Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bức Tranh Chết Chóc

Chuyện kể rằng 1 người họa sỹ ở Pakistan bị vợ phát hiện ngoại tình, bà ta quá buồn bã và tự tử. Sau khi vợ chết, ông ta vô cùng hối hận và ngày nào cũng ngồi vẽ hình bà ta trong phòng một mình. Sau hơn 1 tháng tự giam mình trong phòng, cuối cùng ông ta cũng đã hoàn thành xong bức tranh người vợ của mình, đồng thời lúc đó ông cũng ra đi mãi mãi vì kiệt sức... Bức tranh người vợ của ông ta mang một vẻ đẹp huyền bí, huyền bí nhất chính là đôi mắt bà ta, nó như long long ánh lệ, thể hiện một nỗi buồn sầu thảm của cuộc tình đau khổ giữa 2 vợ chồng. Ánh mắt ấy chính là ánh mắt của vợ người họa sỹ khi bắt gặp chồng mình ngoại tình. Chính sự kỳ bí đó, bức tranh đã được 1 người phụ nữ giàu có mua về. Bà ta rất thích bức tranh, luôn ngắm nhìn nó. Bỗng 1 ngày kia người ta thấy bà ta la hét kinh khủng, đập phá đồ đạc trong nhà và hét lên: "Bà ta đã về rồi, bà ta đã về rồi..."... Ngay sau đó, người ta đã đưa bà vào nhà thương điên. 1 ngày sau thì bà ta chết. Và rồi bức tranh tiếp tục được lưu truyền qua nhiều người: 1 họa sỹ , 1 người thợ may, 1 tỷ phú, 1 nhân viên lập trình,... và tất cả họ đều có tình trạng chung như người đầu tiên, đó là đều phát cuồng sau khi xem tranh và chỉ sau đó vài ngày là chết. Kể từ đó bức tranh đã được người ta vứt đi một nơi nào đó không biết đến. Cách đây 5 năm, khi xuất hiện trên mạng internet, bức tranh đã làm hơn 2.000 người chết mà trên desktop, trong tay có hình bức tranh này. Thế rồi, cơ quan bảo Nhưng thời gian gần đây, bức tranh ấy lại xuất hiện trên mạng và tình trạng trên lại diễn ra. Bức tranh này sau khi xuất hiện đã cướp đi mất hơn 999 bloggers chỉ sau 1 tháng... *** Truyện Kinh Dị Chọn Lọc:  Hồn Ma Báo Mộng Nghiệp Chướng Sợi Dây Thừng Người Chết Người Đàn Bà Của Bóng Đêm Bến Đò Biệt Ly Vết Xăm Ma Ma Tình Một Xác Hai Hồn Linh Hồn Trong Ngọn Nến Trò Chơi Ma Quái Tình Người Kiếp Rắn Trở Về Từ Kiếp Sói Chuyến Xe Cuối Cùng Đồng Xu Nhuốm Máu Bức Tranh Chết Chóc Chiếc Áo Khoác Trên Mộ Tiếng Khóc Trên Mộ Gốc Cây Mặt Quỷ Bóng Người Trên Biển Vắng ... *** Bức Tranh Chết Chóc Nhà Ông Thạnh ở ngay mặt tiền của đường phố lớn căn nhà sáu tầng lầu, sang trọng, đầy đủ tiện nghi. Bên dưới mặt tiền, lầu trệt, ông kinh doanh tranh ảnh, đèn quảng cáo... Còn lầu thượng, ông trồng hoa kiểng, nuôi chim và một bể cá cảnh... Ông là một đại gia của làng trang trí nội thất. Ông Thanh tuổi dần. Vì vậy, những người đối tác với ông, đều có vẻ lép vế. Họ thần phục ông. Tính khí người tuổi dần rất dữ dội. Vợ ông, bà Thìn, lại tuổi con heo. Người xưa nói: Dần Thân Tị Hợi tứ hành xung. Tuổi hai người xung khắc, nhưng không hiểu sao lại ăn nên làm ra. Bà Thìn lớn hơn ông Thạnh mấy tuổi rất đẹp gái. Họ có với nhau hai đứa con Bà Thìn rất sợ ông Thạnh. Phải dùng từ “sợ như sợ cọp” mới đúng... Mà ông Thạnh khéo dạy vợ. Ông nói gì bà cũng nghe răm rắp. Thậm chí khi bà Thìn có lỗi, còn bị ông phạt quì suốt đêm ngay chỗ giường ngủ. Chuyện này, người làm công trong nhà ông bà đều biết. Nói tóm lại ông Thạnh gia trưởng, độc đoán trong căn nhà sang trọng, ai cũng phải phục tùng ông... Vợ ông, khi ông gọi, hoặc sai bảo điều gì, rất mực lễ phép thưa gửi, và không bao giờ đám ngẩng mặt đối diện với chồng. Ông Thạnh có ba người bạn thân, cũng là dân làm ăn cả. Nhưng cả ba ông đều rất sợ vợ. Thế mới lạ. Ba người bạn đó là Đức, Hiển, Thuận. Một hôm, họ tụ tập ở nhà ông Thạnh, mừng vừa trúng một hợp đồng lớn. Rượu khui tràn ly Ông Thạnh ngồi cạnh vợ, hể hả: - Ở đời người xưa nói: Tề gia trị quốc, bình thiên hạ, còn tôi không có tài đó, tôi chỉ có tài dạy vợ, và làm ăn... Nhờ đó mới giàu có như hôm nay… Ông Đức tấm tắc: - Bác giỏi thật đấy. Còn tôi làm ăn được, có tiền, vậy mà bị sợ vợ, có khổ không cơ chứ? Ông Hiển xen vô: - Vợ mình, mình sợ, chứ có sợ vợ hàng xóm đâu? Ai không sợ vợ, thì đâu nên người… Ông Thuận tần ngần: - Nhưng mà sợ quá, như tôi cũng hỏng. Mà mình lại có thú sợ vợ mới chết chứ … Ông Thạnh cười mỉa: - Tại các ông không biết cách đó thôi. Để bây giờ cọp đủ lông cánh làm sao mà dạy? Măng không uốn, lấy gì uốn tre... Ông Thuận hỏi: - Thế bác làm cách gì mà giỏi thế, chỉ bí quyết cho em với? Ông Thạnh hể hả: - Đơn giản thôi, dạy con từ thuở còn thơ, dạy vợ từ thuở bơ vơ mới về... Vợ tôi, tôi nói cái gì cũng phải nghe răm rắp... Có phải vậy không em? Bà Thìn cúi mặt lí nhí: - Dạ, anh nói đúng. Vì anh là chồng, còn em là vợ vợ phải phục tùng chồng tuyệt đối... Ba người bạn tròn mắt, ông Thạnh tiếp: - Em đọc lời giáo huấn của Khổng Tử mà anh vẫn dạy em hàng ngày xem nào? Bà Thì run rẩy: - Dạ đó là câu: Tại gia tòng phu Xuất giá tòng phu Phu tử tòng tử Ông Thạnh gật gù: - Đó là tam tòng, thế còn tứ đức thì sao? Bà Thìn rưng rưng: - Dạ, tứ đức của người phụ nữ là công, dung, ngôn, hạnh ạ… Ông Thạnh vui vẻ: - Các chị đã thấy vợ tôi thanh minh trả lời chưa? Vợ là phải như vậy chứ, nếu không vợ là cọp cái, nó ăn thịt mình khi nào không biết. Nhắc đến chữ “cọp” bạn bè ông thạch la lên: - Hèn chi bác tuổi cọp là phải, mà bác thạch kiếm đâu ra bức tranh cọp to quá vậy, đẹp quá vậy? Ông Thạch phấn khởi: - Nó không phải là bức tranh cọp đơn thuần, mà nguyên cả xác cọp, được lồng trong khung kính… Giá trị của nó thì vô giá. Nhìn vào y như cọp đang ở trong khu rừng… Bộ tranh này tôi mua từ Đài Loan về. Ông Hiển gặt gù: - Đẹp quá, oai vệ quá, cọp chết để da, người ta chết để tiếng, cọp chết rồi mà làm các con vật khác nhìn thấy còn khiếp vía… Ông Đức trầm trồ: - Tuổi ông tuổi cọp, treo bức tranh này là hợp quá rồi. Ông Thạnh hể hả: - Bức tranh này không chỉ có trang trí đơn thuần, nó như vật thần tài. Từ ngày có bức tranh này, nhà tôi ăn nên làm ra thấy rõ. Thần cọp hộ mệnh cho tôi đó. Ông Thuận cười: - Hèn chi mà vợ ông sợ ong như cọp.. Còn chúng tôi cầm tinh con heo, con gà, cũng chỉ sợ vợ mà thôi.. A, này tôi có quen một tay thầy bói hay lắm, ăn nhậu xong, ta đi coi cho vui… Mọi người cùng ồ lên vui vẻ… Ông Thạch nói với vợ: - Em ở nhà phụ dọn dẹp giúp anh nhé. Lâu lâu, anh muốn thử xem vận mạng thế nào? Bà thìn chỉ biết ngoan ngoãn gật đầu… Ông Thuận dẫn ba người dạn đến một ngôi nhà chùa nhỏ, ở đó có một ông thầy bói mù, sau khi coi quẽ cho ba người là ông Thuận, Đức, Hiền…tất cả đều tốt đẹp, đến lượt ông Thạch, thầy bói ngạc nhiên: - Số ông là tốt lắm, giàu có, cai quản gia đình đâu ra đó. Nhưng mạng ông là mạng cọp. Sớm muộn gì cũng bị cọp vồ. Ông Thạch cười khùng khục: - Tôi mạng cọp, cọp phải bảo vệ em chứ? Sao lại vồ được, khoản này thầy bói sai rồi. Thầy nói nghiêm nghị: - Thiên cơ bất khả lộ, tôi chỉ biết đến thế mà thôi. Tin hay không tuỳ ông. Ba người ra về ông Thạch nhếch mép: - Đúng là thầy bói nói láo ăn tiền. Nhà mình ở thành phố, mà ông ta bảo mình bị cọp vồ, thật không thể tin được. Ông Thuận thanh minh: - Xưa nay, ông ấy ít khi đoán sai lắm... ở thành phố cũng có cọp vậy? Ông Thạnh nói: - Cọp ư? ở đâu? Ông chỉ cho tôi xem nào? Ông Thuận cười: - Thì ở sở thú chứ ở đâu.. Mà nữa, dạo này thú nuôi cọp đang phổ biến đó nghe.. Ông nên cẩn thận. Lần trước, có tay đến coi bói, ông ta bị thầy bói phán câu xanh rờn: số ông chết vì sông nước. Ông kia cười to: Tôi ở phố, làm gì mà chết vì sông nước.. Thế mà cuối cùng chết thật. Ông ta uống rượu say, về nhà nóng quá, xả vòi nước vào hồ tắm. Rồi chết ngạt trong đó. Ai nghe cũng kinh hoàng. Ông Thạnh gạt đi: - Thôi, bỏ chuyện đó, nghe chi tổ nhức đầu. Tiền buộc dải yếm bo bo, đeo cho thầy bói đâu lo vào mình... Tôi về đây, mệt quá rồi... Ba người chia tay nhau. Ai về nhà nấy. Người vẫn còn chếnh choáng vì men rượu. ° °     ° Ông Thạnh về nhà, nằm lăn ra ngủ. Bà Thìn đấm bóp cho chồng, tự nhiên lòng bà bùi ngùi. Bà biết ông Thạnh yêu bà, cưng chiều bà, nhưng ông đối xử với bà như một nô tì nhiều hơn là người vợ. Trưa nay để thể hiện quyền uy của mình với vợ, ông đã làm bà xấu hổ. Nhưng vì sợ ông, bà phải phục tùng. Mà