Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Á - Âu Cách Một Cây Cầu

Cuốn sách này đánh dấu một chặng đường phiêu du của Đào Thị Diễm Trang (tên “ở nhà” là Diễm) khi cô đi qua vừa đủ 20 nước trên thế giới. Lúc bạn cầm nó trên tay, có lẽ cô đã kịp trở về từ nước thứ 23. Nếu chỉ là con số như vậy thì chắc hẳn chưa có gì phi thường, nhất là đối với thế hệ của cô, những người tuổi teen ở năm 2000 thích chi vào du lịch, ẩm thực, khám phá thế giới bằng số tiền mà các thế hệ trước đó tích lũy để tậu xe, xây nhà, cưới hỏi… (Là tôi thấy những nghiên cứu trên thế giới tổng kết như vậy.) Không chỉ đi. Thế hệ ấy còn thích viết tản văn du lịch. Lúc đầu thường đơn giản đưa ngay lên facebook, cùng với những tấm hình, những video livestream,… chia sẻ cho vòng bạn hữu rằng mình đã “check-in”, đang “enjoy” đâu đó. Đến một ngày nhìn lại thấy giàu có, và quan trọng hơn, nhận ra rằng gia tài tinh thần này không chỉ thuộc về mình và cho mình nữa. Vì thế hệ ấy cũng mê đọc tản văn du lịch. “500 anh em” ào ào vào “like” và “comment”, báo chí nhanh tay đăng lại những bài hay, nhà xuất bản in tuyển tập, các cơ sở du lịch thì an tâm ngồi đợi một số không ít anh em “lây nhiễm” thú xê dịch sẽ lại lên đường và sẽ lại tiếp tục post… Những “entry” du lịch thành một loại tiền tệ của những “bộ tộc” trẻ trung khắp cả thế giới. Du ký trong khoảng mươi năm nay chưa bao giờ hết “mốt”. Mà ngày càng nhiều trong số đó là của các “nữ hiệp”: Hoàng Yến Anh (Dưới nắng trời châu Âu), Ngô Thị Giáng Uyên (Ngón tay mình còn thơm mùi oải hương), Nguyễn Phương Mai (Tôi là một con lừa, Con đường Hồi giáo), Nguyễn Phan Quế Mai (Hạt muối rong chơi, Từ tuyết đến mặt trời), Yếm đào lẳng lơ (Gái phượt), Huyền Chíp (Xách ba lô lên và đi), Hiên Bonnie Trần (Vì cuộc đời là những chuyến đi), Quỳnh in Seoul (Seoul đến và yêu), Thủy Trần (Trên dấu chân mình, Thương nhớ Đồng Văn), Đinh Hằng (Chân đi không mỏi: Hành trình Đông Nam Á, Quá trẻ để chết: Hành trình nước Mỹ), Bùi Mai Hương (Hẹn hò với châu Âu), Camille Thắm Trần (Bỏ nhà đi Paris), Nguyễn Thị Kim Ngân (Rong ruổi Scotland cùng anh, em nhé!, Nào, mình cùng đạp xe đến Paris), Ploy (Bánh bèo phiêu lưu ký), Đoàn Thị Thanh Trà (Ở xứ đàn bà không chạy chợ)… Trang Hạ đã có lần đặt câu hỏi: “Hàng nghìn nhà văn nữ đang viết sách du lịch và văn hóa cho độc giả châu Á vẫn luôn là những phụ nữ đáng thèm muốn nhất. Vì sao họ có sức hút lạ lùng ấy, với đàn ông và với độc giả?”. Và tự trả lời: “Đó là người phụ nữ cầm máy ảnh đi dọc đường độc hành, vừa thấy cô đơn vừa thấy tự tại. […] Và chỉ có người phụ nữ với những cảm nhận dọc đường đi, tinh tế và lãng mạn, mới làm cho những cuốn sách du lịch không đơn thuần chỉ là quảng cáo một nơi đến. Với tôi, nó nói nhiều hơn về cách sống. […] Đi – chụp ảnh – ghi chép trở thành cách người phụ nữ chinh phục cuộc sống. Họ luôn hạnh phúc, dù đi một mình hay với ai. Và vì thế, người phụ nữ đi là một người phụ nữ luôn đẹp, luôn cuốn hút, luôn có những câu chuyện để kể”1. 1 Trang Hạ: “Đi và viết”. Rãnh ngực và tiệc đêm. NXB Thời đại 2012. Giọng nữ quyền có thể tìm thấy ở quý cô ngao du, “Lady Walker” – một hình tượng tuyệt vời đích đáng để đối trọng với quý ông đi bộ “Johnnie Walker” của giới mày râu bấy lâu nay. Hay thật chứ! Thuộc thế hệ trước Diễm, tôi cũng đã kịp tới hầu khắp các nước mà cô qua…, ừ thì thiếu Úc, Ý, Thổ Nhĩ Kỳ nhưng lại có thêm Ấn Độ, Philippines, Indonesia, Tây Ban Nha, Luxembourg, Mỹ. Thế mà vẫn bị du ký của cô cuốn hút, sung sướng gặp lại những nơi chốn mình từng thả bước, nghe những kỷ niệm thoang thoảng hay sâu lắng trong lòng bỗng thức dậy mới mẻ khi một lần nữa phiêu du cùng Diễm. Còn nếu đó là nơi chưa bao giờ đến, trót phiêu du cùng Diễm thì muốn book vé bay và sửa soạn va-li, mê đắm những chân trời. Đôi lúc, muốn thử soi dưới nắng (bắt chước Gorki hay Lỗ Tấn), tìm giữa những dòng chữ, sức hấp dẫn riêng gì, nét duyên riêng gì… rất Diễm? Dường như có nhiều ở trong giọng kể ngôi thứ nhất của cô. “Tôi mê mẩn nhìn / Tôi lẩm nhẩm hát / Tôi để ý / Tôi quen dần / Tôi nhận ra / Tôi thích nhất / Tôi xiêu lòng / Tôi rớt nước mắt / Tôi choáng váng / Tôi hối hận / Tôi ngẫm / Tôi cảm thấy…” đậm đặc tất cả các bài viết. Không đặt focus ở miêu thuật, khách quan mà chủ yếu biểu hiện, chủ quan. Không bao giờ flat, monotonous, mà luôn sống động, phấn hứng, kịch tích, hài hước trong khi vẫn giữ được tất cả độ tin cậy của sự chân thành, hồn nhiên, dung dị. Dường như có nhiều ở bản năng nắm bắt được ma lực của collage, bricolage, pastiche. Cô xếp chồng lớp lớp trong lời kể của mình những chất liệu, những nguồn cảm hứng hết sức đa dạng, khi thì tương cận hài hòa, khi thì tương phản mạnh mẽ, khiến chúng âm vang lên những tấu khúc lạ lùng, dung nhập hiện đại với truyền thống, thực tại với mộng tưởng, ta với tha nhân, tâm với vật…, bất ngờ đi về giữa Sydney và Yên Tử, người đàn ông tiểu thương Kapalicarsi và bà Tú Xương buôn bán ở mom sông, bài ca và giọt lệ của đá, bệnh tật và nghệ thuật, những trận đấu bò với khoái cảm từ máu, khinh khí cầu và khát vọng vút bay… Và, có lẽ nhiều nhất là ở năng lực giàu có mãnh liệt của tâm hồn. Thường chỉ có khoảng năm đến mười ngày của một tour du lịch theo hành trình định sẵn, cô biết rõ sự khắc nghiệt của mỗi khoảnh khắc qua đi là mỗi khoảnh khắc không lấy lại được. Để mở hết cánh cửa cả sáu giác quan, để thâu nhận những cảnh, những người, những truyền thống, những nền văn hóa bằng tất cả tâm hồn nhạy cảm, đằm thắm yêu thương của một công dân quốc tế, biết đối thoại và chung sống. Và dẫu đi muôn phương, cuối cùng trở về, để thấm thía hơn nỗi niềm hoài nhớ nostalgia gắn bó mình với Mẹ, với ngôi nhà, với quê hương, đất nước còn khó nghèo nhưng đầy đặn nghĩa tình. Diễm không phải một phượt thủ, chỉ thỉnh thoảng thành lữ khách (VIP) của những công ty du lịch. Nghề chính, cô là giảng viên đại học, làm tour guide dẫn các em sinh viên đến những xứ sở văn chương, văn hóa các nước. Chỉ đọc du ký thôi, có thể hình dung những giờ dạy của cô. Phiêu du cùng Diễm bao giờ cũng là một trải nghiệm thi vị. Tháng 05/ 2018, GS. TS Phan Thị Thu Hiền *** Tôi không phải là một phượt thủ. Cách du ngoạn các nước của tôi có thể không hấp dẫn với nhiều người. Tôi mua một tour du lịch khi phải đến những địa điểm mà tôi không chắc mình rành rẽ về nó. Bạn đồng hành của tôi là những người thân trong gia đình. Không đi một mình, không đến những điểm không an toàn nhưng nếu cần thì tách đoàn trong một thời gian ngắn; tranh thủ thời gian trống của tour để khám phá thêm những điểm tham quan, trải nghiệm ẩm thực hay thử một phương tiện giao thông địa phương là nguyên tắc của tôi. Không cố tình bắt chước thi hào Tagore thuở bé – nhìn ra cửa sổ khi thầy giáo giảng bài – nhưng tôi cũng mắc cái tật hướng về cửa sổ xe khi hướng dẫn viên đang thao thao bất tuyệt. Điều đó không có nghĩa là tôi lơ đễnh hoặc không tin những gì anh ta hay cô ta đang nói. Tôi có lắng nghe và ghi chú lại những ý hay, những “key word” rồi từ từ tra cứu nếu có hứng thú. Hầu hết thời gian trên đường, tôi nhìn ngắm mọi thứ trước khi thuốc say xe chỉ đạo phải say giấc. Tôi thích nhan đề cuốn sách Phương Đông lướt ngoài cửa sổ của Paul Theroux, có chút gì đó giống hoàn cảnh của mình. Thế nên, tôi sẽ không bao giờ viết được những công trình du ký dày dặn, công phu và chỉn chu. Những ghi chép của tôi hầu hết là ngẫu hứng và dựa trên “nồng độ” xúc cảm khi tiếp cận thắng cảnh, con người, văn hóa. Tôi nghiệm ra rằng không phải cái gì hoành tráng, lâu đời thì sẽ cho cảm xúc đậm đà và ngược lại. Tôi cũng rút kinh nghiệm là phải ghi chép lại ngay vì để lâu sẽ “nguội”. Cứ viết khi căng tràn cảm xúc. Có những điều thấm vào máu