Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Vận Mệnh Người Lính Tốt Švejk trong Đại chiến Thế giới Tập I-II

Tác phẩm kinh điển của văn học Séc được dịch sang tiếng nước ngoài nhiều nhất. Karel Čapek  từng nhận xét về cuốn sách: "Ở nhà trường, các thầy cô thường bảo chúng ta rằng sự hài hước là gia vị. Nhưng đúng hơn mà nói, ngày nay tôi có cảm giác sự hài hước không phải là gia vị, mà là cái nhìn cơ bản nhất định về thế giới. Hašek là người có khiếu hài hước. Hašek là người nhìn nhận được thế giới, trong khi nhiều người khác chỉ viết về nó". Văn học hiện đại Séc nửa đầu thế kỷ XX có nhiều nhà văn nổi tiếng, nhưng nổi trội là bộ ba vĩ đại: Jaroslav Hašek (1883–1923), Franz Kafka (1883–1924) và Karel Čapek (1890–1938). Franz Kafka sáng tác bằng tiếng Đức, Jaroslav Hašek và Karel Čapek sáng tác bằng tiếng Séc. Franz Kafka và Karel Čapek là hai tác giả đã rất quen thuộc với độc giả Việt Nam. Còn bộ tiểu thuyết Vận mệnh người lính tốt Švejk trong Đại chiến Thế giới của Jaroslav Hašek là tác phẩm văn học Séc được chuyển ngữ nhiều nhất, tính đến năm 2013 đã được dịch sang 58 ngôn ngữ khác. Ngay từ khi tác phẩm ra đời và cho đến hiện nay, không chỉ ở Séc, mà cả ở nước ngoài, nó cũng còn được chuyển thể sang kịch bản sân khấu, điện ảnh, truyền hình và truyền thanh. Cuốn tiểu thuyết có một không hai trong lịch sử văn học Séc này cũng có một số phận rất đặc biệt. Ngay sau khi nó ra đời, và cả một thời gian dài sau đó, trong khi những người dân thường đọc nó một cách say mê và khoái chí thì, trừ một số nhà văn nhà báo nhận thấy ngay đây là một tác phẩm đáng đọc, làng văn Séc hầu như không chấp nhận nó, không coi nó là một tác phẩm văn học, không coi tác giả của nó là nhà văn. Thậm chí còn có ý kiến cho rằng Švejk là kẻ trốn tránh nghĩa vụ, rằng cuốn sách này gây tác hại đến đạo đức người lính, có người còn nguyền rủa phỉ báng Hašek và cách sống của ông. Nhưng dần dần, những lời khen nhiều hơn và cuối cùng cả giới phê bình phải nhận định Jaroslav Hašek là 1 trong 3 nhà văn vĩ đại nhất Văn học  Séc nửa đầu thế kỷ XX. Chúng tôi lại xin mượn lời của nhà báo, nhà văn và dịch giả Séc Ivan Olbracht:  “Các bạn hãy đọc đi, đây là một cuốn sách tuyệt vời.” *** Sau đúng 100 năm xuất bản lần đầu tiên tại Séc (1921), bộ tiểu thuyết đồ sộ Vận mệnh người lính tốt Švejk trong Đại chiến Thế giới được NXB Phụ nữ Việt Nam giới thiệu đầy đủ tại Việt Nam. Trọn bộ câu chuyện về anh Svejk vui tính bao gồm 4 tập, khi dịch sang tiếng Việt được chia thành 2 quyển: Quyển 1 gồm tập I-II; Quyển 2 gồm tập III-IV. Švejk là một kiểu nhân vật hoàn toàn mới trong văn học thế giới. Một kiểu người đần độn trong dân gian Séc lần đầu tiên xuất hiện trong văn học viết và được đưa vào cuộc sống hiện đại ồn ã. Một kiểu người bình thản được nhìn từ một góc độ mới. Chúng ta vui vì gặp một kiểu người hoàn toàn ngược với kiểu người đáng ghét “tính nết có vấn đề”, “không bằng lòng với bất kỳ tình huống nào, cũng chẳng hợp với bất kỳ tình huống nào”, bởi vì Švejk là người hài lòng trong mọi tình huống, và cũng ở thế mạnh hơn trong mọi tình huống. Một người ngu tinh khôn, hay thật sự là một người ngu tài tình, người có cái vẻ hiền lành ngu xuẩn, nhưng đồng thời ranh mãnh như thế phải thắng ở mọi nơi. Kiểu người văn học mới này không thể làm chúng ta quan tâm đến thế, vui vẻ đến thế, nếu nó không phải là một phần của chúng ta, nếu “ngôn ngữ Švejk” ít nhiều không phải là của tất cả chúng ta, tương tự như “ngôn ngữ Don Quixote”, “ngôn ngữ Hamlet”, “ngôn ngữ Faust”, hay “ngôn ngữ Oblomov”. *** Năm 1998, Séc tổ chức cho 23 nhà phê bình xuất sắc nhất bình chọn cuốn tiểu thuyết hay nhất thế kỷ 20 của văn học Séc. Đứng đầu danh sách được đăng trên tạp chí Týden là tác phẩm “Vận mệnh người lính tốt Švejk trong Đại chiến Thế giới” của Jaroslav Hašek. Không ngạc nhiên gì khi tác phẩm văn học Séc được dịch ra hơn 60 thứ tiếng trên thế giới này là lựa chọn của các phê bình gia. Chính một nhà văn Séc nổi danh thế giới khác, Milan Kundera, cũng đã nhận định rằng, “Vận mệnh người lính tốt Švejk trong Đại chiến Thế giới” có thể là cuốn tiểu thuyết dân gian lớn cuối cùng. Đầy phi lý, mang tính đả phá lớn, kiệt tác này là một tượng đài trong văn học phản chiến, và sẽ còn khiến thế hệ tương lai liên tục lật giở trang vì những câu chuyện khôi hài thâm sâu của nó. “Vận mệnh người lính tốt Švejk trong Đại chiến Thế giới” bao gồm 4 tập: Ở hậu phương, Ngoài mặt trận, Trận đòn vẻ vang, Tiếp tục trận đòn vẻ vang, mà tập đầu tiên được xuất bản lần đầu cách đây 99 năm. Tác phẩm kể về một anh chàng tên là Švejk kiếm sống bằng nghề bán chó ở Prague. Anh chàng từng đi lính nhưng được cho giải ngũ vì bị ban quân y kết luận là kẻ ngu độn.   Tác phẩm hài hước bậc nhất này mở đầu bằng một câu mà nay đã trở thành kinh điển của bà giúp việc của Švejk “Thế là họ giết mất Ferdinand của chúng ta rồi.” Nó nhắc đến vụ ám sát Đại Công tước Franz Ferdinand của đế quốc Áo-Hung, nguyên nhân trực tiếp gây ra cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Đáp lại lời thông báo đầy trịnh trọng ấy, Švejk ngây ngô hỏi rằng đó là Ferdinand nào, bởi anh biết hai người cũng có tên như vậy: một thằng hầu, và một thằng chuyên nhặt phân chó.   Ngay từ những dòng đầu tiên, Hašek đã tạo nên một loại tình huống có thể gọi là phá hủy sự trịnh trọng, mà kể từ đó về sau sẽ là thứ xuyên suốt toàn bộ câu chuyện. Người đầu trò thực thi những sự đả phá, không hiểu vô tình hay cố ý, chính là Švejk, nhân vật chính phức tạp gây nên không biết bao nhiêu tranh cãi của giới nghiên cứu. Bụng một bồ những câu chuyện dân gian, Švejk luôn mồm kể đủ loại thứ chuyện ngớ ngẩn tưởng chừng chẳng hề liên quan đến bất kỳ sự việc khẩn cấp nào đang xảy ra. Thêm vào đó, phản ứng thường trực của anh trong mọi cảnh huống là xuôi theo hoàn cảnh. Bị bắt vào sở cảnh sát, bị đẩy vào nhà thương điên, bị đưa vào trại giam, gây ra sự cố trên tàu hỏa, bị nghi làm gián điệp, bị đi lạc, … tất cả những tai họa ập xuống đầu anh, Švejk đều nhẹ nhàng vượt qua vì tinh thần hài lòng tuyệt đối đến ngờ nghệch khó hiểu. Kết quả là, không ai biết chân tướng thực sự của Švejk là gì: thông minh hay đần độn, khôn lỏi hay ngu ngơ. Khi chiến tranh nổ ra, Švejk xung phong nhập ngũ để phụng sự Hoàng đế Áo Hung. Jaroslav Hašek vẽ ra vô vàn nghịch lý trong kiệt tác của mình chính nhờ nhân vật có một không hai Švejk ấy: từ những nghịch lý nhỏ bé tầm thường đến những nghịch lý lớn lao không ai giải thích nổi. Chiến tranh và quyền lực của nó trở thành trò cười dưới ngòi bút đầy giễu nhại của ông. Độc giả không lấy làm ngạc nhiên khi Joseph Heller coi “Vận mệnh người lính tốt Švejk trong đại chiến thế giới” là hình mẫu để dựa trên nó mà viết nên cuốn tiểu thuyết phản chiến vĩ đại “Bẫy-22” của mình. Trong sự tàn bạo của chiến tranh, trong sự đè nén đến nghẹt thở của bộ máy công vụ quan liêu, khi những mạng người bị đem nướng sống vào những cuộc chiến vô nghĩa, rất ít người chất vấn hay thấy mình cần phải thoát khỏi những mệnh lệnh quái quỷ trong chiến tranh, phải thoát khỏi hệ thống áp đặt. Quả đúng như Kundera phân tích, ở tác phẩm “Iliad” của Homer, cả ở “Chiến tranh và Hòa bình” của Lev Tolstoi, chiến tranh vẫn có ý nghĩa rõ ràng: “người ta chiến đấu vì nàng Helen xinh đẹp hay vì nước Nga.” Nhưng ở “Vận mệnh người lính tốt Švejk”, “Švejk và các đồng đội của anh ra trận mà chẳng biết vì sao và, còn tệ hơn, chẳng quan tâm gì đến chiến tranh.” Hašek là một nhà văn đặc biệt trong nền văn học Séc: nghiện ngập, vô chính phủ, đào ngũ, tinh thần phóng túng tột bậc. Là một nhà báo chuyên lăn lộn đường phố, ông rành rõi thứ ngôn ngữ bình dân và những câu chuyện lưu truyền trong dân gian. Hašek đã đưa được thứ ngôn ngữ trào phúng đầy tự nhiên ấy vào tác phẩm của mình, tạo nên một giọng văn dí dỏm đặc biệt. Đả kích chiến tranh và những sự phi lý của nó bằng những câu chuyện như sinh ra từ trí tuệ dân gian, không ngạc nhiên khi “Vận mệnh người lính tốt Švejk trong Đại chiến Thế giới” là danh tác không chỉ được độc giả Séc mà cả thế giới tung hô. Tập 2 của kiệt tác văn học Séc này từng được dịch sang tiếng Việt qua bản dịch tiếng