bà Thìn sợ ông Thạnh thật. Rất sợ là khác. Mỗi lần nhìn ánh mắt lạnh lùng của chồng, là bà lại co rúm người lại. Người ta bảo bà cầm tinh con heo, còn chồng bà cầm tinh con cọp, Mà con cọp thì ăn con heo. Hồi xưa, khi còn yêu nhau, chưa nên vợ nên chồng, ông Thạnh đã bộc lộ bản tính gia trưởng, bắt bà phải luôn phục tùng ý nguyện của ông ấy. Và khi cãi nhau gì đó bao giờ bà cũng phải là người làm lành trước. Bản tính nhu nhược khiến bà nể sợ ông từ đấy... Khi nên vợ, nên chồng rồi, ông Thạnh đối với bà lại càng khắc nghiệt... Bà luôn khép nép, e dè trước ông. Nhiều lúc bà tự trách mình yếu đuối... Mà quả thật bà quá yếu đuối sống lệ thuộc vào ông. Về khoản làm ăn kinh doanh, ông Thạnh quả là tay giỏi giang. Từ tay trắng, ông tạo nên sự nghiệp. Bà Thìn không phải lo lắng gì về chuyện ăn uống, quần áo, đồ trang sức. Bề ngoài, ai nhìn vào cũng khen bà sung sướng, có chồng giỏi giang. Mà họ đâu biết nỗi khổ tâm của bà... Ông coi vợ như một đồ trang sức, hay đúng hơn là một nô tì. Phải công tâm mà nói, ông Thạnh chỉ mê làm ăn. Chuyện ngoại tình là không bao giờ có. Dù ông đẹp trai, nói năng lịch lãm, khéo ngoại giao. Tất nhiên là với người ngoài... Ông Thạnh có một thú vui kỳ cục, mỗi lần nghĩ đến, là bà Thìn lại đỏ mặt thẹn thùng. Dù bà đã là vợ của ông mười năm nay... Đó là ông thích lột trần truồng vợ ra, ngắm nghía, xăm xoi cơ thể của bà Thìn, hầu như ngày nào cũng vậy. Có lúc ông bắt bà quì xuống, loã lồ, úp hai tay sau gáy, y như bà đã phạm tội gì vậy... Bà thắc mắc: - Anh Thạnh, em đâu có lỗi gì với anh mà anh bắt em phải làm như vậy? Em là vợ của anh kia mà, chứ đâu phải là nô tì. Ông Thạnh hôn vợ âu yếm: - Thì anh thích như vậy, em cứ chiều anh đi. Đàn ông thú nhất là ngắm vợ mình, em không muốn vậy sao? Bà Thìn thẹn thùng: - Dĩ nhiên là em thích rồi, đã mười lăm năm nay, làm vợ anh, anh có bỏ sót ngày nào đâu... Thế anh không chán à? Ông Thạnh thích thú: - Vợ anh là báu vật của trời cho anh, làm sao mà chán được. Anh yêu em mà. Bà Thìn thở dài: - Nhiều lúc, em cứ nghĩ anh là con cọp dữ dằng giày vò con heo nhỏ. Nhưng mà em phải chấp nhận thôi. Vì em là vợ của anh, anh có toàn quyền với em... Ông Thạnh vui vẻ. - Em ngoan lắm, Thế mới là vợ hiền chứ. Bổn phận của em là hầu hạ chăm sóc chồng, em không phải lo lắng bất cứ điều gì cả... Và sau các cuộc nói chuyện, là những màn âu yếm cực kỳ nồng thắm, mà ông Thạnh dành cho bà Thìn. Ông Thạnh cựa quậy, chợt kêu rú lên: - Cứu, cứu tôi với. Cọp cọp nó vồ tôi … Mặt ông lộ vẻ hốt hoảng, mắt lờ đờ, bà Thìn lay chồng: - Anh Thạnh, anh làm sao vậy? Chắc tại say rượu quá mà. Ông Thạnh mở choàng mắt, mồ hôi vã ra như tầm... Ông thấy vợ bên cạnh, bình tĩnh trở lại... Bà Thìn lo lắng: - Có chuyện gì thế anh? Anh thất thần thế kia? Ông Thạnh lắp bắp: - Anh mơ một giấc mơ khủng khiếp quá, nghĩ lại còn toát cả mồ hôi. Bà Thìn hỏi: - Anh là người có thần kinh thép, ai cũng sợ anh, nhất là em, sao lại sợ giấc mơ nhỉ? Ông Thạnh thẩn thờ: - Em chưa biết đó thôi. Anh thấy anh lạc vào một khu rừng rậm, lối đi lại chằng chịt cây cối, anh đang loay hoay tìm đường đi ra, bất chợt có tiếng cọp gầm. Anh quay lại, muốn đứng tim vì sợ: một con cọp to tướng, mắt nhìn anh trừng trừng. Con cọp nói tiếng người. - Ông bạn, hôm nay ông sẽ là món đồ ăn ngon cho tôi. Tôi đói đã lâu lắm rồi... Anh rùng mình: - Trời ơi, con cọp nói được tiếng người. Ngươi là ma cọp hay sao? Con cọp gầm lên ghê sợ, nó xông vào, vồ lấy anh, anh cuống cuồng chạy trốn. Nhưng không kịp phút chốc thấy đầu mình bị đứt lìa, xác nằm chình ình ra một chỗ, con cọp nhai đầu anh ngấu nghiến... Lát sau, có con chó đen, nó kéo anh vào một góc ăn nốt phần thân còn lại... Mơ đến đó, anh bàng hoàng tĩnh dậy. Thật không hiểu ra sao nữa...'' Bà Thìn ngó chồng đăm đăm, nhìn ông Thạnh sao thấy tội nghiệp quá, còn đâu oai khí cửa một người chồng hùng dũng trong mắt bà.. Bà an ủi. - Ối dào, hơi đâu mà tin ở giấc mơ hả anh? Mạng anh là mạng cọp, nó phải phù hộ cho anh chứ? Ông Thạnh thở dài: - Biết là như vậy, nhưng hôm nay, anh tình cờ theo ông Thuận đi coi bói, lão thầy bói phán anh bị cọp vồ, thế có khiếp không cơ chứ? Bà Thìn cười rổn rảng: - Đúng là lão thầy bói đó nói bậy quá di, ở thành phố làm gì có cọp... Mà ở sở thú cọp người ta nhốt chặt mấy lớp chuồng, có gì sợ nữa.. Anh à, mai con nó đòi đi sở thú chơi, anh cho em và con đi nhé... Ông Thạnh rùng mình: - Nhỡ gặp con cọp sổng chuồng thì sao? Thôi em ạ ta ra biển tắm vui hơn... Bà Thìn thở dài: - Sao mà chồng em lại nhát thế? Tự nhiên đi sợ những thứ vớ vẩn. Nếu anh sợ, thì em và con đi một mình. Con nó thích đi sở thủ chơi chứ nó đâu có muốn ra biển. Ông Thạnh bị vợ trách, khí huyết sôi lên sùng sục: - Ừ, em nói đúng, việc quái gì anh phải sợ. Mai ta đưa con đi chơi... Bà Thìn vui vẻ: - Có thế chứ? Thôi, mình ngủ nghe anh, từ nãy đến giờ đấm bóp cho anh, em mệt lắm rồi... Ông Thạnh ôm vợ, âu yếm: - Muốn ngủ thì ngủ, nhưng phải cho anh yêu đã chứ? Bà Thìn lỏn lẻn: - Coi anh kìa, mới vừa mặt xanh như tàu lá, bây giờ lại đòi hỏi rồi. Anh muốn thì anh làm đi, em là vợ anh mà... Ông Thạnh lột trần truồng vợ ra, ngắm nghía, vẻ hả hê ông quên hẳn giấc mơ kinh hãi vừa rồi, chỉ biết vợ ông mà thôi, Bà Thìn quả là đẹp. Cặp vú no tròn, đùi thon dài, y như đùi các cô người mẫu. Dù đã ngoài ba mươi, nhưng vẫn còn rừng rực lửa tình. Ông Thạnh yêu vợ xong, lăn ra ngủ. ° °     ° Hôm sau, ngày chủ nhật, trời nắng đẹp. Ông Thạnh lấy xe hơi chờ vợ con đi sở thứ .. Hai đứa cơn ông tung tăng chạy nhảy rồi đến bên chuồng cọp trêu chọc. Con cọp cái giận dữ nhe nanh gầm gừ. Ông Thạnh hết hoảng: - Kìa hai con, đừng có chọc nó. Con cọp hung dữ lắm đó. Hai đứa bé cười ngặt nghẽo: - Cha ơi, nó đã bị nhốt trong chuồng rồi, có gì mà sợ nữa. Mà cha cầm tinh con cọp, sao lại sợ nó... Ông Thạnh lẩm bẩm: - Ừ nhỉ việc gì mà sợ. Ta thật lẩn thẩn, cứ bị giấc mơ ám ánh hoài. Ông đến bên con cọp nhìn nó. Con cọp thấy ông, ngó chòng chọc. Bất giác nó gầm rú man dại. Ông Thạnh thấy chóng cả mặt. Đôi mắt con cọp như phát sáng. Miệng nó gầm gào như nói: - Ta đợi ngươi đã lâu, mau đến nộp mạng cho ta... ngươi không thoát khỏi ta đâu. Ông Thạnh thất sắc rú lên, ôm đầu bỏ chạy cuống cuồng. Bà Thìn vội chạy theo chồng, dìu ông ngồi xuống ghế đá. Mọi người đi chơi nhìn họ, không hiểu vì sao ông Thạnh lại sợ hãi thế kia. Bà Thìn bần thần. - Anh Thạnh anh mệt à? Ngồi nghỉ mệt một lát. Con cọp đó có gì mà sợ kia chứ? Ông Thạnh thừ người ra: - Anh cũng không hiểu tại sao lại có cái cảm giác kỳ lạ vậy? Xưa nay anh đâu có biết sợ là gì? Bất chợt mắt ông trợn tròn. Cạnh ông, chỗ ghế đá ông và vợ đang ngồi, có con cọp đá, nó nhìn ông chòng chọc. Cái nhìn hớp hồn ông. Ông lắp bắp: - Đừng, đừng như thế... Khiếp quá... Bà Thìn lo lắng: - Cái gì vậy anh, hay anh mệt, suy nhược thần kinh quá rồi, ta đi bệnh viện khám thử sức khoẻ xem sao? Ông Thạnh chỉ con cọp đá, bà Thìn phì cười: - Anh mắc bệnh ''tự kỷ ám thị'' mất rồi, nhìn đâu cũng thấy cọp. Có việc gì đâu, nó chỉ là con cọp đá thôi mà... Ông Thạnh thở phào: - Vậy mà anh cứ tường là cọp sống chứ. Hết cả hồn... Bà Thìn chép miệng: - Anh bây giờ nên mang lốt thỏ thì hơn, chứ mang tính cọp ai lại sợ thế nhỉ? Ông Thạnh nghiêm nghị: - Em đùa với anh đó à? Em nên nhớ, em là vợ của anh, rõ chưa? Chẳng qua là vì ảo giác, nên anh mới như vậy? Mà anh đã nói rồi. Hôm nay đi sở thú là chiều em và con. Bà Thìn sợ sệt. - Em xin lỗi, anh đừng giận em, em luôn kính trọng anh mà. Ông Thạnh không nói gì, đôi mắt nhìn xa xăm. Hình như ông đang nghĩ về cái gì mông lung lắm... Bà Thìn tự nhiên linh cảm thấy điều gì chẳng lành. Chồng bà dạo này thật kỳ lạ. ° °     ° Đêm đó, ông Thạnh đang ngủ, thấy một người đàn ông hung dữ bước vào. Mắt ông ta loé sáng, tóc tai bờm xờm. Ông Thạnh rú lên: - Ông là ai, tại sao lại vào nhà tôi? Người đàn ông gằn giọng: - Ta là người đang truy lùng ông, mà ông lại còn có quyền hỏi điều đó à? Ông