Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Trở Lại Cố Hương

Thời điểm của các sự kiện thuật lại trong sách xảy ra vào khoảng giữa 1840 và 1850, khi miền đất ngập trũng xưa cũ mà ở đây gọi là “Budmouth” vẫn còn giữ được trọn vẹn ánh hoàng hôn rực rỡ và đầy uy thế của kỷ nguyên Georgian để khoác lên nó một vẻ quyến rũ đắm hồn đối với tâm hồn lãng mạn và giàu tưởng tượng của một kẻ ngụ cư cô lẻ trong miền nội địa. Quang cảnh ảm đạm của vùng đất mang cái tên chung “Egdon Heath” này là sự kết hợp hoặc điển hình hóa của ít nhất hơn một chục cánh đồng thạch nam có thật khác nhau; những cánh đồng hoang hầu như là một về đặc tính và ngoại diện này, dù vẫn đồng nhất về nguồn gốc hay thành phần, hiện đang bị che đậy bởi những dải đất đã được cấy cày ở nhiều mức độ khác nhau hoặc đã được trồng rừng. Thật thú vị khi mơ mộng rằng một mảnh đất nào đó trong dải đất rộng lớn mà phần phía tây nam được mô tả ở đây của nó có thể chính là miền đất xưa cũ của Vua Lear xứ Wessex. Tháng 7, 1895 Thomas Hardy *** “Trở lại cố hương tìm cách giải mã xung đột giữa tình yêu và tình cảm gia đình, giữa hiện thực và khát vọng, giữa tự nhiên hay định mệnh tàn ác vô tình và đời người hữu hạn…” - dịch giả Nguyễn Thành Nhân. The Return of the Native (tựa tiếng Việt: Trở lại cố hương, nhà xuất bản Tổng hợp TP.HCM ấn hành) là một trong 14 tiểu thuyết thuộc hàng danh tác văn học Anh, của tiểu thuyết gia Thomas Hardy. “Tác phẩm của ông giàu chất thơ, nhưng tính bi kịch cao, có thể gây sửng sốt và cả đau đớn cho người đọc. “Native” trong trường hợp này hàm nghĩa là nơi sinh ra. Dịch giả Nguyễn Thành Nhân đã chọn hai chữ “cố hương” cho bản tiếng Việt, tôi cho rằng đó là lựa chọn xác đáng nhất. Tác phẩm này, sau những xung đột của tình yêu, thân phận, là cuộc trở về của con người với tự nhiên thuần khiết” - nhà văn, dịch giả Nhật Chiêu nhận định. Trở lại cố hương có bối cảnh trong khoảng thời gian từ năm 1840-1950, khi vùng đất mang tên “Egdon Heath” được mô tả trong truyện có thể là viễn mộng của tác giả về một miền đất xưa cũ của vua Lear xứ Wessex. Đó là nơi của những hoàng hôn rực rỡ và nguyên sơ quyến rũ. “Ngôi nhà tranh nằm biệt lập ở rìa một cánh đồng thạch nam” cũng chính là cố hương của Thomas Hardy. The Return of the Native đã được viết dựa trên những ký ức về vùng hoang địa ảm đạm mà nhà văn đã từng khắc ghi dấu ấn từ thời thơ ấu. Tình yêu là ngọn đuốc soi đường cho toàn bộ câu chuyện, được dẫn dắt bằng những chuỗi bi kịch, những sự tình cờ, xung đột, đấu tranh, sợ hãi... Làm nền cho tác phẩm là một không gian văn hóa trải rộng với những tập tục, truyền thống xa xưa của làng quê nước Anh. Trong bóng tối của những niềm hy vọng, ánh sáng như một ngọn lửa bùng lên rồi tắt ngấm. Con người - cho dù là ai, có sinh mệnh thế nào - rồi cũng phải trải qua hết những lựa chọn, hạnh phúc và cả buồn đau của đời mình. Chỉ có đất là không thay đổi - “như một biểu tượng của sự vĩnh cửu”, mãi mãi ở lại trong tiềm thức, ghi dấu qua nhiều thế hệ. Thiên nhiên là cội nguồn của những khởi sinh và cả kết thúc. Những nhân vật của Thomas Hardy xoay vần trong tình yêu và định kiến, lầm lỗi và oan trái, để cuối cùng mỗi người một lối rẽ. Trở lại cố hương có một kết thúc buồn, nhưng khiến người đọc giật mình, đắm chìm trong mộng tưởng của nhân vật chính, về một cuộc kiếm tìm sự giải thoát từ trong tự nhiên. Thomas Hardy, sinh năm 1840, mất năm 1928. Trọn đời văn, ông chỉ viết 14 tiểu thuyết, nhưng tác phẩm nào cũng được xếp vào hàng danh tác. Ông được xem là nhà văn lớn của thế kỷ XIX với nhiều tác phẩm đã được chuyển thể thành phim. The Return of the Native còn được soạn thành bản nhạc giao hưởng nhan đề Egdon Hearth: A Homage to Thomas Hardy (1927) dựa trên cảm hứng câu chuyện.  