Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tạ Tiểu Nga Truyện - Nhiều tác giả

Tuyển tập truyện ngắn liêu trai Tạ Tiểu Nga Truyện này gồm có: Yểu nương tái thế, Kê kê kê dậu, Thôi vĩ, Triệu cơ, Điền phụng kiều, Kim trúc tự, Kính nhi, Hồng tuyến, Hóa lang nhi, Bình ẩn tử, Mẫn dự, Thiều tú, "Tô huệ và “Chức cẩm hồi văn thi”, Đàm cửu, Liễu thanh khanh, Ngân châm, Phấn lang, Phùng hiệp, Tạ tiểu nga truyện, Thuý thuý truyện, Tí thị, Tu văn xá nhân truyện, Vĩnh châu dã miếu ký. *** YỂU NƯƠNG TÁI THẾ 窅 娘 再 世 Tác giả : Vương Thao Bản dịch cuả : Phạm Xuân Hy Một ngọn đèn xanh lửa đóm, hắt hiu tranh sáng với loài ma, Bao phen dặm cát bụi hồng, tất cả khêu cười cho lũ quỷ Liễu Tuyền Cư Sĩ BỒ TÙNG LINH Chu Vị Hoàng tự là Bích Thần, hiệu là Trọng Du, người Kim Lăng, vốn dòng dõi thế gia đại tộc, nhưng đến đời Hoàng thì gia đình bắt đầu sui vi sa sút, trở thành bình dân. Nhưng Hoàng vẫn tự coi là con nhà gia thế, thường tỏ ra ngạo mạn, khinh đời. Gặp lúc giặc cờ đỏ Hồng Tú Toàn nổi dậy phản loạn, vây hãm Kim Lăng, rồi biến nơi đó thành kinh đô, làm thành hang ổ của giặc, trong gần mười ba năm. Ngôi nhà của gia đình Sinh, vốn rất to lớn rộng rãi, từng bị một viên tướng của Hồng Tú Toàn chiếm làm chỗ cư trú. Đến khi giặc bị quét sạch, quan quân tiến vào Kim Lăng, ngôi nhà cũ ấy lại trở thành chỗ ở của quan quân. Bấy giờ, những người trong gia đình Sinh phải bỏ xứ phiêu linh tứ tán. Riêng chàng, một thân một mình, bôn đào đến mãi vùng Trấn Nam xa xôi. Mười năm sau, khi Sinh trở về Kim Lăng, thì ngôi nhà bị bỏ hoang, không ai ở, cửa đóng then cài đã lâu, nên Sinh phải nhờ người cắt bỏ tạp thảo, gai góc, gạch ngói, quét dọn bụi bặm cho sạch sẽ, rồi thuê thợ tô vôi làm mới lại. Nhưng nhà rộng người thưa, cứ đêm đêm, thường thấy lân tinh đom đóm lập lòe , bay lên bay xuống.Từ những ngõ ngách tối tăm, hay những góc nhà vắng vẻ, luôn vẳng nghe có tiếng chồn kêu cú hú, khiến gia nhân sợ hãi không ngủ yên được. Nhưng riêng Sinh chẳng sợ hãi gì. Một đêm, chàng vừa chợt tỉnh dậy, thình lình cảm thấy có người luồn tay vào trong chăn của mình, nghe giá băng lạnh lẽo, bừng mắt ra nhìn, té ra là một con a hoàn đi chân đất. Mặt mày nhem nhuốc, xấu xa, bèn quát đuổi đi : -Tay lạnh như tay ma, dám đến mó vào người ta, ngươi không biết tự ngượng à ? Con a hoàn đỏ mặt, xấu hổ, lẳng lặng tự ý thoái lui, ra đến ngoài cửa, miệng khe khẽ lẩm bẩm : -Đáng lẽ để cho cô ta tự đến, xem anh chàng có còn gối cao ngủ yên không ! Sinh biết là bị ma trêu, tuy thế, cũng chẳng sợ gì . Đứa a hoàn đi khỏi một lúc, Sinh thấy có người vén rèm bước vào, nói : -Chồng con đứa nào, dám cả gan dọa nạt đứa tỳ nữ dại khờ nhà người ta vậy ? Sinh nhìn người mới đến. Thì ra là một nữ lang, tuổi khoảng mười bẩy mười tám. Đôi lông mày vừa cong vừa đen, tú lệ như mày ngài. Mái tóc búi cao tròn ở trên đỉnh đầu, đẹp như chim phụng. Sinh tìm áo quần để mặc, tính đứng dậy, thì nữ lang đã đến trước giường, cản lại, rồi ngồi ghé xuống bên cạnh, nói : -Trời lạnh như thế này, chi bằng quấn chăn, tựa gối, đối diện nhau mà tán gẫu ! Sinh hỏi : -Nửa đêm khuya vắng, ngoài trời tuyết đổ, sao nàng lại lặn lội giá rét mà đến đây ? Nữ lang mắt rươm ruớm nước mắt, đáp : -Vừa rồi cãi nhau với người dì, nên tức giận bỏ nhà ra đi. Bụng còn đang hoang mang, lo không biết đêm nay ngủ chỗ nào, thì vừa lúc đi qua nhà chàng, thấy khe cửa còn le lói ánh đèn, biết là chàng chưa ngủ, nên vào quấy quả một chút. Lại hỏi : -Cái con a hoàn xấu xí vừa rồi có phải tay chân của nàng đấy không ? Nữ lang trả lời : -Đó là đứa đầu bếp, lo việc cơm nước cho người dì của thiếp đấy mà! Khi hỏi đến tính danh, tịch quán, thì nữ lang tự giới : -Thiếp họ Phùng, tự là Hương Lân, người gốc Dương Châu, song thân đều đã qua đời cả rồi, vì thế phải đến sống nhờ ở nhà người dì. Tối qua người chú dượng xuống xóm Tầm Dương, thiếp lấy lời phải khuyên bảo người dì, lại bị người dì lăng nhục, vì thế mà bỏ nhà ra đi . Sinh gan hỏi đầu đuôi. Đáp : -Truyện phòng the khuê các, chẳng đáng kể cho chàng nghe làm gì ! Hai người lan man truyện trò hồi lâu, rồi cùng bông lơn hài hước.Lát sau, Sinh lần tay vào đôi gò bồng đảo của nàng, thấy trơn nhẵn, tròn trịa, đầy đặn, mà mềm mại khác hẳn những cô gái khác. Bèn đùa: -Đây chính là ngọn đậu khấu mới nhú vào đầu tháng hai ! Nữ lang đỏ bừng mặt, như có vẻ không cầm được lòng. Sinh lại bảo : -Đêm nay khanh không có chỗ về, chi bằng ở lại đây, cho ta khỏi cảnh gối lẻ chăn đơn, bớt cô tịch. Nói rồi thay nàng cởi bỏ giây quần, yếm thắm, hài vớ. Nữ lang đẩy ra, không chịu.Sinh càng ghẹo thêm. Cuối cùng chàng nắm được chân nữ lang, thoát được đôi hài của nàng ra. Ngắm nghía , thấy mũi hài nhỏ, nhọn như mũi trủy thủ, còn đế hài được làm bằng một thứ gỗ thơm, điêu khắc rất là tinh sảo, bên trong để mạt sạ hương, mùi thơm nhuốm đầy tay, khiến Sinh tâm thần mê mẩn, tiêu hồn. Đêm đó, Sinh cùng nữ lang yến nỉ , oanh non, tỉ tê tâm sự, tận tình mây mưa như điên, mặc cho trăng tà dòm ngoài song cửa. Rồi gối đầu tay nhau mà ngủ, mãi cho đến lúc mặt trời đã lên cao, lúc nào không biết. Nữ lang dậy trước, đánh thức Sinh, nói: -Gớm ! Ngủ quên cả trời sáng. Nói xong, lấy quần áo mặc vào người, hẹn Sinh buổi tối lại đến. Sinh không chịu, nắm vai nàng níu lại, không cho đi.Từ đấy, nữ lang ngụ hẳn tại nhà Sinh, trông nom cơm nước, thay Sinh mua bán chi thu. Nghiễm nhiên như vợ chồng. Sinh vốn chưa lấy vợ, bấy giờ bèn đặt một bữa tiệc thịnh soạn, mời khắp họ hàng, bè bạn đến dự, rồi bảo nữ lang ăn mặc hoa lệ rực rỡ, đi ra chào khách. Khách khứa ai cũng tấm tắc khen nàng kiều diễm, đẹp như tiên nữ. Ở được ít lâu, một hôm giữa nửa đêm, Sinh thấy nàng nức nở sụt sùi, lấy làm kinh ngạc, cật hỏi duyên cớ. Nàng đáp : -Hôm nay, thiếp đứng chơi ngoài cửa, thì con nữ tì ngày hôm trước đi qua, nó thấy thiếp, đột nhiên tiến đến hỏi thăm thiếp, báo cho thiếp là người dì của thiếp tìm thiếp đã lâu, nay đã biết nơi chỗ thiếp ở, sớm chầy thì cũng đến đây bắt về, thiếp ngại vì thế mà sinh ra kiện tụng. Sinh nói : -Truyện đó không hề gì ! Khanh không còn cha mẹ, thân do mình làm chủ, dù có ăn ở nhà người dì, nhưng đâu phải bà ấy đã nuôi khanh từ bé cho đến lớn đâu. Giả sử có kiện cáo, cũng chẳng hợp lý. Từ lúc khanh đến nhà ta, ta đã sớm lo liệu trước rồi. Có sẵn người mai mối làm chứng, và giá thú làm bằng. Dẫu người dì của khanh có một trăm lưỡi, cũng khó mà biện bác nổi. Nữ lang nói : -Tuy rằng như thế, nhưng sớm