Pháp và được NXB Văn Học xuất bản vào năm 1992 với tên “Những cuộc phiêu lưu mới của Xvêch, anh lính chân thực.” Ở lần xuất bản năm 2020 này, “Vận mệnh người lính tốt Švejk trong Đại chiến Thế giới” sẽ được dịch đầy đủ từ nguyên bản tiếng Séc. Bản dịch được NXB Phụ Nữ Việt Nam chia thành 2 quyển với toàn bộ tranh minh họa màu của họa sĩ Josef Lada, bạn thân của Hašek: Quyển 1 gồm tập 1 và 2, xuất bản vào tháng 10/2020; Quyển 2 gồm tập 3 và 4, xuất bản vào giữa năm 2021. *** lời người dịch Văn học hiện đại Séc nửa đầu thế kỷ XX có nhiều nhà văn nổi tiếng, nhưng nổi trội là bộ ba vĩ đại: Jaroslav Hašek (1883–1923), Franz Kafka (1883–1924) và Karel Čapek (1890–1938). Franz Kafka sáng tác bằng tiếng Đức, Jaroslav Hašek và Karel Čapek sáng tác bằng tiếng Séc. Franz Kafka và Karel Čapek là hai tác giả đã rất quen thuộc với độc giả Việt Nam. Còn bộ tiểu thuyết Vận mệnh người lính tốt Švejk trong Đại chiến Thế giới của Jaroslav Hašek là tác phẩm văn học Séc được chuyển ngữ nhiều nhất, tính đến năm 2013 đã được dịch sang 58 ngoại ngữ. Ngay từ khi tác phẩm ra đời và cho đến hiện nay, không chỉ ở Séc, mà cả ở nước ngoài, nó cũng còn được chuyển thể sang kịch bản sân khấu, điện ảnh, truyền hình và truyền thanh. Giai đoạn văn học Séc đầu thế kỷ XX có bối cảnh lịch sử cũng như văn hóa sâu xa và phức tạp với đỉnh điểm là Đại chiến Thế giới I và sự sụp đổ của Đế quốc Áo–Hung. Trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX, đặc biệt đầu thế kỷ XX, Đế quốc Áo–Hung đa dân tộc có tình hình chính trị không ổn định, nhà nước đã phải đối mặt với nhiều vấn đề chính trị và xã hội, đặc biệt là vấn đề chính sách dân tộc mà chủ yếu là chính sách ngôn ngữ. Là thành viên quan trọng của Đế quốc Áo–Hung, Vương quốc Bohemia của người Séc luôn cố gắng yêu cầu được quyền tự trị về chính trị và văn hóa dân tộc, nhưng không bao giờ được đáp ứng. Mặc dù vậy, phần lớn những nhà lãnh đạo của Vương quốc Bohemia vẫn muốn gìn giữ nhà nước Áo–Hung với yêu cầu phải có thay đổi lớn trong chính sách dân tộc. Sau vụ Thái tử của Đế quốc Áo–Hung, Đại Công tước Franz Ferdinand d’Este, cùng phu nhân bị một người Serbia ám sát ở Sarajevo vào ngày 28/6/1914, Đế quốc Áo–Hung tuyên chiến với Serbia. Chiến tranh bùng nổ không chỉ trong phạm vi châu Âu, mà còn lan rộng ra thế giới. Nhà nước Áo–Hung ra lệnh tổng động viên trên toàn bộ lãnh thổ. Người Séc thể hiện rõ thái độ chống chiến tranh, không muốn chiến đấu chống các dân tộc người Slav, nhiều lính Séc tình nguyện để bị bắt làm tù binh. Rất nhiều tù binh người Séc ở chiến trường Nga sau này tham gia lực lượng đội quân lê dương tình nguyện Séc. Cuộc chiến tranh đẫm máu không kết thúc trong thời gian vài tháng như nhiều người đã tưởng, mà kéo dài đến tận tháng 11 năm 1918, gây tổn thất bao nhiêu sinh mạng, gây kiệt quệ cho Áo–Hung về nhiều mặt, mang lại kết cục thảm hại cho nhà nước quân chủ của triều đại Habsburg-Lothringen. Đế quốc Áo–Hung sụp đổ, dẫn đến sự ra đời của Cộng hòa Tiệp Khắc (Séc & Slovakia), Cộng hòa Áo, Cộng hòa Hungary và một số nhà nước khác ở châu Âu. Nhà báo, nhà văn Jaroslav Hašek đã sống và sáng tác trong giai đoạn lịch sử đầy biến động đó. Bậc thầy trào phúng Jaroslav Hašek, một tên tuổi rất đặc biệt trong lịch sử văn học hiện đại Séc, sinh ngày 30/4/1883 tại Praha, trong một gia đình nghèo theo Kitô giáo. Cha của ông là một thầy giáo dạy Toán và Vật lý ở một trường tiểu học Praha, mẹ làm nội trợ. Cả cha và mẹ ông đều là người quê ở vùng Nam Séc. Thủ phủ vùng Nam Séc, thành phố České Budějovice, và vùng lân cận là những địa danh được nhắc đến rất nhiều ở tác phẩm Vận mệnh người lính tốt Švejk trong Đại chiến Thế giới của ông. Bản thân Hašek khi nhập ngũ năm 1915 cũng được đưa tới doanh trại ở České Budějovice. Vùng Nam Séc là nơi gắn liền với tuổi thơ của Hašek, khi cậu cùng em trai thường được cha mẹ gửi về quê sống với ông bà ngoại, đặc biệt sau khi cậu bé Jaroslav mới bốn tuổi đã có biểu hiệu của bệnh yếu tim và tuyến giáp. Ngay từ nhỏ, Hašek cùng em trai được cha mẹ dạy dỗ rất nghiêm khắc, nhưng ông lại là người có bản tính thích tự do không chịu theo khuôn khổ, thích lang thang, thích bia rượu cùng bè bạn, có một thời gian còn theo chủ nghĩa vô chính phủ, và suốt đời sống theo phong cách Bohemian. Hašek cũng rất thích ngao du, ông đã có nhiều chuyến đi chơi dài ngày, nhiều khi đi bộ, đến hầu hết những vùng thuộc phạm vi Đế quốc Áo–Hung và một số nơi khác của châu Âu. Những chuyến đi ấy đã mang lại cho ông nhiều trải nghiệm và cảm hứng trong sáng tác. Năm 1894, Hafek vào học trung học phổ thông, nhưng sau khi cha mất năm 1896, Hašek chểnh mảng hơn và đến năm cuối cùng thì bỏ không học nữa. Một thời gian sau đó ông giúp việc ở cửa hàng vệ sinh và mỹ phẩm, rồi theo nguyện vọng của mẹ, ông nhập học trường trung cấp thương mại Praha. Sau khi tốt nghiệp, Hašek vào làm việc ở Ngân hàng Bảo hiểm Slavia Praha. Nhưng chán cuộc sống nhàm tẻ của một viên chức, chỉ chưa đầy một năm, ông bỏ nghề và chuyển hẳn sang viết báo viết văn. Năm 1910, vượt qua nhiều trở ngại và nhất là khi đã là biên tập viên của tạp chí Thế giới động vật, Hašek được phép kết hôn với Jarmila, tình yêu lớn của ông, con gái của một gia đình tiểu tư sản rất nền nếp ở Praha, người mà sau này cũng trở thành một nữ văn sĩ. Nhưng với phong cách sống của mình, Hašek không thể làm trụ cột gia đình, không thể làm người chồng tốt, người cha tốt được. Vì vậy, sau khi con trai họ ra đời vào năm 1912, Jarmila đem con về nhà cha mẹ đẻ, và từ đó gia đình họ không bao giờ đoàn tụ nữa, cho dù sau này họ coi nhau như những người bạn, thậm chí khi viết Vận mệnh người lính tốt Švejk,Hašek còn đọc cho Jarmila nghe những chương đầu. Sau khi Hašek qua đời, Jarmila đã viết: “Chương này nối chương kia, tôi bắt đầu ngưỡng mộ nghệ thuật của anh, người mà trước đây tôi từng yêu vì ánh nhìn tuyệt đẹp của anh đối với cuộc sống.” Mốc quan trọng nữa trong cuộc đời Hašek là năm 1915, khi ông gia nhập quân đội Áo–Hung và bị đưa sang chiến trường Nga. Ông bị bắt làm tù binh, và cũng tại Nga, ông tham gia đội quân tình nguyện Séc & Slovakia (còn gọi là quân lê dương Séc & Slovakia) chống Đế quốc Áo–Hung. Sau đó, do bất đồng chính kiến, ông rời hàng ngũ quân lê dương Séc và chuyển sang cộng tác với Hồng quân Nga. Trong thời gian ở Nga, nhờ biết nhiều ngoại ngữ, ông đã làm việc như một biên tập viên, đặc biệt cho tờ Čechoslovan của người Séc & Slovakia tại Nga, phụ trách nhà in, làm trợ lí cho chỉ huy thành phố Bugulma. Công việc trong Hồng quân cũng đã đưa ông tới tận Siberia, tới thành phố Irkusk. Cuối năm 1920, Hašek trở về Praha, mang theo người vợ Nga tên là Šura. Mùa thu năm 1921, Hašek cùng Šura chuyển về thành phố nhỏ mang tên Lipnice nad Sázavou (cách Praha 103 km về phía đông nam), một nơi yên tĩnh để Hašek có thể tập trung làm việc. Tại đây, ông tiếp tục viết Vận mệnh người lính tốt Švejk trong Đại chiến Thế giới. Nhưng cũng tại đây, sức khỏe của ông xấu đi trầm trọng do hậu quả của những năm tháng lang thang trước đó, của những cuộc say mèm, của khoảng thời gian khắc nghiệt ở Nga, của bệnh tim từ nhỏ và cả bệnh thương hàn mắc phải ở Siberia. Cuối năm 1921, khi bị bỏng tay không viết được, ông đã thuê một thanh niên ở Lipnice làm thư ký, và đọc cho anh viết tiếp. Hằng ngày, cứ viết được bao nhiêu là họ gửi đến nhà xuất bản bấy nhiêu, chỉ giữ lại trang cuối để hôm sau biết tiếp tục từ chỗ nào. Nhưng do bệnh nặng, ngày 3/1/1923, ở tuổi chưa đầy bốn mươi, Jaroslav Hašek qua đời, để lại cuốn tiểu thuyết còn đang dang dở. Từ ý định ban đầu viết về Vận mệnh người lính tốt Švejk cho đến sau chiến tranh, ông dừng lại trước khi kết thúc tập IV⦾. Trong những trang cuối cùng ông đọc cho người thư ký có câu viết về cuộc gặp mặt của Švejk với người lính tình nguyện một năm là: “Anh vẫn chẳng thay đổi gì cả,” người lính tình nguyện một năm Marek nói. “Ừ, không thay đổi,” Švejk trả lời, “tôi đã không có thời gian để thay đổi.” Và cha đẻ của Švejk thì đã không còn thời gian để hoàn thành tác phẩm nổi tiếng của mình.   