Hoàng Hạc *** Thomas Hardy (1840 - 1928) là một tiểu thuyết gia, nhà thơ và kiến ​​trúc sư người Anh. Các văn bản của ông có một phong cách hiện thực, nhưng bị ảnh hưởng ở một mức độ lớn bởi chủ nghĩa lãng mạn văn học có trước thời Victoria.. Nhờ thành công của ngòi bút của mình, ông đã từ bỏ sự nghiệp của kiến ​​trúc sư để cống hiến hết mình cho các bức thư. Mặc dù Hardy đã nhanh chóng nhận được sự hoan nghênh của một nhà tiểu thuyết, nhưng ông luôn cảm thấy hứng thú với thơ và tác phẩm của ông có tác động lớn đến các thế hệ nhà thơ kế vị ông.. Phong cách mà tác giả in cho các tác phẩm của mình tập trung hơn nhiều và ít khoa trương hơn so với những người cùng thời. Nó có tông màu tối và định mệnh, trái ngược với hy vọng thấm đẫm các văn bản Victoria. Hardy đã đặt gần như tất cả các tác phẩm kể chuyện của mình ở Wessex, một quốc gia tưởng tượng lấy tên của vương quốc từng nắm giữ quyền lực lớn trên đảo. Nhưng trong cuộc đời của tác giả, khu vực địa lý thực sự ngày càng nghèo nàn. Hardy Wessex nằm ở phía nam và tây nam nước Anh. Ông thậm chí còn tạo ra các bản đồ chỉ ra vị trí chính xác của từng thành phố hư cấu. Tác giả đã được đề cử 12 lần cho giải thưởng Nobel Văn học. Thomas Hardy cũng làm việc trong việc viết những ký ức của mình, mặc dù chúng được kết thúc bởi người vợ thứ hai của ông, Florence Hardy, và chúng đã được xuất bản thành hai tập tiếp cận chi tiết từng giai đoạn của cuộc đời của tác giả người Anh. Mời các bạn đón đọc Trở Lại Cố Hương của tác giả Thomas Hardy & Nguyễn Thành Nhân (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Đọc Sách

Ai Mới Là Siêu Quậy
Truyện Ai Mới Là Siêu Quậy là một truyện mới được giới thiệu với bạn đọc trên trang đọc truyện online, truyện thu hút bạn đọc ở những tình tiết đầy tính giải trí, vui nhộn có, hài hước cũng có đủ. Nếu đã gọi là siêu quậy thì những trò đùa mà các nhân vật bày ra không hề tầm thường, họ sẽ làm gì để khuấy động không khí để xứng danh là một người luôn tung hứng cảm xúc của mình lẫn của người khác.  Các nhân vật được gọi là quần hùng, quậy tưng trong truyện với nhiều thành tích đang nể sẽ xuất hiện trong truyện đó là: Triệu Lý Ngọc Băng (Windy) (17t):là tiểu thư danh giá nhà họ Triệu,giàu thứ ba trên thế giới, cô phải sang Hàn du học với một lí do vô cùng “đơn giản”, lập kỉ lục thế giới với 122 lần bị đình chỉ học, 21 lần bị đuổi học, 19 trường quốc tế, 2 trường Việt Nam, là “nữ hoàng võ thuật”, vô cùng cá tính. Mức độ quậy: 100%. Thiên Hoàng Tuấn Minh (Devil) (17t):là thiếu gia nhà họ Thiên, cháu ngoại cưng của Hoàng Anh Đức, chủ tịch tập đoàn đá quý lớn nhất thế giới HOPY; sở thích: con gái đẹp. Ghét nhất: không có con gái. Mỗi lần xuất hiện ít nhất phải có 1 cô gái đi bên cạnh, là “ác quỷ” của thế giới đêm, là “thiên thần” ở trường học. Mức độ võ thuật thế nào không biết nhưng trong vòng 30s có thể làm đối thủ “nằm đo đất”. Mức độ quậy:101/100%. Trường Power (Quyền lực): Trường này rộng 100ha, gồm 3 dãy 10 tầng nằm cách nhau tạo thành chữ U, ở giữa sân được làm 1 cái mái vòm dùng để “che nắng” đặc biệt nằm ở vị trí cực có duyên, cực gây chú ý là 1 dãy lầu 5 tầng làm bằng kính trong suốt 1 mặt, dãy này tuy chỉ có 5 tầng nhưng cực kì sang trọng lộng lẫy, đây là nơi dành cho các quý tộc bậc cao hoặc hoàng gia mới được học. Thầy cô thì cực ki, cực kì khó tính nhưng có tiền thì hiền như bụt... Liệu sẽ có những màn hấp dẫn gi đang chờ đón, mời bạn đón đọc truyện teen đầy những bất ngờ này. *** Tại Việt Nam,giữa mảnh đất Sài Gòn phồn hoa,biệt thự Ngọc Băng vào 3h sáng: -Ông chủ,ông chủ,không xong rồi,không xong rồi!!!Giọng nói hốt hoảng vang lên phá tan bầu không khí yên lặng bên trong căn biệt thự.Một ông quản gia già khoảng trên 60 ”chạy thở không ra hơi” vào nhà la lớn. -Lại gì nữa,bắt được nó chưa? -Dạ tiểu thư đã…đã..-Ông quản gia giọng run run không dám nói hết câu,mắt liếc về phía người phụ nữ bên cạnh ông chủ cầu cứu. -Ông à,chuyện này cũng là thường thôi,con gái chúng ta tài giỏi như vậy làm sao bọn họ bắt được,đúng không?Hử.Một người phụ nữ trung niên cất giọng nói “ôn hòa” nhất có thể để “hạ nhiệt” cho “không khí. -Bà cứ bênh nó,tại có người mẹ như bà nên nó mới hư đó.Giọng của người đàn ông lúc này đã dịu dàng đi phần nào. -Ý ông là sao hả? Bà Triệu trợn mắt,phồng mang trợn má chuẩn bị “đấu khẩu” thì lại có một giọng “tất tả” chen ngang vào -Ông chủ ,bà chủ,tiểu thư đã về-Lần này lại là giọng nói của một người phụ nữ cũng xen lẫn hốt hoảng chạy vào mà quên nhìn vào không khí căng thẳng của căn nhà. -Bà muốn bị đuổi việc hay sao mà lại tỏ thái độ như vậy hả?-Tứ quản gia nãy giờ không biết phải làm sao để lấy công chuộc tội thì bà này chạy vào nên liền ra oai “thể hiện”. -Im đi,ông mới đáng bị đuổi á,bộ ông thấy tôi được tiểu thư chiếu cố nên ghen tị hả.