Thạnh lắp bắp: - Truy lùng tôi ư? Tôi có tội gì mà truy lùng? Người đàn ông trợn mắt: - Ta tìm ông để ăn thịt, chứ còn gì nữa mà phải hỏi? Ngươi hãy mở mắt nhìn cho kỹ đi. Phút chốc người đàn ông há miệng hoá thành một con cọp đực to tướng, mồm đầy máu. Ông Thạnh rú lên, vừng vẫy chân tay như bị trói chặt, miệng ông ú ớ Bà Thìn hốt hoảng: - Anh Thạnh, anh làm sao vậy, người anh như bị động kinh. Ông Thạnh giãy giụa hồi lâu, rồi mở mắt thao láo mổ hôi vã ra: - Tôi còn sống ư? Ai vừa kêu tôi vậy? Bà Thìn lo lắng: - Em gọi anh đó. Anh làm em sợ quá Khi không lại rú lên như người bị ai bắt hồn... Ông Thạnh đờ người ra: - Anh lại mơ bị con cọp vồ, em ạ. Con cọp đó nó hoá thành người đàn ông dữ tợn, đến bên anh, phút chốc hoá cọp, vồ lấy anh. Anh vợ quá, kêu rú lên, lúc đó em gọi anh dậy... Bà Thìn càu nhàu: - Chung qui cũng chỉ tại lão Thuận mà ra hết, tự dưng đang yên đang lành, lại dẫn chồng ta đi coi bói, để ông ấy sợ.. Ngày mai, ta sẽ mắng cho ông ta một trận. Ông Thạnh thở dài: - Lỗi đâu phải ông Thuận, em đừng có nói bậy! Có lẽ tại anh làm việc quá sức. Hay tại căn phòng mình có ma cọp? Bà Thìn gạt đi: - Anh đừng có nói vậy, thì bộ mình sống mười lăm năm nay ở căn phòng này đều có ma cả ư? Thế anh coi em là ma à? Ông Thạnh bần thần: - Anh đâu có nói vậy? Nhưng quả thật là anh lo lắng... Anh không hiểu ra sao nữa, anh không kiểm soát được hành vi của mình... Thôi, đêm nay em ngủ trong buồng, anh ra phòng khách ngủ vậy. Bà Thìn thổn thức: - Tuỳ ở anh thôi. Chứ anh cứ mộng mị hoài như vậy làm sao mà có sức khoẻ để làm việc… Ông Thạnh ra phòng khách, nằm trên bộ sa lông, bật đèn sáng trưng... Quả nhiên những cơn ác mộng biến mất, ông ngủ ngon lành... Hôm sau, ông thấy tinh thần sảng khoái. Ông hồ hởi nói với vợ: - Anh đã rõ căn bệnh của mình rồi. Tại anh suy nghĩ quá nhiều. Đêm qua ngủ ở đây, anh thấy khoẻ khoắn, không còn ác mộng nữa... Bà Thìn ngạc nhiên: - Vậy ư? Nhưng anh chỉ ở một đêm thôi nhé. Tối mai phải vào với em chứ anh để em cô độc một mình. Ông Thạnh cười: - Coi kìa cô vợ anh, càng ngày càng lấn lướt chồng rồi đó. Được rồi. Anh sẽ làm theo ý em. Nhưng hễ cứ vào căn phòng với vợ, là ông Thạnh gặp ác mộng càng ngày dữ dội. Còn khi ra sa lông ngủ, dưới bức tranh treo trên tường, bức tranh có hình con cọp là ông ngủ ngon lành, an giấc… Ông nói với bà Thìn: - Từ nay, anh sẽ ngủ ở sa lông này, khi nào cần sinh hoạt vợ chồng, anh sẽ đến với em. Em đừng ngăn cản anh nữa... Bà Thìn chỉ biết gật đầu, thở dài: - Thôi, tuỳ ở anh, anh là cuộc sống của gia đình này... Em phải chăm sóc anh. Ông Thanh cảm động: - Em luôn là người vợ tốt của anh... Anh yêu em... Sức khoẻ của ông Thạnh trở lại bình thường, tinh thần làm việc hăng hái, gia đình ông trở nên giàu có hơn. Ông nhìn bức tranh cọp, vui vẻ: - Tranh cọp, phải chăng ngươi là thần tài của ta. Có ngươi, ta cảm thấy yên tâm lắm. Chẳng ma qua nào có thể hù doạ được ta... Ông Thuận đến chơi, thấy ông Thạnh ngủ ở sa lông, đùa: - Sao vậy, ông Thạnh, bị vợ cấm vận à? Ông tự hào là người dạy vợ giỏi lắm kia mà... Bà Thìn càu nhàu: - Tất cả là ở lỗi của anh đấy, anh Thuận à? Ông Thuận ngạc nhiên: - Sao vậy, tôi đâu có làm gì để ông bà phải giận nhau? Ngược lại, tôi còn kính phục ông về cách dạy vợ đấy chứ. Bà Thìn dẩu môi: - Dạy vợ ư? Tôi có gì mà phải dạy, tôi luôn phục tùng chồng tôi mà. Tôi đâu dám trái lời ông ấy. Ông Thuận sửng sốt. - Thế sao ông ấy lại ngủ ở sa lông này? Thật khó hiểu. Ông Thạnh nhăn nhó: - Tại vì từ sau khi đi cùng ông coi bói đến giờ, tôi luôn gặp ác mộng. Ông Thuận hỏi: - Chuyện coi bói ấy à? Tôi đã quên rồi Thế ông gặp ác mộng ra sao? Bà Thìn cáu gắt: - Thì ông ấy luôn thấy bị cọp vồ! Khi ngủ với tôi, luôn gặp ác mộng, còn ra sa lông thì ngủ ngon lành Ông ơi, có phải tôi là con cọp dữ vồ ông ấy không? Ông Thuận cười hề hề: - Trời ơi, cái chuyện bói toán ấy mà tin làm gì. Mà chị Thìn này, càng ngày chị càng lấn chồng đó nghe. Cứ như là chị cầm tinh con cọp, còn ông ấy là tinh của con heo rồi. Mà cũng hay nhờ vậy, chị mới khẳng định mình chứ. Phụ nữ phải đôi lúc vùng lên sống sau cái bóng của chồng mãi sao được. Bà Thìn được khen lại phấn khởi, nhưng rồi lại ỉu xìu: - Nhưng tôi, tôi lo lắm anh Thuận ạ. Vì xưa nay chồng tôi đâu có gặp ác mộng bao giờ đâu. Ông Thuận cười xoà: - Thì phải lâu cứ cho ông ấy gặp ác mộng một vài bữa chứ. Có thế mới biết sợ. Đi đêm lâu ngày cũng phải gặp ma chứ. Ông Thạnh ngượng ngập: - Ông cứ đùa hoài. Mà cũng lạ ông ạ. Khi tôi ngủ dưới bức tranh này, y như được che chở, không gặp ác mộng gì hết. Ông Thuận tò mò: - Vậy à? Vậy bức tranh này hợp với ông, là thần hộ mệnh của ông rồi còn gì? Sao ông không đời bức tranh vào nhà trong, chỗ buồng ngủ ấy. Chứ chồng một nơi, vợ một nẻo, cũng ái ngại thật. Bà Thìn thẹn thùng: - Chuyện vợ chồng người ta, làm sao ông biết được. Thế ông tới đây, lại rủ chồng tôi đi coi bói à? Ông Thuận lắc đầu: - Không tôi quên chuyện đó rồi. Tôi tới thăm ông bà, vì lâu quá không gặp, có vậy thôi. Tiện thể, rủ ông đi uống vài cốc bia. Ông Thạnh xua tay: - Thôi, để hôm khác. Còn bây giờ, ở đây, tôi đãi ông một chầu. Lâu quá mình không gặp… Ông Thuận vui vẻ, đồng ý ngay, và cuộc nhậu tưng bừng. Ông Thuận ra về, ông Thạnh lên sa lông nằm ngủ. Bà Thìn đắp mền cho ông, rồi tắt đèn ngủ. Nửa đêm, bà Thìn nghe tiếng rầm rất mạnh, tiếng ông Thạnh rú lên đau đớn: - Trời ơi, chết tôi rồi... Bà Thìn hết hoảng chạy ra, bật đèn sáng. Một cảnh tượng khiến bà kinh khiếp. Cả bức tranh cọp to đùng đè xuống người ông Thạnh. Thân thể ông dập nát, máu mồm ộc ra. Ông đã tắt thở. Bà Thìn rú lên, rồi ngất lịm... ° °     ° Đám ma ông Thạnh diễn ra buồn bã. Bà Thìn ngất lên, xỉu xuống nhiều lần. Bà nức nở: - Anh Thạnh ơi, sao anh lại chết thảm như vậy? Bức tranh chết chóc này đã hại chồng tôi rồi… Mọi người ai cũng bùi ngùi. Chuyện ông Thạnh chết vì bức tranh trở thành lời đồn đại. Ai cũng nghĩ hồn ma con cọp đã giết chết ông ấy. Những cơn ác mộng mà ông Thạnh gặp, có lẽ là từ bức tranh cọp mà ra... Đúng là không ai thoát khỏi mệnh trời... Bức tranh sau đó bị đốt thành tro… Mời các bạn đón đọc Bức Tranh Chết Chóc của tác giả Thạch Bất Hoại.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Xuyên Thấm - Phan Hồn Nhiên
Sách Nói Xuyên Thấm   Trên chiếc xe buýt hai tầng vào một ngày mùa Hè, cuộc gặp gỡ tình cờ đã bẻ ngoặt dòng chảy cuộc sống của Nguyên và Doanh Minh. Từ khoảnh khắc ấy, hiện ra hương thơm kỳ bí bao quanh, khiến hai người trẻ tuổi và cô độc không thể ngừng nghĩ về nhau. Sau cuộc gặp gỡ định mệnh, một vài hiện tượng kỳ lạ xảy ra, bắt đầu từ ngôi nhà mới, nơi Minh và cha cô chuyển đến sống cách đó chưa lâu. Ngay cả ngôi trường nơi Minh đi học, các sự kiện bất thường cũng kéo đến: Hai học sinh khối 12 chuyển đến, một trong đó chính là chàng trai mang theo mùi hương bí hiểm của loài hoa tử đinh hương… Và án mạng bất ngờ đã đẩy bốn thành viên của ngôi trường trung học danh tiếng vào cuộc truy đuổi một bí mật đáng sợ. Sẽ có người giành mối lợi lớn lao trong bí mật ấy. Sẽ có kẻ bị huỷ diệt. Quan trọng hơn cả, chỉ khi xuyên hết hành trình này, họ mới thấu rõ chân dung của nhau, và phát hiện con người thật của chính mình. Sau cuộc gặp gỡ định mệnh Nguyên và Doanh Minh, một vài hiện tượng kỳ lạ xảy ra... Minh là ai? Tại sao cô gái nhỏ kín đáo và nhút nhát ấy luôn trở thành tâm điểm của các sự kiện ghê rợn? Là một linh hồn lang thang trong thế giới này, với mục tiêu đã định sẵn, vì lẽ gì vào những thời khắc quyết định, cận kề chiến thắng, Nguyên lại tự mình làm vuột mất cơ hội thành công? Vị trí của cô bạn thời trang và sôi nổi Tina sẽ ở đâu? Cô ấy đứng về phía ai trong cuộc chạy đua truy tìm quyền lực bí mật? Và không thể bỏ qua, phía sau lớp vỏ ngoài nổi loạn bất cần của một chàng trai bóng rổ, Trung là một người như thế nào? *** Xuyên thấm là tác phẩm chốt lại cho bộ ba fantasy của Tủ sách teen thế kỷ 21, pha trộn giữa hai thể loại