thịt nhưng chẳng thể tròn lời thì tạm “nhân nhượng” chứ không “cố chấp”. Đôi lúc, một vài ấn tượng giữa các lần xê dịch sẽ là những mảnh ghép hoàn hảo để tôi hoàn thành một bài viết mang tính xâu chuỗi, tổng hợp. Hoặc có khi, một chi tiết nào đó ở địa danh này lại giúp tôi có dịp liên tưởng, ngẫm nghĩ đến những yếu tố tương tự ở một địa danh khác. Những ghi chép của tôi không cân đối và khuyết hẳn hai “người khổng lồ” của châu Á là Ấn Độ và Trung Hoa. Tôi chưa đến Ấn Độ, dẫu biết vùng đất này tuyệt vời nhưng có lẽ tôi cần có một sự chuẩn bị đầy đủ hơn, về mọi mặt, để có thể tự tin thả mình trôi theo xứ sở của tâm linh lẫn lạc thú, nơi mà chữ “duyên” được xem như khởi nguồn của những tao ngộ. Trung Hoa thì tôi đã trở đi trở lại bốn lần, ở nhiều thành phố khác nhau, nhưng những cảm xúc tích cực lẫn tiêu cực cứ trộn lẫn khiến tôi thấy rối bời khi đặt bút. Nhưng không có nghĩa là tôi sẽ “bỏ qua”. Một ngày không xa, tôi sẽ đi sâu và ngẫm lâu về hai nơi chốn “lớn hết phần người khác” này. Trong khi đó, tôi lại ý thức rõ sự dạt dào của mình với Trung Đông. Đó là sự phải lòng bất kể lúc nào gặp gỡ và chỉ ngày càng thêm sâu đậm. Tôi có thể mỉm cười hay rơi nước mắt một cách tự nhiên mỗi khi hồi tưởng những giờ phút ở đây. Những đôi mi rợp lá dừa, mùi ngây ngây trên thân lạc đà, mấy tán cây hiếm hoi mà cao kỳ và cơ man sắc màu lộng lẫy, huyền bí của trang sức, vật dụng luôn tràn ngập trong tâm trí tôi. Một kẻ thiên vị đáng được cảm thông hơn là trách cứ, phải không? Xen kẽ trong những bài viết về các quốc gia Á, Âu là vài bài viết trên những nẻo đường nước Việt. Mỗi khi từ đâu trở về, tôi đều xách xe máy chạy một vòng trung tâm Sài Gòn, uống cà phê, ăn quà vặt. Tôi hiếm khi mua tour trong nước mà tự mình thu xếp chuyến đi. Khách sạn tuyệt vời và thân thiện. Núi đồi, đèo dốc, đồng bằng, sông ngòi, biển cả… duyên dáng, thơ mộng. Thức ăn, với tôi, không nước nào ngon miệng bằng nước mình. Và tôi cứ thế mê đắm. Tôi ra mắt cuốn sách nhỏ này nhân một dịp đặc biệt với riêng bản thân mình: đi vừa tròn 20 quốc gia và vùng lãnh thổ châu Âu và châu Á (Thái Lan, Campuchia, Lào, Malaysia, Singapore, Bruney, Myanmar, Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Dubai – Abu Dhabi, Úc, Thổ Nhĩ Kỳ, Pháp, Bỉ, Hà Lan, Đức, Ý). 20 bài viết không đại diện cho 20 quốc gia và vùng lãnh thổ tôi đã đi qua, mà là một con số mang tính chất kỷ niệm. Tôi chọn tựa Á – Âu cách một cây cầu vì tôi quá ấn tượng với chuyện “trượt qua trượt lại” giữa hai châu lục này chỉ với những cây cầu bắc qua eo biển Bosphorus. Thêm nữa, Á và Âu dĩ nhiên khác biệt nhưng không phải lúc nào ta cũng có thể phân định thật rạch ròi. Chúng tương giao nhau ở nhiều điểm. Và điềm nhiên đọng lại trong trái tim tôi một cách hòa vẹn. Phần lớn bài viết trong cuốn sách này đã được đăng rải rác trên Thời báo Kinh tế Sài Gòn từ năm 2014 đến 2017. Chính nhờ thời báo cũng như sự chấp nhận của độc giả mà tôi duy trì được thói quen ghi chép lại những cảm nhận trên hành trình của mình. Xin sâu sắc tri ân những bạn đọc đầu tiên của tôi là cố GS.NGND Trần Thanh Đạm, nữ đạo diễn Việt Linh, nhà báo Võ Huỳnh Thục Đoan, GS.TS Huỳnh Như Phương, PGS.TS Nguyễn Thị Thanh Xuân, GS.TS Phan Thị Thu Hiền, PGS.TS Trần Thị Phương Phương, PGS.TS Trần Lê Hoa Tranh, PGS.TS Võ Văn Nhơn… Sự chỉ dẫn, góp ý, khích lệ và yêu thương nơi những người thầy – người bạn lớn này đối với các bài viết của tôi đã tạo động lực cầm bút nơi tôi. Xin chân thành cảm ơn nhà văn Nguyễn Vĩnh Nguyên, biên tập viên Lê Viết Hổ đã “thúc giục” và định hình bản thảo. Tháng 12/ 2017, Diễm Trang Mời các bạn đón đọc Á - Âu Cách Một Cây Cầu của tác giả Diễm Trang.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tan Biến: Hồi Ký Về Thảm Hoạ Everest - Jon Krakauer