lánh đi thì hay hơn.nay thiếp chỉ nhắc đến tên dì ấy mà lòng đã sợ, huống chi là gặp mặt. Thiếp có người chú làm quan ở Võ Xương, mình đến đó nương nhờ chăng ? Sinh vốn tính ham thích viễn du, nay nghe nàng nói thế, bè nhận lời, rồi sắm sửa hành trang lập tức lên đường ngay. Chừng đến Tô Châu, Sinh buộc thuyền đậu ở ngoài cửa Kim Sương Môn.Ban đêm, trên không trăng vừa mới mọc, sáng vằng vặc.Nữ lang dựa bên sông cửa, chăm chú nhìn về phía xa.Chỉ thấy mây nước tiếp liên trên dưới một mầu.Một chốc, có một chiếc thuyền lướt sóng thừa phong chèo đến, đậu sát gần thuyền của Sinh.Rồi có người đưa danh thiếp sang, muốn được gặp Sinh.Chàng thấy lạc khoản đề tên là " Lý Trùng Quang", bụng lấy làm lạ, vì chàng không hề quen biết gì người này, tại sao lại gửi danh thiếp cho chàng thế này.Sinh tính từ tạ. Nhưng khách đã ngang nhiên bước lên thuyền, đi thẳng vào trong khoang. Nữ lang vội vã lẩn vào phía sau. Khách chắp tay hướng Sinh hành lễ. Chàng thấy khách mình khoác áo da điêu, đầu đội mũ da chồn, phục sức hết sức hoa lệ, sang trọng. Biết không phải người thường. Bèn mời ngồi cùng nhau đàm đạo. Khách tỏ ra người học rộng hiểu nhiều, khi bàn luận văn thơ thì dẫn cổ trưng kim, phân tích ngọn nguồn, càng khiến Sinh thêm bội phục sự uyên bác của khách. Hai người truyện vãn mãi cho đến lúc đuốc tàn, trời gần sáng, khách mới từ giã ra về. Ngày hôm sau, bỗng gió to mưa lớn, thuyền bè đều phải đậu lại, không đi được, Sinh bèn sang thuyền của khách để đáp lễ. Khách thấy Sinh đến, tỏ ra rất mừng, nói: -Mưa to gió lớn như thế này, được huynh quá bộ đến chơi, thật cũng đỡ tịch mịch ! Rồi sai bầy tiệc khoản đãi. Sinh thấy đồ ăn thức nhắm đều là những thứ sơn trân hải vị, lạ lùng, hiếm quý. Trong lúc ăn, khách bỗng nhắc đến những sự hưng vong của các triều trước, miệng giảng tay khua, như đích thân mục kích sự trị loạn từ thời Ngũ Đại. Rượu được vài tuần, khách truyền gọi bọn ca nữ ra hát làm vui trợ hứng, và bảo với Sinh rằng : -Rượu mà cứ uống tì tì thì không thú, không phải cách đãi bạn quý ! Khách nói xong, Sinh đã thấy một bọn ba bốn ca nữ đi ra. Cô nào cũng mắt xanh, răng trắng, đều thuộc loại hương sắc xinh đẹp.Riêng cô đi cuối cùng, ôm đàn tì bà, thì diễm lệ hơn cả. Họ cùng nhau cất tiếng đồng ca. Thanh âm cao vút như hành vân lưu thủy. Lại có lúc ròn rã như tiếng xé lụa. Sau đó, thì chuyển sang độc tấu tì bà. Tiếng đàn du dương lên xuống, lúc trầm lúc bổng, bi ai quyến luyến, khiến người nghe cũng hi hu không cầm được lệ. Khách bảo với Sinh : -Đây là khúc “Niệm gia sơn phá”, nhắc lại truyện cũ mà nát ruột đau lòng ! Sinh hỏi : -Đệ nghe nói khúc hát này do Nam Đường Hậu Chủ sáng tác, các ca nữ của huynh vì sao lại học được ? Khách đáp : -Đệ nói ra, e làm huynh sợ ! Đệ đây chính là Nam Đường Hậu Chủ Lý Dục. Tuy chết đã cả ngàn năm, mà hồn phách chưa tan, nên vẫn thường xuống rong chơi trần thế, cho tiêu hết mối hờn uất trong tim. Rồi lấy tay chỉ vào người cơ thiếp ngồi cuối, giải thích : -Cô này là cung nữ Lưu Châu, thiên tính rất thông minh, được đệ yêu quý lắm ! Rồi lại chỉ người cơ thiếp mặc áo tím, nói: -Còn đây là Bảo Nghĩa Hoàng A Yêu, cùng bị bắt đưa về miền Bắc chung với đệ, rồi chết ở Đại Lương, đến nay nghĩ lại, lòng còn thương tiếc. Sinh tử tế nhìn kỹ, thấy nàng có sắc đẹp kinh hồn. Cử chỉ lại phong lưu tao nhã. Dung mạo diễm lệ. Đôi mắt long lanh như hàm tiếu, đúng là một tuyệt thế giai nhân. Sau đó, khách lại giới thiệu đến hai người cơ thiếp khác, ngồi ở mé ngoài : -Còn đây là Thu Thủy và Khánh Nô. Lúc đó, Sinh nghe có tiếng ca nữ thổi bài "Thủy Long Ngâm". Âm thanh bay bổng lên không trung, nghe thánh thót, du dương, tựa hồ như làm cho trăng mờ mây đọng. Khách nói : -Đó chính là những giọt châu của nhà họ Kiều đấy ! Sinh hỏi : -Nghe đồn Lý huynh còn có người mỹ nữ sủng ái tên là Yểu Nương, nay ở đâu ? Đáp : -Nàng nay đã xuống cõi trần, làm vợ huynh để trả cái nghiệt duyên phong lưu năm trăm năm trước, nên dẫu là người yêu dấu cũ của đệ, cũng không tiện gọi nàng ra đây, e nẩy sinh đố kỵ. Sinh nghe lời khách nói thế, lòng cảm thấy ngượng nghịu, bất an. Nhưng khách đã cười, bảo : -Giang sơn còn chẳng giữ nổi, huống hồ là những cơ thiếp ? Bất quá, Yểu Nương nay thuộc về huynh cũng chỉ là tạm thời, chứ không phải việc trường cửu. Xin huynh hãy yêu thương nàng, đừng để cho thời gian đẹp đẽ trôi đi mất. Nói xong, sai Lưu Châu rót rượu cho Sinh, rồi tiếp : -Mời huynh cạn hết chén này, xin mừng huynh đã được "thiên cổ mỹ nhân", người đẹp ngàn năm cũ Sinh nâng chén uống một hơi cạn. Lần lượt sau đó, từ Bảo Nghĩa trở xuống, các nàng cơ thiếp của Hậu Chủ, luân lưu rót rượu mời Sinh. Chàng đều không từ chối. Sinh hỏi khách : -Nghe đồn Bảo Nghĩa có tài thư pháp, đạt đến chỗ tuyệt diệu của họ Chung, họ Vương, chuyên lo việc văn phòng tứ bảo, chẳng hay đệ có thể thưởng thức cái tài đó của nàng chăng ? Rồi lấy ra một tấm lụa mộc để Bảo Nghĩa viết chữ. Khách sai thị nữ mang nghiên mực, bút lông ra. Bảo Nghĩa ngồi đối diện với Sinh, vung tay múa bút, khoảnh khắc chữ viết đầy trên bức lụa, sau đó dùng ấn ngọc in lên một nét son hổng tươi rói. Sinh ngồi uống một mạch từ giờ ngọ đến giờ dậu, chừng cũng đã có vẻ hơi túy lúy, nhân sợ thất lễ, khước từ không uống thêm nữa. Khách bèn bảo Lưu Châu ca tiễn hành. Tiếng ca êm ái dịu dàng, lời lời uyển chuyển, dư âm quấn quýt xoay vần bất tuyệt. Khách giải thích cho Sinh : -Hai khúc hát này do Chiêu Huệ Hoàng Hậu sáng tác, tên gọi là "Yêu Túy Vũ " và "Hận Lai Trì ", may nhờ có Lưu Châu thuộc lòng, bằng không chỉ có trên thiên đình, đâu còn được lưu truyền chốn nhân gian nữa. Nói xong, khách nắm tay Sinh để từ biệt, nói: -Từ đây u minh hai nẻo, không biết bao giờ mới lại gặp lại nhau, xin huynh chớ đem chuyện này mà viết thành truyện, e làm người nghe kinh hãi. Rồi sai người tiễn Sinh xuống thuyền, gửi theo hai cái rương để tặng Yểu Nương, lại dặn dò : -Nhớ nói với Yểu Nương hãy phục thị huynh cho tử tế, đừng hoài niệm gì đến đệ nữa. Tặng vật trong hai rương này tuy nhỏ bé, nhưng đủ để sống suốt đời không hết. Cả năm nàng cơ thiếp của khách cũng đều đem tặng vật ra cho, và ân cần gửi lời thăm hỏi đến Yểu Nương. Lúc Sinh về đến thuyền của mình thì chiếc thuyền của khách cũng vội vã khởi hành. Mái chèo rẽ sóng như phi. Chớp mắt không còn thấy hình tích chi nữa. Sinh đem truyện kỳ dị vừa gặp tường tận thuật lại cho Yểu Nương nghe.Nàng cảm thấy mơ hồ như từ một kiếp xa xôi nào khác, lại