-Bà này cũng không vừa đáp lại liền. -Bà đừng ỷ là bà “zú” nuôi tiểu thư từ nhỏ tới lớn mà lên mặt ngen. -Ông á. -Bà á. -Ông á -Bà á. … -Ngày mai 2 người “cuốn gói” khỏi đây cho tôi,gặp là cứ cãi nhau như nước với lửa.Triệu lão gia nãy giờ không biết đầu đuôi tai nheo ra sao hết tức giận chen vào kết thúc điệp khúc “á” của 2 ông bà. -Ơ,ông chủ.-Hai người cùng đồng thanh la lớn tỏ vẻ “ngạc nhiên” nhưng chuyện 2 người cãi nhau xảy ra như cơm bữa và kết thúc là “năn nỉ ” ông chủ. -Ông chủ à-Hai người lại đồng thanh đáp. -Thôi thôi được rồi,hồi nãy ai nói cô chủ đã zìa-Bà Triệu lại bắt đầu “chấm dứt” thêm cái điệp khúc nghe mà muốn nổi da gà kia. -Ờ đúng.NÓ ĐÂU RỒI !Ông Triệu bây giờ mới nhớ ra,tức giận la lớn. -Dạ cô chủ leo tường nhảy lên phòng rồi ạ-Bà “zú” thản nhiên nói như đây là chuyện bình thường mà không biết gương mặt của ông chủ đang “biến sắc”. ……15 phút sau……. -Bây giờ con muốn gì nữa đây hả,sao con cứ làm ba mẹ lo lắng hoài vậy-Ông Triệu cất giọng nói chứa đầy uy quyền và nghiêm nghị nhìn cô con gái mà ông xem là “bảo bối”. -Thôi đi ông xã,con gái lớn rồi cứ để nó thoải mái.Bà Triệu nãy giờ nghe ông giáo huấn con gái ma muốn đau cả đầu (tg:cụ thể là 150 câu trong vòng 5 phút đấy mà.hehe). -Bà cứ chiều hư con gái. -Bộ ông không chiều nó hả? Blu…bla…bla…blu,2 người cứ tranh cãi cho đến khi nhìn lại cô con gấi yêu thì thấy… -Triệu Lý Ngọc Băng,2 người cùng la lớn kéo “ai đó” ra khỏi giấc mộng,có lẽ ngày mai họ sẽ chi ra một số tiền lớn để cho người làm đi khám tai.mũi ,họng. -A,papa,mama,con chỉ nhắm mắt có chút xíu thôi mà làm gì 2 người đã vặn volume to vậy rồi nếu con ngủ thiệt chắc phải đi bệnh viện luôn quá-Ngọc Băng mắt lơ đờ ,giọng nói vẫn còn ngái ngủ chu đôi môi lên nói rồi lại đưa tay lên dụi dụi mắt(tg:chị này xạo quá). Trước mặt cô bây giờ là Triệu lão gia và Triệu phu nhân,2 người đang trong tình trạng cứng họng vì họ quá thương con gái không nở la mắng cô. -Con đi đâu mà giờ mới về-Triệu lão gia ôn nhu nhìn con gái nói rồi cầm tách trà lên uống để “hạ hoả” -Bar SHINLY… Phụt..Ngụm trà từ trong miệng của ông chưa kịp nuốt đã phun ra văng đầy nhà. -Con…tới đó..Ông Triệu giường như còn chưa tin vào tai mình -Đúng.Ngọc Băng thả nhiên đáp -Con..con đúng là..HỪ..con hư tại mẹ mà.Nếu ngày xưa tôi không lấy bà thì giờ đâu cần phải đau đầu thế này.. -Ông nói cái gì?Ừ,đúng rồi,1 hoyboy nổi tiếng trong trường mà lại mê tít 1 con nhóc nổi tiếng là siêu quậy trong trường,rồi… Lại nữa,2 người lại bắt đầu kể “tiểu sử” của nhau, thật ra lúc xưa mẹ tôi là 1 tiểu thư ham quỵây lười học nhưng có lẽ do có nhan sắc mặn mà nên đã hút được hồn không ít chàng trai ,trong đó có ba,cũng nhờ vậy mà ta có đồng minh,mẹ luôn luôn bao che cho tôi sau những chuyến tooi trốn nhà đi chơi đem.hehe -Papa,mama,con đi ngủ đây,2 người cũng vào ngủ đi nếu không “nhà sập” bây giờ. Oáp.-Nhọc Băng uể oải ngồi dậy nhưng lại cảm thấy lạnh sống lưng như sắp gặp đại hoạ. -Đúng lại.Ngồi xuống. -Dạ,-Ngọc Băng nhanh chóng làm theo đưa tay chống cầm đưa đôi mắt long lkanh ngây thơ chờ đợi. -Con lại vưa mới bị đuổi học đúng không-Giọng nói của ông Triệu gằn lên không có vẻ gì là tức giận. -Hìhì,thì con chỉ không đi học có mấy bữa thôi mà,cho nên…-Ngọc Băng đáp.”Cũng may là mình đã nghĩ sẵn lí do” -Nếu vậy thì ba sẽ chuyển trường cho con. -Hả lại chuyển nữa sao-Ngọc Băng la lên. -Ta tưởng con chai rồi chứ-(tg:ý nói là quen rồi) -Chai gì chứ,vậy lúc nào thì con đi học? -Lúc nào đi ta sẽ báo cho con. -Zậy con học trường nào.Oáp_Ngọc Băng vừa nói vừa ngáp như không có chuyện gì xảy ra. -POWER-2 vợ chồng cùng đồng thanh trả lời. -Ặc,hả cái trường đó hả,đó đâu phải là trường của Việt Nam.Thôi,con không học đau con muốn học ở trường L.Q cơ. -Không được,con mà học ở đó thì cái trường đó loạn mất,không bàn cãi gì hết,POWER là POWER. -OK.Để mà xem rồi con sẽ phá huỷ cái trường đó luôn-Gật đầu cát “rụp” liền. -Được thui.Nếu con bị đuổi học thì sẽ bị cắt lương trong vòng 1 năm. -Papa,mama… -….. Blu…Bla,tới sáng Tại Hàn Quốc(nói = tiếng Hàn nha) RẦM -Không bao giờ,cô ta mà xứng với con sao? -Ôi! Con trai cưng của mẹ.Mẹ thấy cô ta cũng không tệ lắm mà- Bà Choi hạ giọng năn nỉ cậu con trai cưng. -Không tệ lắm.Mẹ nói nghe đơn giản quá.HỪ. -Thôi đủ rồi đấy,con ăn nói với mẹ thế sao?