sến của nó mang cả một bầu trời của hoài niệm về những ngày xưa cũ. Văn thằng Thụy cũng như con người nó, đầy chất tự sự, đầy chất hoài niệm và đầy chất thơ. Thằng Thụy viết ngày hai mươi, nhưng đọc của nó, lại cứ thấy giống của một người ngoài năm mươi đang ngồi dẫm trà, nhớ về kỉ niệm xưa. Mà kỉ niệm, thì lúc nào chẳng đẹp, vì người ta không bao giờ tìm lại được cảm giác như kỉ niệm lần nào nữa trong đời. Vì vậy, đọc văn thằng Thụy cũng thấy cái vẻ đẹp phảng phất mùi kỉ niệm đó." (Nguyễn Ngọc Thạch) *** Trong dòng đời sống của mỗi con người, ai cũng có một thứ gắn liền với mảnh đất nơi họ từ đó bước ra đi, để nhớ nhung về, để thương yêu và thổn thức về. Với mảnh đất ấy, trong tôi là một con sông. Có những đêm Sài Gòn sương xuống trở lạnh, việc của đời, tôi tạm gác lại, và ngồi thở khó nhọc vì sự ngột ngạt của căn gác trọ. Những lúc ấy, tôi thường mở toang cửa sổ, mong tìm kiếm một cơn gió đi lạc vào chốn nhà len chặt nhà, mong tìm thấy một ánh trăng bàng bạc lọt qua khung trời dần kín mít những tầng là tầng cao. Những lúc vận may mỉm cười, tôi vẫn tìm được sự cứu rỗi trong phút chốc. Có đôi khi, tiếng rao lạc lõng giữa đêm hun hút, lại cồn cào trong tôi nỗi nhớ: về con sông quê hương. Về những đêm bên này bờ nhìn bên kia bờ dưới ánh đèn vàng vọt. Về những người xa và vài mảnh tình con con êm ái. Dân vùng gọi nó là Cà Ty. Tôi gọi nó là sông Mong. Mong chờ. Một điều lí thú là, có khá ít những con sông chảy băng ngang qua giữa trung tâm thành phố. Nhưng, hễ có con sông nào ngạo nghễ cắt thành phố ra đôi bờ bên này bên kia thì hẳn thể nào cũng nên thơ, nên văn. Có thể kể ra trên đầu ngón tay sơ sơ vài cái tên nổi tiếng, được vào thi ca. Bên Tây có dòng La Seine, đằm thắm dạo chơi qua Paris, êm ái và kiêu kì như một nàng tiểu thư đài các. Giữa những đêm huyền diệu bên dòng La Seine, nhạc sĩ tài danh Matthieu Chedid đã cảm tác nên bài La Seine làm rúng động con tim bao thế hệ. Bản này, nàng “chanteuse” Bạch Yến của Việt Nam cũng từng ca qua và nhận được nhiều sự yêu mến từ cả dân Paris lẫn dân Việt. Nhiều thi sĩ, nhạc sĩ của Việt Nam khi sang đây du học hoặc định cư đều không thoát khỏi vẻ đẹp mê đắm của dòng sông Seine, để rồi viết nên những lời thơ, ý nhạc trở thành bất hủ, như Cung Trầm Tưởng, Nguyên Sa, Anh Bằng, Lam Phương… Rồi nhiều nữa những dòng Thames của Anh Quốc sương mù vương vấn, hay dòng Danube với nhạc phẩm huyền thoại Le Beau Danube Bleu (tên tiếng Việt là Dòng sông Xanh gắn liền với tiếng hát của đại danh ca Thái Thanh). Ở ta thì không thể không nhắc đến dòng Hương Giang. Nàng Hương Giang sầu mộng đi vào không biết bao nhiêu lời văn, ý thơ, tứ nhạc của các tài danh xứ Việt. Biết bao cuộc tình thơ mộng và biến động thời cuộc bên dòng xanh thẳm này. Ấy vậy mà người ta vẫn nghêu ngao hoài: “Hát nữa đi Hương, hát điệu nhạc buồn, điệu nhạc quê hương…” (Hương ca vô tận - Trầm Tử Thiêng), rồi