trinh thám (detective) và kinh dị (thriller). Bí mật dẫn dắt bí mật. Những nút thắt liên tục nghẹt thở khiến bạn không thể dừng lại một khi đã chạm vào lời kể đầu tiên. Bố cục khác lạ giúp bạn hóa thân vào từng góc nhìn riêng biệt của bốn người bạn - bốn nhân vật chính dẫn dắt toàn bộ câu chuyện. Xuyên thấm sẽ xuất hiện trong hình thức illustrated book - sách minh họa cao cấp. Phần nhìn của Xuyên thấm mang đậm hơi hướng siêu thực, tính biểu trưng độc đáo được nhấn mạnh. Bố cục đăng đối khác lạ, với từng nhân vật như hiện ra từ các quân bài tarot huyền bí sẽ khiến những ai là tín đồ của loại hình mỹ thuật hiện đại khó lòng chối từ sức hút của Xuyên thấm. Vượt qua lằn ranh giữa sự sống và cái chết, gạt bỏ mọi toan tính tối tăm, để phần lương thiện trong mỗi con người mạnh hơn tham vọng của chính họ, chỉ có thể duy nhất sức mạnh của tình yêu thuần khiết. Thông điệp giản dị mà sâu thẳm này sẽ được Phan Hồn Nhiên và Phan Vũ Linh gửi đến cho các bạn một cách trọn vẹn, lắng đọng trong Xuyên thấm. *** Trên đỉnh những cây cổ thụ sừng sững, bóng tối là một khối mềm xốp dày đặc. Những hạt mưa to nặng đang rơi nhưng không chạm xuống đất. Hàng vạn cành nhánh đã vươn ra thấm trọn những phiến nước còn ở lưng chừng không gian. Có một tích tắc, chàng trai trẻ hướng đôi mắt xanh trong suốt lên c Âm thanh dường như chưa từng tồn tại trong không gian này nếu không kể từ những hốc đen được tạo nên bởi hàng vạn cội rễ già nua nhô hẳn lên mặt đất, thảng khi vẳng ra tiếng ngân của sự im lặng. Đế giày vải mềm tiếp tục lướt bên trên thảm lá mục, khá nhanh nếu tính theo tốc độ người chạy, nhưng chỉ là trung bình với một bóng ma bay lơ lửng trong không trung. Không gì có thể ngăn chàng trai mảnh khảnh. Mọi thứ nơi đây cậu thuộc như lòng bàn tay, và cậu đã di chuyển cùng trời cuối đất theo cách kỳ dị ấy suốt hơn nửa thế kỷ. Bóng ma chỉ dừng lại khi giữa cánh rừng, bỗng hiện ra hồ nước mênh mông. Nếu có thể phân biệt các lối mòn ngoằn ngoèo trong rừng cây cổ thụ dày ken hay nhận ra đôi mắt loài thú đêm trong không gian đóng kín, chính là nhờ thứ ánh sáng dịu nhẹ hắt lên từ mặt hồ trơn nhẵn như một tấm gương bất động. Chàng trai trẻ đã chạm chân xuống mặt đất cạnh hồ. Mắt nhắm nghiền, đôi tay gầy mảnh vươn thẳng về phía trước, trong một tư thế bất động kỳ dị. Tư thế của nỗi cô độc tột cùng. * Lan theo các luồng khói mỏng nhẹ bay phất phơ, những mùi hương vốn dĩ tách biệt bỗng hiện rõ mồn một. Mùi rễ cây ẩm ướt quanh hồ. Mùi hơi nước. Và mùi của chính chàng trai - được tạo nên bởi hàng triệu phân tử hương thơm của một loài hoa bị giam hãm trong bóng đêm, dần biến đổi thành thứ mùi hương khô lạnh ở một vài sinh vật mà sự sống rời bỏ, giờ đây đang trong quá trình phân hủy cuối cùng. Trong đôi mắt mở choàng của bóng ma, thoáng hiện nỗi phân vân. Có nên liều lĩnh một lần nữa nhấc bổng thân hình, bay vút qua khoảng nước mênh mông? Nhưng, cậu ta đã chậm một bước. Một tiếng kêu thảng thốt của con chim nào đó náu mình trong bóng tối đã xé toạc sự tĩnh mịch. Cánh rừng bỗng chốc vang động tiếng vỗ cánh dữ dội, đồng loạt. Cùng với vụn lá mục, hàng ngàn con bướm chấp chới bay lên. Những con thú đêm phủ phục cũng nhỏm dậy, rùng rùng bỏ chạy khỏi các mỏm đất nhấp nhô. Bầu không khí nhuốm xanh bất biến phút chốc vụn vỡ tả. Từ bên kia bờ hồ tối om, luồng gió thốc sang, cuộn xoáy. Như một thân cây non trẻ, chàng trai đổ sắp nửa thân trên về phía trước, liền sau đó lại bị kéo bật ra sau. Mái tóc bay tung trong cơn lốc xoáy dữ dội. Tuy nhiên, đôi chân cậu vẫn bám chặt vào mặt đất. Mặt nước phía trước nghiêng lệch, đổ dồn về phía chàng trai. Trong chớp mắt, nó đã dựng lên thành một bức tường cao ngất, sẵn sàng đổ ụp xuống kẻ đối diện nhỏ nhoi. - Ta biết ngươi ở đó! - Chàng trai cất giọng trầm đục. Bức tường nước rờn lên, như một cánh phổi khổng lồ thở phập phồng. Đôi mắt xanh thẫm nhìn trừng trừng về phía trước, nói to hơn: - Hiện hình đi! Một cái tát khủng khiếp giáng mạnh. Bóng ma trẻ tuổi tung bắn về sau, đổ vật xuống trong tư thế co quắp. Mọi nỗ lực nhoài dậy đều bất khả, bởi từ trong các hốc cây, hàng chục cánh tay trắng bệch tủa ra, ghì níu đôi vai, khuỷu tay và cả phần cổ của cậu. Càng giãy giụa, cậu càng bị ghì chặt và cào cấu đau hơn bởi những bàn tay nghều ngào. Tất cả chúng đều bị chặt mất một ngón. Kẻ gác cửa giữa hai thế giới dần dần hiện hình. Một thân thể cao lớn. Một gương mặt không tuổi tác, không giới tính, nhẵn mịn tựa men sứ, với các đường nét hoàn hảo của một đầu tượng tuyệt mĩ mà cảm xúc duy nhất lóe ra từ đôi mắt hồng nhạt như loài thỏ rừng là nỗi thèm khát mãnh liệt che giấu dưới vẻ lạnh lẽo thản nhiên. Dẫm mạnh đế giày gắn đinh nhọn hoắt lên mái tóc mềm xõa trên thảm lá mục, đầu tượng rít lên: - Mi dám tới tận nơi đây, khi vật thể mà ta cần mi chưa đem đến? Mi ngờ rằng có thể qua mặt ta, bay sang bên kia hồ để đào thoát dễ dàng ư? - Không thể truy tìm vật thể ấy được nữa! - Giọng chàng trai nghẹn lại - Mỗi khi ta lần ra dấu vết, gần chạm vào được, nó lại vuột đi. - Mi sợ tai họa mà nó gây ra? Ha ha ha...! Tiếng cười rú lên chói tai rồi đột ngột im bặt. Đầu tượng xanh tái hạ giọng, thì thào - Hãy thú nhận là mi cũng nhúng tay vào tội ác! Hơn ai hết, mi thừa hiểu, tai họa càng nhiều, thì uy lực nó càng lớn mạnh. Uy lực càng lớn mạnh, đương nhiên càng khó kiểm soát. Nếu không thế, ta đã không yêu cầu mi đem vật ấy về đây, đánh đổi, như hai chúng ta đã thỏa thuận nửa thế kỷ trước! - Phải, biết vậy, nhưng nó đã thất lạc! Thời gian qua, ta truy tìm nó, nhưng không có dấu vết nào... - Chàng trai cố giải thích trong hơi thở bị bóp nghẹt. Đầu tượng cao lớn chậm rãi cúi xuống. Từ khuôn miệng đen ngòm, nụ cười gằn phả ra sự giận dữ cóng lạnh: - Mi đã tiêu tốn quá nhiều thời gian vào những hành động vô bổ. Mi thích đóng vai một kẻ vô hình lang bạt thôi sao? Nay, ta gia hạn: 6 tháng cuối cùng còn được phép hiện diện trong thế giới của người sống, mi phải hiện hình. Hãy trở về nơi mi đã bắt đầu. Chỉ như thế mi mới có cơ may tìm ra thứ ấy, tiếp cận nó. Và bằng mọi giá, mi phải mang nó đến đây cho ta. Nếu không, mi biết rõ điều gì sẽ xảy đến! Chàng trai trẻ khẽ gật đầu, hoàn toàn kiệt quệ. Nhanh chóng như khi hiện ra, kẻ gác cửa hóa thân lại thành trận gió xám xanh, biến mất. Những bàn tay mất ngón trắng bệch vươn ra từ đám rễ cây cũng rút trở về hang hốc tối đen. Khẽ rên lên, bóng ma trẻ tuổi xoay người, tìm cách ngồi dậy. Những phần tử diệp lục khiến đôi mắt có màu lá cây trong suốt lúc này sẫm lại. Lưng áo đã rách bươm. Cổ, khuỷu tay và vai áo cậu ta đầy các vết cào. Từ những vết trầy xước, rỉ ra thứ chất lỏng đặc sánh, ngả sắc xanh. Rốt cuộc, cậu cũng loạng choạng thở dốc, đứng lên. Đúng khi ấy, bức tường nước vẫn dựng cao phía trước bất thần đổ ụp. Trong chớp mắt, chàng trai vừa gượng dậy đã bị cuốn thốc vào trong làn nước dữ dội, chìm sâu xuống tận đáy hồ. Nước tràn vào mắt, vào tai, vào phổi, xóa nhòa mọi nhận thức. Trong một nỗ lực khủng khiếp, bóng ma trẻ tuổi gượng ngoi lên mặt nước lạnh băng. Nhưng, bức tường thứ hai đã tiếp tục ụp xuống, hất tung thân hình nhỏ bé lên đỉnh ngọn sóng tung bọt. Bất tỉnh hoàn toàn, buông mình trong làn nước trôi băng băng, cậu nhắm nghiền mắt, để mặc con sóng hung hãn vươn cao ngang tầm những đỉnh cổ thụ, phá tan vòm trời dày đặc tối đen, ném cậu sang một không gian hoàn toàn khác hẳn. * Tia sáng tinh khôi xuyên qua hạt nước đọng trên mi mắt. Dải quang phổ rung nhẹ, mỏng dần, chỉ còn màu trắng dịu êm ả khi đôi mắt dần hé mở. Hơi ấm tỏa đến từ Mặt Trời ban mai, sưởi cho tấm lưng lạnh cứng mềm lại, đồng thời làm dậy lên hương thơm dịu ngọt của những cụm hoa hồng phớt, xanh nhạt và trắng kem đang nở rộ trên một hàng cây. Tỉnh lại sau cú va đập bất tỉnh, chàng trai trẻ nhận ra mình đang nằm trong vòm lá xanh tươi mát, trên một chạc cây, giữa hàng trăm cụm hoa vào mùa nở rộ. ... Mời các bạn đón đọc Xuyên Thấm của tác giả Phan Hồn Nhiên.