-Ông Choi tức giận lên tiếng -Thôi đi, con nói rồi đấy,con sẽ không cưới cô ta đâu-Han Yu tức giận đứng dậy bỏ lên phòng ,chân dậm rầm rầm thể hiện “tâm trạng” mà không biết ở dưới 2 ông bà đang “thủ thỉ ” bàn chuyện. -Bà nữa,bày ra cái chuyện này làm gì,mà chọn ai không chọn lại chọn ngay con bé đó làm chi-Ông Choi vẻ mặt “nghiêm trọng” nói. -Bà Goo là bạn thân của em lâu rồi mà hồi xưa tụi em đã hứa với nhau là sẽ làm xui gia rồi,bây giờ làm sao thất hứa được . -Giỏi nhỉ,chẵng coi tôi ra gì cả.Hừ.-Ông Choi nói -Thôi mà,ông giúp tôi năn nỉ nó đi, nha -Hừ bây giờ chỉ còn 1 cách-Ông Choi cố tình hạ giọng xuống để làm “giá”. -Cách gì.Trời ơi ông xã nói tui nghe đi. -Hừ.Ngọt nhỉ.Con bé học trường nào? -Ờ,hình như là POWER. -Nếu vậy thì……… Trong khi đó tại sân bay SE-UN,mọi ánh mắt đổ dồn về 1 phía,trên máy bay 1 cô gái “xinh đẹp” bước xuống làm cho “không gian” hơi yên tĩnh (tg:xinh đẹp cỡ nào thì tác giả sẽ giới thiệu sau). -POWER,Cảnh Ngọc Linh đến rồi.YEAR!-không chú ý nên mới zậy đó. Nói xong cô cũng xách va li chạy ra trước cổng sân bay vọt vào chiếc Aston Martin Rapide đậu sẵn ở đó vụt đi mất (tg:Ở lại lỡ người ta tưởng đẹp mà khùng thì sao.keke)   Mời các bạn đón đọc Ai Mới Là Siêu Quậy của tác giả nhok26.
Bướm Trắng
"Nếu chỉ có một năm để sống" bạn sẽ làm gì? Ðây có thể là đề tài một cuốn phim hồi hộp, một cuốn tiểu thuyết hấp dẫn hay một tác phẩm văn học phân tâm. Nhất Linh chọn giải pháp thứ ba: Bướm Trắng là một ăng-kết của Trương về bản ngã mình. Trương bị lao và bác sĩ cho biết chàng chỉ có thể sống được một năm nữa là cùng. Nhất Linh đem máy ghi âm đặt vào óc Trương để ghi lại những ý nghĩ, những phản ứng của Trương từ khi biết mình chỉ còn một thời gian sống nhất định.  Phản ứng đầu tiên của Trương là sẽ ghi vào sổ nhật ký, ngày 21/2: Hôm nay mình chết (Bướm Trắng, NXB Ðời Nay tái bản, 1970, trang 34). Ðó là cái chết đầu tiên, sau khi biết mình sắp chết, cái chết này biểu hiện tính cách hóa thân của hai từ Bướm Trắng và đưa Trương vào đoạn đời thứ nhì, đoạn đời mà Trương quyết định rằng từ nay "chàng sẽ nếm đủ các khoái lạc ở đời, chàng sẽ sống đến cực điểm, sống cho hết để không còn ao ước gì nữa, sống cho chán chường. Trương thấy mình nô nức hồi hộp mà lại sung sướng nữa. Chàng sung sướng vì chàng thấy mình như con chim thoát khỏi lồng, nhẹ nhàng trong một sự tự do không bờ bến. Những cái ràng buộc, đè nén của cuộc sống thường không có nữa, chàng sẽ hết băn khoăn, hết e dè được hoàn toàn sống như ý mình. - Chết thì còn cần gì nữa?" (trang 38)  Ðặt ngược lại vấn đề, Albert Camus bắt đầu cuốn tiểu luận Le Mythe de Sisyphe (Huyền Thoại Sisyphe) bằng câu: "Chỉ có một vấn đề triết lý thật sự nghiêm túc: đó là tự tử, xét rằng đời đáng sống hay không đáng sống là trả lời câu hỏi cơ bản của triết học". Cả hai tác giả Nhất Linh và Camus, đi từ hai con đường khác nhau nhưng dường như đều cùng muốn điều tra ý nghĩa của cuộc sống từ cái chết. Rồi Nhất Linh và Camus đều chết bất đắc kỳ tử. Camus, tai nạn xe hơi ở tuổi 47, Nhất Linh tự tử ở tuổi 57, một trùng hợp phi lý.  Cái chết, trước tiên, đối với Trương là một giải thoát, khi giao hẹn "hôm nay mình chết" là Trương đã tự hóa, từ một người bị ràng buộc, trở thành người tự do, hồi sinh trong cuộc sống mới, với hai lớp lang: biết mình sắp chết và quên rằng mình đang sống.  Ở lớp thứ nhất, Trương quyết định tìm vui trong trụy lạc: trụy lạc thể xác và tinh thần. Về thể xác, hưởng thụ hết những thú vui nhục dục trước khi chết và về tinh thần, chiếm hữu tình yêu của Thu, người con gái tình cờ gặp mà ngay sau đó Trương đã muốn yêu như một trò chơi: yêu cũng được mà không yêu cũng được.  Ở từng thứ nhì, Trương sợ sống: không dám về nhà, muốn quên rằng mình đang sống, lẩn tránh những ý nghĩ của mình, sợ đối diện với chính mình. "Trương ở vào tình trạng một người không cần gì nữa, chỉ mong xảy đến cho mình một việc, bất cứ việc gì, miễn là khác thường để cho mình quên được sự sống" (trang 55). Hai trạng thái, hai lớp lang tâm thần ấy giao nhau trong một môi trường không có lối thoát: Sự trụy lạc mà Trương tìm đến như một ao ước hưởng thụ hết trước khi chết, không đem lại cho Trương tị ti thỏa mãn nào, và cuộc tình đối với Thu, mới đầu chỉ là một trò chơi, sau đã lấn át tâm hồn Trương, chi phối tư tưởng Trương như một lớp sống, một định mệnh thứ ba: Cái định mệnh quái ác, tưởng (yêu) đùa lại hóa (yêu) thật, tưởng chết lại không chết, lại sống, cứ sống, rồi chính cái sống thừa, sống ra ngoài mọi ước vọng ấy, đã chơi khăm Trương, vì mọi toan tính về định mệnh đều vô nghĩa: không ai có thể biết trước được định mệnh, kể cả những thầy thuốc giỏi nhất và cũng không ai dự đoán được kết quả một cuộc tình. Trương như con bướm trắng lượn trong các nẻo tâm tư của chính mình, Trương bay hết nơi này đến nơi khác, từ những phăng-tát cực đoan của một người bệnh bị cái chết ám ảnh trong mỗi phút sống, đến những giây phút hạnh phúc cũng như bi đát của một người bình thường, nhảy từ những ý nghĩ trong sáng, dịu dàng nhất đến những toan tính đen tối, đồi tệ, đê hèn nhất. Trương là bướm trắng bay trong não trạng của chính mình, Trương hành động, nhận xét mình hành động, mà không hiểu những gì đã xẩy ra quanh mình, cho mình. *** « Trương chậm bước lại vì chàng vừa nhận thấy mình đi nhanh quá tuy không có việc gì vội và cũng không nhất định đi đến đâu ». Câu văn khơi dòng cho tiểu thuyết Bướm Trắng của Nhất Linh, là bước chân người đi. Người ấy lắng nghe, và nhận định nhịp bước, nhận thấy mình đi nhanh quá, mà không có lý do, không có việc gì vội. Sau đó lại bổ sung không nhất định đi đến đâu, dường như muốn tu chỉnh câu vừa mới nói : không có việc gì, không cần đến chữ vội, như lỡ bước quá một bước, thốt quá một lời, viết quá một chữ. Quá một chữ, không nhất thiết phải là thừa, vì câu nói, lời văn, bước chân đưa đẩy như vậy, trong đời sống như vậy. Khi ta bước, hay thở, không mấy khi ta lưu ý. Cũng có khi cố tình nhanh hay chậm chân một chút, hay thở mạnh, sâu hơn một chút, vì lý do nào đó. Như lý do đưa đẩy Nhất Linh viết truyện Bướm Trắng : chuyện của Trương biết mình bị bệnh phổi, được bác sĩ tiên đoán sống một năm. Biết vậy, và cho rằng không tránh khỏi, Trương lắng nghe cuộc sống đang tiếp diễn, và gây thêm biến cố, để cuộc sống xao động hơn, để mình nghe tiếng động của đời sống rõ rệt hơn. Trong Tiếng nói của im lặng (Les voix du silence), André Malraux có giải thích tác phẩm của mình : « Tôi có lần kể cuộc phiêu lưu của một người không nhận ra giọng nói của mình vừa được thu âm, vì anh ta mới nghe lần đầu qua lỗ tai chứ không qua cổ họng ; và vì chỉ có cổ họng mới chuyển đến ta, tiếng nói của nội tâm, tôi gọi tên sách là Thân phận làm người (La condition humaine) ». Nói rộng ra, gọi Bướm Trắng là tiếng thầm thì của nội tâm cũng được. Bướm Trắng viết vào năm 1939, đăng báo 1940, xuất bản 1941, khi Nhất Linh đã có địa vị vững vàng trong văn học ; tiểu thuyết Đoạn Tuyệt, 1934, đã gây chấn động vì luận đề xã hội. Nhất Linh dựng lại hai nhân vật Dũng và Loan trong Đôi Bạn, 1938-39, giầu tính chất văn chương hơn, nhưng cái nền của tác phẩm vẫn còn tồn đọng chuyện xã hội và chính trị trong bối cảnh nông thôn miền Bắc. Đến Bướm Trắng, ông chủ tâm viết một tác phẩm văn học thuần tuý, không hàm ý chính trị hay xã hội, lấy đời sống đô thị làm khung cảnh. Nhất Linh muốn thể nghiệm một kỹ thuật khác xưa : viết tiểu thuyết để hành văn, lấy văn chương làm cứu cánh, không mượn văn học để luận về xã hội và thời thế. Dù rằng thời điểm Bướm Trắng, 1939-1940, tình hình đất nước đang căng thẳng. Bản thân Nhất Linh đã dấn thân sâu vào thời cuộc, nhưng không mượn văn chương để bày tỏ quan điểm xã hội. Tuy nhiên tác phẩm bao giờ cũng phản ánh đời sống xã hội qua một thành phần nào đó, điều này là quy luật hiển nhiên, không tránh khỏi. Chuyện xảy ra tại Hà Nội, giữa một nhóm thanh niên trí thức thuộc gia đình khá giả. Trương, sinh viên trường luật, thôi học vì bệnh lao phổi. Trong giới hạn thời gian còn sống, Trương muốn khám phá triệt để cuộc sống, chủ yếu qua hai cách : qua tình yêu với Thu và qua kinh nghiệm trác táng. Có lúc thụt két, phải vào tù mấy tháng. Ra tù, Trương khỏi bệnh, về làng cưới vợ quê. Trong một tham luận nhân cuộc hội thảo về Tự lực văn đoàn ở Cẩm Giàng, quê Nhất Linh, ngày 9/5/2008, học giả Nguyễn Huệ Chi đã nhận ra những biến chuyển trong quan niệm và kỹ thuật tiểu thuyết Nhất Linh « nhà văn luôn luôn tìm tòi không ngừng không mỏi. Vừa cho ra mắt một loạt tiểu thuyết luận đề làm cả một thế hệ thanh niên yêu thích, ông lại thoắt chuyển sang dạng tiểu thuyết không có truyện, lấy việc phân tích các biến thái tâm