thì: “Dòng sông Hương vẫn mơ, thời gian trôi chưa xóa màu xanh mơ hồ…” (Trở về Huế - Văn Phụng), để rồi tự vấn hoài câu hỏi mãi chẳng có lời đáp: Ai đã đặt tên cho dòng sông? (Hoàng Phủ Ngọc Tường). Dòng Cà Ty của Phan Thiết - dòng Mong Chờ của tôi - thì chẳng chảy dài trong từng áng thi văn như thế. Dòng Mong Chờ chỉ tuôn mãi trong hoài niệm và kí ức của những con người dung dị nơi phố biển này mà thôi, trong đó có cả tôi, qua những câu chuyện má kể, qua những sớm tối rong ruổi dưới ánh đèn màu… Dòng sông chảy dài qua Phan Thiết êm êm một màu phù sa từ thượng nguồn. Mạn đầu lúc mới vào thành phố, hai bên bờ len kín những nhà là nhà của bà con làng chài. Từng manh lưới, cái thúng đến nong khô cá được dân chài phơi phóng giữa ngày ngư nhàn tạo nên một bức tranh miền biển rộn rã, yên bình và mặn mòi. Nhà cửa hai bên bờ thường xây theo kiểu dã chiến, nửa nhà sàn vươn ra phía sông, hoặc ai khấm khá thì đôn nền thật cao để tránh khi nước lớn. Ở mạn cuối trước khi dòng sông đổ ra cửa biển, và cũng là trung tâm thành phố, hai bên bờ dần được cải tạo thành hành lang ven sông, khá tươm tất và đẹp mắt. Ðoạn gần cảng biển, tàu bè đậu nhiều lắm. Những con tàu đánh cá bằng gỗ ván, dày dạn sóng gió. ... Mời các bạn đón đọc Độc Thoại Hai Mươi của tác giả Mạc Thụy.
Ký Ức Lạc Loài
Ký ức lạc loài (nguyên tác tiếng Đức: Die Ausgewanderten) là tuyển tập bút ký của W.G. Sebald ấn hành năm 1992; từng được trao các giải thưởng văn chương danh giá: Berlin Literature Prize, the Literatur Nord Prize và Huy chương Johannes Bobrowski. Bản tiếng Việt do Đăng Thư dịch lại từ phiên bản tiếng Anh có nhan đề The Emigrants của Michael Hulse, in 1997. Cuốn sách là bốn câu chuyện đầy u uẩn của bốn nhân vật: Henry Selwyn, Paul Bereyter, Ambros Adelwarth và Max Aurach - những người Đức di cư đến Anh, Mỹ sau Thế chiến Thứ hai. Các nhân vật của Sebald đa phần thuộc thành phần trí thức: bác sĩ, giáo viên,… trở thành những người di dân và bị lưu đày trong vùng ký ức ngột ngạt. Trong buổi hoàng hôn của cuộc đời, họ không thể tìm thấy bình yên. Họ tự sát, tự đi vào nhà thương điên hay tìm cách trở về rồi biến mất… Lối viết tỉ mỉ, cùng hình ảnh tư liệu minh họa, các câu chuyện đan bện vào nhau như những thước phim tài liệu có màu sắc ảm đạm, chậm rãi và ẩn giấu nhiều sự thật tàn khốc, chạm vào tầng sâu kín nhất của tâm thức di dân. Đọc W. G. Sebald cũng có thể nhận ra tâm trí con người là thứ bị hủy hoại nặng nề và khó tái thiết nhất sau những dư chấn lịch sử. *** Giữa những trang sách như một mê cung của ký ức, chiến tranh âm thầm len lỏi, những thất vọng và đổ vỡ được chất chứa trong một hình thức bình thản đến kỳ lạ Có những nhà văn sinh ra để lưu giữ ký ức của một dân tộc, để không gì bị lãng quên. Đối với những người Đức nhập cư, W.G. Sebald là người trao truyền ký ức của họ. "Ký ức lạc loài" (Đăng Thư dịch, Phanbook và NXB Đà Nẵng ấn hành 2019) là tác phẩm ký thác những mảnh vụn đời sống của một thế hệ người nhập cư sau Đệ nhị Thế chiến. Thật khó để định dạng rõ ràng thể loại của tác phẩm này. Là một tiểu thuyết, nó đầy ắp tư liệu hình ảnh, những ngày tháng. Là một hồi ký, nó bàng bạc tính hư cấu và những liên tưởng văn chương. W.G. Sebald đưa người đọc vào thế giới của những thước phim tài liệu, như một biên niên ký ghi nhận 4 cuộc đời song hành cùng nhau, đau thương cùng nhau và hủy diệt cùng nhau. Lần lượt trải qua 4 nhân vật: bác sĩ Henry Selwyn, Paul Bereyter, Ambros Adelwarth và Max Aurach, nhà văn tái hiện bức chân dung của những con người tha hương lưu lạc nơi đất khách, từng người mang theo trong mình gánh nặng quá khứ. Đối với họ, đời sống ở nơi chốn mới không khác chi sự lưu đày, khi mà những thương tổn xa xưa vĩnh viễn in hằn trong trí nhớ. Ký ức đối với họ "là một thứ ngu ngốc. Nó làm đầu óc ta choáng váng, chẳng khác gì ta không nhìn ngược về phối cảnh đang lùi xa dần của thời gian mà là nhìn xuống mặt đất từ một độ cao chót vót, từ trên một tòa tháp nào đó mà đỉnh đã chìm khuất trong mây". Trên cái "độ cao chót vót" ấy, W.G. Sebald nhìn xuống quá khứ như nhìn xuống một vực thẳm, từ vực thẳm, những tiếng nói tưởng chừng bị chôn vùi bỗng vang vọng, sống động và chân xác như thể ở cái chốn thâm u của lịch sử ấy, những số phận lạc loài vẫn ngày ngày cất lên lời ai oán về những nỗi đau chiến tranh. Có thể xếp W.G. Sebald vào những nhà văn Đức hậu chiến, mặc cho ông bắt đầu sự nghiệp văn chương khá muộn, dù rằng ông rời bỏ nước Đức khi tuổi đời còn rất trẻ và quyết định sống nốt phần đời còn lại ở nước ngoài. Dường như ông muốn giữ khoảng cách với quê hương, một khoảng cách vừa đủ để ông nhìn lại nó dưới thấu kính của mình. "Ký ức lạc loài" từ đầu đến cuối giữ một điểm nhìn trung lập, người kể chuyện giữ mối quan hệ nhất định với các nhân vật nhưng đồng thời lại có vẻ biết rất ít về những con người đã dần phai nhạt trên cuộc đời, thứ nhắc nhớ chỉ còn là những di vật từng thuộc về một ai đó đã tồn tại cứ khiến ta băn khoăn đến sự hiện hữu của họ. Trong tác phẩm của W.G. Sebald, chiến tranh hiện lên chớp nhoáng. Khác với những nhà văn khác, ông không miêu tả một xã hội Đức rệu rã, hỗn loạn, đánh mất niềm tin không chỉ vì nỗi nhục thua trận trong chiến tranh mà còn bởi những giá trị về con người và nhân phẩm bị rạn vỡ. Ông sinh vào giai đoạn Thế chiến thứ hai đã đến hồi tàn, ông không trực tiếp trải qua cuộc chiến, không đứng hẳn về phía những kẻ chiến bại, không phát điên về nó. Ông trưởng thành trong một thời đại không thấy anh hùng, cho nên không khắc họa sự thiếu vắng lý tưởng ở các nhân vật của thời đại. Ông đối thoại với quá khứ bằng số liệu, ông lạnh lùng nhìn lại thế hệ cha ông với đôi mắt tinh tường và một tinh thần phán xét. W.G. Sebald có người cha đi lính cho Đức quốc xã, trở thành tù binh chiến