Dường như có một rào cản vô hình quanh những đỉnh núi cao nơi đây mà không một ai có thể vượt lên được. Dĩ nhiên, nguyên nhân thật sự nằm ở chỗ từ độ cao 8.847m trở lên, tác động của áp suất không khí thấp lên cơ thể con người nghiêm trọng đến mức làm cho việc leo núi gần như bất khả thi, một cơn bão nhỏ cũng có thể gây chết người. Điều kiện thời tiết và mặt tuyết hoàn hảo nhất cũng chỉ cho họ một cơ hội thành công nhỏ nhoi nhất, và không một đoàn thám hiểm nào có thể quyết định trước được ngày chinh phục đỉnh… Người ta không lấy làm ngạc nhiên khi đỉnh Everest không hề chịu khuất phục con người chỉ sau vài nỗ lực đầu tiên; thật ra, nếu việc chinh phục đơn giản như vậy thì các nhà leo núi hẳn sẽ cảm thấy ngạc nhiên và rất buồn lòng, bởi vì nó không còn là một ngọn núi vĩ đại nữa. Có lẽ chúng ta đã trở nên hơi kiêu ngạo với những công nghệ tiên tiến như đôi đế đinh và giày cao su, với kỷ nguyên chính phục dễ dàng bằng phương tiện cơ giới. Chúng ta đã quên rằng Everest vẫn đang nắm giữ chiếc chìa khoá mà các nhà leo núi cần để đi đến thành công và nó sẽ chỉ trao cho họ khi nó muốn mà thôi. Còn lý do khác khiến cuộc phiêu lưu này quyến rũ các nhà leo núi đến như vậy? Khi Jon Krakauer lên được đỉnh Everest vào đầu giờ chiều ngày 10 tháng 5 năm 1996, anh đã không ngủ trong 57 giờ liền và đang quay cuồng vì những tác động lên não của chứng hạ oxy huyết. Khi anh quay lưng để bắt đầu chuyển xuống núi nguy hiểm từ độ cao 8.848m (xấp xỉ độ cao của một chiếc máy bay Airbus), hai mươi nhà leo núi khác vẫn đang tận lực bò lên đỉnh mà không biết rằng bầu trời đã bắt đầu vần vũ mây… Trong hồi ức sau cùng này về mùa leo núi tang tóc nhất trong lịch sử Everest, Jon Krakauer đã đưa người đọc từng bước một từ Kathmandu lên đến đỉnh núi chết chóc, mở ra một câu chuyện nghẹt thở, làm người đọc rùng mình và kinh hãi. *** “Một câu chuyện đau lòng về những nguy hiểm của môn leo núi cao, một câu chuyện về vận rũi, nhận định sai lầm và chủ nghĩa anh hùng đầy bi tráng” – Tuần báo People “Thắt tim… nhưng tỉnh táo… không thể không cảm động khi đọc quyển sách” – Tạp chí Entertainment Weekly “Từng chữ một đều hấp dẫn và đau đớn giống như bestseller Into the Wild năm 1996 của tác giả” – Nhật báo New York Times “Một trong một quyển sách mạo hiểm hay nhất của mọi thời đại” – Nhật báo Wall Street Journal *** Chùi những bông tuyết bám vào mặt nạ oxy, khẽ rùng mình vì những cơn gió lạnh, tôi nhận ra mình đang đứng trên nóc nhà của thế giới, một chân ờ Nepal, còn chân kia trên đất Trung Quốc. Tôi lơ đãng nhìn xuống thung lũng Tây Tạng bao la và mơ hồ nhận thấy cảnh vật ở phía dưới thật hùng vĩ. Tôi đã mơ về phút giây với những cảm xúc dâng trào này nhiều tháng rồi. Và giờ đây, cuối cùng tôi cũng đã đặt chân đến đây, thực sự đứng trên đỉnh của ngọn Everest. Nhưng lúc này, tôi không còn đủ sức lực để có thể tận hưởng phút giây mơ ước đã lâu này. Lúc đó vào khoảng đầu giờ chiều ngày 10 tháng 5 năm 1996. Tôi đã không ngủ trong suốt 57 giờ liền. Thức ăn mà tôi cố nuốt trong ba ngày trước đó là một tô mì ramen2 và một vốc sôcôla M&M nhân đậu phộng. Chứng ho suốt nhiều tuần trước đó đã làm cho tôi bị rạn hai xương sườn, nên mỗi một việc thở cũng là một sự cố gắng đầy khó nhọc. Ở độ cao 8.847m trên tầng đối lưu, hầu như có rất ít không khí cung cấp đến não. Vì thế tư duy của tôi lúc ấy không hơn gì một đứa trẻ nhỏ. Thật sự, tôi không còn một cám giác gì khác ngoại trừ sự lạnh lẽo và mệt mỏi. Tôi đến đỉnh Everest sau Anatoli Boukreev vài phút. Boukreev là một hướng dẫn viên leo núi người Nga, đang làm việc cho một đoàn thám hiểm thương mại Mỹ. Ngay phía sau tôi là Andy Harris, hướng dẫn viên của đoàn New Zealand mà tôi đang tham gia. Tôi chỉ mới biết Boukreev, nhưng đã quen với Harris từ sáu tuần trước đó. Tôi nhanh tay chụp cho Harris và Boukreev bốn tấm ảnh đứng trên đỉnh núi, rồi quay lại và xuống núi. Lúc ấy đồng hồ của tôi chỉ 1 giờ 17 chiều, nghĩa là tôi chỉ ở trên nóc nhà của thế giới chưa đến năm phút. Ít phút sau, tôi dừng lại để chụp một tấm ảnh nhìn xuống Triền Đông Nam (Southeast Ridge), đường chúng tôi đã leo lên. Khi tôi đang chĩa máy ảnh về phía vài nhà leo núi đang leo lên, tôi chú ý đến một thứ gì đó mà tôi trước đây tôi không để ý. Nhìn về phía nam, khi mới cách đó một giờ đồng hồ, bầu trời vẫn còn hoàn toàn quang đãng, tôi thấy một đám mây khổng lồ đang che khuất các ngọn Pumori, Ama Dablam và những đỉnh khác xung quanh ngọn Everest. – Sau đó – khi sáu thi thể đã được xác định, và cuộc tìm kiếm hai người nữa đã bị hủy bỏ và bác sĩ đã buộc phải cắt bỏ bàn tay phải bị hoại từ của người đồng đội Beck Weathers của tôi – người ta đặt câu hỏi khi thời tiết bắt đầu xấu đi, tại sao các thành viên đoàn leo núi trên cao hơn vẫn không nhận thấy được dấu hiệu nào? Tại sao các hướng dẫn viên leo núi Himalaya kỳ cựu vẫn tiếp tục leo lên, và đưa các thành viên nghiệp dư tương đối ít kinh nghiệm – những người đã bỏ ra đến 65.000 đô la để được dắt lên đỉnh Everest an toàn – vào cái bẫy chết người rõ rành rành? Không ai trả lời thay cho hai trường đoàn gặp nạn bởi cả hai người đều đã chết. Nhưng tôi có thể làm chứng rằng vào thời điểm đó, buổi chiều định mệnh ngày 10 tháng 5, tôi không thấy có bất cứ dấu hiệu nào cho thấy một cơn bão chết người đang tiến đến. Theo những gì còn đọng lại trong trí nhớ thiếu oxy của tôi lúc đó, những đám mây đang bay lượn lờ trên thung lũng tuyết khổng lồ phía tây3 (Thung lũng Tây) trông rất nhẹ nhàng, hiền lành và thưa thớt. Lấp lánh trong một buổi trưa nắng chói chang, trông chúng không khác gì những luồng khí đối lưu ngưng tụ vô hại mỗi buổi chiều lại bốc lên từ thung lũng bên dưới. Khi tôi bắt đầu leo xuống núi, tôi vô cùng lo lắng, nhưng sự lo lắng của tôi không chút liên quan gì đến thời tiết: vừa mới kiểm tra đồng hồ đo trên bình oxy, tôi phát hiện ra nó gần cạn. Tôi cần phải nhanh chóng xuống núi. Phần sống núi trên cùng của Triền Đông Nam có dạng vi cá bằng đá dài và mảnh, phủ đầy tuyết và uốn lượn khoảng một phần tư dặm giữa đỉnh núi và đỉnh phụ được gọi là Đỉnh Nam (South Summit). Chinh phục triền núi hình răng cưa này không phải là một vấn đề kỹ thuật khó khăn gì, tuy nhiên lối đi lại cực kỳ cheo leo. Mười lăm phút sau khi rời đỉnh núi, với những bước dò dẫm cẩn trọng qua một vực thẳm sâu 2.134m, tôi đến được Bậc Hillary khét tiếng, một hẻm núi nhô ra đòi hỏi người leo núi phải có kỹ thuật. Khi tôi bám chặt vào sợi dây thừng và chuẩn bị đu xuống, tôi chứng kiến một cảnh tượng nguy hiểm. Gần 10 mét bên dưới, tôi trông thấy hơn 12 người đang xếp hàng dưới chân Bậc Hillary. Ba người trong số họ đã bắt đầu leo lên sợi dây mà tôi chuẩn bị dùng để leo xuống. Trong tình huống như vậy, tôi chỉ còn một lựa chọn là tháo móc ra khỏi sợi dây cố định chung và tránh sang một bên. Vụ “kẹt dây” này là do các nhà leo núi từ ba đoàn khác nhau: đoàn mà tôi đang tham gia – gồm các khách leo núi trả tiền, trưởng đoàn là nhà leo núi nổi tiếng Rob Hall; một đoàn khác do người Mỹ Scott Fischer dẫn đầu; và thêm một đoàn phi thương mại của Đài Loan. Di chuyến chậm như sên ở độ cao 7.925 mét, đám đông từ từ nhích lên Bậc Hillary từng người một, trong khi tôi lo lắng đợi đến lượt mình. Rời đỉnh Everest sau tôi một lúc, thế nhưng bây giờ Harris cũng đã nhanh chóng đến ngay sau tôi. Khi ấy, tôi quyết định nhờ Harris mở ba lô của tôi để tắt van bình oxy nhằm bảo toàn lượng oxy hiếm hoi còn lại. Trong vòng 10 phút sau đó, rất bất ngờ là tôi cảm thấy cực kỳ thoải mái. Trí óc tôi bỗng trở nên minh mẫn. Tôi thậm chí cảm thấy bớt mệt hơn khi để bình oxy mở. Thế rồi, đột nhiên tôi cảm thấy nghẹt thở. Mắt tôi mờ đi và đầu tôi quay cuồng. Tôi sắp sửa bị ngất đi. ... Mời các bạn đón đọc Tan Biến của tác giả Jon Krakauer.