lý nhân vật làm chủ điểm (Đôi Bạn) rồi lại thoắt chuyển sang dạng tiểu thuyết khơi sâu vào những miền khuất tối, không dễ nhận biết cái của « tôi », cái thế giới bí mật nhất trong mỗi con người, kể cả sự mò mẫm vô thức trên quá trình cái tôi phân thân, tự huỷ, ít nhiều mang dáng dấp hiện sinh (Bướm Trắng) » i. Chúng tôi lưu ý vào hai chữ hiện sinh. Tiểu thuyết, thông thường thì cần cốt truyện. Chuyện Trương đối diện với cái chết có thể là một đề tài hấp dẫn, nhưng tác giả không muốn lôi cuốn bằng chuyện kể, không tạo tình tiết éo le, ly kỳ, gây cấn. Sự việc phần nhiều là do nhân vật cố tình tạo ra để thăm dò cảm giác và suy tưởng của chính mình : « Mình thụt két mà Thu còn yêu mới thực là yêu, Thu không yêu nữa càng hay. Thử xem sao. Chẳng có gì mà sợ, chết cũng không sợ lại còn sợ một việc cỏn con như thế này à ? » (Bướm Trắng, tr.119, Nxb Văn Mới, 2014, California). Trương, con người bình thường, thậm chí tầm thường, trở nên nhân vật tiểu thuyết vì bệnh lao, việc có thể đến với bất cứ người nào. Nhất Linh chọn nhân vật thanh niên trí thức Hà Nội, vì hoàn cảnh này thuận lợi cho việc tạo ra sự việc để nhẩn nha và tỉ mỉ phân tích nội tâm. Dụng tâm của Nhất Linh là kể một câu chuyện đời thường, bằng giọng văn đời thường, không lên bổng xuống trầm, không hùng hồn để thuyết phục, không bi luỵ để gây xúc cảm, không thắt nút mở nút. Chuyện của Trương chấm dứt ở đây, nhưng vẫn có thể tiếp tục diễn tiến. Kết cuộc như thế, không tự nhiên, cũng không bất ngờ, có thể không như thế. Câu kết : «Nói xong, Nhan nhìn Trương, mỉm cườ i; nàng sung sướng có cái cảm tưởng như được săn sóc âu yếm đến một người chồng ». Mời các bạn đón đọc Bướm Trắng của tác giả Nhất Linh.  
Ông Hoàng Hollywood
Francis Scott Key Fitzgerald là một nhà văn Mỹ, nổi tiếng với các tác phẩm về "thời đại nhạc Jazz". Sinh ra trong một gia đình theo đạo Cơ đốc Ireland. Năm 1913 Fitzgerald vào Đại học Princeton nhưng sắp tốt nghiệp thì bỏ học vào lính. Thời gian phục vụ trong quân đội Fitzgerald bắt đầu viết cuốn tiểu thuyết đầu tiên This Side of Paradise (Phía bên kia địa đàng, 1920). Sau khi xuất bản cuốn tiểu thuyết này Fitzgerald cưới vợ và bắt đầu nổi tiếng. Cũng trong thời gian này ông in tập truyện ngắn đầu tay Flappers and Philosophers (Những cô nàng và những triết gia, 1920). Tiểu thuyết thứ hai The Beautiful and Damned (Đẹp và đáng nguyền rủa, 1922) kể về cuộc hôn nhân khổ sở của hai con người tài năng và quyến rũ. Năm 1923 ông viết và dựng vở kịch Vegatable (Rau cỏ, 1923) bị thua lỗ nhưng sau đó viết tiểu thuyết The Great Gatsby (Gatsby vĩ đại, 1925) được giới phê bình đánh giá là kiệt tác, là một trong những tiểu thuyết hay nhất nước Mỹ. Tiểu thuyết gia, nhà viết truyện ngắn F. Scott Fitzgerald thường tự nhận mình là người con của “thời đại nhạc Jazz”. Cùng với người vợ xinh đẹp Zelda Sayre, ông sống một cuộc đời sôi động, tràn đầy tiệc tùng và luôn tiêu tiền như nước. Tuy vậy, trong một truyện ngắn, ông mở đầu: “Thế giới người giàu hoàn toàn khác biệt với bạn và tôi”. Và thế giới được coi là “khác biệt” với mình đó còn được ông miêu tả trong rất nhiều những tác phẩm như Đẹp và đáng nguyền rủa, Gasby vĩ đại. Cuộc sống chìm trong rượu và những đại tiệc xa xỉ của vợ chồng Fitzgerald đã thu hút sự hiếu kỳ của công chúng thời bấy giờ. Đó cũng là một trong những nguyên nhân khiến cho các sáng tác của ông khá đắt khách. Trong lá thư gửi cho một người bạn, nhà văn viết: “Một truyện ngắn có thể viết ngay đầu miệng chai nhưng với một cuốn tiểu thuyết, anh phải giữ cho đầu óc mình thật tỉnh táo và minh mẫn để có thể kiểm soát được tất cả các nhân vật như Ernest Hemingway đã làm được trong Giã từ vũ khí”. Tác phẩm: This Side of Paradise (Phía bên kia địa đàng, 1920) Flappers and Philosophers (Những cô nàng và những triết gia, 1920) The Beautiful and Damned (Đẹp và đáng nguyền rủa/Đợi Của, 1922) Vegatable (Rau cỏ, 1923) The Great Gasby (Đại gia Gatsby, 1925) Tender is the Night (Đêm dịu dàng/Cuộc Tình Bỏ Đi, 1934) Top at Reveille (Tín hiệu thức tỉnh, 1935) The Last Tycoon (Trùm tư bản cuối cùng/Ông Hoàng Hollywood, 1941) The Crack-Up (Sụp đổ, 1945) Gatxbi Vĩ Đại Và Truyện Ngắn - Francis Scott Fitzgerald Mời các bạn đón đọc Ông Hoàng Hollywood của tác giả F. Scott Fitzgerald & Tô Hoàng (Dịch).