tranh, chỉ được thả vào năm 1947. Sinh năm 1944, ký ức chiến tranh hiện diện sâu sắc nhất trong đời ông chính là khi ở trường, ông được cho xem những bức ảnh về trại tập trung Holocaust. Từ đó Holocaust và nước Đức thời hậu chiến trở thành chủ đề lớn trong các tác phẩm của ông. W.G. Sebald làm công việc của một sử quan nhưng không mấy chú trọng vào toàn cảnh của lịch sử mà tập trung vào những nhân vật phụ, những tiểu cảnh lẩn khuất phía xa trong tổng thể của một bức tranh lớn. Với cái nhìn nhẹ bẫng, ông bày biện ra trước mắt người đọc những vật chứng, bức ảnh một người đàn ông bắt bướm, một nghĩa trang hoang lạnh, một tờ báo cũ, một sơ đồ... Gabriel García Márquez từng nói: "Trong báo chí, một dữ liệu sai phủ nhận toàn bộ công trình. Ngược lại, trong tiểu thuyết, một chi tiết thật cũng tạo được sự tin cậy cho toàn tác phẩm". Sự tin cậy mà W.G. Sebald tạo được không chỉ đến từ những "vật chứng" được ông bày ra khắp cuốn sách mà còn từ chỗ các nhân vật của ông từ một tiểu sử cá nhân đã phổ quát thành mẫu số chung của những thân phận lưu dân, được tác giả khéo léo đan cài trong những trang sách. Giữa những trang sách như một mê cung của ký ức ấy, chiến tranh âm thầm len lỏi như một bóng ma truy đuổi con người, những thất vọng và đổ vỡ, sự thiếu quê hương được chất chứa trong một hình thức bình thản đến kỳ lạ.  *** W. G. SEBALD (1944-2001): Là một trong những nhà văn, học giả người Đức quan trọng sau Thế chiến thứ hai. Các tác phẩm của ông xoay quanh chủ đề người Đức với ký ức, sự lãng quên và những thương tổn tinh thần trong thời hậu chiến. Ngoài ra, ông còn viết về sự hủy diệt, mất mát của các nền văn minh, của truyền thống và các biểu trưng lịch sử văn hóa thông qua những vật thể. Văn chương của ông được giới phê bình, học thuật đánh giá cao. Ông được nhiều nhà phê bình văn học xem là một trong những nhà văn lớn nhất ở thời đại. Tủ sách Danh tác của Phanbook sẽ lần lượt giới thiệu đến độc giả Việt Nam các tác phẩm lớn của W. G. Sebald: Ký ức lạc loài, Vành Thổ tinh, Vertigo và Austerlitz. Dù sống chủ yếu ở Anh, W.G. Sebald vẫn là nhà văn viết tiếng Đức, một thứ tiếng Đức mà các nhà phê bình nhận xét là cổ điển và cầu kỳ, nên nhà văn đã rất kỹ lưỡng theo dõi quá trình dịch tác phẩm của ông sang tiếng Anh. "Ký ức lạc loài" nằm trong bộ tứ: "Vertigo" (1990), "Ký ức lạc loài" (1992), "The Rings of Saturn" (1995) và "Austerlitz"(2001). Ông được nhiều nhà phê bình văn học ca ngợi là một trong những tác giả vĩ đại nhất lúc sinh thời, tuy nhiên, một tai nạn giao thông đã cướp đi sinh mạng nhà văn năm 2001. Trong một cuộc phỏng vấn năm 2007, Horace Engdahl, cựu thư ký của Viện Hàn lâm Thụy Điển, đã nhắc đến W.G. Sebald, Ryszard Kapuściński và Jacques Derrida là 3 nhà văn vừa qua đời gần đây, những người đáng được nhận giải Nobel Văn chương.   Mời các bạn đón đọc Ký Ức Lạc Loài của tác giả W. G. Sebald.