Chưa đầy bốn mươi năm tuổi đời, nhưng Jaroslav Hašek đã có tới hai chục năm sáng tác. Trong suốt thời gian đó, ông đã viết tới 1.200 truyện ngắn, rất nhiều tiểu phẩm, bút ký và bài báo, đăng rải rác ở nhiều báo và tạp chí. Ông từng làm biên tập viên cho nhiều báo và tạp chí như tạp chí của tổ chức thanh niên tiến bộ Omladina, tạp chí của phong trào vô chính phủ Komuna, Đời sống động vật (Svět zvířat), hay Chân trời nữ giới (Ženský obzor), Tiếng Séc (České slovo) và thường xuyên viết bài cho các tờ như Báo dân tộc (Národní listy), Quyền lợi nhân dân (Právo lidu), Quyền lợi đỏ (Rudé právo), Hài hước (Humoristické listy), Châm biếm (Karikatury), Praha vui vẻ (Veselá Praha), v.v. Phần lớn các sáng tác của Hašek được tuyển chọn và xuất bản sau khi ông qua đời, chỉ một số được xuất bản thành tập lúc sinh thời. Thí dụ cuốn sách xuất bản đầu tiên và là tập thơ duy nhất đăng cùng Domažlický Tiếng kêu tháng Năm (Májové výkřiky, 1903), các tuyển tập Galerie châm biếm về các nhà chính trị và các vấn đề chính trị (Galerie karikatur, 1909, 1910), Những nỗi phiền muộn của ông Tenkrát (Trampoty pana Tenkráta, 1912), Cửa hàng chó của tôi và các truyện hài hước khác (Můj obchod se psy a jiné humoresky, 1915), Ba người đàn ông với con cá mập và các truyện bổ ích khác (Tři muži se žralokem a jiné poučné historky, 1921), v.v… Đặc biệt, ông còn cho xuất bản Người lính tốt Švejk và các truyện kỳ lạ khác (Dobrý voják Švejk a jiné podivné historky, 1912), Nguời lính tốt Švejk bị bắt làm tù binh (Dobrý voják Švejk v zajetí, 1917, xuất bản ở Kiev), Người lính tốt Švejk trước chiến tranh và các truyện kỳ lạ khác (Dobrý voják Švejk a jiné podivné historky, 1922), và tất nhiên, trọn vẹn ba tập đầu của tiểu thuyết Vận mệnh người lính tốt Švejk trong Đại chiến Thế giới (Osudy dobrého vojáka Švejka za světové války, 1921–1922). Từ Nga trở về Praha, Hašek đã bị nhiều người, kể cả bạn bè cũ, nói xấu và lẩn tránh. Người ta cho ông là kẻ phản bội đội quân lính lê dương Séc, vì ông đã tham gia Hồng quân Nga, đã là Bolshevik. Sau thời gian dài sống có kỷ luật và không rượu chè ở Nga, Hašek quay trở lại thói quen đi quán như trước. Nhưng cũng chính trong những ngày đó, ông nuôi ý tưởng viết về Người lính tốt Švejk. Cái ông viết sẽ không phải là truyện ngắn như những truyện về Người lính tốt Švejk ông đã viết vào năm 1911, 1912 hay 1917, mà là tiểu thuyết, bắt đầu từ vụ ám sát Đại Công tước Franz Ferdinand d’Este cho tới sau chiến tranh. Cuốn tiểu thuyết đó sẽ là tiểu thuyết châm biếm phóng đại với nhân vật chính mang tên Švejk mà ông đã nghĩ ra từ năm 1911. Đồng thời, ông đặt tên cho nó là Vận mệnh người lính tốt Švejk trong Đại chiến Thế giới và nội chiến ở nước ta và Nga (Osudy dobrého vojáka Švejka za světové i občanské války u nás i v Rusku). cái tên dài như vậy dẫn đến nhiều tên gọi khác nhau của bộ tiểu thuyết, ví dụ Vận mệnh người lính tốt Švejk, hay Người lính tốt Švejk, người Séc chỉ gọi ngắn gọn là Švejk. cuốn sách bạn có trong tay mang tên đầy đủ của bốn tập do Hašek viết. Cuối tháng 2 năm 1921, ý tưởng xây dựng bộ tiểu thuyết đó đã trở thành kế hoạch cụ thể. Hašek quyết định cùng với người bạn Franta Sauer tự xuất bản, bắt đầu in thành từng cuốn sách mỏng rẻ tiền, và cũng tự bán. Hašek là người đọc rất nhiều, cũng nổi tiếng là người có trí nhớ tuyệt vời và có hiểu biết sâu rộng, giống như cuốn Từ điển Bách khoa toàn thư sống. Ông thuộc lòng tất cả mọi thứ công văn tài liệu để dẫn dắt. Khi viết, ngoài bản đồ ra hầu như ông không cần có ghi chép hay chú thích thêm nào cả, đặc biệt lúc này, ông có thêm rất nhiều hiểu biết và kinh nghiệm về môi trường quân đội, về cuộc chiến tranh tàn khốc vô nghĩa lý mới kết thúc. Hašek đã viết rất nhanh, giống như ông đã viết rất nhanh những truyện ngắn và tiểu phẩm của mình từ trước đó. Ông lại đến ngồi viết quán ăn, và đọc cho khách nghe những gì đã viết. Những con người thuộc đáy xã hội ở các quán ăn bình dân rẻ tiền đó trở thành những “nhà phê bình” sách đầu tiên của ông. Nhìn họ ôm bụng cười, ông biết mình đã thành công. Mặc dù gặp rất nhiều khó khăn về tài chính, cuối cùng thì trong năm 1921 tập 1 Vận mệnh người lính tốt Švejk trong Đại chiến Thế giới đã ra đời, do chính Hašek tự trang trải các chi phí và xuất bản tại Nhà xuất bản Franta Sauer & Václav Čermak, Praha. Tại Lipnice, Hašek tiếp tục viết tập II với tốc độ nhanh chóng mặt và giữa tháng 1 năm 1922 ông đã bắt đầu viết tập III. Cả hai tập này được xuất bản ngay năm 1922, nhưng tại Nhà xuất bản Adolf Synek ở Praha. Sau khi Hašek qua đời, tập IV của Vận mệnh người lính tốt Švejk trong Đại chiến Thế giới được xuất bản ngay trong năm 1923. Từ đó đến nay, bộ tiểu thuyết đồ sộ này được in lại rất nhiều lần với số lượng bản in trung bình 40.000 cuốn/lần, đặc biệt các năm 1975, 1976, 1980 và 1990 in 100.000 cuốn/lần và đỉnh cao là năm 1951, sách được in tới 150.750 cuốn. Cuốn tiểu thuyết có một không hai trong lịch sử văn học Séc này cũng có một số phận rất đặc biệt. Ngay sau khi nó ra đời, và cả một thời gian dài sau đó, trong khi những người dân thường đọc nó một cách say mê và khoái chí thì, trừ một số nhà văn nhà báo nhận thấy ngay đây là một tác phẩm đáng đọc, làng văn Séc hầu như không chấp nhận nó, không coi nó là một tác phẩm văn học, không coi tác giả của nó là nhà văn. Thậm chí còn có ý kiến cho rằng Švejk là kẻ trốn tránh nghĩa vụ, rằng cuốn sách này gây tác hại đến đạo đức người lính, có người còn nguyền rủa phỉ báng Hašek và cách sống của ông. Nhưng dần dần, những lời khen nhiều hơn, và sau đây là một số trích dẫn thay cho lời phân tích tác phẩm: Max Brod (1884–1968), nhà ngôn ngữ học, dịch giả, nhà báo, nhà văn viết bằng tiếng Đức, đã viết vào năm 1923: Nhà văn dân gian người Séc đã đạt được điều mà hàng trăm nhà văn khác cố gắng suốt đời nhưng không thành: đó là việc sáng tạo, xây dựng được một nhân vật, một con người độc đáo, đồng thời là một kiểu người. Tác phẩm của Hašek – mặc dù có thể là chính bản thân tác giả không biết điều này – là tác phẩm hàng đầu. Nhà văn không thể mong muốn gì hơn được nữa: đó là nhân vật xuất hiện từ cõi sâu thẳm nhất của tâm hồn con người, và lập tức được mọi người công nhận và tiếp nhận vào tâm thức của mình. Và chúng ta có thể đặt giả thiết hầu như chắc chắn rằng, một nhân vật như thế phản ánh được cái gì đó sâu kín nhất, không chỉ về dân tộc nó xuất thân, mà còn về sự liên quan đến cơ sở tồn tại bí ẩn nhất của loài người. Nhân vật ấy cũng giống như Hiệp sĩ gàn dở Don Quixote de la Mancha, mặc dù lúc đầu châm biếm người Tây Ban Nha, nhưng cuối cùng đã trở thành biểu tượng được yêu mến nâng niu bởi tất cả mọi sự gàn dở điên điên, về mặt tốt, cũng như mặt xấu của mình. Bằng lời ngợi ca này, tôi nói về những cuốn sách đã đưa tên tuổi của Người lính tốt Švejk ở Praha trở thành nổi tiếng. Nhà phê bình văn học, sân khấu và mỹ thuật, đồng thời là đạo diễn điện ảnh và dịch giả Séc Josef Kodíček (1892–1954) viết vào năm 1927: Có những nhà phê bình có học thức và cao thượng thấy kinh hãi nhân vật Švejk. Có những nhà văn tuyên bố rằng Švejk là cuốn sách mà họ không mang theo cả khi phải ra hòn đảo hoang vắng. Vì sao? Chỉ vì trong đó có nói tục ư? Ngược lại, nhà thơ và nhà văn Durych nói rằng Švejk phải được đúc thành tượng. Về phía mình, chúng tôi không sợ trở thành nhà tiên tri khi khẳng định Švejk sẽ được đọc cả vào khi mà phần lớn các sáng tác cùng thời với nó bị lãng quên. Nhà báo, nhà văn trào phúng Séc Karel Poláček (1892–1945) đã viết vào năm 1930: Švejk là một tác phẩm thú vị và tôi nghĩ là lịch sử văn học phải nghiên cứu. Chỉ ngay về mặt hình thức thôi nó cũng thú vị rồi. Nó là tiểu thuyết ư? Là sử ký hài hước ư? Có thể nó là tiểu thuyết hài hước được gộp lại từ các chương, tức là nó có đặc trưng của các cuốn tiểu thuyết hài hước nổi tiếng nhất trên thế giới, như nhà văn Karel Čapek đã khẳng định. […] Švejk là văn học, thậm chí là văn học rất truyền thống. Người lính tốt Švejk có gia phả của mình. Anh có quan hệ họ hàng rất gần gũi với Sam Weller. Anh và Sam Weller có chung sở thích đánh giá bình luận các sự kiện, đối với ông chủ của mình thì có một tình yêu lớn, nhưng mang chút rộng lượng và có phần coi thường. Và cả Sam Weller lẫn Švejk