Nhật Ký Franz Kafka - Franz Kafka
Lời Người Dịch: Franz Kafka là một trong những nhà văn phức tạp nhất của thế kỉ XX - phức tạp ngay trong chính tư tưởng sáng tác của ông, phức tạp cả ở sự tiếp nhận, đánh giá ông của công chúng và các nhà nghiên cứu, phê bình khắp thế giới. Ðể hiểu ông hơn phải cần đến những chìa khoá dẫn vào cánh cửa tâm hồn ông. Nhật kí của Kafka, nhiều trăm trang, được viết rải rác trong nhiều năm, là một trong những chìa khoá quan trọng đó. Vì vậy, trong khi làm Tuyển tập tác phẩm Kafka, chúng tôi cố gắng chọn dịch một số trang nhật kí của ông, nhằm giúp bạn đọc có thêm tư liệu tìm hiểu cuộc đời và tác phẩm của nhà văn "bí ẩn" này. Dịch nhật kí rất khó, đặc biệt là nhật kí Kafka, chúng tôi là người đầu tiên làm việc này, - nghĩa là dịch nhật kí Kafka sang tiếng Việt, mà lại qua một thứ tiếng trung gian, - nên chắc chắn không thể nào tránh khỏi sai sót (ngay ở hai bản tiếng Nga của cùng một dịch giả mà chúng tôi sử dụng đã có những khác biệt nhiều khi trái nghĩa nhau, nên rất khó xử lí). Chúng tôi chỉ hi vọng rằng đây mới là bước đầu có ích cho người khác về sau tiếp tục công việc hoàn chỉnh, tốt hơn. Mong được bạn đọc thông cảm, các nhà nghiên cứu, phê bình chỉ bảo, giúp đỡ.  Bản dịch nhật kí này được Ðoàn Tử Huyến thực hiện từ bản tiếng Nga (của E. Caxeva in trong tạp chí Những vấn đề văn học số 3 năm 1968, tham khảo thêm văn bản lấy từ Internet), có sử dụng một số đoạn do Nguyễn Văn Thảo và Nguyễn Kiều Diệp phác dịch và Ðoàn Tử Huyến hiệu đính. Người dịch cám ơn dịch giả tiếng Ðức Lê Chu Cầu, hiện đang sống và làm việc ở Cộng hoà Liên bang Ðức, đã nhiệt tình đọc đối chiếu với nguyên bản tiếng Ðức và góp nhiều ý kiến sửa chữa cho bản dịch này.  *** Franz Kafka sinh ngày 3/7/1883 tại Prague, khi đó thuộc Đế quốc Áo – Hung, trong một gia đình Do Thái thuộc tầng lớp trung lưu. Cha ông là Hermann Kafka, một nhà buôn còn mẹ là Julie Kafka, con một thương gia giàu có. Trong lịch sử văn học, có lẽ không có người cha nào lại trở thành đối tượng sáng tác văn học dai dẳng và ám ảnh như cách ông Hermann Kafka xuất hiện trong các tác phẩm của con trai Franz Kafka. Không riêng gì cha, mà cả ông nội Jakob Kafka cũng phủ bóng trong sáng tác của nhà văn. Nhìn rộng hơn, lý lịch Do Thái tác động sâu sắc tới Kafka, đồng thời luôn khiến ông cảm thấy bị cô lập. Bản thân Kafka luôn tuyên bố rằng mình không dính dáng gì tới Do Thái, nhưng rõ ràng, xã hội thời đó đã ảnh hưởng rất lớn tới ông, người thuộc về một gia đình Do Thái thiểu số, trong một cộng đồng Do Thái thiểu số ở Prague lúc bấy giờ. Ngay trong gia đình, Kafka cũng là một trường hợp thiểu số. Là đứa con trai duy nhất còn sống, anh trai của ba cô em gái, Kafka là mối kỳ vọng lớn của ông bố gia trưởng. Giữa hai người là một mối quan hệ mâu thuẫn phi lý: chung huyết thống, yêu thương nhau, hiểu nhau nhưng bất hòa đến cay nghiệt. Chính người cha đã hình thành nên phong cách văn học đặc trưng của Kafka: nền văn học thiểu số, phi lý và ám ảnh quyền lực. Sinh thời, Kafka học và có bằng tiến sĩ luật. Kafka đạt thành tựu trong nghề bảo hiểm, nhưng viết lách mới là thiên hướng của ông. Sau này, ông đã phải nghỉ việc để tập trung viết lách. Thậm chí, là người yêu đương mãnh liệt nhưng ông cũng nhiều lần lỡ hẹn với những hôn thê, cũng chỉ vì muốn hết mình cho văn chương. Chỉ duy nhất cái chết mới khiến ông ngừng viết. Ngày 3/6/1924, ông qua đời Vienna vì bệnh lao, khi mới 41 tuổi. Những ước nguyện sau cùng của ông cũng là về văn chương: đốt hết các bản thảo. ... Mời các bạn đón đọc Nhật Ký Franz Kafka của tác giả Franz Kafka.