còn trách Sinh đặt điều bịa chuyện để đánh lừa nàng. Sinh bảo : -Lời nói còn có thể bịa được, chứ những tặng phẩm này đâu có thể ngụy tạo ra được ! Rồi mở rương ra coi.Thấy trân châu bảo vật chất đầy, chẳng biết gọi tên là gì. Sinh bèn đem một vài vật đến một tiệm kim hoàn ở cổng Ngô Môn bán được ngàn lạng. Lúc hai người đến Hán Khẩu, gặp dịp một viên kinh quan trong triều tìm mua một viên ngọc lớn, đã từng đến tận Quỳnh Đảo Tân Châu mà không mua được. Sinh đem ngọc ra cho coi.Viên kinh quan ngạc nhiên sửng sốt khen thầm, liền bỏ năm vạn tiền ra mua.Tuy thế, tặng vật của khách cho Sinh cất dấu vẫn còn nhiều. Chàng đem một số tiền lớn đến Hán Khẩu thuê nhà cửa và mở tiệm buôn bán ở nơi thị tứ kiếm lời. Sắp xếp nhà cửa xong xuôi, Sinh mới đến Võ xương để tìm người chú của Yểu Nương, nhưng người chú của nàng mấy hôm trước đó vì việc công đã đi Dự Chương rồi. Từ khi, Sinh bỏ nghiệp nho để làm thương mại, buôn bán lời một thành ba, trở nên giầu sang sung túc, ăn uống hưởng thụ ngang với bậc công hầu. Nữ tì, nam bộc thường đầy nhà. Sinh lại đem tiền đến Tô Châu mua bốn người tì nữ nữa, đều thuộc hạng nhan sắc diễm tuyệt về nhà nhờ nhạc sư truyền dậy ca hát, và sáng chiều học thêm chữ nghĩa, vì thế họ hiểu thêm về âm luật, kinh sử. Yểu Nương vốn biết chữ, nay lại biết ngâm thơ làm phú, cùng chàng xướng họa, khiến Sinh tâm mãn ý túc, tự nhủ : -Bây giờ ta mới thực hiện được nguyện ước ngày xưa, thật là không ngờ.Tuy thế, ngôi nhà cũ không thể không tu sửa, để sau này về già còn có chỗ an dưỡng. Rồi sai một người nô bộc tài giỏi mang tiền về Kim Lăng để sửa lại ngôi nhà cũ cho thật to lớn. Một hôm, Sinh đến ngao du ở Hoàng Hạc Lâu, đi mỏi chân, bèn ngồi xuống một hiên đá nghỉ ngơi, thấy trước mặt có một thiếu phụ quý phái , khoảng bốn chục tuổi, ngồi trong một chiếc kiệu đi tới.Thiếu phụ trông vừa xinh tươi vừa phong lưu văn nhã, đẹp chẳng kém chi nàng ái phi họ Từ của Lương Vũ Đế. Đằng sau, lại có đám a hoàn theo hầu.Trong đó, Sinh thấy có cả đứa nữ tì xấu xí ngày trước. Nó dường như cũng nhận ra chàng, nên đến bên người thiếu phụ ghé tai thì thào mấy lời.Thiếu phụ tiến đến trước mặt Sinh, vén áo nghiêng mình thi lễ, nói : -Chàng là rể bên ngoại nhà ta, ngày trước lấy cháu gái ta, sao không cho người mai mối đến hỏi, nhà cửa ở đâu, ta có thể ghé thăm cho biết được chăng ? Sinh nghe hỏi, lòng cảm thấy ngượng ngùng, không biết trả lời ra sao, thì thiếu phụ đã sai bộc tòng mang kiệu đến, cùng Sinh đồng hành. Lại bảo với Sinh : -Tệ xá cũng gần đây thôi, xin mời chàng ghé thăm trước, sau này họ hàng qua lại, cũng dễ nhận ra cửa nẻo. Đi chừng hơn nửa dậm, thì phu kiệu dừng lại. Sinh thấy nhà cửa nguy nga.Rõ ra là thế gia đại tộc.Bên trong cửa có bốn năm người đàn ông đứng sẵn để chào đón khách, Sinh bước lên đại đường cùng thiếu phụ tương kiến. Chàng cung kính lấy hàng tiểu bối mà hành lễ. Thiếu phụ dẫn chàng vào trong nội thất, rồi sai tì nữ gọi người con gái là Tú Cô ra. Khoảnh khắc, nghe có tiếng bội ngọc leng keng. Rồi mùi sạ lan thơm lừng xông vào mũi. Một người con gái dáng đẹp như ngọc, tuổi khoảng hai tám, bước đến bên cạnh Sinh. Người thiếu phụ bảo : -Đây là con gái ta, hai người có thể gọi nhau bằng anh em cũng được ! Sinh liếc mắt nhìn, thấy hoa nhường nguyệt thẹn, tuyệt thế giai nhân.Sau đấy, thiếu phụ sai bầy tiệc khoản đãi Sinh.Chàng được cả hai mẹ con song song bồi tọa, lần lượt rót rượu khuyên mời. Chàng cũng tận tình đánh chén no say. Người con gái đưa sóng mắt như nước hồ thu, liếc nhìn Sinh rồi dùng những ngón tay thon nhỏ của nàng véo vào tai chàng nói đùa : -Này ! Tớ mời mà không uống thì tớ đổ rượu cho đấy . Sinh mỗi lúc mỗi cảm thấy thần hồn điên đảo, bất giác say mèm, rồi nằm gục xuống tràng kỷ. Mãi cho tới lúc trời tối lờ mờ mới tỉnh lại.Chàng thấy gió lạnh như kim châm, sương rơi đầy đất, bóng trăng chìm bên vách núi.Trong nội thất, cả người lẫn vật đều không thấy đâu, còn chàng, té ra đang nằm trên một nấm mồ hoang, mới biết là gặp ma, bèn thất thểu tập tễnh trở về nhà. Chàng bước vào trong buồng tìm Yểu Nương, nhưng nàng cũng biến đâu mất, chỉ thấy trên bàn có một lá thư từ giã. Sinh buồn chán đến phát cuồng, xuống tóc, bỏ đi vào núi . Rốt cuộc, chẳng ai biết cuộc đời Sinh sau này ra sao cả. ___________________________________________________________________________ Vài hàng về tác giả : Vương Thao (王 韜 ) Vương Thao (1828-1878) tự là Trọng Thao, hiệu là Thiên Nam Độn Tẩu, người Trường Châu tỉnh Giang Tô, là học giả và nhà văn thời Thanh Mạt.Năm 18 tuổi ông đỗ tú tài, sau đo thi nhiều lần không đậu, ông bèn bỏ thi cử.Năm 22 tuổi , cha ông qua đời, ông đến Thượng Hải làm trong Mặc Hải Thư Quán với một người Anh trong ba chục năm.Nhân thế đươc tiếp xúc rộng rãi với các tư tưởng Tây phương. Khi xẩy ra cuộc nổi dậy của Thái Bình Thiên Quốc, ông từng nhiều lần viết thư cho nhà đương cuộc Thanh triều hiến phương lược " bình tặc ". Năm 1862, ông về Tô Châu thăm mẹ bịnh, rồi đổi tên là Hoàng Uyển, đề nghị với quân đội Thái Bình Thiên Quốc mượn thế lực ngoại quốc để mưu đồ trung nguyên .Khi quân Thanh chiếm Tô Châu, tìm được bức thư kiến nghị ấy của ông, ghép ông vào tội thông phỉ và ra lệnh bắt, may nhờ người Anh giúp ông trốn được ra Hương Cảng. Sau đó theo người Anh sang Anh Quốc, phiên dịch các thư tịch cổ điển, nhờ đó ông có cơ hội đi du lịch các nước Pháp, Anh, Nga, rồi trở về Hương Cảng làm chủ bút báo Tuần Hoàn Nhật Báo, đề xướng biến pháp, đi trước cả Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu cả chục năm. Ông mất năm 1878, để lại một số tác phẩm như : -Thao Viên Thi Văn Tập -Độn Quật Lan Ngôn -Tòng Ẩn Mạn Lục -Tòng Ẩn Tỏa Thoại Những truyện trong tác phẩm Tòng Ân Mạn Lục được viết theo thể tài chí quái, bằng lối văn ngôn như Liêu Trai Chí Dị, ca tụng những cuộc tình chung thủy, đề cao nam nữ tự do luyến ái, chỉ trích những tệ nạn hủ bại của lớp quan lại phong kiến đương thời.Văn pháp lưu loát, ngôn từ tế nhị, tình tiết cố sự uyển chuyển khúc triết chen lẫn với nhiều bài thơ hay. Một số truyện trong Tòng Ẩn Mạn Lục đã được chúng tôi dịch và in trong Hậu Liêu Trai và Thiếp Bạc Mệnh trước đây. Chú thích : Yểu Nương (窅 娘) : Yêủ Nương là tên của một nàng cung nữ được Nam Đường Hậu Chủ Lý Dục.Yểu Nương chẳng những có dáng người tha thướt, lại tài nhẩy múa.Nàng dùng vải bó cho chân nhỏ bé và cong như cung trăng.Nam Đường Hậu Chủ Lý Dục làm một cái đài hoa sen bằng vàng, cao sáu tấc, trên