Điệp Khúc Cơn Đói
Paris 1931. Một cuộc đời được dựng nên qua các mảnh ký ức. Cô bé Ethel thăm triển lãm thuộc địa cùng ông chú họ. Cuộc sống đầy đủ trong gia đình dân gốc đảo Maurice. Chủ nghĩa Đức quốc xã. Gia đình sa sút. Mối tình đầu. Chiến tranh. Cuộc trốn chạy về miền Nam nơi cơn đói khát hiện hữu. Tất cả đẩy một thiếu nữ, dù không muốn, trở thành anh hùng khi vừa tròn đôi mươi. Lối viết thi vị nhưng tái hiện đầy sức nặng hình ảnh nước Pháp trước ngưỡng cửa một đoạn lịch sử cùng cực, đã khiến Điệp khúc cơn đói trở thành một trong những tác phẩm đặc biệt nhất, gây xúc động nhất của nhà văn giành giải Nobel 2008. *** Ở Việt Nam, J. M. G. Le Clézio được biết đến từ những năm 1960 với các tập truyện ngắn và tiểu thuyết đã được dịch (trong tổng số hơn 60 tác phẩm) như: Vòng xoáy Người chưa bao giờ thấy biển Những nẻo đường đời và những bản tình ca khác Sa mạc Điệp khúc cơn đói Bão Lũ mục đồng ... Từ tác phẩm đầu tiên Le Procès-verbal (Biên bản) cho đến khoảng cuối thập niên 1970, Le Clézio từng có một thời theo đuổi lối viết thể nghiệm về hình thức, gần gũi với phong trào “Tiểu thuyết mới”, không dễ đọc. Nhưng dõi theo con đường viết của ông, nhất là những tập truyện gần đây, thì càng ngày càng nhận thấy sự thay đổi rõ rệt trong lối viết. Hướng đến sự giản dị, chân phác về hình thức kể chuyện, giữ được sự tinh tế trong ngôn từ song vẫn không ngừng nuôi dưỡng những tầng sâu xúc cảm, triết lí. Tám câu chuyện của Lũ mục đồng giống như những câu chuyện cổ tích, đôi khi lan man chảy trôi trong dòng xúc cảm sống tuôn trào mãnh liệt của tâm hồn thơ trẻ, dường như không hướng đến một sự kết thúc khô cứng nào. Con chữ ngưng lại, trang giấy đóng vào, nhưng đâu đó trong những giấc mơ, dòng xúc cảm ấy vẫn âm thầm chảy, bầu khí quyển trong thế giới của những đứa trẻ vẫn âm thầm ôm ấp, xoa dịu, làm ấm lòng. Riêng có chất thơ lãng mạn bay bổng là hồ như xuyên suốt những trang viết của ông. Có thể bởi, với Le Clézio chất thơ đã trở thành một tâm thế để sống, để cảm và là phương thức gần gũi, giản dị nhất để chia sẻ những giấc mơ. Cũng như biển, chất thơ trong cốt tủy đời sống tự nguyên thủy chưa từng thay đổi. Khi trao giải Nobel năm 2008 cho Le Clézio, Viện Hàn lâm Thụy Điển đã ca ngợi ông là “tác giả của những hành trình mới”, “người khai phá cái nhân văn bên dưới và vượt ra ngoài nền văn minh thống trị”. Nhưng có lẽ nên nói rằng, bởi những giấc mơ đe dọa đến lí trí và trật tự đạo đức, nên bị kiểm duyệt và khuôn phép xã hội “khóa chặt trong nhà ngục của sự câm lặng, bị ném vào hầm tù của ký ức. Những giấc mơ là ngọn lửa bị giấu kín mà con người phải tìm cách lấy lại để phát lộ phía khác của bản ngã chính mình, để đạt đến một sự tự do đích thực. Nhà văn hiểu rằng, đơn giản mình chỉ cần làm một điều, đó là trả lại cho việc mơ sự tự do mà chúng cần có. Cả nhà văn, nhân vật, cũng như người đọc đôi khi chẳng khác nào đang làm một chuyến vui chơi nho nhỏ “đi ngắm nhìn phía bên kia quả đồi” đấy thôi. *** Ethel. Cô bé đang đứng trước lối vào công viên. Bây giờ là buổi chiều tối. Ánh sáng dìu dịu, màu ngọc trai. Có lẽ sắp có giông trên sông Seine. Cô bé nắm thật chặt tay ông Soliman. Cô bé vừa tròn mười tuổi, vẫn còn thấp bé, đầu Ethel mới chỉ cao ngang hông người đàn ông, là ông trẻ của cô bé. Phía trước họ, nom như có một thành phố nằm giữa những cây đại thụ của khu rừng Vincennes, người ta trông thấy nào tháp, nào tòa, nào vòm. Trên những đại lộ vây quanh, đám đông chen chúc nhau. Đột nhiên, cơn mưa rào ập xuống, cơn mưa ấm nóng làm bốc lên một làn hơi nước bao trùm thành phố. Chỉ trong chốc lát, hàng trăm cây dù màu đen bật mở. Người đàn ông quên không đem theo cây dù của mình. Trong khi những giọt mưa lớn bắt đầu rơi xuống, ông lưỡng lự. Nhưng Ethel vẫn kéo tay ông, và hai ông cháu cùng nhau băng qua đại lộ, chạy về phía mái vẩy của lối vào, đứng trước những cỗ xe ngựa chở khách thuê và dãy ô tô. Cô bé kéo tay trái ông, ông cụ dùng tay phải giữ cho chiếc mũ màu đen ngay ngắn trên cái đầu nhọn của mình. Khi ông chạy, chòm râu xám bên má bay phất phơ theo từng nhịp bước khiến Ethel bật cười. Thấy cô bé cười, ông cũng bật cười theo, đến mức phải dừng lại trú dưới một cây dẻ. Đó là một nơi rất tuyệt. Ethel chưa từng nhìn thấy, cũng chưa từng mơ đến thứ gì tương tự. Đi hết lối vào, bước qua cửa ô Picpus, họ men dọc theo tòa