Xứ Con Người - Antoine de Saint-Exupéry
Bản dịch khác của Xứ Con Người là Cõi Người Ta, dịch giả: Bùi Giáng. Xứ con người là tác phẩm thứ ba, được xuất bản của nhà văn người Pháp Antoine de Saint-Exupéry, sau Thư phương Nam và Bay đêm. Cuốn sách mang đậm tính tự truyện này trước hết là bản hùng ca dành tặng các phi công của hãng Không Bưu, đặc biệt là hai đồng nghiệp của tác giả, Jean Mermoz và Henri Guillaumet. Văn phong phóng khoáng và lãng mạn, Xứ con người không chỉ thuật lại những chuyến phiêu lưu trên máy bay của chính Saint-Exupéry và các đồng đội qua mọi miền thế giới, mà là nơi ông chiêm nghiệm những vấn đề khác như tình bạn, triết học, định mệnh, tiến bộ công nghệ, những mâu thuẫn của loài người.   Xứ con người đã đạt Giải Thưởng Lớn dành cho tiểu thuyết của Viện Hàn lâm Pháp, dù đây không phải là một cuốn tiểu thuyết. Tại Mỹ, dưới nhan đề Wind, Sand and Stars (Gió, cát và những vì sao), Xứ con người đã được Hiệp hội các nhà Sách nước này chào đón liệt nhiệt.    *** Nhận định   “Yêu thương tuyệt không phải là người này nhìn người kia, mà là cùng nhau nhìn về một hướng.” - Saint-Exupéry *** Ấy là năm 1926. Tôi vừa vào nhận việc, là người lái trẻ đường dài ở hãng Latécoère, hãng này bấy giờ đảm nhiệm chặng Toulouse-Dakar, trước hãng Aéropostale và hãng Air France. Tôi học nghề là ở đây. Như các bạn bè, tôi đến lượt trải qua thời kỳ tập sự mà những người trẻ phải trải qua trước khi được vinh dự lái chiếc bưu cơ. Bay tập thử các loại máy bay. Đi, về Toulouse và Perpignan. Những buổi học buồn tẻ về khí tượng tận cuối một nhà vòm giá lạnh. Chúng tôi sống trong mối e ngại về những ngọn núi ở Tây Ban Nha mà chúng tôi chưa được thấy, và với sự nể phục các bậc đàn anh. Các bậc đàn anh ấy, chúng tôi thấy họ trở về, thấy họ vào quán ăn, cau có, hơi cách biệt, rất kẻ cả ném cho chúng tôi những lời khuyên bảo. Và khi một người nào đó trong bọn họ, từ Alicante hay Casablanca mà về muộn, áo da sũng nước mưa, có trả lời ai trong bọn chúng tôi khi chúng tôi rụt rè hỏi về chuyến đi thì những câu trả lời ngắn ngủn của anh ta, vào những ngày bão tố, cũng dựng lên trong chúng tôi một thế giới y hệt trong thần thoại, đầy bẫy sập, đầy lưới bủa, đầy những ghềnh đá đột nhiên nhô ra, những xoáy nước có thể bứt vứt được những cây bách hương. Những con rồng đen canh gác lối ra vào các thung lũng, hàng bó chớp vây lấy các đỉnh núi như là vương miện. Các bậc đàn anh ấy biết nuôi giữ lòng kính trọng của chúng tôi. Nhưng lâu lâu lại có một người, trong bọn họ, trở thành thiên thu đáng kính trọng, không trở về. Như vậy đấy, tôi nhớ một chuyến trở về của Bury, sau này chết trong dãy Corbières. Người lái già ấy vừa ngồi xuống giữa bọn tôi, ăn uống mệt nhọc, chẳng nói năng gì, hai vai còn sễ vì đã dụng sức. Ấy là vào cuối một trong những ngày xấu mà từ đầu chí cuối đường bay, vòm trời úa vỡ, tất cả các đỉnh núi, trước mắt người lái, như vầy trong bùn ghét, giống các khẩu đại bạc cắn đứt được các dây chằng, cày nát sàn những chiếc thuyền buồm ngày trước. Tôi nhìn Bury và nuốt nước bọt trước khi đánh liều hỏi anh chuyến bay hôm nay có vất vả không. Không nghe thấy tôi hỏi, trán đầy nếp răn, Bury cúi gằm xuống đĩa. Trên những chiếc máy bay không mui, vào lúc trời xấu, phải nghiêng người ra ngoài kính chắn để thấy cho được rõ, những cái tát của gió còn rít mãi trong tai người lái. Một lúc lâu, anh mới ngẩng đầu, có vẽ đã nghe thấy, có vẻ nhớ lại và đột nhiên bật lên một tiếng cười khanh khách. Cái cười ấy khiến tôi kinh ngạc thán phục, vì Bury ít cười, và cái cười ngắn này làm cho nỗi mệt nhọc của anh như bừng sáng lên. Anh không giảng giải chút gì nữa về thắng lợi của mình, nghiêng đầu và tiếp tục yên lặng nhai. Nhưng trong không khí quán ăn mờ xám, giữa bọn công chức nhỏ không lấy gì làm mỏi mệt lắm đang ăn để lấy lại sức, người đồng nghiệp hai vai nặng trĩu kia bỗng nhiên đối với tôi có một vẻ cao quý khác thường: anh đã cho tôi thấy, qua cái vỏ ngoài cục mịch, vị thiên thần thắng được rồng tinh. ... Mời các bạn đón đọc Xứ Con Người của tác giả Antoine de Saint-Exupéry.