để những báu vật, và các loại hoa đẹp để cho nàng múa, trông phiêu nhiên như tiên nữ, rất được Hậu Chủ yêu thương sủng ái, và dùng mấy chữ :"Tam thốn kim liên 三 寸 金 蓮) để tán thưởng nàng. Sau nầy, trong thi văn Trung Quốc thường dùng chữ "Kim Liên " để hình dung đôi bàn chân nhỏ của phụ nữ.Có thể nói tục bó chân của người đàn bà Trung Hoa bắt đầu từ Yểu Nương, rồi lan truyền ra dân gian, đời này sang đời khác, được sùng thượng đến nỗi người đàn bà nào không có bàn chân nhỏ, thì bị đàn ông chê ghét, có thể không lấy được chồng. Hủ tục bó chân nầy phải chờ đến đời Khang Hy, năm 1664, mới ra lệnh cấm.Nhưng cấm lệnh của Khang Hy cũng chỉ áp dụng trong một thời gian ngắn, thì bị phe bảo thủ chống đối, nên năm 1668, Khang Hy theo lời tâu của Bộ Lễ rút lại lệnh cấm. Đến cuộc cách mạng Tân Hợi, hủ tục bó chân của phụ nữ Trung Hoa mới thực sự bị tiêu diệt. Kim Lăng (金 陵 ) : Nhà thơ Lý Bạch có hai bài thơ nổi tiếng nhắc đến Kim Lăng, ở hai hoàn cảnh khác nhau là Đăng Kim Lăng Phụng Hoàng Đài, và Kim Lăng Tửu Tứ Lưu Biệt. Kim Lăng nay là thành phố Nam Kinh tỉnh Giang Tô. Theo tác giả Cô Vong Ngôn, một truyện văn học cực dâm, thì Kim Lăng bị đổi nhiều tên gọi khác nhau, theo từng triều đại.Thời Xuân Thu, Kim Lăng thuộc nước Ngô, thời Chiến Quốc thuộc nước Việt, sau thuộc nước Sở. Vì vua Sở Uy Vương dựng lăng chôn vàng để trấn yểm đất đó, nên mới gọi là Kim Lăng. Đến đời Tần Thủy Hoàng thì đổi là Mạt Lăng.Thời Tam Quốc, năm 212 CN Tôn Quyền xây cất Thạch Đầu Thành và đến năm 229 Quyền đóng đô ở đó mới đổi Kim Lăng là Kiến Nghiệp.Đời Tây Tấn, vì tị húy Tư Mã Nghiệp đổi Kiến Nghiệp là Kiến Khang.Các đời Đông Tấn, Tống, Tề, Lương, Trần và Nam Đường đều đóng đô ở đó. Đời Tùy là Tưởng Châu. Đời Tống là Kiến Khang Phủ. Đời Nguyên là Tập Khánh . Đến Minh Thái Tổ lại đổi là Ứng Thiên Phủ. Năm 1421 CN, Minh Thành Tổ rời đô đến Bắc Kinh, Ứng Thiên Phủ mới gọi là Nam Kinh Năm 1853 CN, Nam Kinh trở thành quốc đô của Hồng Tú Toàn và gọi là Thiên Kinh. Năm 1927 Trung Hoa Dân Quốc thành lập, đến năm 1930 lại gọi là Nam Kinh Thị Hồng Tú Toàn (洪 秀 全) : Nguyên tác viết là "Xích khấu chi loạn 赤 寇 之 亂", vì vào thời điểm tác giả viết truyện này, Hồng Tú Toàn còn bị coi là giặc, và khi khởi nghĩa dùng mầu cờ đỏ, nên tác giả dùng chữ "xích khấu" để ám chỉ Hồng Tú Toàn giặc, chứ chưa được tôn xưng là một nhà cách mạng như ngày nay ở lục địa. Hồng Tú Toàn sinh năm 1814 mất năm 1864. Ông là người Hoa Huyện tỉnh Quảng Đông , nguyên danh là Hỏa Tú, rồi lại đổi là Nhân Khôn, và mãi đến khi lớn mới tự lấy tên là Tú Toàn. Ngay từ hồi còn bé, Toàn là đứa trẻ hiếu học, nên rất được thân phụ thương yêu.Khoảng năm Tuyên Thống nhà Thanh, Toàn ra nhập "Bái Thượng Đế Hội", nhận Chu Cửu Đào làm sư phụ. Khi Cửu Đào mất, Toàn được đồ chúng đưa lên làm giáo chủ. Để thu hút và mê hoặc quần chúng, Toàn phao ngôn mình là con thứ hai của thượng đế, em của Chúa Giê Su. Năm 1851, với sự phò tá của Dương Tú Thanh và Thạch Đạt Khai, Toàn khởi nghĩa ở thôn Kim Điền, tỉnh Quảng Tây, rồi đem quân đánh chiếm châu Vĩnh An, kiến lập Thái Bình Thiên Quốc và đem quân Bắc phạt, liên tiếp chiếm được nhiều tỉnh, Năm 1853, Toàn công hạ Kim Lăng (tức Nam Kinh ), tự xưng là Thiên Vương và đóng đô ở đấy.Toàn ra lệnh đổi Dương Lịch, cải y phục, đề xướng tân học, phế bỏ tục bó chân của phụ nữ, phế bỏ xướng kỹ, cấm nha phiến. Quân triều đình nhiều phen bị Toàn đánh bại. Nhưng về sau vì nội bộ lãnh đạo mâu thuẫn, các tướng đố kỵ giết hại nhau, khiến lòng dân ly tán.Thái Bình Thiên Quốc bị Tăng Quốc Phiên và Tả Tôn Đường, những trọng thần của Thanh triều, đánh bại. Năm 1964, Thiên Kinh bị phá vỡ, Hồng Tú Toàn uống độc dược tự tử.Thái Bình Thiên Quốc bị diệt vong. Tầm Dương (潯 陽) : Tầm Dương là tên một quận đời Đường, nay thuộc thị trấn Cửu Giang tỉnh Giang Tây. Thời Tùy đặt tên là Bồn Thành, sang đến nhà Đường mới cải là Tầm Dương. Nhà thơ Bạch Cư Di bị biếm làm Tư Mã Giang Châu, từng để lại dấu chân của mình ở địa danh này, qua bài thơ nổi tiếng " Tỳ Bà Hành 琵 琶 行 ", mở đầu bằng câu : " Tầm Dương giang đầu dạ tống khách ". Sau này, khi Tống Giang , thủ lãnh của 108 vị anh hùng Lương Sơn Bạc, bị đầy đến Giang Châu, ngồi trên lầu uống rượu, ngắnm mưa rơi trên sông Tầm Dương, say rồi phẫn kích, đề phản thi mà bị bắt. Nam Đường Hậu Chủ (南 唐 後 主): Nam Đường(937-975) là một triều đại trong thời Ngũ Đại Thập Quốc (907 -975) do Lý Thăng kiến lập.Hậu Chủ của vương triều tên là Lý Dục, thường gọi là Lý Hậu Chủ, tự là Trùng Quang, hiệu là Liên Phong Cư Sĩ, sinh năm 937 CN, mất năm 978 CN Năm 961CN Lý Dục được phong làm Thái Tử, lên nối ngôi cha. Là một ông vua tài hoa phong nhã, giỏi thơ văn, hội họa, âm luật và đặc biệt về từ khúc.Trong suốt thời gian tại vị, Hậu Chủ không lo nhiều đến chính sự mà chỉ chuyên chú vào những yến tiệc, ca vũ, vui đùa cùng bầy cung tần mỹ nữ. Những câu truyện diễm tình của Hậu Chủ với những giai nhân tri kỷ cũng như những bài từ của ông được người đời đua nhau tường thuật truyền tụng.Đặc biệt là ông từng sủng ái nàng cung phi Kiều thị.Kiều thị là người rất thông minh, viết chữ rất đẹp, lại tôn thờ đạo Phật, Hậu Chủ tự tay viết "Kim Tự Tâm Kinh " để tặng nàng Năm 975, Nam Đường bị Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn diệt, Kim Lăng bị phá vỡ, Hậu Chủ bị bắt làm tù binh.Trước cảnh quốc phá gia tan, Hậu Chủ tuy đau đớn như đứt tùng khúc ruột, nhưng vẫn không bỏ được "tật" phong lưu, vung bút viết một bài từ để đời, tả cảnh vong quốc, lời lẽ rất là thê lương, đau đớn, đó là bài "Lâm Giang Tiên." Hậu chủ bị đưa về Biện Kinh, hai năm sau thì bị Tống Thái Tông Triệu Khuông Nghĩa sai em là Triệu Đình Mỹ đánh thuốc độc chết. Sau khi Hậu Chủ mất, Kiều thị đã viết lại "Kim Tự Tâm Kinh" , chữ viết rất đẹp, đem dâng vào chùa Tướng Quốc để cầu phúc cho Hậu Chủ. Lạc khoản (落 款) Ký tên trên những thư tín, lễ phẩm, thư, họa thì gọi là lạc khoản Ngũ Đại Thập Quốc (五 代 十 國) : Năm 907 CN, Chu Ôn diệt nhà Đường xưng đế, lấy quốc hiệu là Lương, sử gọi là Hậu Lương, chiếm một phần lớn phía Bắc nước Tầu, kế tục sau đó xuất hiện các nước như Hậu Đường, Hậu Hán, Hậu Chu, Hậu Tấn. Sử gia gọi năm nước này là thời kỳ Ngũ Đại. Đồng thời với năm nước này, ở phía nam nước Tầu cũng xuất hiện trước sau 10 nước là Ngô, Nam Đường, Ngô Việt, Sở, Mân, Nam Hán, Tiền Thục, Hậu Thục, Kinh Nam, Bắc Hán.Năm 979 CN, các nước này bị Triệu Khuông Dẫn tiêu diệt, kết thúc cục diện thời kỳ Ngũ Đại Thập Quốc. Đậu khấu (荳 蔻): Đậu khấu là một loại hương thảo, hoa nở vào mùa hè, mọc ở xứ nóng, rất đẹp, dùng làm thuốc được.Trong các văn thơ cổ điển, người dùng từ ngữ đậu khấu để tương trưng người con gái còn trong trắng chưa lấy chồng. Lương Vũ Đế (梁 武 帝): Sinh năm 464 CN mất năm 549 CN. Lương Vũ Đế tên thật là Tiêu Diễn, người sáng lập nhà Lương thời Nam Triều, tự là Thúc Đạt, vốn là người đồng tộc của vua nhà Tiêu Tề, em họ Tiêu Đạo Thành, người Nam Lan Lăng (nay thuộc tỉnh Giang Châu, phía tây bắc Thường Châu).Tiêu Diễn từng làm quan nhà Tề, giữ chức Thứ Sử Ung Châu, trấn thủ Tương Dương. Nhân vua Tề vô đạo, giết người anh của Tiêu Diễn, Diễn khởi binh vây hãm Kiến Khang, l ập Tiêu Bảo Dung làm Hòa Đế. Diễn nắm chức Đại Tư Mã, và được phong Lương Vương. Năm 502 CN, Diễn được nhường ngôi, lấy quốc hiệu là Lương, trọng dụng sĩ tộc, sửa sang văn giáo, nhờ vậy quốc thế được chấn hưng. Sau lại dốc lòng tín thờ Phật giáo, xây cất Đồng Thái Tự, ba lần vào đó tu. Năm 547 CN, Tiêu Diễn tiếp thụ đầu hàng của Hầu Cảnh.Hai năm sau thì bị Hầu Cảnh dẫn binh vượt sông nam hạ, công phá thủ đô, Tiêu Diễn bị đói và bệnh mà chết. Tiêu Diễn là người giỏi về văn học, âm luật, thư pháp. Văn phòng tứ bảo (文 房 四 寶): Văn phòng tức thư phòng.Cổ nhân ngày xưa ở trong thư phòng thường dùng và thường bầy biện bốn vật dụng được quý trọng như bảo vật là bút, giấy, nghiên, mực.Vì thế nên gọi là văn phòng tứ bảo. (Dịch xong ngày 21-5-2004 lúc 12:42.Phạm xuân Hy) Mời các bạn đón đọc Tuyển tập truyện ngắn liêu trai Tạ Tiểu Nga Truyện.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Huyền Thoại Porasitus - Thảo Dương
Cuốn sách là câu chuyện về nàng công chúa chiến thần Anastasia - một trong những tác phẩm Việt Nam thu hút được nhiều sự quan tâm của cộng đồng mạng. Huyền thoại Porasitus hay còn có tên gọi quen thuộc là Legend of Porasitus là tác phẩm thuộc thể loại giả tưởng, dã sử của tác giả Thảo Dương. Tác phẩm đã được đăng tải trên mạng từ năm 2003 từ khi Thảo Dương mới chỉ 15 tuổi, và sau 11 năm Huyền thoại Porasitus đã trình làng bạn đọc dưới dạng sách giấy.  Câu chuyện về nàng công chúa chiến thần Anastasia này đã trở thành một trong những truyện mạng Việt Nam thu hút được nhiều sự quan tâm nhất của cộng đồng mạng với hơn 100 website đăng tải, nhiều kết quả tìm kiếm trên Google và đạt hơn 2 triệu lượt xem.  Huyền thoại Porasitus là truyện dài giả tưởng về một lịch sử không có thật, nơi tồn tại những quốc gia hùng mạnh mang hơi hướm của thời kỳ Trung Cổ. Câu chuyện bắt nguồn từ sự diệt vong của vương quốc Porasitus xinh đẹp trước vó ngựa xâm lăng của đế quốc Henki tàn bạo, đẩy số phận của nàng công chúa cuối cùng của hoàng triều Porasitus vào một cuộc trả thù thấm đẫm máu và nước mắt.  Những tham vọng quyền lực, những âm mưu xâm chiếm, những trận đánh nảy lửa, những trò đùa số mệnh, những tình cảm nội tâm dằn xé được cất giấu trong những trang sách sẽ làm người đọc phải choáng ngợp. Nét đặc sắc của Huyền thoại Porasitus trước hết nằm ở tài phác họa của tác giả khi xây dựng lên một xã hội với những quốc gia khác biệt rõ ràng về dân tộc, địa lý, phong tục, đặc trưng. Cách xây dựng nhân vật cũng là điểm mạnh của Thảo Dương khi đem vào Huyền thoại Porasitus hệ thống nhân vật đồ sộ với những phe phái, gia tộc, dòng dõi và đặc điểm khác nhau. Trải dài trong Huyền thoại Porasitus là những cuộc viễn chinh xâm lược của quân đội Henki và sau đó là những xung đột quân sự để bảo vệ lãnh thổ giữa Henki và Serazan. Xen lẫn vào đó là những cuộc minh tranh ám đấu trong triều đình đế quốc, không hoàng gia nào là không tồn tại tranh chấp chính trị và không quốc gia nào là tránh được xung đột lãnh thổ, chỉ là cái giá phải trả là to lớn bao nhiêu thôi. Huyền thoại Porasitus không chỉ là khúc bi ca về tình yêu mà còn ca ngợi những tình yêu sâu sắc mãnh liệt. Biết bao nhân vật trong truyện đã phải dằn vặt, đớn đau, thậm chí là hy sinh cả tính mạng vì tình cảm của mình. Thế nhưng tuyệt nhiên lại không có tình cảm nào nhuốm màu bi lụy.  Bằng trí tưởng tượng không có giới hạn, Thảo Dương đã viết nên một tác phẩm đậm tính anh hùng ca, có chút hơi hướm của những sử thi như Iliad và Odyssey với những trận chiến hào hùng, những con người mạnh mẽ và quả cảm, những âm mưu tranh đấu chính trị khôn lường và những tình cảm chân thành sâu sắc. *** Câu chuyện bi hùng này bắt đầu từ cái thuở xa xưa lắm rồi, khi mà cả tôi và bạn mới chỉ là những hạt bụi lơ lửng trong vũ trụ của sự sống, khi mà ma thuật vẫn bùng lên dưới tay những bậc thầy pháp sư tài ba và những chàng hiệp sĩ vẫn mải mê lao vào trận chiến với các loài quái vật để tìm kiếm vinh quang. Cái thuở ấy, ở một vương quốc giàu đẹp mang cái tên định mệnh Porasitus, vào một đêm trăng sáng cuối mùa thu năm trị vì thứ tám của vua Devis, trong hoàng cung lộng lẫy vang lên tiếng khóc chào đời của một đứa trẻ … -Thưa bệ hạ, hoàng hậu đã hạ sinh một tiểu công chúa. - Cô tì nữ hấp tấp chạy ra ngoài hành lang, nơi vua Devis đang bước vòng quanh cả trăm lần, tưởng chừng sắp nổ tung vì lo lắng. Mặt ngài sáng lên trong niềm vui rạng rỡ khi vội chạy vào phòng, theo sau là hai vị tiểu hoàng tử : Leon, tám tuổi và Gan, sáu tuổi. Nhân đây cũng xin nói về hai vị hoàng tử này. Cả hai đều không phải là con của vị hoàng hậu hiện nay mà là của một hoàng hậu đã qua đời sáu năm trước sau khi sinh hoàng tử Gan. Leon có đôi mắt màu nâu nhạt, ấm áp, kiên định và mái tóc vàng kem hệt mẫu hậu. Thế nhưng cậu em Gan lại có mái tóc vàng sậm cùng đôi mắt sáng thông minh của phụ hoàng. Trong căn phòng hoàng gia, hoàng hậu trẻ với khuôn mặt ửng hồng ôm trong tay một cuộn chăn bao gọn thân hình bé nhỏ đáng yêu. Một bé gái. Đôi mắt xanh của tiểu công chúa mở to, đẹp như hai viên ngọc quý. Một khuôn mặt ửng hồng đã sớm có những đường nét của nhan sắc tuyệt mỹ trong tương lai. -Con ta sẽ là công chúa Anastasia. - Nhà vua tuyên bố. Trông ông vô cùng hạnh phúc. Vâng, hạnh phúc như bất kì người cha nào trên thế gian này. Hoàng hậu mỉm cười âu yếm: -Và con gái yêu của chúng ta nhất định sẽ trở thành một đại mỹ nhân… Lời của hoàng hậu chợt bị cắt ngang bởi hàng loạt tiếng la hét náo loạn bên ngoài vườn hoa. Một nữ tì hớt hải chạy vào báo, giọng đứt quãng: -Thưa bệ hạ, xin…xin người mau ra ngoài… Đức vua Devis nheo mày ngạc nhiên nhưng vốn đang vui vẻ, ông đứng dậy đi ra. Bên ngoài là một khung cảnh vô cùng ấn tượng. Vô số cánh hoa hồng màu