đều dùng cách so sánh rất thơ mộng trong các hồi ức và những câu chuyện của đời mình, và họ kể về chúng một cách ung dung thoải mái. […] cách đây không lâu đã có một cuộc tranh luận gay gắt về Người lính tốt Švejk. Ông Viktor Dyk lo lắng về số phận và khả năng chiến đấu của quân đội Tiệp Khắc và lên tiếng cảnh báo về những Švejk và ảnh hưởng không tốt của họ đến kỷ luật quân đội. Xin ông Nghị sĩ và nhà thơ Dyk yên tâm. Giá mà ông đã đi lính và có hiểu biết rõ hơn về người lính Séc thì ông đã thấy là Švejk chưa bao giờ và không bao giờ có thể là kiểu người lính Séc. Tôi đã đi lính bốn năm và chưa bao giờ tôi gặp một Švejk nào. […] Švejk là một người ở Praha không có thu nhập ổn định, nhiều khi không có chỗ ở và không nghề nghiệp, cảnh sát có thể viết về anh ta như thế. Švejk là sản phẩm của trí tưởng tượng phóng túng và say mèm của tác giả. Tôi có thể kể đến kiểu người thực sự hoàn hảo như anh lính công binh Vodička – người hết sức căm ghét dân Hungary, kiểu người háu ăn không bao giờ no là Baloun, kiểu người như trung úy Lukáš – người thầm thì bí mật: “Chúng ta hãy là người Séc, nhưng không người nào phải biết đến điều đó.” Tôi cũng là người Séc: Những nhân vật một trăm phần trăm như thế, những nhân vật sẽ sống muôn đời và sẽ đúng muôn đời như thế, có rất nhiều trong tác phẩm này. Một ông chủ quán Palivec thận trọng, không cho ai tán chuyện về chính trị trong quán của mình bởi vì ông là người buôn bán. Một tay mật thám Bretschneider luôn khiêu khích với hy vọng bắt được ai đó vào nhà tù. Đó là những người chúng ta thường gặp và tất cả chúng ta đều biết họ. Nhà văn, nhà báo và dịch giả Ivan Olbracht (1882–1952) đã viết những dòng này năm 1921: Nếu muốn cười thật sự, bạn hãy đọc Vận mệnh người lính tốt Švejk trong Đại chiến Thế giới của Jaroslav Hašek. Gotthold Ephraim Lessing nói về Friedrich Gottlieb Klopstock rằng mọi người đều khen ông, nhưng ít người đọc ông. Trong trường hợp Jaroslav Hašek thì ngược lại. Hàng chục nghìn người đọc Vận mệnh người lính tốt Švejk trong Đại chiến Thế giới (10.000 cuốn phát hành lần đầu đã bán hết), hàng chục nghìn người nghiêng ngả cười trên các trang sách. Thế mà không một nhà phê bình văn học nào dám khen nó. Bạn hãy hỏi một độc giả bình thường nhận xét của người ấy về cuốn sách, và độc giả ấy mới chỉ nghe đến tên Švejk là đã bật cười. Suy cho cùng thì đó là câu trả lời tốt nhất. Nhưng nếu bạn hỏi một người có “trình độ về văn học” thì người ấy cười độ lượng rồi ngập ngừng trả lời nước đôi: “Ờ…” Người ấy không dám làm kẻ vô ơn mà nói gì xấu về cuốn sách, bởi nó đem lại cho người ấy nhiều lúc vui vẻ. Nhưng khi nghĩ đến phong cách hoàn toàn “phi văn học”, đến ngôn ngữ nhà binh, đến ngôn ngữ ngoài đường phố và các quán ăn rẻ tiền thì người ấy lại sợ mất thể diện khi nói “đấy là cuốn sách tuyệt vời”. Švejk là một kiểu nhân vật hoàn toàn mới trong văn học thế giới. Một kiểu người đần độn trong dân gian Séc lần đầu tiên xuất hiện trong văn học viết và được đưa vào cuộc sống hiện đại ồn ã. Một kiểu người bình thản được nhìn từ một góc độ mới. Chúng ta vui vì gặp một kiểu người hoàn toàn ngược với kiểu người đáng ghét “tính nết có vấn đề”, “không bằng lòng với bất kỳ tình huống nào, cũng chẳng hợp với bất kỳ tình huống nào”, bởi vì Švejk là người hài lòng trong mọi tình huống, và cũng ở thế mạnh hơn trong mọi tình huống. Một người ngu tinh khôn, hay thật sự là một người ngu tài tình, người có cái vẻ hiền lành ngu xuẩn, nhưng đồng thời ranh mãnh như thế phải thắng ở mọi nơi. Kiểu người văn học mới này không thể làm chúng ta quan tâm đến thế, vui vẻ đến thế, nếu nó không phải là một phần của chúng ta, nếu “ngôn ngữ Švejk” ít nhiều không phải là của tất cả chúng ta, tương tự như “ngôn ngữ Don Quixote”, “ngôn ngữ Hamlet”, “ngôn ngữ Faust”, hay “ngôn ngữ Oblomov”. Hašek giải nghĩa cho chúng ta về Thế chiến từ góc nhìn mới. Ông là người trực tiếp tham gia cuộc chiến, đã đi đến một nửa châu Âu và đến cả châu Á. Vận mệnh người lính tốt Švejk của ông là cuốn tiểu thuyết về chiến tranh. Tôi đã đọc một số tiểu thuyết chiến tranh và chính bản thân tôi cũng viết một quyển. Nhưng không có một quyển nào toát ra được toàn bộ sự tàn ác bất lương, cái ngu xuẩn và man rợ của Đại chiến Thế giới một cách rõ ràng như ở cuốn sách của Hašek. Ông không đòi hỏi phải vượt qua chiến tranh để chiến thắng. Ông đứng bên trên nó ngay từ lúc mở đầu. Ông cười chế nhạo nó. Ông đã cười chế nhạo nó trên toàn bộ cũng như từng chi tiết, như thể nó không hơn gì cuộc ẩu đả say rượu trong quán ăn ở Žižkov. Để có thể có được cái nhìn như thế tất nhiên cần phải có một Švejk mạnh mẽ, cùng với sự ngu xuẩn tài tình. Quang vinh thuộc về người đã làm được điều đó. Và kết quả là: Vận mệnh người lính tốt Švejk là một trong những cuốn sách hay nhất được viết ở Séc. Khi ở Omsk, Hašek là một con người mẫu mực, nhưng chẳng viết được dòng nào. Ở Praha ông là người lang thang quán này sang quán nọ, nhưng đã viết được một trong những cuốn sách hay nhất của văn học Séc. Siberia có thể tìm được người chỉ huy quân sự tốt khác, nhưng không một người nào khác có thể viết được Vận mệnh người lính tốt Švejk trong Đại chiến Thế giới”.   Đây là lần đầu tiên cuốn tiểu thuyết đồ sộ Vận mệnh người lính tốt Švejk trong Đại chiến Thế giới đến trọn bộ với bạn đọc Việt Nam. Chúng tôi tin rằng Švejk sẽ trở thành người bạn văn học đáng yêu của độc giả Việt Nam. Và tương tự như Jan Neruda, Franz Kafka, Karel Čapek, Bohumil Hrabal, Milan Kundera… cả Jaroslav Hašek cũng sẽ trở thành tác giả quen thuộc ở Việt Nam. Bắt tay vào chuyển ngữ bộ tiểu thuyết, người dịch ý thức được nhiều vấn đề về ngôn ngữ và văn hóa. Trong tác phẩm này, ngôn ngữ mà Jaroslav Hašek sử dụng là tiếng Séc bình dân từ ngoài đường phố, từ các quán ăn rẻ tiền, nhưng dưới ngòi bút sắc sảo của ông, nó là thứ tiếng Séc rất dí dỏm, khôi hài, đậm sắc dân tộc. Tác phẩm cũng phản ánh phần nào cả vấn đề ngôn ngữ dân tộc trong giai đoạn lịch sử đó ở Séc, khi mà tiếng Đức chiếm vị trí độc tôn, đặc biệt ở đây là sự có mặt của vốn từ tiếng Đức trong ngôn ngữ nhà binh⦾. Lời kể trong truyện là lời kể tự nhiên không gượng ép, không cố gây cười và cái hài hước chỉ là công cụ để châm biếm, đả kích những điều xấu xa trong xã hội và đặc biệt chống lại cuộc Đại chiến tàn khốc. Cái dí dỏm, khôi hài và châm biếm rất Séc của tác phẩm đồng thời cũng là điểm chung có thể chuyển tải sang tiếng Việt, bởi trào phúng là một phần đáng kể trong văn hóa Việt. Và hơn cả, bên cạnh những câu chuyện vui hài hước làm nền là nhiều trang viết về chiến tranh, về những điều sâu sắc khiến độc giả trầm ngâm suy nghĩ. Nói cho cùng, nếu không có cái thông điệp chung như thế thì Vận mệnh người lính tốt Švejk trong Đại chiến Thế giới không thể được dịch ra bằng ấy ngoại ngữ trên thế giới.   Chúng tôi lại xin mượn lời của nhà báo, nhà văn và dịch giả Séc Ivan Olbracht: Các bạn hãy đọc đi, đây là một cuốn sách tuyệt vời. bình slavicka   Mời các bạn đón đọc Vận Mệnh Người Lính Tốt Švejk trong Đại chiến Thế giới Tập I-II của tác giả Jaroslav Hašek & Bình Slavická (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Đánh Cược Với Tình Yêu - Suzanne Enoch
Tác phẩm thuộc series tiểu thuyết ăn khách của Suzanne Enoch, Scandalous bride, tác giả nổi tiếng dòng văn học lãng mạn Mỹ, mới phát hành tại Việt Nam. Diane Benchley và Oliver Warren từng có một mối tình đẹp như mơ ở Vienna. Nhưng câu chuyện cổ tích đột ngột kết thúc khi Oliver bỏ đi không rõ lý do. Oliver lúc đó chỉ là một kẻ tay trắng, kiếm tiền bằng cách chơi cờ bạc bịp trên khắp các sòng bài. Anh sợ rằng, mình sẽ phải lòng người phụ nữ quyến rũ, giỏi giang này và không kiềm được ý muốn kết hôn với cô. Anh không muốn đến với cô khi chẳng có gì chắc chắn để đảm bảo cuộc sống của hai người. Nhưng anh không ý thức được rằng, nỗi khổ tâm của anh, sự ra đi đường đột của anh đã giết chết một phần con người Diane.  Oliver quay về London, xin lỗi người bác già cả cho những lầm lỡ trước kia của mình, thừa kế tước hiệu Hầu tước Haybury và quyết tâm làm lại một cuộc đời mới. Nhưng số mệnh không tuân theo sự sắp đặt của anh. Oliver ý thức được điều đó ngay từ khi nghe tin Diane Benchley trở về Anh quốc. Cảm giác day dứt và vấn vương khiến anh buộc phải đi theo tiếng gọi của trái tim mình. Haybury chấp nhận trở thành cộng sự kinh doanh của Diane, tham gia vào kế hoạch điên rồ đầy mạo hiểm của cô. Diane luôn cho rằng, bài bạc đã lấy đi nhiều thứ quý giá của mình. Và như một lời thách đố với số phận, cô quyết tâm chọn cách mở một sòng bài. Sự thành công của cô sẽ giống như một chiến thắng vẻ vang trước quá khứ chua xót luôn làm cô day dứt. Nhưng, Diane dù thông minh đến mấy cũng thiếu kinh nghiệm quản lý một sòng bạc, còn Oliver lại thừa hiểu biết về lĩnh vực này. Cô buộc phải tìm đến anh, vừa để thực hiện kế hoạch kinh doanh mình nung nấu, vừa như một cách "trêu ngươi" tình cũ - kẻ mà cô tuyên bố đã chẳng còn chút vấn vương nào. Trải qua nhiều sóng gió, Diane ngây thơ đã biết cách dùng mọi thủ đoạn để đạt được mục đích của mình. Điểm yếu duy nhất của cô, đó chính là sự lỡ nhịp của trái tim. Oliver và Diane tưởng đã mất nhau, nhưng hai người đã "đánh cược" cả trái tim vào đối phương. Nhờ đó, họ tìm được hạnh phúc viên mãn. Đánh cược với tình yêu không chỉ kể câu chuyện lãng mạn, đó còn là thông điệp về lòng vị tha trong tình yêu. *** Bộ sách Scandalous bride, gồm có: #0.5 – The Wicked One # 1 – A Beginer’s Guide to Rakes - Đánh Cược Với Tình Yêu # 2 – Taming an Imposible Rogue - Kẻ Phóng Đãng Bất Trị # 3 – Rules to Catch a Devilish Duke # 4 – The Handbook to Handling His Lordship *** Trên thế giới này có rất ít chuyện có thể khiến Oliver Warren, Hầu tước Haybury, giật mình. Thực tế là anh có thể đếm những chuyện đó trên đầu ngón tay của một bàn tay. Như tiếng tru tréo của lũ trẻ con. Tiếng cọ xát của kim loại han rỉ. Và tên của người đó. Vẫn ngồi bất động, anh ngước lên, quên béng chồng phỉnh bạc (1) giữa ngón tay mình. “Anh vừa nói gì?” James Appleton ngồi bên trái anh liền gật đầu. “Tôi đã nghĩ nhà Benchley sẽ tìm ra cách giữ lại trang viên đó, dù gì nó cũng là tài sản của gia tộc từ rất lâu rồi. Nhưng giờ bà quả phụ đó đã mở cửa lại Dinh thự Adam House cũ. Theo tin tức tôi nghe ngóng được thì cô ta chỉ vừa mới đến tối qua. Dù sao thì cũng hơn ba năm mới có người đến sống ở đó.” Oliver đặt cược lên con ba bích, tập trung vào ván bài trong lúc người chia bài lật con bốn, con chín và con Q cơ. “Hừm”, Oliver nói, anh cho rằng sự quan tâm nhạt nhẽo sẽ là phản ứng thích hợp đối với những tin đồn vô thưởng vô phạt thế này. “Phu nhân Cameron. Cô ta đã đến lục địa rồi phải không? Cô ta tên gì ấy nhỉ? Marianne à?” “Diane.” Appleton sửa lại, cuối cùng nhận ra mình đã thua khi đặt cược vào con bốn bích. “Khốn thật. Tôi nghe nói là ở Vienna (2) hay Amsterdam gì đó. Tôi đoán là hơn hai năm sau cái chết của Fredrick cô ta cảm thấy nhớ London.” “Có vẻ thế.” Hình ảnh suối tóc đen huyền và cặp mắt xanh lạ lùng xẹt qua tâm trí Oliver trước khi anh kịp gạt đi. Chết tiệt, chết tiệt, chết tiệt. Anh liếc sang anh chàng ngồi phía bên trái. “London hẳn là chán chết ấy Appleton”, anh giễu cợt, “nếu như tin tức hấp dẫn nhất anh nhặt nhạnh được là một quả phụ đang trở lại nhà của người chồng quá cố của cô ta.” Từ phía bên kia bàn, Bá tước Beaumont cười phá lên. “Anh đang vấp phải thời điểm chán nản của mùa vũ hội đấy, Haybury. Chẳng có tin gì thú vị đâu. Tôi nghĩ chúng ta đã không có vụ tai tiếng nào kể từ tháng Giêng, và cũng chẳng ai thèm quan tâm vì có ai ở trong thành phố để buôn chuyện đâu chứ.” Bá tước nâng ly rượu của mình. “Chuyện này mang lại hy vọng sẽ sớm có một trò tiêu khiển đẫm máu.” Oliver nâng ly vì câu nói đó. Bất cứ điều gì giúp anh không phải nghe lại cái tên Diane Benchley chết tiệt từ miệng của ai đó trong sáu tuần tiếp theo sẽ nhận được sự ủng hộ của anh. “Tối nay anh không đặt cược nữa hả Appleton?”, anh khiêu khích. “Chúng tôi có thể cung cấp cho anh một cái khung thêu nếu anh thích tiếp tục líu lo.” Gò má và cổ họng Appleton đỏ lựng. “Tôi chỉ nghĩ chuyện đó thú vị”, anh ta phản bác. “Bá tước Cameron quá cố cùng phu nhân của anh ta chạy trốn khỏi London ngay trước mũi bọn chủ nợ, và giờ cô ta trở về một mình với nửa tá xe ngựa loại lớn nhất – vào lúc nửa đêm.” “Có lẽ cô ta đã tìm cho mình một vị công tước nước Phổ nào đó.” Nhân vật thứ tư trong nhóm, Jonathan Stucliffe, Tử tước Maderlin, rốt cục cũng nhập cuộc. “Theo như tôi nhớ thì cô nàng rất xinh đẹp.” Anh ta vỗ vai Oliver. “Sau đó anh không ở lại London nhỉ? Thực sự anh chưa từng tới Vienna à?” “Đâu đó quanh đấy.” Cái liếc mắt cùng cặp lông mày nhướng cao đã thuyết phục Maderlin buông vai anh ta. “Tôi cũng trở lại trên một cỗ xe màu đen loại lớn nhất đấy Appleton. Của riêng tôi. Anh cũng xì xầm về tôi đấy chứ?” Cuối cùng Appleton cũng toét miệng cười. “Đã và sẽ tiếp tục làm thế. Gần như là liên tục.” “Hay lắm. Tôi đã làm việc rất chăm chỉ để giữ tất cả những kẻ hóm hỉnh bận rộn.” “Đúng đấy!” Ngài Beaumont ra dấu và một gã phục vụ trong bộ đồng phục câu lạc bộ tiến đến rót đầy cốc rượu của anh ta. “Vậy thì anh sẽ phải chịu trách nhiệm cho sự yên ả này. Hãy cho chúng tôi một vụ tai tiếng đáng nguyền rủa đi nào, Haybury.” Oliver nghiêng đầu. “Tôi sẽ làm hết sức mình. Đúng hơn là tồi tệ nhất.” Diane Benchley, Phu nhân Cameron, ở London. Và anh cho rằng họ sẽ sớm chạm mặt nhau ở một buổi vũ hội nào đó. Xét cho cùng thì Mayfair là một nơi nhỏ bé. Thậm chí còn nhỏ hơn cả Vienna. Anh uống cạn lượng uýt-ki còn lại trong ly và tự rót cho mình một ly khác. Tối nay tên cô ta có lẽ đã khiến anh giật mình, nhưng nếu - khi – anh mặt đối mặt với cô ta, anh sẽ không phải là người giật mình. Không một cái nhăn mặt. Hay một cái nhíu mày nào. Và tốt hơn hết cô ta nên dán kín cái miệng xinh đẹp của mình lại hoặc anh buộc lòng phải làm một việc gì đấy chướng tai gai mắt. “Anh có đặt cược không hả, Haybury?” Manderlin hỏi. “Hay anh đang khâu vá?” Gói ghém những ý nghĩ không dễ chịu lắm cho khoảng thời gian riêng tư sau này, Oliver liếc nhìn những lá bài đã được lật và đặt hai bảng lên con J. Theo kinh nghiệm của anh con J luôn thắng. “Diane, có người muốn gặp cô.” Diane Benchley, Phu nhân Cameron, ngước lên từ đống giấy tờ trên bàn làm việc của người chồng quá cố. “Tôi không định gặp ai hết”, cô lầm bầm và tiếp tục chọn lọc các con số thập phân cùng các phép trừ ở mỗi bảng biểu có vẻ nổi bật. “Không có ngoại lệ.” “Tôi biết chứ, thưa cô”, người bạn đồng hành với cô đáp lại, vẫn không rời khỏi cửa ra vào. “Đó là ngài Cameron.” Trong tích tắc, cơn ớn lạnh chạy dọc sống lưng Diane. Cũng trong khoảng khắc ngắn ngủi đó, mỗi bàn tay cô từng nắm, mỗi làn gió thổi qua eo biển từ Lục Địa hay mỗi tin tức sét đánh nổ ầm trong lồng ngực kể từ khi cô rời Vienna, lại nghèn nghẹn trong cuống họng. Sẽ chẳng có chuyện gì, nếu như…. Lầm rầm nguyền rủa, cô rùng mình. Frederick Benchley đã chết. Hai năm trước. Cô đã ở bên cạnh lúc anh ta trút hơi thở cuối cùng. Cô đã đứng bên phần mộ của anh ta khi hai người làm công đào hố và chôn cỗ quan tài gỗ thông rẻ tiền của anh ta xuống lòng đất. “Vì Chúa, Jenny, đừng doạ tôi chứ”, cô hô to, đặt cây bút chì sang một bên và dùng ngón tay vẫn còn run rẩy của mình để xoa xoa hai bên thái dương. Sự hoảng hốt lướt qua khuôn mặt người bạn đồng hành của cô, Genevieve Martine vội vã bước vào phòng. “Ôi, Chúa ơi. Cô biết ý tôi là Bá tước mới kia mà. Tôi chưa bao giờ nghĩ là…” “Đừng bận tâm, Jenny. Có điều cô đã làm tôi nổi gai ốc đấy. Anthony Benchley đang ở đâu?” “Trong phòng khách buổi sáng (3). Anh ta đòi gặp cô, và sau đó gọi trà.” Diane chống tay lên bàn làm việc, đứng dậy. “Ừm. Chí ít chúng ta có thể phỏng đoán tin tôi trở về London đã nhanh chóng lan xa. Tôi cho là cũng có ý nghĩa đấy chứ.” “Phải đấy, chúng ta có thể tính là một may mắn kể từ lúc trở về đây.” Jenny thở dài. “Và hai tá điều bất hạnh. Tôi nên xếp Ngài Cameron vào mục nào đây?” “Bất hạnh. Nếu có thể cô hãy đi cùng tôi. Tôi muốn dứt khoát với anh ta càng nhanh càng tốt.” “Cô nghĩ anh ta muốn gì?” Genevieve hỏi với âm hưởng Pháp thanh thoát dường như có thể nhẹ nhàng hoặc mạnh mẽ tuỳ thuộc vào tâm trạng của cô ta. ... Mời các bạn đón đọc Đánh Cược Với Tình Yêu của tác giả Suzanne Enoch.