Hồi Ức Kẻ Sát Nhân - Amelie Nothomb
Cái tin nhà văn từng đoạt giải Nobel Prétextat Tach chỉ còn hai tháng nữa là qua đời khiến báo giới xôn sao đổ xô đi đăng ký phỏng vấn ông. Trong số năm phóng viên ít ỏi được chọn, bốn người thất bại ra về trong tình trạng kiệt quệ tinh thần và sức lực. Chỉ có Nina, cô phóng viên thứ năm là kiên quyết đối đầu đến cùng, không chút khoan nhượng với tiểu thuyết gia phì nộn, liệt bại, bí ẩn, căm thù phụ nữ, kinh tởm và bệnh hoạn này, để rốt cuộc cũng buộc ông ta phải lộ mặt, tự thú quá khứ đen tối, đầy ám ảnh của mình. Xuyên suốt cuốn tiểu thuyết, hầu hết là những đoạn đối thoại liên tục, dồn dập khiến người ta có cảm giác như đang tham dự những cuộc hỏi cung gay cấn, căng thẳng, vô cùng hồi hộp. Để rồi bất ngờ đến bàng hoàng với kết thúc kỳ lạ của câu chuyện… *** - “Hồi ức kẻ sát nhân đến với thế giới văn học không khác gì một trái bom nhỏ đột nhiên được thả xuống, khiến người ta không khỏi sửng sốt bởi sự bất ngờ, tiếng vang và cả ảnh hưởng của nó” – L’Express - “Độc giả sẽ không thể dứt khỏi những đoạn hội thoại liên tục đầy lôi cuốn. Ngòi bút kỳ diệu của Nothomb khiến người ta vừa ghê tởm nhân vật Prétextat Tach lại vừa tò mò ngốn ngấu từng lời nói, từng biến đổi tâm trạng của ông ta. Một cuốn tiểu thuyết vô cùnghấp dẫn” – www.evene.fr - “Cuốn tiểu thuyết khiến người ta sững sờ. Rồi choáng váng. Amélie Nothomb đã đưa độc giả đến một nơi rất gần sự chết bằng câu chuyện tự nhiên nhưng điên cuồng, ngây thơ nhưng tai ác và từ đó chỉ ra bộ mặt mà mỗi người có thể cất giấu sâu thẳm trong mình” – Le Figaro. - “Hồi ức kẻ sát nhân là tác phẩm đầu tay của Nothomb đồng thời cũng là tác phẩm tiêu biểu mở màn cho một loạt các tiểu thuyết mang đậm văn phong bí ẩn và lôi cuốn của Nothomb, khiến cô xứng đáng với danh hiệu nhà văn của sự im lặng” – Lire *** Amélie Nothomb sinh ngày 13/8/1983 là người Bỉ, nhưng Amélie Nothomb lại chào đời và trải qua một phần tuổi thơ tại Nhật Bản. Từ sau cuốn tiểu thuyết đầu tay Hồi ức kẻ sát nhân xuất bản năm 1992 đến nay, mỗi năm cô cho ra mắt bạn đọc thế giới một tác phẩm mới. Trong đó phải kể đến Phá ngầm tình tứ (1993) với các Giải thưởng Vocation và Chardonne; Sững sờ và run rẩy (1999) với Giải thưởng Lớn của Viện Hàn lâm Văn học Pháp; Không Adam cũng chẳng Eva (2007) với Giải thưởng Flore. CÙNG MỘT TÁC GIẢ: - Phá ngầm tình tứ, 1993. - Những chất dễ cháy, 1994. - Những bài châm biếm, 1995. - Xiêm y, 1996. - Mưu sát, 1997. - Thủy ngân, 1998. - Sững sờ và run rẩy, 1999. (Tác phẩm đoạt giải thưởng lớn của Viện Hàn lâm Pháp). - Lý luận trừu tượng về điện thoại, 2000. - Thuốc xức tóc của kẻ thù, 2001 - Từ điển Robert về danh từ riêng, 2002. - Kẻ phản Chúa, 2003. - Tiểu sử của cơn đói, 2004. - Axit sunfuric, 2005. - Không Adam cũng chẳng Eva (2007) *** Khi đông đảo công chúng biết tin Prétextat Tach chỉ còn hai tháng nữa sẽ tạ thế, các phóng viên từ khắp nơi trên thế giới liền khẩn khoản xin được trao đổi riêng với văn sĩ tuổi ngoài tám mươi này. Hẳn là nhà văn lão thành đã tạo dựng được một uy tín lớn, thế nhưng người ta vẫn không khỏi kinh ngạc khi thấy đổ xô đến đầu giường bệnh của tiểu thuyết gia sáng tác bằng tiếng Pháp các phóng viên thường trú của những nhật báo nổi tiếng như (chúng tôi xin mạo muội tạm dịch) Những tin đồn từ Nankin và Ngườiquan sát Bangladesh. Như thế, hai tháng trước khi qua đời, Tach đã có thể hình dung đôi chút về danh tiếng của mình. Thư ký riêng của nhà văn chịu trách nhiệm chọn lọc cẩn thận những đề nghị phỏng vấn: người này loại ra tất cảnhững tờ báo không sử dụng tiếng Pháp bởi vì người bệnh đang hấp hối chỉ nói ngôn ngữ này và không tin tưởng vào bất cứ phiên dịch nào; anh ta cũng từ chối những phóng viên da màu, bởi lẽ dần dà khi đã có tuổi, nhà văn bắt đầu có những phát ngôn mang tính phân biệt chủng tộc, những lời lẽ không trùng khớp với quan điểm thực sự của ông - các chuyên gia nghiên cứu về Tach hết sức lúng túng bởi họ nhìn thấy trong những câu chữ này biểu hiện của mong muốn gây công phẫn nảy sinh theo tuổi tác; cuối cùng, viên thư ký lịch sự từ chối lời đề nghị thiết tha của các kênh truyền hình, các tạp chí dành cho phái nữ, những tờ báo được đánh giá là quá thiên về chính trị và nhất là những tạp chí y khoa chuyên ngành muốn biết làm thế nào mà con người vĩ đại này mắc phải một chứng ung thư hiếm gặp đến vậy. Tach không phải là không tự hào khi biết mình mắc phải hội chứng Elzenveiverplatz đáng sợ, tên thường gọi là"chứng ung thư sụn", được đặt theo tên nhà bác học vào thế kỷ XIX đã tìm ra triệu chứng căn bệnh trên khoảng chục trường hợp bệnh nhân vốn là tù khổ sai tại Cayenne, chịu án giam vì phạm tội cưỡng dâm rồi thủ tiêu nạn nhân, và kể từ đó trở đi, người ta không còn phát hiện thêm một trường hợp phát bệnh nào nữa.Tiểu thuyết gia cảm thấy sự chẩn bệnh lần này giống như một sự phong tước vượt quá sức mong đợi: với cơ thể phì nộn không chút râu ria, ở ông hội tụ tất cả những đặc điểm nhận dạng của một viên quan hoạn, chỉ trừ có giọng nói, ông đang sợ sẽ phải chết vì chứng tim mạch ngớ ngẩn. Khi thảo ra nhữngdòng rồi đây sẽ khắc trên mộ chí của mình, ông không quên nhắc đến cái họ quý tộc của vị bác sĩ người gốc Teuton, nhờ cái họ ấy ông mới có thể từ giã cõi đời này một cách hiển hách. Nói đúng ra, việc lão già phì nộncứ suốt ngày ru rú trong nhà thọ được đến tuổi tám mươi ba đã khiến giới y họ chiện đại phải bối rối. Người đàn ông này béo đến nỗi từ nhiều năm nay, ông thú nhận là không còn khả năng đi bộ; ông đã lờ tịt những lời căn dặn của các bác sĩ chuyên khoa dinh dưỡng và ăn vô độ. Ngoài ra, ông còn hút chừng hai mươi điếu xì gà La Habana mỗi ngày. Nhưng ông lại uống rất điều độ và đã từ lâu không còn duy trì sinh hoạt tình dục: các bác sĩ không tìm ra cách giải thích nào kháccho sự vận hành trơn tru của trái tim bị mỡ bóp nghẹt ấy. Sự sống sót của ông không hề kém phần bí hiểm, cũng giống như nguồn gốc của chứng bệnh sẽ kết thúcnó. Không một cơ quan truyền thôngnào là không công phẫn khi cái chết kề cận này bị đem ra câu khách. Ý kiến phản hồi từ phía độc giả cũng hưởng ứng nhiệt liệt những nỗ lực tự phê bình ấy củabáo chí. Chính vì thế, loạt phóng sự của một số ít phóng viên được chọn lựa lạicàng được mong đợi hơn bao giờ hết, hợp với quy luật của thông tin hiện đại. Các nhà viết tiểu sử chưa chi đãtỏ ra hết sức thận trọng. Giới xuất bản trang bị đầy đủ khí giới cho đội quân của mình. Hẳn cũng đã có một vài trí thức tự hỏi, phải chăng thành công lạ lùng này đã bị thổi phồng quá mức: phải chăng Prétextat Tach đã thực sự tạo ra một bước cách tân? Phải chăng ông không chỉ kế nghiệp tài tình một số nhà canh tân còn chưa được đánh giá đúng mức? Và để chứng minh, họ kể ra một vài tác giả mang những cái tên bí hiểm mà chính họ cũng chưa hề đọc trọn bộ tác phẩm, điều ấy cho phép họ luận bàn với vẻ am hiểu. Tất cả những nhân tố nói trên đều góp phần đảm bảo cho quãng thời gian trước khi từ giã cõi đời này một tiếng tăm đặc biệt lừng lẫy. Không còn nghi ngờ gì nữa, đó là một thành công. Tác giả, người đã có đến hai mươi hai cuốn tiểu thuyết thành công, sống trong căn hộ tầng trệt của một tòa chung cư giản dị: ông cần một chỗ ở nơi mà mọi vật dụng đều đặt ngang tầm với, bởi lẽ ông di chuyển bằng xe lăn. Ông sống đơn độc và không có lấy một con vật nuôi làm bạn. Ngày nào cũng vậy, một nữ hộ lý rất nhiệt thành đến tắm rửa cho ôngvào lúc năm giờ chiều. Nhà văn không chịu để người khác đi mua sắm thay mình:ông đích thân tìm đến cửa hàng thực phẩm của khu phố để mua đồ ăn dự trữ. Viênthư ký riêng, Ernest Gravelin, sống cách căn hộ của ông bốn tầng nhà nhưng cũng hết sức tránh chạm mặt nhà văn; anh ta đều đặn liên lạc với ông chủ bằng điện thoại và Tach không bao giờ bỏ lỡ dịp để bắt đầu cuộc trò chuyện bằng câu:"Tiếc quá, Ernest thân mến, tôi hãy còn sống nhăn đây." Tuy nhiên, Gravelin vẫn nhắc đi nhắc lại với những phóng viên được chọn rằng nhà văn già vô cùng hào hiệp:chẳng phải năm nào ông cũng trích tặng nửa phần thu nhập của mình cho một tổ chức từ thiện đó sao? Chẳng lẽ người ta không mơ hồ cảm nhận được lòng độ lượng kín đáo này qua một vài nhân vật xuất hiện trong các tác phẩm của ông hay sao?"Tất nhiên rồi, ông ấy khiến tất cả chúng ta, mà nhất là tôi đây, phát hoảng,nhưng tôi khẳng định rằng vẻ hằn học bề ngoài này chỉ là một cách làm đỏm: ông ấy thích đóng vai một lão già phì nộn điềm tĩnh và khe khắt nhằm che giấu một tính cách nhạy cảm cực độ." Vả chăng, những lời lẽ này không đủ làm yên lòng các phóng viên phụ trách mục thời luận đang không muốn từ bỏ một nỗi sợ vốn khiến kẻ khác phải phát ghen với họ: nỗi sợ ấy đem lại cho họ một vầng hào quang vẻ vang của những phóng viên thời chiến. Tin tức về cái chết đang rình rậplan truyền vào ngày 10 tháng Giêng. Nhà báo đầu tiên có thể gặp nhà văn vàongày 14. Anh ta bước vào giữa căn hộ tối om, tối đến mức phải mất một lúc anh ta mới nhận ra cái bóng hộ pháp đang tọa trên chiếc xe lăn ở chính giữa phòng khách. Giọng nói ồm ồm của ông lão tám mươi chỉ thốt lên một câu "Chào cậu" vô cảm để giúp anh ta thoải mái, câu nói ấy càng khiến anh chàng khốn khổ co rúm người lại. - Hân hạnh được gặp ngài, ngàiTach. Đây là một vinh dự lớn đối với cá nhân tôi. Chiếc máy thu âm chuyên dụng đã được bật lên, rình chộp lời lẽ của lão già đang câm bặt. - Xin thứ lỗi, ngài Tach, tôi có thể bật đèn chứ? Tôi không nhìn rõ khuôn mặt ngài. - Anh bạn, lúc này là mười giờ sáng, tôi không bật đèn vào thời điểm này trong ngày. Vả lại, cậu sẽ sớm nhìn thấy tôi thôi, ngay khi mắt đã quen với bóng tối. Vậy nên hãy tận dụng khoảng thời gian miễn xá được ban cho mình và bằng lòng với việc nghe thấy giọng nói của tôi, đó là thứ đẹp nhất tôi có được. - Quả là ngài có một chất giọng đẹp. - Đúng vậy. Vị khách không mời mà đến chỉ còn biết im lặng bối rối, anh ta ghi vào sổ tay: "T. có một sự im lặng cay độc. Cố tránh hết sức có thể." - Ngài Tach, cả thế giới thán phục quyết tâm của ngài, quyết tâm từ chối không nhập viện điều trị, bất chấp lệnh bác sĩ đưa ra. Vậy nên câu hỏi đầu tiên nhất thiết phải thế này: ngài cảm thấy trong người thế nào? ... Mời các bạn đón đọc Hồi Ức Kẻ Sát Nhân của tác giả Amelie Nothomb.