đen thẫm đang từ trên trời tung xuống, cuộn lên trong những cơn gió mỏng. Một khung cảnh lạ lùng. Trăng sáng vằng vặc, làm nền cho một bóng người mặc áo choàng đen huyền bí đứng chót vót trên đỉnh tháp Bắc, ngọn tháp cao nhất trong cung điện. Người ấy không ngừng rải hoa xuống. Trên đỉnh tháp Nam ngay đối diện lại có thêm một người nữa mặc áo choàng đỏ sậm như máu, tay cầm đàn gảy nhịp nhàng. Điệu nhạc du dương nhưng buồn thảm não lòng với những nốt ngân dài như hơi thở của gió miết trên nền trời đêm. -Các người là ai?!? - Nhà vua Devis quát hỏi - Sao lại đến đây? Thay cho câu trả lời, người mặc áo choàng đỏ cất giọng hát tuyệt hay mà đem đến cảm giác rợn người: -Chúng ta đến để chúc mừng vì hoàng hậu đã hạ sinh tiểu công chúa xinh đẹp tuyệt trần. Chúng ta cũng đến để chia buồn cho vương quốc Porasitus đáng thương. Ngày tàn của các người sắp đến. Lời nguyền từ hàng trăm năm trước rằng, vương quốc của nhà vua bị giẫm tan dưới vó ngựa tộc người tàn ác phương Bắc xa xôi. Hãy khóc, hãy cầu nguyện… trước khi máu chảy, thấm ướt những cánh đồng, làm những chùm nho có mùi tanh và mặn chát… -Bệ hạ. - Hoàng hậu bế công chúa bước ra, yếu ớt phải nhờ tì nữ đỡ hai bên, mặt mày bà nhợt nhạt pha nỗi lo lắng kinh hoàng - Có chuyện gì thế ạ ? Đó là những ai vậy ? Họ hát cái gì thế ? -Ồ, chào công chúa đáng yêu nhất trên đời. - Người ban nãy hát tiếp, giọng vui hơn một chút, có điều đó lại là một niềm vui xa vắng - Nàng sinh ra khiến thế gian như vào mùa xuân rực rỡ tuyệt vời. Nhưng sắc đẹp là thuốc độc, nhuốm đầy máu tươi dưới vó ngựa của những chiến binh tóc đen tuyền... -Im ngay! - Nhà vua giận dữ - Mi là ai mà dám vô lễ đến nhường ấy! Mi dám nguyền rủa con gái ta sao ?!? -Ôi, bệ hạ, hắn ta hát giống như một lời tiên tri vậy. - Hoàng hậu thoáng rùng mình, lo sợ ôm con gái bé nhỏ vào lòng như sắp có ai đến cướp mất của bà món quà tuyệt diệu này. Linh cảm của một người mẹ về tương lai đen tối đang chờ đứa con thơ ngây khiến bà tưởng chừng nghẹt thở vì kinh hãi. Trước khi có bất cứ sự phản ứng phòng vệ nào của mọi người đang có mặt, người mặc áo choàng đen đã nhảy khỏi đỉnh tháp cao chót vót, đáp xuống ngay trước mặt gia đình hoàng tộc. Một chàng trai còn rất trẻ. Sở dĩ chúng ta có thể khẳng định điều đó cho dù chàng che kín nửa mặt bằng thứ khăn voan đen ấy là vì sắc trong veo như thủy tinh của đôi mắt xám ánh bạc để lộ ra. Trong và sáng. Chắc hẳn là một người con trai tuấn tú. Chàng chăm chú nhìn công chúa bé nhỏ và công chúa cũng mở to mắt nhìn lại. -Chào người yêu dấu của ta. - Chàng trai dịu dàng nói. Hoàng hậu vừa định thần được đã thét lên thất thanh và lùi lại sau lưng chồng trong khi hàng trăm cận vệ hoàng gia ào đến chĩa thẳng mũi thương vào người vị khách lạ lùng vừa xuất hiện. -Mi là ai?!? - Nhà vua gầm vang như sư tử đang bảo vệ con thơ. -Ta là kẻ lãng du mà ông không bao giờ muốn biết... - Giọng người đó bỗng chuyển thành một thứ âm thanh buốt giá sâu thẳm. -Cái gì ? Ai ? Nhưng người tự xưng là kẻ lãng du không quan tâm đến đức vua nữa, chàng mỉm cười trìu mến nhìn cô bé trong cuộn chăn nhỏ: -Ta đến đây vì em, người yêu dấu ạ. Định mệnh của chúng ta là ở đây. Nhưng chưa đến lúc, mười sáu năm nữa ta sẽ quay lại và mang em đi... -Hỗn xược ! Bắt lấy hắn! - Nhà vua quát. Ngài nghĩ bấy nhiêu chuyện lạ lùng thế là quá đủ! Còn nhanh hơn cơn gió vùng thảo nguyên, chàng trai kì lạ biến mất trong một làn khói mỏng màu trắng bạc. Công chúa Anastasia bất chợt nhoẻn cười ngây thơ. Và đôi mắt màu ngọc lam bừng sáng hơn bao giờ hết. Đôi mắt trẻ thơ … Đôi mắt định mệnh … đã bắt đầu dõi nhìn cuộc đời đầy biến động, đau thương. Bấy giờ đến lượt người mặc áo choàng đỏ chậm rãi bước đến, mái tóc dài màu nâu hạt dẻ tung bay phía sau lưng, huyền hoặc, phong thái ung dung, tao nhã. Mọi người cảnh giác lùi lại, không hẳn vì sợ hãi mà là bởi thứ khí thanh khiết toả ra từ con người này thật quá sức tưởng tượng của người bình thường. Chàng trai tóc nâu mỉm cười thật dịu dàng, khuôn mặt được che kín bởi một chiếc mặt nạ bạc: -Tôi đến vì lời tiên tri. Mười sáu năm nữa, vương quốc này sẽ trở thành nấm mồ lớn nhất chưa từng có, bị san bằng dưới vó ngựa của tộc người phương Bắc. Hãy nhớ điều đó. Kẻ lãng du chỉ mang lại buồn thương cho công chúa mà thôi. Cả gia đình hoàng tộc mở to mắt hãi hùng nhìn người vừa thốt ra những lời độc địa ấy. Đó không chỉ là những lời tiên tri mà đúng như lời hoàng hậu nói, nó cứ như là sự nguyền rủa. Nhưng chàng trai thì dường như chẳng quan tâm đến nỗi sợ hãi mà mình vừa gieo rắc, đôi mắt màu xanh đẹp như màu ngọc lục bảo tinh khiết nhất đang ấm áp nhìn sinh linh bé bỏng vừa chào đời, nói trìu mến: -Tạm biệt công chúa xinh đẹp nhất trên đời, cầu cho trái tim nàng không được làm từ băng tuyết. Người mặc áo choàng đỏ thoáng mỉm cười và rồi cũng biến mất nhẹ như làn gió ôn hoà. Vua Devis ôm hoàng hậu vào lòng, vỗ về trấn an. Mắt ông dấy lên nỗi phiền muộn lo lắng. Niềm vui ban nãy dường như đã bị chôn vùi ở sâu, sâu lắm trong nỗi lòng sóng gió của ông lúc này. Cho dù hai người đó là ai thì công chúa Anastasia cũng đang bị đe doạ bởi những lời tiên tri mơ hồ. Là một người cha, đức vua không thể cho phép ai hại đến con gái mình. Và với tư cách một vị vua, ông sẽ làm hết khả năng để bảo vệ con. Công chúa Anastasia cười khúc khích thật lạ lùng trước nỗi lo lắng của những người xung quanh. Cô bé không ngủ li bì giống phần lớn những em bé sơ sinh khác. Điều đó khiến cho chúng ta cảm giác mơ hồ là dường như bé hiểu được câu chuyện từ nãy đến giờ … Điềm báo hay sao ? Chương 2 Thời gian trôi khe khẽ, nhẹ nhàng như những cơn gió ngày ngày vẫn ve vuốt cỏ xanh trên các thảo nguyên bao la của vương quốc Porasitus hiền hoà. Vậy mà đã mười lăm năm trôi qua, lời tiên tri mà hai con người năm xưa từng nói đang đến gần. Đức vua Devis và hoàng hậu ngày đêm lo lắng. Đức vua cảm thấy mình bất lực quá, ngài không biết phải làm gì để ngăn số mệnh đến gần và chạm bàn tay độc ác vào đứa con gái bé bỏng của mình. Nỗi u phiền đã nhuộm bạc mái tóc của ngài. Và trong khi các bậc tiền bối đang lo lắng như vậy thì những con người trẻ tuổi vẫn không hề hay biết… -Anastasia! - Một chàng trai chừng hai mươi tuổi chạy vào cung điện Lency vừa mới xây dựng dành cho nàng công chúa yêu quý của đức vua Devis. Tóc vàng mềm như tơ, đôi mắt nâu ấm, không ai xa lạ, đó chính là nhị hoàng tử Gan, một trong hai niềm hi vọng của thế hệ tiếp theo thuộc hoàng