Chồn Mật - Robert Ruark
Tại châu Phi có một loài vật khát máu, không biết sợ ai, cái gì... bao giờ, mang tên Chồn Mật. Có lẽ nó là con vật hạ đẳng nhất thế giới. Nó thích mật ong, và mọi loài lông vũ. Nó giết chóc nhiều khi không phải là vì đói, vì căm hận mà chỉ để thỏa tính hung bạo và để.... giải trí. Đặc biệt, khi tấn công con người, nó không nhắm vào cổ hay bất kỳ đâu mà chỉ nhắm vào chỗ kín. Bản chất ấy phải chăng được thấy trong một con người Mỹ hiện đại - «Alex Barr», nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết ấn tượng này. "Chồn Mật" được coi là cuốn tiểu thuyết cuối cùng của Robert Ruark. Đây là câu chuyện về một người đàn ông, một nhà văn tài năng, bị giằng xé giữa công việc và đàn bà. Có lẽ người đọc sẽ không khó nhận ra phần nào nguyên mẫu của chính tác giả trong đó. Nhưng "Chồn Mật" vẫn không mang dáng vẻ của một hồi ký, kể cả khi đã nhắc không ít tới các nhân vật tiếng tăm có thực với tính cách, tài năng và số phận thực của họ, như nhà báo Ernie Pyle, nhà văn Ernest Hemingway... *** Trời rất nóng và đầy hơi nước, cái nóng của New York ẩm ướt, đặc sệt lại, đè nặng lên người. Tầng áp mái nhô lên khỏi 17 tầng nhà trên khu đông Manhattan, khoe ra những cây đào trên sân thượng. Chẳng có chút gió nào lay động nổi những chiếc lá đào, còn sân thượng được phủ một lớp bồ hóng xốp mịn. Không có máy điều hòa trong căn hộ kiểu cũ xây tường dày, và thường khá mát mẻ. Alexander Barr, với bộ đồ cộc, vừa ra khỏi vòi nước lạnh, và mới chỉ đi xa buồng tắm hai bước, mồ hôi đã bắt đầu chảy ròng ròng trên người. Amelia, vợ Alexander Barr, đang ngồi trước bàn trang điểm tô lại đôi môi, có cái vẻ mát mẻ khiêu khích. Như Alex Barr cảm thấy, nàng trông giống như người vừa hiện ra từ một thế giới toàn những kẻ vô danh, tất cả bọn họ đều bị ám ảnh bởi những ý nghĩ ích kỷ nhỏ mọn. Chiếc cốc đầy tới nửa một thứ gì đó có vẻ như rượu gin pha, rịn ra khá nhiều nước ở cạnh khuỷu tay nàng. Một điếu thuốc lá có đốm lửa đỏ ở đầu, buồn bã cháy âm ỉ trong chiếc gạt tàn bóng loáng bên cạnh. Alex Barr đã uống cạn một cốc khi anh từ ngoài đường vào nhà - mặt bóng nhẫy, mồ hôi ròng ròng, chiếc áo sơmi ướt sũng dính chặt vào người - nhưng cốc rượu chỉ khiến anh nóng thêm. Anh liệng chiếc cốc ra ngoài khoảng sân đầy bồ hóng, hy vọng có một chuyển động đáng thương hại trong không khí, và khi chằm chằm nhìn qua lan can xuống đường phố tít bên dưới, anh gần như bị ức chế một cách không thể chịu đựng nổi bởi ý nghĩ cả cái quả đất chưa được thăm dò chứa đầy những con “người kiến” bé tí xíu, tất cả đều bị tù hãm một cách cuồng loạn bởi những vấn đề cá nhân. Đột nhiên toàn bộ thế giới rộng lớn túm được đầu của Alexander Barr trong bàn tay gồ ghề của nó, bóp mạnh, và ép bộ óc anh phọt ra đằng tai. Anh cảm thấy như một bên hộp sọ của mình gãy vụn, rồi nở phồng ra, và ở chỗ vốn là não bộ giờ đây chỉ là một khối bê tông cứng. Alex muốn thét lên, muốn chạy trốn, muốn núp vào một xó nhà đầy mạng nhện và xé toạc lớp vỏ bọc đang bao phủ cái hộp sọ bị đổ bê tông, Anh muốn, anh muốn, anh không biết mình muốn gì nữa. Nhưng anh biết cái anh không muốn. Anh không muốn tới chỗ Hazeltines để ăn tối. “Không,” anh kêu lên. “Không, tôi sẽ không. Chắc chắn là sẽ không!” “Sẽ không làm gì kia?” Amelia vừa hỏi bằng cái giọng trẻ con vừa quay mặt khỏi tấm gương nàng đang soi để tô mắt bằng chiếc bút lông. “Nhanh lên nào, anh yêu, đừng bực nữa. Mình sẽ bị muộn bữa tối với Hazeltines mất,” Alex Barr nhìn vợ bằng cặp mắt uể oải, vô hồn, như nhìn vào một người lạ thờ ơ. Nàng thật đẹp, anh thầm nghĩ, với chiếc áo choàng đen thật gợi cảm. Năm nay nàng để dài mớ tóc màu hạt dẻ. Nàng đẹp, Alex Barr lại nghĩ, nhưng với mớ tóc mềm dài như vậy trông nàng rất giống một chú chó con lông xù. Nàng đã chải lại tóc và sửa móng xong. Chiếc áo dài dạ tiệc màu đen thanh nhã - một chiếc Hattie xinh xắn - đã được đặt cẩn thận trên chiếc khăn trải màu đỏ tía của chiếc giường khổ lớn. Khi đánh xong đôi mắt và trang điểm nốt phần mặt còn lại, nàng chui đầu qua chiếc áo dài Hattie, cẩn thận với lớp lụa mỏng để không làm son môi dây bẩn lên áo. Sau đó nàng vuốt lại mái tóc, mím môi để son dàn đều, rồi quay người lại và nói, như Alex Barr đã biết trước: “Anh yêu, chúng ta bị muộn mất thôi, đừng đi đi lại lại nữa và hãy mặc quần áo vào. Anh biết bọn người hầu của Hazeltines giờ giấc chính xác thế nào rồi đấy. Nếu muốn có chút thời gian để uống gì đó khi đến thì anh phải nhanh lên.” “Không,” anh nhắc lại - phải chăng anh đã nói vậy, hay anh mới chỉ nghĩ là anh đã nói vậy? “Không. Anh sẽ không. Chắc chắn là anh sẽ không”. Amelia nhìn anh vẻ khó chịu. “Anh đang nói gì đấy? Chắc chắn không cái gì?” “Chắc chắn anh sẽ không đến muộn bữa tối của Hazeltines.” ... Mời các bạn đón đọc ​Chồn Mật của tác giả Robert Ruark.