Khởi Đầu Từ Cái Chết - Diana Rowland
Angel Crawford là một nhân vật cá biệt và nổi loạn. Cô nghiện bia rượu, các loại thuốc hỗ trợ và thay công việc như thay áo vì tính khí bất thường cùng thái độ làm việc thiếu nghiêm túc. Mẹ Angel mất sớm và cô sống cùng ông bố nghiện ngập bất cần đời. Ngoài ra, Angel còn có cậu bạn trai sống trong ngôi nhà lưu động và sửa ô tô để kiếm sống, cũng là dân nghiện thuốc và cần sa giống như cô. Sau một đêm phê rượu và thuốc ở quán bar quen thuộc, Angel tỉnh dậy trong bệnh viện với những ký ức máu me ghê rợn về một tai nạn giao thông thảm khốc đã xảy ra với mình vào đêm hôm trước. Tuy vậy, ngoài việc không còn mảnh quần áo nào trên người thì cô lại không hề có một vết xây xước. Báo cáo của bệnh viện cho thấy cô đã bị sốc vì dùng thuốc quá liều. Angel rời khỏi bệnh viện cùng một lá thư sắp xếp công ăn việc làm mà một kẻ nặc danh đã để lại cho cô. Angel được thu xếp vào làm việc ở Nhà xác của Viện Kiểm thi của thị trấn. Nhiệm vụ của cô là đánh xe đi thu gom các xác chết bước đầu được xác định là đã qua đời một cách không bình thường, đưa về nhà xác và sau đó phụ mổ cho bác sĩ pháp y phẫu thuật tử thi để tìm ra nguyên nhân cái chết. Trong quá trình làm việc ở nhà xác, Angel dần dần kinh hoàng nhận ra mình là một thây ma khi cô khám phá ra mình thèm muốn và sẵn sàng làm mọi chuyện để có thể đánh chén những bộ não trong những xác chết mà cô phải xử lý. Khi cơn bàng hoàng trôi qua, Angel bắt đầu lên kế hoạch dự trữ thứ đồ ăn mang tính sống còn đối với mình, đồng thời cô cũng nhận ra rằng kẻ nặc danh đã để cô lại trong bệnh viện lúc đầu chính là kẻ phải chịu trách nhiệm đối với việc biến đổi cô thành thây ma. Thị trấn Tucker Point bắt đầu xuất hiện những xác chết lạ thường, những xác chết mất đầu hoặc bị tổn thương nặng phần đầu. Toàn bộ Viện Kiểm thi cũng như Sở cảnh sát bị đặt vào tình trạng báo động trước khả năng đối đầu với một kẻ giết người hàng loạt. Riêng Angel có những lập luận của riêng mình và cô khẳng định đã xuất hiện một kẻ săn thây ma trong thị trấn. Càng nhiều các vụ án xảy ra, Angel càng dần tiếp cận với sự thật. Cuối cùng, sự thật kinh hoàng và không ngờ nhất đã được phơi bày. *** Mày phải chết rồi mới đúng”, mụ y tá vừa nói vừa chỉnh gì đó trên dây truyền dịch của tôi. Mụ ta không béo mà là vạm vỡ, với đôi mắt tô vẽ lem nhem cùng mái tóc nhuộm màu cam ánh đỏ kinh tởm. Khi tôi không đáp lại ngay lập tức, mụ ta liền liếc về phía tôi như để đảm bảo là tôi đã thực sự tỉnh và nhận thức được rồi. “Mày thừa biết như thế nhỉ?”, mụ ta gặng hỏi. “Mày còn sống là phúc tổ rồi.” “Ờ... ô kê”, tôi lầm bầm. Tôi sờ tay lên phần bụng bên dưới lớp chăn rồi cau mày hỏi, “Tôi bị hôn mê hay gì à?”. Đôi môi mỏng dính của mụ ta mím lại. “Bất tỉnh ấy hả? Không. Người ta đưa mày đến cách đây vài giờ.” Mụ ta dừng lại, chống hai tay lên hông. “Mày bị sốc thuốc.” Tôi xoa một tay lên mặt, lắc đầu. “Đâu, tôi bị tai nạn ô tô mà”, tôi khăng khăng. “Tôi nhớ là mình bị thương.” Phải không nhỉ? “Bị chảy máu”, tôi thêm vào, thấy bớt chắc chắn hơn khi sờ soạng lên cái bụng vẫn còn nguyên vẹn lần nữa. Mụ y tá khịt mũi thô thiển. “Người mày chả có vết xước nào cả. Chỉ tưởng tượng là giỏi.” Mắt mụ ta nheo lại ra vẻ coi thường và chê trách. Tôi đếch quan tâm. Tôi đã quen bị người khác nhìn kiểu đó rồi. Thủy tinh, máu và kim loại. Một cơ thể nát vụn bên cạnh tôi. Răng và cơn đói. Từng miếng thịt bị xé ra... Gáy tôi đổ mồ hôi lạnh. Chuyện đó sao có thể là ảo giác được? Ảo giác phải dị hợm, mơ hồ và lộn xộn chứ. Tôi biết thế vì đã vài lần bị ảo giác rồi. Mụ y tá hắng giọng ra vẻ khó chịu rồi giật lấy tờ biểu đồ ở chân giường. “Cô em da trắng vô danh. Hừmmm. Cưng có nhớ họ tên không hả?” Mụ ta đảo mắt quay lại nhìn tôi và ném cho tôi nụ cười mật ngọt ác ý, chẳng có lấy một chút quan tâm thực sự nào trong đó. “Có, tôi biết rõ cái tên chết tiệt của mình chứ”, tôi gầm gừ. “Angel Crawford.” Tôi muốn thêm vào rằng, Và bà có thể viết lại cái tên ấy bằng cây bút chì bị cắm vào đít bà ấy, nhưng rồi vẫn kìm lại được. Tôi biết là y tá có quyền năng làm cuộc đời người ta te tua hơn vốn dĩ, và rõ ràng con mụ khốn kiếp này nghĩ rằng chỉ còn cách một bước nữa thôi, tôi sẽ thành vai chính trong một show Maury Povich[1] đặc biệt. Con mụ già chết tiệt. Tôi á, còn phải cách ít nhất hai bước nữa nhá. Mụ y tá khịt mũi như kiểu chẳng thực lòng tin tôi đủ nhanh nhạy hay tỉnh táo để biết mình là ai. “Xem trong người mày có những gì nào - THC, hydrocodone, alprazolam, codeine...” Mụ ta lép bép thêm tên vài loại thuốc dài ngoằng và rùng rợn nữa trong khi tôi quắc mắt ghê tởm nhìn mụ. Rồi mụ ném cho tôi ánh mắt chất chứa vẻ thỏa mãn ngạo mạn, treo lại tấm biểu đồ và vênh váo lạch bạch rời khỏi phòng trước khi tôi kịp đáp trả. Cũng tốt, vì điều tôi muốn nói với mụ ta sẽ phù hợp với show Jerry Springer[2] hơn là Maury Povich. Cơn giận của tôi teo quắt lại ngay khi mụ y tá bỏ đi, choáng ngợp bởi cảm giác bối rối và nỗi sợ hãi đến buồn nôn. Tôi nhấc chăn lên để tận mắt chứng kiến, một lần nữa, là mình vẫn còn nguyên vẹn. Tôi vật vã tìm cách lý giải mọi chuyện. Tôi nhớ là có máu. Rất nhiều máu. Có một vết rách gì đó dài ngang bụng, và tôi vẫn còn lưu giữ cái ký ức buồn nôn khi thấy một đầu xương trắng lởm chởm thò ra từ đùi, máu phun khắp mọi nơi. Nhưng giờ chẳng có gì bất thường cả. Không xây xát, không bầm tím. Da thịt trên người bình thường đến hoàn hảo. Một cơn hôn mê sẽ giải thích được chuyện đó, phải không nhỉ? Đại loại là vài tháng gì đó, đủ thời gian để tôi lành lặn trở lại. Nhưng mà tôi cũng chẳng có vết sẹo nào. Tôi thở dài rồi lại thả đầu xuống gối. Tôi không bị hôn mê. Mụ y tá không nói dối, cũng chẳng làm gì khiến đầu óc tôi loạn cả lên. Không, tôi chỉ đơn giản là một kẻ bỏ đi. Sốc thuốc. Tuyệt! Ôi chao, đây là một mức độ thấp kém mới đối với tôi. Và cũng chẳng khá khẩm gì hơn, khi việc tôi tụt xuống đến mức độ này là chuyện hoàn toàn có thể hiểu được. Điều có thể gây sốc duy nhất là việc này đã chẳng xảy ra sớm hơn. Tôi không nhớ là mình đã nốc thuốc nhiều đến mức như mụ y tá lắm điều đã nói, nhưng hiện giờ chuyện tôi đang ở trong phòng cấp cứu đã đủ minh chứng cho điều đó rồi. Mụ y tá cũng chẳng thay đổi kết quả xét nghiệm của tôi làm gì. Tất cả là do chính tôi gây ra, hệt như từ trước đến giờ. Tôi bị cảm giác suy kiệt rã rời nuốt chửng khi nhìn chằm chằm lên trần nhà ốp gạch lốm đốm. Bên kia cửa, tôi có thể nghe thấy âm thanh huyên náo của một cái cáng được đẩy ngang qua và những giọng nói cất lên với vẻ quan tâm ngắn ngủi. Tôi biết chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo. Một nhân viên xã hội hay nhà tâm lý học nào đó sẽ đến và bảo rằng tôi cần phải đi cải tạo, tư vấn hay mấy trò mả mẹ như thế, đó là một gợi ý ngu xuẩn vì tôi chẳng có tiền hay bảo hiểm quái gì. Hoặc tệ hơn, tôi sẽ bị bắt giam bảy mươi hai tiếng để “đánh giá thần kinh”, vì rõ ràng tôi là mối nguy hiểm đối với chính bản thân mình, và rất có thể tôi sẽ tàn đời trong một buồng bệnh từ thiện tởm lợm nào đó. Đừng có mơ tôi sẽ chịu đựng điều đó. Lúc này tôi cảm thấy tuyệt đối bình thường, và còn rất sẵn sàng cuốn xéo khỏi nơi này. Tôi đá chăn ra và trượt khỏi giường. Nền gạch trơn lạnh dưới đôi chân trần. Tôi cần giày và quần áo. Tôi đang mặc chiếc váy bệnh viện ngu ngốc, còn quần áo của tôi thì dính đầy máu đến nỗi nếu mặc vào, tôi sẽ thu hút mọi sự chú ý khi cố ra khỏi đây... Tôi lắc đầu. Không, vụ máu me chỉ là một ảo giác. Chẳng có dấu hiệu gì cho thấy quần áo của tôi có ở trong phòng. Không có buồng thay, chỉ có một cái tủ và đống thiết bị y tế rùng rợn. Tôi đang dợm bước về phía chiếc tủ thì kịp nhớ ra bộ truyền dịch mà chỉ thêm một bước nữa, tôi sẽ vô tình giật nó khỏi cánh tay, rồi mất vài giây cố quyết định xem liệu mình có thể mang cái túi ấy theo cùng thay vì rút kim ra hay không. Tôi sợ kim tiêm kinh lên được, nhưng cứ để nguyên đấy hẳn sẽ tồi tệ hơn là tự mình rút ra. Đệch mợ, đó là lý do duy nhất khiến tôi chẳng bao giờ đụng đến những thứ thuốc mạnh hơn như heroin hay meth. Nhát chết đến mức chẳng dám cắm kim tiêm vào người để được tận hưởng cơn phê kiểu đó. Thuốc viên thì dễ dàng. Hơn nữa tôi có thể tự trấn an rằng tôi chẳng phải là con nghiện thực thụ. Thế mà giờ tôi suýt