tộc vương quốc Porasitus. Gan đang cố tìm cô em Ana xinh đẹp nhưng nghịch ngợm của mình trốn trong những dãy phòng trang nhã. Cung điện này được xây bằng đá cẩm thạch trắng, có những hàng cột cao hình múi khế, thoáng đãng, khắp nơi là phù điêu chạm khắc chân dung một thiếu nữ trẻ vô cùng xinh đẹp. Mái tóc nàng mềm mại, ôm lấy khuôn mặt thanh tú, đôi mắt đầy thần khí … công chúa Anastasia. Gan dừng bước trước bức tượng bằng người thật của em gái mình, chàng chạm tay lên đôi môi của bức tượng, mắt sáng long lanh một thứ tình cảm lạ lùng. Không ai có thể khẳng định cụ thể nó là gì, nhưng, có thể cam đoan rằng một người anh trai không bao giờ nhìn em gái mình như thế. -Anh! - Một tiếng gọi trong veo vang lên chẳng khác nào tiếng chuông bạc. Gan giật mình rụt tay lại, vừa kịp lúc cô gái, người được tả trong tất cả các bức tượng và tranh ở cung điện này, xuất hiện ở cuối căn phòng rộng lớn. Gan lập tức nở một nụ cười trìu mến, chứa chan yêu thương: -Ana, anh tìm em mãi. -Có chuyện gì vậy, anh? - Ana tung tăng chạy quanh anh trai, rực rỡ và rạng ngời như một tia nắng hiếu động của mùa xuân. Những lọn tóc màu nâu hạt dẻ gợn sóng mềm mại rủ xuống vai, nàng nở nụ cười xinh đẹp và hướng đôi mắt sáng ngời về phía người đối diện. Ở cạnh nàng những bức tượng và phù điêu trở nên thô cứng và dường như hơi ghen tức. Làm sao chúng có được đôi mắt long lanh nhường ấy ? Làm sao chúng có được nụ cười e ấp như đoá hoa hồng vừa hé nở buổi ban mai kia ? Nàng công chúa mới mười lăm tuổi tràn đầy sức sống hạnh phúc. Khi nhìn nàng, ai cũng bất giác thấy ấm áp và vui sướng lạ lùng. -Phụ vương muốn em về chính cung ngay, khách từ vương quốc Henki đã đến rồi. -Việc đó đâu liên quan đến em. - Công chúa bướng bỉnh nói, ngón tay thon của nàng quấn quấn một sợi tóc nâu mềm mại - Họ đến hay ở là chuyện của phụ vương và hai anh mà. Gan cố tỏ ra cương quyết một chút, chỉ một chút thôi: -Nào, mọi người đang đợi. Phụ vương muốn em có mặt thì em nên làm điều đó, Ana à. Nhìn thấy vẻ van nài của anh trai, Ana đành tiếc nuối ngắm nhìn vườn hoa rộng lớn đầy thú vị xung quanh một lần nữa rồi nàng nhún vai: -Được rồi, em sẽ đi với anh, không phải vì khách khứa gì đâu. Mà vì anh đấy, em sợ anh gặp rắc rối với phụ vương thôi. ... Mời các bạn đón đọc Huyền Thoại Porasitus của tác giả Thảo Dương.
Tuyệt Sắc Đan Dược Sư: Quỷ Vương Yêu Phi - Tiêu Thất Gia
Truyện Tuyệt Sắc Đan Dược Sư: Quỷ Vương Yêu Phi là một trong những siêu phẩm hội tụ nhiều thể loại hay nhất hiện nay. Truyện huyền ảo hay mở đầu với Mộ Như Nguyệt, thân mang tuyệt học về y học Trung Hoa, vì kẻ thù hãm hại mà xuyên không đến đại lục Thần Vũ, biến thành vị tiểu thư vô dụng nhà họ Mộ bị người thượng cẳng chân hạ cẳng tay. Kim Loan điện thượng, một giấy hôn phối, nàng mỉm cười tiếp chỉ, xoay người gả cho Tử Nguyệt quốc nhất nổi danh Quỷ Vương gia. Thế nhân đều biết này Quỷ Vương ngu dại ngốc lăng, bộ dạng tựa quỷ, lại có ai người biết hắn mới là nhất phúc hắc cái kia? Mọi người đều cười phế vật xứng ngốc tử chính là tuyệt phối, há biết nàng lại là kia chưa từng tuyệt hậu tuyệt thế thiên tài? Mộ như nguyệt nhìn trước mặt này tuấn mỹ như thần nam nhân, nghiến răng nghiến lợi: “Dạ vô trần, ngươi cư nhiên dám gạt ta, ngươi hiện tại đâu giống là cái ngốc tử?”?” Quỷ Vương cười, sủng nịch ủng nàng nhập hoài: “Ở bên cạnh ngươi, ta cam nguyện đương một cái nhậm ngươi sai sử ngốc tử.” *** Mộ phủ. Nắng chiều bao phủ bên trong hậu viện, lá cây phản chiếu ra ánh sáng nhàn nhạt, vậy mà vào lúc này, bên trong hậu viện lại vô cùng yên tĩnh, sự tĩnh lặng này dường như chỉ có thể nghe được âm thanh của lá cây khẽ xào xạt trong gió. "Thế tử, chúng ta làm như thế có tốt không? Dù sao người và tỷ tỷ cũng đã có hôn ước rồi" Thiếu nữ nâng gương mặt đỏ bừng của mình lên, thân thể mềm mại trắng như tuyết rúc vào trong thân thể to lớn của nam nhân: "Nếu như chuyện này mà bị tỷ tỷ phát hiện..." "Nàng nói cái đồ vô dụng kia sao?" Nam nhân cau mày kiếm lại, sau khi nghe thấy thế dung mạo tuấn tú lập tức hiện lên sự chán ghét: "Lúc chúng ta ở chung với nhau đừng nhắc tới nữ nhân làm cho người ta chán ghét, về phần hôn ước kia đối với ta mà nói có cũng được không có cũng được, ngày nào đó ta sẽ giải trừ đạo hôn ước này, loại phế vật như nàng ta vốn không xứng trở thành thế tử của ta! Đình nhi, tin tưởng ta, ta sẽ danh chính ngôn thuận cho nàng một danh phận, chỉ có nàng mới có thể xứng với ta." "Thế tử..." Trong con ngươi của Mộ Đình Nhi có phần hơi cảm động, bất chợt bối rối nói: "Như thế có phải bất công với tỷ tỷ quá không? Bất luận nói như thế nào thì nàng cũng là tỷ tỷ của thiếp." Nghe nói như thế, nam nhân càng ôm chặt lấy nàng hơn, thương tiếc nói: "Đình nhi, nàng chính là quá tốt bụng, có người muội muội như nàng là may mắn của nàng ta, nếu nàng ta không biết tốt xấu thì đừng trách ta ra tay tàn nhẫn." Mộ Đình Nhi cúi đầu xuống chôn ở trong ngực nam nhân, khóe mắt còn mang theo vài giọt nước mắt nhưng bên môi lại vô ý nâng lên một nụ cười nhạt giống như âm mưu đã được thực hiện như ý. Nhưng vào lúc này, một tiếng thét chói tai vang lên, rơi vào trong tai hai người. "A! Các ngươi... Các ngươi..." Mộ Như Nguyệt gắt gao che miệng, không dám tin nhìn một đôi cẩu nam nữ trần như nhộng trước mặt nàng, hai hàng nước mắt giống như không có cách nào ngừng rơi được, một phút kia, dường như lòng của nàng bị thứ gì đó mạnh mẽ đâm vào. Nam nhân nhướng mày, tiện tay cầm lên bộ quần áo che kín thân thể hai người, hắn nhìn về phía Mộ Như Nguyệt, vẻ mặt không che giấu đi sự chán ghét bực bội. "Bản Thế tử đã nói từ trước, có bản Thế tử ở nơi này thì không muốn ngươi xuất hiện ở đây! Bây giờ lại dám tới quấy rầy ta và Đình nhi, nếu không phải nể tình thân phận ngươi là chi nữ của Mộ gia, bản Thế tử sẽ không để cho ngươi nhìn thấy nổi mặt trời ngày mai đâu." Nhìn nam nhân bảo vệ Mộ Đình Nhi trong lòng, Mộ Như Nguyệt gắt gao cắn môi, ánh mắt đỏ ửng hàm chứa đầy nước mắt uất ức. Lời của hắn giống như là một lưỡi dao sắc bén hung hăng ghim vào trong lòng của nàng, khiến nàng vô cùng đau đớn. Thì ra trong lòng của hắn, nàng chỉ là một người vô hình mà thôi. Thế nhưng vì sao khi nàng năm tuổi, người nam nhân này lại đối xử dịu dàng với nàng như vậy? Nếu không phải vì sự dịu dàng ấy, nàng cũng không phải hãm sâu vào, không cách nào thoát khỏi được. ... Mời các bạn đón đọc Tuyệt Sắc Đan Dược Sư: Quỷ Vương Yêu Phi của tác giả Tiêu Thất Gia.