Lá Cờ Thêu 6 Chữ Vàng - Nguyễn Huy Tưởng
Sinh năm 1912 mất năm 1960, Nguyễn Huy Tưởng thuộc số các tác giả lớn có vai trò quan trọng cho việc xây dựng nền văn học mới ở Việt Nam, trước và sau mốc lịch sử Cách mạng tháng Tám 1945. Trước 1945 - đó là tác gia tiêu biểu về đề tài lịch sử, qua các tiểu thuyết Đêm hội Long Trì (1942), An Tư (1943) và kịch Vũ Như Tô (1943). Sau 1945 - đó là người viết tạo được sự gắn bó mật thiết giữa cảm hứng thời sự và cảm hứng lịch sử qua kịch Bắc Sơn (1946), Những người ở lại (1948)… đến tiểu thuyết Bốn năm sau (1959), Sống mãi với thủ đô (1961). Ở cuối đời viết, vào nửa sau thập niên năm mươi, Nguyễn Huy Tưởng còn để lại một chùm truyện thiếu nhi đặc sắc, trong đó có Lá cờ thêu sáu chữ vàng (1960). Chiến công hiển hách trong cuộc chiến chống Nguyên Mông của vương triều Trần - thế kỷ XIII - đó là đề tài đã đến với Nguyễn Huy Tưởng từ rất sớm, khi ông mới bước vào nghiệp văn khoảng nửa đầu thập niên bốn mươi; rồi trở thành đề tài ông theo đuổi suốt đời. Là người đam mê đề tài lịch sử và trong tư chất một nhà văn hoá chuyên tâm, Nguyễn Huy Tưởng dành nhiều thời gian và tâm huyết cho lịch sử vương triều Trần. Khởi đầu là chuyện về An Tư, một liệt nữ trong tiểu thuyết cùng tên (An Tư, 1943); và khép lại là chuyện về Trần Quốc Toản, người anh hùng nhỏ tuổi trong truyện Lá cờ thêu sáu chữ vàng (1960). Một phụ nữ và một thiếu nhi - đó là hai chân dung được chọn đưa vào cận cảnh, trong bối cảnh một cuộc chiến chống ngoại xâm vào loại dữ dội và khó khăn bậc nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Phạm vi miêu tả của truyện là cuộc chiến diễn ra lần thứ hai (1285) thời Trần Nhân Tông, khi nhà Trần phải chịu thất thủ Thăng Long; Trần Quốc Tuấn lui quân về Thanh Hoá; quân Nguyên gồm hai cánh: Thoát Hoan và Toa Đô cùng áp đánh cả hai mặt Bắc và Nam. Đây cũng là thời gian diễn ra hai sự kiện lịch sử lớn là Hội nghị Bình Than (cuối năm 1282) và Hội nghị Diên Hồng (đầu năm 1285), thể hiện tập trung ý chí và trí tuệ của toàn dân trong một quyết tâm Sát Thát. Là thời gian hội đủ những gương mặt tiêu biểu, tượng trưng cho khí phách của vương triều như Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật, Trần Bình Trọng… chung quanh Trần Nhân Tông; với sự bổ sung gương mặt Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản, người thiếu niên chưa đến tuổi để được dự bàn việc nước, đã tự chiêu binh mãi mã đi đánh giặc… Về phía địch - đó là một loạt nhân vật từ sứ thần Sài Thung, thái tử Thoát Hoan đến viên dũng tướng Toa Đô. Còn có thể kể thêm những nhân vật cũng có vị trí trong cuộc chiến như anh em Thế Lộc, tướng Tống Triệu Trung sang theo quân Trần cùng đánh giặc Nguyên Mông, với thấp thoáng một nhân vật đầu thú là Trần Ích Tắc cam tâm đi hàng giặc… Một truyện với quy mô nhỏ nhưng bao chứa một lượng nhân vật khá lớn - trên cả hai phía! Cuộc chiến thứ hai là cuộc chiến dữ dội và khó khăn nhất của vương triều Trần; do vậy mà thế giới nhân vật - kể cả chính và phụ đều có nhiều đất đai cho diễn biến nội tâm và hành động. Số lượng nhân vật thì đông đảo, nhưng vị trí trung tâm vẫn là Trần Quốc Toản, với cách miêu tả vừa mở rộng vừa tập trung. Mở rộng biên độ cho sự thể hiện nhân vật, qua các quan hệ với mẹ, với người lão bộc, với gia binh, với người anh em thiểu số Thế Lộc, với các bậc quan gia; và tập trung trong sự chiếu rọi tư chất một thiếu niên tận trung với vua, với nước, mang trong mình ý chí quyết đánh, quyết thắng được hun đúc trong khí quyển một vương triều được lòng dân. Nguyễn Huy Tưởng đã đưa nhân vật trung tâm Trần Quốc Toản cùng với lá cờ đỏ thêu sáu chữ vàng: Phá cường địch báo hoàng ân vào hai địa bàn chiến trận – đó là cuộc chiến diễn ra ở miền núi, với sự sát cánh cùng anh em Thế Lộc ở trại Ma Lục; và cuộc chiến diễn ra trên sông cùng với đại quân nhà Trần do Trần Nhật Duật chỉ huy, với Toa Đô… Trên hai không gian mang đặc thù cảnh quan của đất nước Việt Nam, hiện lên chân dung oanh liệt của một nhân vật lịch sử nhỏ tuổi xứng đáng là sự nối dài của Thánh Gióng trong cuộc chiến chống giặc Ân nhiều nghìn năm trước. Mở đầu truyện là giấc mơ của Toản bắt sống được tên sứ ngông nghênh, ngạo mạn Sài Thung; và kết thúc truyện là cảnh Toản cùng đại quân đánh bại Toa Đô trên sông, rồi lại tiếp tục cuộc rượt đuổi trên bộ với giọng văn tưng bừng, hào sảng. Viết về Trần Quốc Toản, cũng như về các nhân vật lịch sử khác thuộc các vương triều từ nhà Trần trở về trước, tư liệu lịch sử để lại rất ít ỏi. Ách đô hộ hà khắc mang tính hủy diệt văn hóa kéo dài suốt 20 năm của nhà Minh đã tạo nên những mất mát lớn, những khoảng trống lớn cho lịch sử nước ta. Ngoài chuyện Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản tức khí vì bị coi là trẻ con mà bóp nát quả cam, chuyện chàng ra trận với lá cờ đề sáu chữ, cùng hai câu thơ trong Đại Nam quốc sử diễn ca: “Hoài Văn tuổi trẻ chí cao  Cờ đề sáu chữ quyết vào lập công” thì chân dung Trần Quốc Toản được Nguyễn Huy Tưởng dựng lên, căn bản bằng sức tưởng tượng và sáng tạo trong một cốt truyện phong phú giàu các chi tiết đặc sắc. Tức là bằng hư cấu nghệ thuật. Nhưng sự hư cấu ở đây tuyệt không gợi cảm giác giả mà hướng đến tính chân thực nghệ thuật, tức là một sự thực có thể đã diễn ra như thế. Lá cờ thêu sáu chữ vàng được Nguyễn Huy Tưởng viết sau một quá trình cầm bút hai mươi năm. Cũng như L. Tolstoy với những trang cho thiếu nhi thật huy hoàng và trong trẻo vào cuối đời, Nguyễn Huy Tưởng đến với thiếu nhi khi đã là một tác gia hàng đầu về đề tài lịch sử, một cây bút tiêu biểu về Thăng Long - Hà Nội. Từ vị thế đó, và từ những tri thức và trải nghiệm sống, cộng với kinh nghiệm viết già dặn, Lá cờ thêu sáu chữ vàng, cùng với Tìm mẹ, An Dương Vương xây thành ốc, Kể chuyện Quang Trung… đã trở thành những tác phẩm kinh điển viết cho thiếu nhi trong kho tàng văn học Việt Nam hiện đại. Nhận xét về văn phong của Nguyễn Huy Tưởng trong mảng văn học cho thiếu nhi, nhà văn Nguyên Ngọc viết: “Ông viết kỹ từng câu, chọn từng từ, nương nhẹ như với những cánh hoa”. Nhận xét này thật đúng với tác phẩm Lá cờ thêu sáu chữ vàng, cuốn sách được Nguyễn Huy Tưởng viết đi sửa lại nhiều lần để đạt tới một văn phong cổ kính, trang nhã mà vẫn rất giản dị, tự nhiên. Giáo sư - dịch giả Trung Quốc Chúc Ngưỡng Tu đã chọn dịch Lá cờ thêu sáu chữ vàng sau khi dự Hội nghị quốc tế quảng bá văn học Việt Nam, được tổ chức tại Hà Nội vào đầu năm 2010. Trước hết phải nói đây là một sự lựa chọn rất đáng hoan nghênh. Nhưng tại sao ông lại quyết định dịch cuốn sách thiếu nhi này, của Nguyễn Huy Tưởng, mà không phải một tác phẩm nào khác trong nền văn học Việt Nam nói chung mà chắc chắn đã được không ít nhà xuất bản, tác giả, dịch giả Việt Nam giới thiệu tại hội nghị quan trọng ấy? Phải chăng là do trong truyện có nhân vật Triệu Trung, một viên tướng nhà Tống không chịu hàng phục nhà Nguyên Mông, đã sang nương nhờ Đại Việt và cùng quân Trần tham gia vào trận chiến Hàm Tử chống kẻ thù chung? Nhưng nếu tác phẩm của Nguyễn Huy Tưởng không có được những phẩm chất văn học nổi trội mà một cuốn truyện, nhất là truyện cho thiếu nhi đòi hỏi, thì vị tất đã lọt được vào mắt xanh người dịch, và – điều này còn quan trọng hơn, được bạn đọc quan tâm một khi được dịch ra? Mời các bạn Lá Cờ Thêu 6 Chữ Vàng của tác giả Nguyễn Huy Tưởng.