Quê Hương Tôi - Tràng Thiên
Trong tập tuỳ bút này, Tràng Thiên bàn về đủ chuyện của nước Việt: từ chiếc áo dài, cho đến những món ăn, rồi những tập tục, tiếng nói, ngôn ngữ, v.v.. Dù bàn luận về chuyện gì, thì trong đó luôn hàm chứa một nỗi niềm trăn trở, khắc khoải với quê hương. *** Nhã khúc quê hương  Đọc Quê Hương Tôi của Tràng Thiên (Võ Phiến), tôi chợt nghĩ tới ca từ trong bài hát Mái Đình Làng Biển: "Gửi vào đây vào đây vui buồn người Việt Gửi vào đây vào đây tâm hồn người Việt...., Ơi nước non ân tình Hồn Việt Nam như thế Hơ ... thuở bình minh" Có lẽ "Quê hương tôi" (QHT) chính là vậy! Và trước mắt tôi hiển hiện hình dáng cụ Võ Phiến đang so dây chiếc đàn bầu, gảy từng tiếng lòng của đất nước, giữa một khán phòng nhạc giao hưởng phương Tây. Tiếng đàn dân tộc độc đáo chợt như lạ lẫm, và bỡ ngỡ trước những đổi thay của xã hội trong thời đại mới... đàn đôi lúc ngân nga cung đúng của dân ca miền Bắc, lúc là cung oán của dân ca miền Nam, rồi lại chuyển sang cung ai trong dân ca Thừa Thiên - Quảng Trị. Đọc QHT để cảm nhận tình yêu đất nước tha thiết của một người Việt đã sống hơn nửa đời người, nhìn đất nước thay da đổi thịt theo vòng quay của thời cuộc, mà hoài niệm, mà lo lắng; đó có lẽ cũng là tâm trạng chung của một thế hệ cha ông chúng ta trước sự du nhập của một trào lưu mới, đang làm thay đổi phần nào cách sống, cách nghĩ của dân tộc mình, đất nước mình. Với tôi, QHT như một điệu lý dân dã, ngọt ngào nhiều luyến láy, trúc trắc, lại gần gũi thân thương. Điệu hò ấy sẽ dẫn ta đi suốt chiều dài đất nước, từ Bắc, lên Thượng du, xuôi dọc Trung, vào tới Nam.  Thủ thỉ cho ta nghe đặc điểm của từng vùng miền, từ giọng Huế dịu dàng, đến vẻ bình thản của người Huế, chững chạc mà khuôn phép...Từ cuộc di dân Nam tiến của người Bình Định, làm thay đổi cả giọng nói, cách nói... Từ nhận xét rằng trong huyết quản của mỗi người dân Quảng hình như đều có tí máu "chính trị luân lưu"... đến cái tính cách "rụp rụp" mau mắn của dân miền Nam, với cái tiếng" rồi" tiếng "luôn" rất đặc trưng điển hình. Từ câu lục bát ru con của dân tộc Chàm, đến hình ảnh cô giáo người Thượng ngày ngày điệu con lên lớp; giải nghĩa cho ta biết xuất xứ của tên gọi nhiều địa danh, nghe quen đọc hoài mà giờ mới hiểu như Đà Nẵng, Hội An, kinh Vĩnh Tế...  Đàn cũng réo rắt tỉ tê với tôi về chiếc áo dài dân tộc, như tự hào về nét đẹp truyền thống, tuy kín đáo mà lại gợi mở nhẹ nhàng thướt tha đón gió. Và chiếc áo dài quốc phục này hầu như chỉ dành riêng nhất cho dáng vẻ dịu dàng của phụ nữ Việt Nam. Và trong giai điệu trầm bổng lao xao cả tiếng rao hàng nơi góc chợ: "Hai tay xách hai vịm, Một vài mụ le te, Tiếng non rao lảnh lót: Chốc chốc: 'Ai ăn chè'?" Quê hương có chè Huế tế nhị, thanh tao, có món bún bò Huế cay cay dậy mùi quyến rũ, hay với bát nước chè Huế ngon lành được nấu tỉ mỉ, công phu, bát chè phải thật nhiều bọt, đầy bọt, bọt hầu như phủ kín mặt nước, thứ bọt dẻo quánh lại, và nhỏ hạt, uống một bát là uống cả niềm sảng khoái dân dã, thâm tình. Món ngon rải đều khắp mọi miền đất nước, những món ăn gắn với lịch sử nước nhà như bánh tráng của Bình Định, có món là đặc thù của vùng miền như nước mắm Phan Thiết, sa-kê và mắm của miền Nam. Đâu chịu dừng ở món ăn, Võ Phiến còn vẽ những bức tranh rất thơ với cây liễu, cây nhãn lồng ở Huế, hoa dầu bay bay Sài Thành, sắc anh đào hồng thắm Đà Lạt, cây bàng đất Vũng Tàu... hay phượng đỏ rực trời Đà Nẵng. Nhưng điệu xàng xê của QHT không chỉ là giọng kể, mà tràn đầy nỗi niềm lo lắng trước sự đổi thay, lo về những tập tục truyền thống như cúng giỗ, thờ tổ tiên bị xem nhẹ, lo về cái thú hưởng nhàn tao nhã của tiền nhân sắp bị thay thế, về cái tình trong đối nhân xử thế rồi sẽ bị cái lý soán ngôi. Cả nỗi lo về vốn từ ngữ của dân tộc không phong phú, không phát triển như Tàu, như Tây.  