Hogwarts: Một Hướng Dẫn Không Đầy Đủ và Không Đáng Tin Cậy - J. K. Rowling
Chúng ta biết khá nhiều về Hogwarts. Đó là một trường học dành cho các phù thủy và pháp sư, được mời đến dự khi nhận được một bức thư cú. Nó có một trăm bốn mươi hai cầu thang, di chuyển như thể nó có tâm trí của riêng mình. Nó được thành lập bởi Godric Gryffindor, Rowena Ravenclaw, Helga Hufflepuff và Salazar Slytherin, mà sau đó được đặt tên cho những Nhà của trường. Thậm chí có một lối đi bí mật dưới bức tượng phù thủy một mắt cho phép một người nhỏ thó thoát ra và vào hầm đến tiệm Công tước Mật. Nhưng nếu giáo sư Albus Percival Wulfric Brian Dumbledore nói rằng thậm chí ông ta cũng không thể biết hết tất cả các bí mật của Hogwarts, cũng như chúng tôi. Chỉ có một người biết mọi thứ về Hogwarts. Trong tập hợp những bài văn này, J.K. Rowling đã tiết lộ bí mật ẩn chứa và truyền thuyết kỳ lạ của trường phái pháp sư và phù thủy ở Anh. (pottermore.com) *** Chúng ta bắt đầu giống như bất kỳ pháp sư hay phù thủy nào trên đường tới Hogwarts - tại Ngã tư Vua ở London. Đó là một nhà ga xe lửa ồn ào, náo nhiệt đầy những người qua lại bận rộn - quá bận rộn đến nỗi họ không để ý đến những người có nhiều rương, cú, mèo và áo choàng chạy trên hàng rào soát vé và biến mất tăm. ... Mời các bạn đón đọc Hogwarts: Một Hướng Dẫn Không Đầy Đủ và Không Đáng Tin Cậy của tác giả J. K. Rowling.
Harry Potter và Chiếc Cốc Lửa - J.K. Rowling (Bản Mới)
Đây là bản Harry Potter được chỉnh sửa lại theo dự án của wordpress Bánh Bao: banhbaoheocon.wordpress.com. Trong bản này, đã được chỉnh sửa lại lỗi chỉnh tả và làm lại bìa. *** Khi giải Quidditch Thế giới bị cắt ngang bởi những kẻ ủng hộ Chúa tể Voldemort và sự trở lại của Dấu hiệu hắc ám khủng khiếp, Harry ý thức được rõ ràng rằng, Chúa tể Voldemort đang ngày càng mạnh hơn. Và để trở lại thế giới phép thuật, Chúa tể hắc ám cần phải đánh bại kẻ duy nhất sống sót từ lời nguyền chết chóc của hắn - Harry Potter. Vì lẽ đó, khi Harry bị buộc phải bước vào giải đấu Tam Pháp thuật uy tín nhưng nguy hiểm, cậu nhận ra rằng trên cả chiến thắng, cậu phải giữ được mạng sống của mình.    ‘Bốn năm của Harry cũng như của chúng tôi ở trường Hogwarts thật vui nhộn, một thế giới đầy hài hước cùng nhiều hoạt động thú vị. *** Dân làng Hangleton Nhỏ vẫn còn gọi đó là “Ngôi Nhà Riddle “,mặc dù đã bao năm tháng trôi qua kể từ thời gia đình Riddle còn sống ở đó. Ngôi nhà nằm trên một đỉnh đồi ngó xuống làng, một số cửa sổ đã bị bít lại bằng ván, ngói lợp mái thủng lỗ chỗ, và dây trường xuân tự do mọc tràn lan khắp mặt tiền nhà. Có một thời ngôi nhà đó từng là một biệt thự xinh xắn, đứng cách đó cả dặm vẫn nhìn thấy rõ. Đó cũng từng là ngôi nhà rộng lớn nhứt, sang trọng nhứt, nhưng giờ đây Ngôi Nhà Riddle chỉ còn là một nơi điêu tàn, ẩm mục,vô chủ, không người vãng lai. Dân làng Hangleton Nhỏ đầu nhất trí với nhau rằng ngôi nhà cũ xưa ấy rất "rùng rợn". Cách đây nửa thế kỉ, có một chuyện lạ lùng và khủng khiếp đã xảy ra ở đó, một chuyện mà các bậc tiền bối trong làng vẫn còn bàn tán mỗi khi cạn đề tán gẫu. Câu chuyện đã được kể đi kể lại rất nhiều lần, và đã được thêu dệt nhiều chỗ, đến nỗi không còn ai dám chắc đâu là sự thật nữa. Tuy nhiên, mọi phiên bản của câu chuyện đều cùng bắt đầu từ một chỗ: năm năm về trước, thuở Ngôi Nhà Riddle còn đang thời hưng thịnh, được chăm sóc kĩ lưỡng, nguy nga lộng lẫy; vào buổi bình minh của một ngày đẹp trời, một cô hầu gái bước vào phòng khách, và phát hiện ra cả ba người nhà Riddle đều đã chết. Cô hầu gái vừa la vừa chạy xuống đồi để vô làng, đánh thức tất cả những người mà cô ta có thể đánh thức được: "Nằm đó mắt mở trừng trừng! Lạnh như băng! Vẫn còn ăn mặc trịnh trọng! " Cảnh sát được gọi đến, và cả cái làng Hangleton Nhỏ sôi sục lên đầy tọc mạch khích động cùng vẻ hào hứng cố giấu mà không xong. Mà cũng không ai hơi đâu giả bộ đau buồn thương tiếc gia đình Riddle làm gì, bởi vì những người họ Riddle không được ai ưa hết. Ông bà Riddle vốn giàu có, hợm hĩnh, bất lịch sự; và người con trai đã lớn của họ -Tom- nếu có khác thì chỉ khác ở chỗ xấu xa hơn thôi. Tất cả dân làng đều chỉ quan tâm đến lí lịch của kẻ sát nhân, vì rõ ràng là ba người lớn khoẻ mạnh cùi cụi đó không thể bỗng cùng lăn đùng ra chết trong một đêm chỉ vì những nguyên nhân thông thường nào đó. Quán rượu Kẻ Chết Treo đột nhiên buôn may bán đắt ngay đêm đó; gần như cả cái làng kéo nhau ra đó hết để bàn tán về bọn sát nhân. Những kẻ chịu khó bỏ chỗ ngồi êm ấm bên lò sưởi nhà mình để ra đây cuối cùng cũng được tưởng thưởng khi bà bếp của nhà Riddle đột ngột đến nhập bọn và tuyên bố cho cả cái quán chợt lặng trang rằng một người đàn ông tên là Frank Bryce vừa mới bị bắt. Nhiều người cùng thốt lên: "Frank hả? Không đời nào! " Frank Bryce là người làm vườn của nhà Riddle. Gã sống một mình ở căn chòi ọp ẹp trong sân vườn của Ngôi nhà Riddle. Frank đã từ chiến trường trở về với một cái chân què và sự chán ghét đám đông, ghét tiếng động ồn ào. Và gã đã làm việc cho gia đình Riddle từ ấy. Mọi người bèn xúm lại mua mấy thứ giải khát lạnh cho bà bếp để nghe thêm chi tiết. Sau ly rượu ngọt thứ tư, bà bếp nói với những dân làng đang háo hức lắng nghe: " Lúc nào tôi cũng thấy thằng cha đó quái dị. Thiệt là thiếu thân thiện. Tui biết chắc là nếu mà tui mời được thằng chả một lần thì tui đã mời chả cả trăm lần rồi. Không đời nào chịu hòa nhập, thằng chả là vậy đó!" Một người đàn bà ở quầy rượu nói: " À, do vầy nè, anh ta đã trải qua một cuộc chiến tranh tàn khốc, anh chàng Frank ấy. Anh ta ưa đời sống yên tịnh. Chả có lí do nào để..." Bà bếp sửng cồ ngay: " Vậy chứ còn ai khác có chìa khóa cửa sau hử? Theo như tui nhớ thì có một chiếc chìa khóa sơ cua treo trong căn chòi của người làm vườn! Tối hôm qua đâu có ai phá cửa vô nhà! Cũng không có cửa sổ nào bị đập bể hết! Thằng cha Frank chỉ làm có mỗi việc dễ ợt là rón rén đi lên Ngôi nhà Riddle khi mà tất cả chúng ta đang ngủ..." .. Mời các bạn đón đọc Harry Potter và Chiếc Cốc Lửa của tác giả J.K. Rowling.