Đâu Phải Vì Yêu - Debbie Macomber
Debbie Macomber, tác giả của những bộ tiểu thuyết lãng mạn dài tập Trở lại phố Blossom, Khu vườn nhà Susannah, Một câu chuyện hay; Cửa hàng trên phố Blossom, Giữa những người bạn và Chuyện tình vịnh Cedar. Là một trong những cây bút hàng đầu hiện nay về dòng văn học giành cho phụ nữ. Debbie nổi tiếng nhất với khả năng tạo ra các nhân vật có sức chiến đấu và thổi hơi thở cuộc sống vào những câu chuyện của họ. Rút ra từ những trải nghiệm của bản thân và những người trong gia đình cũng như bạn bè, bà đã chứng minh khả năng nhìn thấu tâm hồn những người phụ nữ và khả năng diễn đạt trạng thái cảm xúc, các giá trị cũng như những lo lắng của họ. Trong bất kỳ cuốn sách nào của bà cũng thể hiện tính hài hước nổi bật. Thường xuyên xuất hiện trong bảng xếp hạng những cuốn sách bán chạy nhất với hơn 100 triệu bản in, tác giả giành được nhiều giải thưởng này đã ghi một mốc son chói lọi trong sự nghiệp của bà vào tháng 9 năm 2007 khi tập sách mới đây nhất về Chuyện tình vịnh Cedar, 74 SEASIDE AVENUE (Vì anh yêu em), cùng lúc chiếm vị trí số 1 trong bảng xếp hạng những cuốn sách bán chạy nhất của NEWYORK TIMES, USA TODAY, Publishers Weekly, Bookscan. Với những cuốn sách được dịch ra 23 thứ tiếng khác nhau, bà được độc giả trên toàn thế giới yêu mến. - Top 10 tiểu thuyết lãng mạn bán chạy nhất năm 2005 do Amazon.com bình chọn - Top 10 tiểu thuyết lãng mạn bán chạy nhất năm 2005 do BordersBooks.com bình chọn - Top 10 tiểu thuyết lãng mạn bán chạy nhất do BarnesandNoble.com bình chọn - Top những cuốn sách bán chạy nhất của New York Times, USA Today, Publishers Weekly, Wall Street Journal, Waldenbooks, Los Angeles Times, Chiacago Tribune, Seattle Times… Truyện mở ra tại Vịnh Cedar, một thị trấn mơ mộng nằm trên bờ vịnh cùng tên, nơi mỗi sớm nắng nhuộm màu hồng mặt nước và mỗi đêm hải đăng hắt ánh vàng trên những lớp sóng lô xô, Đâu phải vì yêu là vở nhạc kịch tình say đắm về 2 đôi uyên ương mà số phận dun dủi kéo họ lại chung một lối. Olivia Lockhart đã tưới lọ nước hoa hạnh phúc cho Ian và Cecillia Randall, rồi chính bản thân nàng cũng nhận được cho mình vài giọt trong veo, nồng nàn quyến rũ. Ian và Cecil tìm lại nhau nhờ sự thu hút xác thân mãnh liệt, còn Jack đến với Olivia vì nàng nổi bật trên muôn người. Vượt qua mọi đam mê bản năng giữa đàn ông và đàn bà, chàng giục ngã trước vẻ đẹp tâm hồn và cá tình nàng. Họ sẽ đi về đâu với những đam mê ấy? Bằng ngòi bút lãng mạn và lôi cuốn, Debbie Macomber từng bước xây dựng cả một thiên đường tình ái đầy thiết tha mời gọi giữa chốn nhân gian này... *** Những lời ca ngợi dành cho tiểu thuyết của Debbie Macomber “Thật thú vị khi phát hiện ra một nhà văn không hề dựa vào tình dục và những hành động báng bổ để viết nên những câu chuyện hấp dẫn tuyệt vời.” – G.Schmorleizt, một độc giả ở California đã vượt qua chứng trầm cảm nhờ đọc tiểu thuyết “Tiểu thuyết lãng mạng của Debbie Macomber rất mới lạ vì cách phát triển đầy thực tế, nhẹ nhàng và mãnh liệt của câu chuyện. Nó vươn mình trong thế giới tình yêu, một thế giới cho phép sự say mê, đắm đuối phát triển thành một thứ gì đó tồn tại mãi mãi và đủ đặc biệt để vượt qua mọi khó khăn thử thách!...” – CrystalRiviers.com “Những cuốn sách trong loạt truyện về Vịnh Cedar của Macomber giống như một hộp bánh nướng Krispy Kreme: nhừ và mịn nhưng cực kỳ ngon và càng ăn càng nghiện.” – Publishers Weekly “Đôi khi lối kể chuyện của Macomber khiến người ta trào nước mắt, có lúc lại khiến người ta mỉm cười.” – Newport News, VA, Daily Press *** Series truyện Chuyện tình Vịnh Cedar hiện đã xuất bản 9 cuốn: 1. Đâu phải vì yêu​ 2. Ngày mai không hẹn trước 3. Tìm lại tình yêu 4. Có anh trong đời 5. Vẫn mãi yêu anh 6. Đánh thức trái tim 7. Vì em yêu anh 8. Hơn cả yêu thương 9. Giáng sinh ngọt ngào *** Vài lời cùng độc giả Bạn đọc thân mến, Chào mừng đến với vịnh Cedar, Oa-sinh-tơn. Tôi hy vọng các bạn thích thú khi gặp gỡ những người bạn mới của tôi. Và tôi hy vọng rằng khi gặp, các bạn sẽ cảm thấy dễ chịu với Olivia, Grace, Charlotte, Cecilia, Jack, Ian, Seth và tất cả những người khác như những người hàng xóm nhà bạn. Các bạn thấy đấy họ là những người bạn của tôi. Vân không hẳn vậy. Vịnh Cerda nằm ở thị trấn cảng Orchard quê hương tôi, Oa-sinh-tơn, nhưng các nhân vật và câu chuyện của họ hoàn toàn là hư cấu từ trí tưởng tượng của tôi. Tuy nhiên, nếu ai đã từng bước qua những con phố của cảng Orchard, sẽ đều nhận ra những tòa nhà và những sự kiện tôi đã miêu tả. Thư viện, Tòa thị chính mới, và cả cuộc thi nhại tiếng chim Hải Âu đều là một phần và là hiện thực cuộc sống ở cảng Orchard. Sau khi viết những câu chuyện liên quan đến Alaska, Texas và Bắc Dakota, tôi đã nhận được hàng chục lá thư với những gợi ý về các cốt truyện ở những thành phố khác. Và trong khi quyết định, tôi chợt nhận ra chẳng có nơi nào tôi có thể yêu thích hơn bang Oa-sinh-tơn xinh đẹp quê hương tôi. Trong suốt những năm qua, mọi thị trấn hay thành phố nhỏ tôi từng tạo ra đều là một phần cuộc sống tôi từng biết - cuộc sống chính tôi từng trải nghiệm khi kiếm tiền nuôi cả gia đình tôi ở ngay cảng Orchard này. Với xê-ri truyện về vịnh Cerda, tôi đã chính thức đưa cuộc sống này lên trang giấy. Trước khi các bạn kịp hỏi liệu Vịnh Cerda là một tác phẩm bộ ba hay là một xê-ri tám tập truyện khác, tôi sẽ kể cho các bạn nghe. Câu trả lời là tôi không biết. Để kể hết những câu chuyện, sẽ như bao nhiêu cuốn khác thôi. Lúc nào cũng vậy, mục tiêu của tôi là giúp các bạn cầm cuốn sách đầu tiên hay cuốn thứ mười lên và ngay lập tức trải nghiệm cảm giác mình được chào đón. Vì vậy, xin hãy nán lại và cùng thưởng thức một chút lãng mạn, một chút huyền bí và một chút từng trải xuyên suốt cả tác phẩm. Hãy nán lại và cùng làm quen với cả cộng động những người bạn mới. Tôi biết, tất cả bọn họ đều đang náo nức muốn được tự giới thiệu mình với bạn. *** Cecilia Radall đã nghe kể về những người, mà nếu cho họ một điều ước, họ sẽ muốn sống lại chính cuộc đời của mình. Nhưng cô thì không muốn như vậy. Cô hài lòng với giai đoạn mười hai tháng kể từ khi cô bước sang tuổi hai mươi hai. Mười hai tháng đã trôi qua. Tháng Giêng vừa rồi, ngay sau Tết, cô đã gặp Ian Jacob Randall, một anh chàng hải quân, một thủy thủ tàu ngầm. Cô đã phạm phải một sai lầm nghiêm trọng - đó là để mình dính bầu. Rồi cô làm rối tung mọi chuyện lên bằng một sai lầm nữa, là làm đám cưới với anh chàng này. Đó là lỗi thứ ba và từ đó, cô ngày càng lún sâu hơn vào những sai lầm nối tiếp nhau. Cô thật ngốc nghếch, ngây thơ trong tình yêu - và tệ hơn cả - là cô quá lãng mạn. Bởi thế mà anh chàng hải quân và cuộc sống của anh ta đã nhanh chóng hấp dẫn cô. Cô con gái nhỏ Allision Marie của họ bị sinh non trong khi Ian đang công tác ngoài biển. Đã thế cô bé còn bị chứng tim bẩm sinh. Đến khi Ian trở về, Allision Marie đã qua đời. Lúc người ta hạ chiếc bình đựng tro hỏa táng nhỏ xíu của con gái mình xuống đất ướt lạnh lẽo của vùng Tây bắc Thái Bình Dương, Cecilia cô đơn đứng nhìn, gió mưa không ngớt táp vào mặt cô rát buốt. Cô buộc phải có những quyết định giữa sự sống và cái chết mà chẳng có lời khuyên nào của gia đình hay sự động viên an ủi của chồng mình. Mẹ cô sống ở vùng bờ biển phía Đông và vì có một cơn bão tuyết nên bà không thể bay tới Oa-sinh-tơn. Cha cô ủng hộ cô theo cách của ông - và nó quá ít ỏi. Ý tưởng “có mặt ở chỗ con gái” của ông chỉ là gửi cho cô tấm thiệp, và viết vài dòng bày tỏ sự cảm thông sâu sắc trước nỗi mất mát lớn lao của cô. Biết bao đêm cô thẫn thờ choáng váng và khóc ròng bên chiếc nôi trống của con, cô yêu đứa con bé bỏng tội nghiệp của mình biết bao. Những người vợ hải quân khác cố an ủi cô nhưng Cecilia không cảm thấy thoải mái với người lạ. Cô từ chối sự cảm thông giúp đỡ và tình bạn của họ. Vì mới ở vịnh Cerda trong một thời gian ngắn nên cô chưa kịp có bạn bè thân thiết. Do đó cô càng cảm thấy mình cô đơn trống vắng hơn. Khi Ian trở về, anh cố giải thích sự chậm trễ của mình là do các thủ tục trong ngành hải quân. Nhưng Cecilia đã quá mệt mỏi rồi. Chỉ có một hiện thực đau đớn tồn tại trước mắt cô: con gái cô đã chết. Chồng cô không thể biết và không thể cảm nhận được những gì cô đã phải chịu đựng trong một thời gian anh đi vắng. Vì anh ở trên một chiếc tàu ngầm hạt nhân nên trong suốt thời gian làm nhiệm vụ, tất cả các cuộc liên lạc chỉ được giới hạn trong những chữ “các bức điện từ gia đình”. Nhưng cũng chẳng thể làm được gì vì đúng thời điểm đó, con tàu lại bị kẹt dưới một mỏm băng. Cô đã báo cho anh về sự ra đời và cái chết của Allison. Cô đã viết về nỗi đau giằng xé trái tim mình trong những tin nhắn ngắn ngủi đó mà chẳng hề biết rằng chúng bị nhân viên hải quân kiểm soát chặt chẽ. Vì vậy mà mãi đến khi chuyến đi mười ngày kết thúc, viên sỹ quan trên tàu mới chuyển thông tin đến anh. Anh không biết, Ian khẳng định nhiều lần như thế. Chắc chắn là cô không thể buộc anh phải chịu trách nhiệm rồi. Tuy nhiên cô vẫn nghĩ là anh cũng có lỗi trong tất cả mọi chuyện. Mặc dù có thể điều đó là không công bằng, nhưng Cecila không thể tha thứ cho anh. Bây giờ cô muốn chấm dứt. Chấm dứt cuộc hôn nhân của cô, chấm dứt những cảm giác tôi lỗi và hối tiếc, chỉ duy nhất là chấm dứt. Cách trốn thoát duy nhất là ly dị Ian. Ngồi ở hành lang gần phòng xử, cô cảm thấy quyết tâm của mình mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Chỉ cần một nhát búa dứt khoát của người thẩm phán là cô có thể bỏ lại sau lưng cơn ác mộng đã qua. Và cuối cùng, cô sẽ quên rằng cô từng gặp Ian Randall. ... Mời các bạn đón đọc tập đầu tiên của bộ sách Chuyện tình Vịnh Cedar: Đâu Phải Vì Yêu của tác giả Debbie Macomber.