nhà viện bảo tàng, đằng trước có đám đông đang chen lấn. Ông Soliman không quan tâm. “Viện bảo tàng thì xem lúc nào chả được”, ông bảo vậy. Ông đã có sẵn trong đầu một dự định. Chính vì thế ông muốn đến đây cùng Ethel. Cô bé đã cố gắng tìm hiểu, từ nhiều ngày qua em đã gặng hỏi ông. Cháu láu lỉnh lắm, đó là câu ông đã nói với cô bé. Em biết cách dò hỏi khéo léo. “Nếu đó là một điều bất ngờ, ta biết nói gì với cháu bây giờ? Nói ra thì còn gì là bất ngờ nữa?” Ethel lại tiếp tục nài nỉ. “Ít ra ông cũng cho cháu đoán thử xem.” Sau bữa tối, ông ngồi trên ghế bành hút xì gà. Ethel thổi bay đám khói xì gà. “Cái đó có ăn được không ạ? Có uống được không? Một chiếc váy dài tuyệt đẹp chăng?” Nhưng ông Soliman vẫn cương quyết không tiết lộ. Ông hút xì gà và uống rượu cô nhắc như mọi tối. “Ngày mai cháu sẽ biết.” Ethel, sau cuộc nói chuyện đó, không thể chợp mắt. Cả đêm em trằn trọc trở mình trên chiếc giường nhỏ bằng kim loại kêu kèn kẹt. Mãi đến buổi bình minh em mới thiếp đi và khó khăn lắm mới thức dậy được vào lúc mười giờ, khi mẹ em tới đón qua nhà các cô dùng bữa trưa. Ông Soliman vẫn chưa thấy tới. Thế nhưng đại lộ Montparnasse không xa phố Cotentin là mấy. Cách có mười lăm phút đi bộ, mà ông Soliman lại đi bộ rất cừ. Ông bước rất thẳng, chiếc mũ đen bắt chặt vào đầu, cùng cây can mũi bịt bạc không hề chạm đất. Bất chấp tiếng ồn ào ngoài phố, Ethel nói em nghe thấy tiếng chân ông từ đằng xa, tiếng động nhịp nhàng của đôi gót ủng bằng sắt gõ trên vỉa hè. Em bảo tiếng động ấy giống như tiếng vó ngựa. Em thích so sánh ông Soliman với ngựa, và điều đó cũng không khiến ông phật ý, thi thoảng, bất chấp cái tuổi tám mươi của mình, ông nhấc bổng em lên vai để đi dạo trong công viên, và bởi ông rất cao lớn, em có thể chạm tới những cành cây sà xuống thấp. Cơn mưa đã tạnh, họ nắm tay nhau bước tới bờ hồ. Dưới vòm trời xám xịt, hồ có vẻ rất rộng, cong cong, trông giống một đầm lầy. Ông Soliman thường nhắc đến những cái hồ và miền đất trũng khi xưa ông đã tới, tận bên châu Phi, thời ông còn là bác sĩ quân y đóng quân tại phần lãnh thổ Công gô thuộc Pháp. Ethel thích nghe ông kể chuyện. Ông Soliman cũng chỉ kể chuyện cho mình em nghe. Tất cả những gì em biết về thế giới này đều thông qua những chuyện ông đã kể cho em. Trên mặt hồ, Ethel nhận thấy vài con vịt, một con thiên nga lông ngả vàng có vẻ buồn chán. Họ đi qua trước một hòn đảo bên trên có xây một ngôi đền Hy Lạp. Đám đông chen lấn để vượt cây cầu gỗ và ông Soliman hỏi, nhưng rõ ràng chỉ để yên tâm: “Cháu có muốn…?” Quá đông đúc, và Ethel kéo tay ông trẻ. “Không ạ, không ạ, chúng ta hãy lập tức đến Ấn Độ thôi!” Họ đi men theo bờ hồ theo hướng ngược lại với dòng người. Đám đông rẽ ra trước người đàn ông cao lớn vận áo khoác dài, đầu đội mũ kiểu cổ, và cô bé tóc vàng diện cái váy dài xếp nếp, mang giày cao cổ. Ethel hãnh diện khi đi cùng ông Soliman. Em có cảm tưởng đang đi cùng một người khổng lồ, một người có thể khai thông lối đi trong bất cứ sự hỗn loạn nào của thế giới. Lúc này, đám đông di chuyển theo chiều ngược lại, về phía cuối hồ. Vươn cao trên những rặng cây, Ethel nhìn thấy những tòa tháp lạ mắt, màu xi măng. Em chật vật lắm mới đánh vần được cái tên ghi trên một tấm biển: “Ang… kor… - Vat! ông Soliman nói nốt. Angkor Vat. Đây là tên một ngôi đền của Campuchia. Trông có vẻ giống đấy nhưng trước hết, ta muốn chỉ cho cháu thấy cái này.” Ông đã có sẵn trong đầu một dự định. Vả lại, ông Soliman không muốn đi cùng hướng với đám đông. Ông dè chừng những chuyển động mang tính tập thể. Ethel thường được nghe người khác nói về ông trẻ em: “Một người thật kỳ quặc.” Mẹ em bênh vực ông, chắc chắn bởi ông là chú ruột của bà: “Ông cực kỳ dễ mến.” Ông đã nuôi dạy bà rất nghiêm khắc. Khi cha bà qua đời, chính ông đã nhận bà về nuôi. Nhưng bà không gặp ông thường xuyên, ông luôn ở xa, tận đầu kia thế giới. Bà quý mến ông. Có lẽ bà còn cảm động hơn bởi người đàn ông già cả này vô cùng yêu chiều Ethel. Như thể bà được chứng kiến trái tim ông rốt cuộc đã rộng mở, vào đoạn cuối của một cuộc đời đơn độc và chai sạn. Cạnh đó, một con đường dẫn ra xa khỏi bờ sông. Người đi dạo mỗi lúc một vãn đi. Một tấm biển đề: CÁC THUỘC ĐỊA CŨ. Bên dưới là những cái tên, Ethel chậm rãi đọc: RÉUNION   Mời các bạn đón đọc Điệp Khúc Cơn Đói của tác giả J. M. G. Le Clézio & Bằng Quang (dịch).