sữa đã tự giết chết mình, chẳng khác gì bị sốc heroin. Gạt ý nghĩ khó chịu đó ra khỏi đầu, tôi lột lớp băng dính trên cánh tay rồi nghiến răng rút kim truyền ra. Tôi chuẩn bị tinh thần trước cơn buồn nôn luôn tấn công bất cứ khi nào nhìn thấy máu, đặc biệt là máu của mình, nhưng thật nhẹ nhõm làm sao khi tôi chẳng đau đớn gì và cũng không cảm thấy nôn nao. Một giọt máu nhỏ xíu tuôn ra từ vết chích, nên tôi dùng viền váy lau đi trước khi kịp nhớ ra là đáng lẽ mình phải thấy buồn nôn mới đúng. Có lẽ đó là lý do vì sao tôi có ảo giác về chuyện mình bị bê bết máu? Chẳng có mấy thứ khiến tôi phát hoảng đâu, ngoài chuyện đó. Cửa phòng lại mở ra làm tôi giật thót, đánh rơi đống dây truyền với vẻ mặt đỏ bừng tội lỗi khi một y tá khác bước vào. Người này trẻ hơn mụ vừa nãy nhiều, có lẽ mới ngoài đôi mươi, với mái tóc vàng cột đuôi gà bóng mượt và kiểu gương mặt tươi tắn không trang điểm mà tôi ước gì mình cũng có. Tôi mà để mặt mộc thì trông như con chết trôi, và dù tóc tôi cũng màu vàng, nhưng thực ra là do tôi tự nhuộm lấy, cũng có nghĩa nó là một đống bùi nhùi xoăn tít, xơ xác. Mắt cô y tá liếc sang bộ truyền dịch bị bỏ rơi, song có vẻ như cô ta chẳng bực bội gì khi thấy tôi đã tháo nó ra. “Tôi muốn đảm bảo là cô đã tỉnh táo và tươm tất”, cô ta nở nụ cười thân thiện hơn tôi trông đợi. “Có hai cảnh sát đang muốn nói chuyện với cô.” Một cơn rùng mình khiếp sợ bắn xuyên qua tôi. “V... vì sao?”, tôi hỏi, mặc dù khá chắc chắn là mình biết lý do. Họ ở đây để tống tôi vào khám. Tay sĩ quan quản thúc tôi phát hiện ra tôi lại dùng thuốc và khoảng thời gian tạm tha của tôi đã chấm dứt. Hoặc là họ muốn tôi chỉ nơi tôi đã mua thuốc. Hẳn tôi đã trắng bệch cả ra vì cô y tá đóng cửa lại và mỉm cười trấn an tôi. “Họ chỉ muốn nói chuyện với cô thôi. Cô sẽ không sao đâu. Ngồi xuống đây”, cô ta nói, nhẹ nhàng nhưng kiên quyết đẩy tôi xuống giường. Cô ta không bắt tôi phải nằm mà chỉ kéo chăn vòng quanh giường sao cho che hết phần người dưới và đôi chân trần của tôi. “Thế tốt hơn. Tôi biết là mình sẽ không đời nào nói chuyện được với bất kỳ loại quan chức nào trong tình trạng bán khỏa thân”, cô ta nháy mắt với tôi. Vẻ dễ chịu không ngờ của cô ta làm tôi hơi chới với, đặc biệt là sau vẻ thù địch công khai của mụ y tá trước đó. “Quần áo của tôi đâu hết rồi?” ... Mời các bạn đón đọc Khởi Đầu Từ Cái Chết của tác giả Diana Rowland.
Truyền Kỳ Mạn Lục - Nguyễn Dữ
Truyền kỳ mạn lục là tác phẩm văn xuôi duy nhất của Việt Nam từ xa xưa được đánh giá là “thiên cổ kỳ bút” (ngòi bút kỳ lạ của muôn đời), một cái mốc lớn của lịch sử văn học, sau này được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới. Tác phẩm gồm 20 truyện thông qua các nhân vật thần tiên, ma quái nhằm gửi gắm ý tưởng phê phán nền chính sự rối loạn, xã hội nhiễu nhương. Truyền kỳ mạn lục đã được dịch và giới thiệu ở một số nước như Pháp, Nga… *** Nhà văn Việt Nam, người xã Đỗ Tùng, huyện Trường Tân, nay thuộc Thanh Miện, Hải Dương. Thuộc dòng dõi khoa hoạn, từng ôm ấp lý tưởng hành đạo, đã đi thi và có thể đã ra làm quan. Sau vì bất mãn với thời cuộc, lui về ẩn cư ở núi rừng Thanh Hóa, từ đó "trải mấy mươi sương, chân không bước đến thị thành". Chưa rõ Nguyễn Dữ sinh và mất năm nào, chỉ biết ông sống đồng thời với thầy học là Nguyễn Bỉnh Khiêm, và bạn học là Phùng Khắc Khoan, tức là vào khoảng thế kỷ XVI và để lại tập truyện chữ Hán nổi tiếng viết trong thời gian ở ẩn, Tryền kỳ mạn lục (in 1768, A.176/1-2). Truyện được Nguyễn Bỉnh Khiêm phủ chính và Nguyễn Thế Nghi sống cùng thời dịch ra chữ nôm. Truyền kỳ mạn lục gồm 20 truyện, viết bằng tản văn, xen lẫn biền văn và thơ ca, cuối mỗi truyện thường có lời bình của tác giả, hoặc của một người cùng quan điểm với tác giả. Hầu hết các truyện xảy ra ở đời Lý, đời Trần, đời Hồ hoặc đời Lê sơ từ Nghệ An trở ra Bắc. Lấy tên sách là Truyền kỳ mạn lục (Sao chép tản mạn những truyện lạ), hình như tác giả muốn thể hiện thái độ khiêm tốn của một người chỉ ghi chép truyện cũ. Nhưng căn cứ vào tính chất của các truyện thì thấy Truyền kỳ mạn lục không phải là một công trình sưu tập như Lĩnh Nam chích quái, Thiên Nam vân lục... mà là một sáng tác văn học với ý nghĩa đầy đủ của từ này. Đó là một tập truyện phóng tác, đánh dấu bước phát triển quan trọng của thể loại tự sự hình tượng trong văn học chữ Hán. Và nguyên nhân chính của sự xuất hiện một tác phẩm có ý nghĩa thể loại này là nhu cầu phản ánh của văn học. Trong thế kỷ XVI, tình hình xã hội không còn ổn định như ở thế kỷ XV; mâu thuẫn giai cấp trở nên gay gắt, quan hệ xã hội bắt đầu phức tạp, các tầng lớp xã hội phân hóa mạnh mẽ, trật tự phong kiến lung lay, chiến tranh phong kiến ác liệt và kéo dài, đất nước bị các tập đoàn phong kiến chia cắt, cuộc sống không yên ổn, nhân dân điêu đứng, cơ cực. Muốn phản ánh thực tế phong phú, đa dạng ấy, muốn lý giải những vấn đề đặt ra trong cuộc sống đầy biến động ấy thì không thể chỉ dừng lại ở chỗ ghi chép sự tích đời trước. Nhu cầu phản ánh quyết định sự đổi mới của thể loại văn học. Và Nguyễn Dữ đã dựa vào những sự tích có sẵn, tổ chức lại kết cấu, xây dựng lại nhân vật, thêm bớt tình tiết, tu sức ngôn từ... tái tạo thành những thiên truyện mới. Truyền kỳ mạn lục vì vậy, tuy có vẻ là những truyện cũ nhưng lại phản ánh sâu sắc hiện thực thế kỷ XVI. Trên thực tế thì đằng sau thái độ có phần dè dặt khiêm tốn, Nguyễn Dữ rất tự hào về tác phẩm của mình, qua đó ông bộc lộ tâm tư, thể hiện hoài bão; ông đã phát biểu nhận thức, bày tỏ quan điểm của mình về những vấn đề lớn của xã hội, của con người trong khi chế độ phong kiến đang suy thoái. Trong Truyền kỳ mạn lục, có truyện vạch trần chế độ chính trị đen tối, hủ bại, đả kích hôn quân bạo chúa, tham quan lại nhũng, đồi phong bại tục, có truyện nói đến quyền sống của con người như tình yêu trai gái, hạnh phúc lứa đôi, tình nghĩa vợ chồng, có truyện thể hiện đời sống và lý tưởng của sĩ phu ẩn dật... Nguyễn Dữ đã phản ánh hiện thực mục nát của chế độ phong kiến một cách có ý thức. Toàn bộ tác phẩm thấm sâu tinh thần và mầu sắc của cuộc sống, phạm vi phản ánh của tác phẩm tương đối rộng rãi, khá nhiều vấn đề của xã hội, con người được đề cập tới. Bất mãn với thời cuộc và bất lực trước hiện trạng, Nguyễn Dữ ẩn dật và đã thể hiện quan niệm sống của kẻ sĩ lánh đục về trong qua Câu chuyện đối đáp của người tiều phu trong núi Nưa. ở ẩn mà nhà văn vẫn quan tâm đến thế sự, vẫn không quên đời, vẫn nuôi hy vọng ở sự phục hồi của chế độ phong kiến. Tư tưởng chủ đạo của Nguyễn Dữ là tư tưởng Nho gia. Ông phơi bày những cái xấu xa của xã hội là để cổ vũ thuần phong mỹ tục xuất phát từ ý thức bảo vệ chế độ phong kiến, phủ định triều đại mục nát đương thời để khẳng định một vương triều lý tưởng trong tương lai, lên án bọn "bá giả" để đề cao đạo "thuần vương", phê phán bọn vua quan tàn bạo để ca ngợi thánh quân hiền thần, trừng phạt bọn người gian ác, xiểm nịnh, dâm tà, để biểu dương những gương tiết nghĩa, nhân hậu, thủy chung. Tuy nhiên Truyền kỳ mạn lục không phải chỉ thể hiện tư tưởng nhà nho, mà còn thể hiện sự dao động của tư tưởng ấy trước sự rạn nứt của ý thức hệ phong kiến. Nguyễn Dữ đã có phần bảo lưu những tư tưởng phi Nho giáo khi phóng tác, truyện dân gian, trong đó có tư tưởng Phật giáo, Đạo giáo và chủ yếu là tư tưởng nhân dân. Nguyễn Dữ đã viết truyền kỳ để ít nhiều có thể thoát ra khỏi khuôn khổ của tư tưởng chính thống đặng thể hiện một cách sinh động hiện thực cuộc sống với nhiều yếu tố hoang đường, kỳ lạ. Ông mượn thuyết pháp của Phật, Đạo, v.v. để lý giải một cách rộng rãi những vấn đề đặt ra trong cuộc sống với những quan niệm nhân quả, báo ứng, nghiệp chướng, luân hồi; ông cũng đã chịu ảnh hưởng của tư tưởng nhân dân khi miêu tả cảnh cùng cực, đói khổ, khi thể hiện đạo đức, nguyện vọng của nhân dân, khi làm nổi bật sự đối kháng giai cấp trong xã hội. Cũng chính vì ít nhiều không bị gò bó trong khuôn khổ khắt khe của hệ ý thức phong kiến và muốn dành cho tư tưởng và tình cảm của mình một phạm vi rộng rãi, ông hay viết về tình yêu nam nữ. Có những truyện ca ngợi tình yêu lành mạnh, chung thủy sắt son, thể hiện nhu cầu tình cảm của các tầng lớp bình dân. Có những truyện yêu đương bất chính, tuy vượt ra ngoài khuôn khổ lễ giáo nhưng lại phản