Nhẩn nha đọc lại Võ Phiến mới thấy câu ca dao xưa thật hay: "Yêu nhau trái ấu cũng tròn Ghét nhau bồ hòn cũng méo" Trái ấu trong QHT nằm trong hai tập tính của dân mình: chửi (chửi tục) và không cười. Kiểu nào thì Võ Phiến vẫn cứ "đáng yêu" và lập luận thật lý lẽ, nghe xong chỉ có thể mỉm cười xoa tay hài lòng.  Điệu hò QHT khi kết thúc vẫn còn âm vang trong tôi tiếng chim én "những cánh én lao tới lao lui, rộn cả lên," nó ríu rít, "nó cuống quýt, nôn nao, rộn rực một niềm vui không chịu được, niềm vui rung lên trong tiếng kêu." Cùng với đó là hình ảnh "ở chân trời, vài đám khói ùn lên, chậm chạp, tỏa cao và rộng. Khói đốt cỏ: Nông dân phát cỏ, dồn lại đốt, để chuẩn bị làm mùa. Chao ơi, những đám khói đốt cỏ ở chân trời trong nắng trưa, sao mà xúc động, cảm hoài." Chao ôi! Tiện tay phóng bút sao hay đến vậy? Bằng lối hành văn bình dị mà giàu cảm xúc, êm như thơ mà hóm hỉnh, trào lộng, thêm chút châm biếm tê người, Võ Phiến đã tấu lên một nhã khúc mang bóng hình Đất - Nước - Tâm - Hồn người Việt chúng ta. Lichan - Happiness Project Mời các bạn đón đọc tập tùy bút Quê Hương Tôi của tác giả Tràng Thiên.
Miếng Ngon Hà Nội - Vũ Bằng
Văn học Việt Nam thời xưa có nhiều tác phẩm có giá trị to lớn về mặt nhân văn và nghệ thuật, đã được công nhận và chứng thực qua thời gian. Bộ sách Việt Nam danh tác bao gồm loạt tác phẩm đi cùng năm tháng như: Số đỏ (Vũ Trọng Phụng), Việc làng (Ngô Tất Tố), Gió đầu mùa, Hà Nội băm sáu phố phường (Thạch Lam), Miếng ngon Hà Nội (Vũ Bằng), Vang bóng một thời (Nguyễn Tuân)... Hy vọng bộ sách sau khi tái bản sẽ giúp đông đảo tầng lớp độc giả thêm hiểu, tự hào và nâng niu kho tàng văn học nước nhà. *** Vào khoảng năm tàn tháng hết, ở miền Nam nước Việt có những buổi tối đìu hiu lạnh như mùa thu đất Bắc. Gió buồn đuổi lá rụng trên hè. Mây bạc nặng nề trôi đi chầm chậm như chia mối buồn của khách thiên lý tương tư. Người xa nhà đột nhiên thấy trống trải trong lòng. Lê bước chân trên những nẻo đường xa lạ, y thấy tiếc nhớ một cái gì không mất hẳn, nhưng không còn thấy. Nhớ vẩn vơ, buồn nhẹ nhẹ. Cái buồn không se sắt, cái nhớ không day dứt, nhưng chính cái buồn và cái nhớ đó mới thực làm cho người ta nhọc mệt, thẫn thờ. Lòng người, cũng như cánh hoa, chóng già đi vì thế. Người ta không nặng lắm về hiện tại, nhưng thiết tha với quá khứ hơn. Một tiếng dế ở chân tường, một ngọn gió vàng heo hắt, hay một tiếng lá đụng cành trâm đều nhắc nhở ta những kỷ niệm xa xôi, dìu dịu. Ngày xưa, người cung nữ ở trong tiêu phòng lạnh ngắt thấy xe dê thì nhớ đến lúc được quân vương ấp ủ thương yêu. Tiếng con ý nhi gợi lại ở trong lòng người chinh phụ buổi người tráng sĩ “lâm hành”. Tại kinh đô Trương Hàn thấy lá ngô rụng giếng thu thì sực nhớ đến rau thuần, cá lư và muốn treo ấn trở về quê cũ. “Gió thu một tiếng bên tai, Thuần, lư sực nhớ đến mùi Giang Nam.” Đôi khi cũng mang bệnh nhớ nhung, người viết sách này vào lúc năm tàn hầu hết cũng ưa nghĩ đến một vài kỷ niệm xa xưa. ... Mời các bạn đón đọc Miếng Ngon Hà Nội của tác giả Vũ Bằng.