ánh lối sống đồi bại của nho sĩ trụy lạc, lái buôn hãnh tiến. Nguyễn Dữ cũng rất táo bạo và phóng túng khi viết về những mối tình si mê, đắm đuối, sắc dục, thể hiện sự nhượng bộ của tư tưởng nhà nho trước lối sống thị dân ngày càng phổ biến ở một số đô thị đương thời. Tuy vậy, quan điểm chủ đạo của Nguyễn Dữ vẫn là bảo vệ lễ giáo, nên ý nghĩa tiến bộ toát ra từ hình tượng nhân vật thường mâu thuẫn với lý lẽ bảo thủ trong lời bình. Mâu thuẫn này phản ánh mâu thuẫn trong tư tưởng, tình cảm tác giả, phản ánh sự rạn nứt của ý thức hệ phong kiến trong tầng lớp nho sĩ trước nhu cầu và lối sống mới của xã hội. Truyền kỳ mạn lục có giá trị hiện thực vì nó phơi bày những tệ lậu của chế độ phong kiến và có giá trị nhân đạo vì nó đề cao phẩm giá con người, tỏ niềm thông cảm với nỗi khổ đau và niềm mơ ước của nhân dân. Truyền kỳ mạn lục còn là tập truyện có nhiều thành tựu nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật dựng truyện, dựng nhân vật. Nó vượt xa những truyện ký lịch sử vốn ít chú trọng đến tính cách và cuộc sống riêng của nhân vật, và cũng vượt xa truyện cổ dân gian thường ít đi sâu vào nội tâm nhân vật. Tác phẩm kết hợp một cách nhuần nhuyễn, tài tình những phương thức tự sự, trữ tình và cả kịch, giữa ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ tác giả, giữa văn xuôi, văn biền ngẫu và thơ ca. Lời văn cô đọng, súc tích, chặt chẽ, hài hòa và sinh động. Truyền kỳ mạn lục là mẫu mực của thể truyền kỳ, là "thiên cổ kỳ bút", là "áng văn hay của bậc đại gia", tiêu biểu cho những thành tựu của văn học hình tượng viết bằng chữ Hán dưới ảnh hưởng của sáng tác dân gian. BÙI DUY TÂN Nguyễn Dữ là con trai cả Nguyễn Tường Phiêu, Tiến sĩ khoa Bính Thìn, niên hiệu Hồng Đức thứ 27 (1496), được trao chức Thừa chánh sứ, sau khi mất được tặng phong Thượng thư. Lúc nhỏ Nguyễn Dữ chăm học, đọc rộng, nhớ nhiều, từng ôm ấp lý tưởng lấy văn chương nối nghiệp nhà. Sau khi đậu Hương tiến, Nguyễn Dữ thi Hội nhiều lần, đạt trúng trường và từng giữ chức vụ Tri huyện Thanh Tuyền nhưng mới được một năm thì ông xin từ quan về nuôi dưỡng mẹ già. Trải mấy năm dư không đặt chân đến những nơi đô hội, ông miệt mài "ghi chép" để gửi gắm ý tưởng của mình và đã hoàn thành tác phẩm "thiên cổ kỳ bút" Truyền kỳ mạn lục. Nguyễn Dữ sinh và mất năm nào chưa rõ, nhưng căn cứ vào tác phẩm cùng bài Tựa Truyền kỳ mạn lục của Hà Thiện Hán viết năm Vĩnh Định thứ nhất (1547) và những ghi chép của Lê Quý Đôn trong mục Tài phẩm sách Kiến văn tiểu lục có thể biết ông là người cùng thời với Nguyễn Bỉnh Khiêm, có thể lớn tuổi hơn Trạng Trình chút ít. Giữa Nguyễn Dữ và Nguyễn Bỉnh Khiêm tin chắc có những ảnh hưởng qua lại về tư tưởng, học thuật... nhưng e rằng Nguyễn Dữ không thể là học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm như Vũ Phương Đề đã ghi. Đối với nhà Mạc, thái độ Nguyễn Dữ dứt khoát hơn Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông không làm quan với nhà Mạc mà chọn con đường ở ẩn và ông đã sống cuộc sống lâm tuyền suốt quãng đời còn lại. Truyền kỳ mạn lục được hoàn thành ngay từ những năm đầu của thời kỳ này, ước đoán vào khoảng giữa hai thập kỷ 20-30 của thế kỷ XVI. Theo những tư liệu được biết cho đến nay, Truyền kỳ mạn lục là tác phẩm duy nhất của Nguyễn Dữ. Sách gồm 20 truyện, chia làm 4 quyển, được viết theo thể loại truyền kỳ. Cốt truyện chủ yếu lấy từ những câu chuyện lưu truyền trong dân gian, nhiều trường hợp xuất phát từ truyền thuyết về các vị thần mà đền thờ hiện vẫn còn (đền thờ Vũ Thị Thiết ở Hà Nam, đền thờ Nhị Khanh ở Hưng Yên và đền thờ Văn Dĩ Thành ở làng Gối, Hà Nội). Truyện được viết bằng văn xuôi Hán có xen những bài thơ, ca, từ, biền văn, cuối mỗi truyện (trừ truyện 19 Kim hoa thi thoại ký) đều có lời bình thể hiện rõ chính kiến của tác giả. Hầu hết các truyện đều lấy bối cảnh ở các thời Lý-Trần, Hồ, thuộc Minh, Lê sơ và trên địa bàn từ Nghệ An trở ra Bắc. Thông qua các nhân vật thần tiên, ma quái, tinh loài vật, cây cỏ..., tác phẩm muốn gửi gắm ý tưởng phê phán nền chính sự rối loạn, không còn kỷ cương trật tự, vua chúa hôn ám, bề tôi thoán đoạt, bọn gian hiểm nịnh hót đầy triều đình; những kẻ quan cao chức trọng thả sức vơ vét của cải, sách nhiễu dân lành, thậm chí đến chiếm đoạt vợ người, bức hại chồng người. Trong một xã hội rối ren như thế, nhiều tệ nạn thế tất sẽ nảy sinh. Cờ bạc, trộm cắp, tật dịch, ma quỷ hoành hành, đến Hộ pháp, Long thần cũng trở thành yêu quái, sư sãi, học trò, thương nhân, nhiều kẻ đắm chìm trong sắc dục. Kết quả là người dân lương thiện, đặc biệt là phụ nữ phải chịu nhiều đau khổ. Nguyễn Dữ dành nhiều ưu ái cho những nhân vật này. Dưới ngòi bút của ông họ đều là những thiếu phụ xinh đẹp, chuyên nhất, tảo tần, giàu lòng vị tha nhưng luôn luôn phải chịu số phận bi thảm. Đến cả loại nhân vật "phản diện" như nàng Hàn Than (Đào thị nghiệp oan ký), nàng Nhị Khanh (Mộc miên phụ truyện), các hồn hoa (Tây viên kỳ ngộ ký) và "yêu quái ở Xương Giang" cũng đều vì số phận đưa đẩy, đều vì "nghiệp oan" mà đến nỗi trở thành ma quỷ. Họ đáng bị trách phạt nhưng cũng đáng thương. Dường như Nguyễn Dữ không tìm được lối thoát trên con đường hành đạo, ông quay về cuộc sống ẩn dật, đôi lúc thả hồn mơ màng cõi tiên, song cơ bản ông vẫn gắn bó với cõi đời. Ông trân trọng và ca ngợi những nhân cách thanh cao, cứng cỏi, những anh hùng cứu nước, giúp dân không kể họ ở địa vị cao hay thấp. Truyền kỳ mạn lục ngay từ khi mới hoàn thành đã được đón nhận. Hà Thiện Hán người cùng thời viết lời Tựa, Nguyễn Thế Nghi, theo Vũ Phương Đề cũng là người cùng thời, dịch ra văn nôm. Về sau nhiều học giả tên tuổi Lê Quý Đôn, Bùi Huy Bích, Phan Huy Chú đều ghi chép về Nguyễn Dữ và định giá tác phẩm của ông. Nhìn chung các học giả thời Trung đại khẳng định giá trị nhân đạo và ý nghĩa giáo dục của tác phẩm. Các nhà nghiên cứu hiện đại phát hiện thêm giá trị hiện thực đồng thời khai thác tinh thần "táo bạo, phóng túng" của Nguyễn Dữ khi ông miêu tả những cuộc tình si mê đắm đuối đậm màu sắc dục. Hành vi ấy tuy trái lễ, trái đạo trung dung nhưng lại đem đến chút hạnh phúc trần thế có thực cho những số phận oan nghiệt. Về mặt thể loại mà xét thì Truyền kỳ mạn lục là tác phẩm đỉnh cao của truyện truyền kỳ Việt Nam. Nguyễn Dữ chịu ảnh hưởng của Cù Hựu nhưng Truyền kỳ mạn lục vẫn là "áng văn hay của bậc đại gia", là sáng tạo riêng của Nguyễn Dữ cũng như của thể loại truyện truyền kỳ Việt Nam. TRẦN THỊ BĂNG THANH Lời tựa(1) Tập lục này là trước tác của Nguyễn Dữ, người Gia Phúc, Hồng Châu. Ông là con trưởng vị tiến sĩ triều trước Nguyễn Tường Phiêu (2). Lúc nhỏ rất chăm lối học cử nghiệp, đọc rộng nhớ nhiều, lập chí ở việc lấy văn chương truyền nghiệp nhà. Sau khi đậu Hương tiến, nhiều lần thi Hội đỗ trúng trường, từng được bổ làm Tri huyện Thanh Tuyền (3). Được một năm ông từ quan về nuôi mẹ cho tròn đạo hiếu. Mấy năm dư không đặt chân đến chốn thị thành, thế rồi ông viết ra tập lục này, để ngụ ý. Xem văn từ thì không vượt ra ngoài phên giậu của Tông Cát (4), nhưng có ý khuyên răn, có ý nêu quy củ khuôn phép, đối với việc giáo hóa ở đời, há có phải bổ khuyết nhỏ đâu! Vĩnh Định năm đầu (1547), tháng Bảy, ngày tốt. Đại An Hà Thiện Hán kính ghi Kẻ hậu học là Tùng Châu Nguyễn Lập Phu biên. (1) Lời Tựa này được chép trong Cựu biên Truyền kỳ mạn lục. Bản này hiện chưa có trong các thư viện ở Hà Nội. Ở đây chúng tôi theo Việt Nam Hán văn tiểu thuyết tùng san, Đài Loan thư cục in năm 1987. Tân biên truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú in năm Cảnh Hưng 35 (1774) lấy lại lời tựa này nhưng không ghi tên Hà Thiện Hán. Cuối bài ghi thêm "Nay xã trưởng xã Liễu Chàng là Nguyễn Đình Lân soạn in vào năm Giáp Ngọ (1774) để làm bản gốc cho nghìn vạn đời và để bán cho thiên hạ xem đọc". Chú thích (2) Nguyễn Tường Phiêu: người xã Đỗ Tùng, huyện Trường Tân, nay thuộc tỉnh Hải Dương, đồ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân năm Hồng Đức 27 (1496) đời Lê Thánh Tông; làm quan đến Thừa chánh sứ. Sau khi mất được tặng chức Thượng thư, phong phúc thần. (3) Thanh Tuyền: tức huyện Bình Xuyên, thuộc tỉnh Vĩnh Phúc. (4) Tông Cát: Cù Tông Cát, tên là Cù Hựu, tác giả Tiễn đăng tân thoại. Mời các bạn đón đọc Truyền Kỳ Mạn Lục của tác giả Nguyễn Dữ.