Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bóng Hình Của Gió

Tên eBook: Bóng hình của gió (full prc, pdf, epub)  Tác giả: Carlos Ruiz Zafón Thể loại:  Lãng mạn, Tiểu thuyết, Văn học Tây Ban Nha Công ty phát hành: Nhã Nam  Nhà xuất bản: NXB Văn Học  Ngày xuất bản: 05/2014  Kích thước: 15 x 24 cm    Giá bìa: 118000 VNĐ   Hình thức: Bìa mềm  Chủ dự án: Phi Phi Yên Vũ  Chụp pic: Thiên Thiên  Type: Sư Tử, Aoi ChanChan, Quỳnh Như Nguyễn, Mai Ice, Yen Phan, Bon Bon, Kim Trâm Đặng  Beta: Gomu Gomu  Tạo prc: Annabelle Tran  Nguồn: Hội chăm chỉ làm eBook free  Ebook: Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com Tác giả Carlos Ruiz Zafón (sinh ngày 25/09/1964) Là một trong những nhà văn Tây Ban Nha thành công nhất hiện nay. Ông là tác giả nhiều tiểu thuyết viết cho lứa tuổi thiếu niên như El principe de la niebla (The Prince of Mist, 1993), El palacio de la medianoche (1994), Las luces de septiembre (1995) và Marina (1999). Năm 2001, ông cho in Bóng hình của gió (La sombra del viento) về sau bán được hàng triệu bản trên thế giới, được giới phê bình khen ngợi và giành được nhiều giải thưởng quốc tế. Sau đó, năm 2008, ông cho ra đời El juego del angel (Trò chơi của thiên thần), và El prisionero del cielo (Tù nhân của trời, 2011), hai cuốn trong một bộ tứ khởi đầu bằng Bóng hình của gió. Sách của Zafón đã được dịch ra hơn 40 thứ tiếng trên thế giới. “Một trong những cuốn tiểu thuyết hiếm hoi kết hợp cốt truyện đặc sắc với văn chương kỹ tuyệt... chỉ cần người này bảo người kia thôi cũng đã thành sách bán chạy.” -Sunday Times- “Zafón đưa vào câu chuyện một liều lượng tình yêu thật lớn, rồi thì đủ ma thuật, đủ giết người và đủ điên loạn để khiến ngay cả người đọc miễn cưỡng nhất cũng bị hút vào không dứt ra được. Hay đến kinh người.” -Elle- “Bóng hình của gió là một tiểu thuyết đầy những huy hoàng lừa mị và những cửa bẫy kêu ken két, một tiểu thuyết mà ngay cả các tuyến truyện phụ cũng có tuyến truyện phụ riêng... một tiểu thuyết hay vô cùng.” -Stephen King- ***   Nghĩa Trang Những Cuốn Sách Bị Lãng Quên, nơi chốn mang cái tên kỳ dị này ẩn chứa những gì? Sau khi Daniel Sempre, mười tuổi, mang ra khỏi đó một cuốn sách do cậu tự chọn với sự cho phép của cha, gần như ngay sau đó cậu bị một kẻ lạ gớm ghiết đáng sợ có khuôn mặt hoàn toàn biến dạng theo sát gót. Hắn muốn gì? Cuốn sách kia, Bóng hình của gió mà cậu giữ trong tay, nó hay tác giả của nó mang những bí mật u tối nào khiến cho dường như nhiều phận người bị liên lụy với nó đến vậy? Trong cơn xoáy lốc chầm chậm nhưng chết chóc tỏa ra từ Bóng hình của gió và những bí ẩn đằng sau nó, Daniel phải chiến đấu ra sao để bảo vệ người mình yêu cũng như những người khác ban đầu xa lạ song cũng dần dần trở nên thân thiết với cậu?   ~*~   Một câu chuyện thật đẹp nơi mà tình yêu, hận thù, tình bạn, ý thức nghĩa vụ... đều tuyệt đỉnh. Và bàng bạc khắp là thành phố Barcelona, thủ phú xứ Catalan nước Tây Ban Nha, kỳ vĩ, diễm lệ, bí ẩn, một trong những nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết. *** Nghĩa Trang Những Cuốn Sách Bị Lãng Quên   -o0o-   TÔI VẪN CÒN NHỚ CÁI NGÀY CHA DẪN TÔI tới Nghĩa Trang Những Cuốn Sách Bị Lãng Quên lần đầu tiên. Đó là vào đầu hè năm 1945, chúng tôi rảo bước qua những con phố của một Barcelona bị giam hãm dưới những khoảng trời xám tro khi bình minh trút xuống Đại lộ Rambla de Santa Mónica một dòng sáng cuồn cuộn sắc đồng đỏ.   “Daniel, con không kể với bất kỳ ai những gì sắp thấy ngày hôm nay,” cha tôi cảnh cáo. “Kể cả cậu bạn Tomás của con. Không một ai hết.”   “Kể cả mẹ ư?”   Cha tôi thở dài, lẩn vào sau nụ cười buồn cứ đằng đẵng bám theo ông suốt đời như một cái bóng.   “Đương nhiên là với mẹ thì được,” ông trả lời, lòng nặng trĩu. “Chúng ta không giữ bí mật gì với mẹ cả. Con có thể kể cho mẹ mọi chuyện.”   Không lâu sau cuộc nội chiến, một đợt dịch tả bùng phát đã đem mẹ tôi đi mất. Chúng tôi an táng bà trên đồi Montjuïc vào ngày sinh nhật lần thứ tư của tôi. Điều duy nhất tôi nhớ được là hôm ấy trời mưa cả ngày lẫn đêm, và khi tôi hỏi cha liệu phải chăng Thượng đế cũng đang khóc thương, ông đã không thể cất tiếng trả lời. Sáu năm sau đó sự vắng bóng của mẹ vận còn đọng lại trong bầu không khí bao trùm quanh cha con tôi, một sự câm lặng đến chói tai mà tôi mãi không học được cách khắc chế bằng lời nói. Hai cha con tôi sống trong một căn hộ tầm tầm trên khu phố Santa Ana, cách quảng trường nhà thờ một quãng ngắn. Căn hộ của chúng tôi nằm ngay trên tiệm sách, một cửa tiệm tạp nham nhưng đầy sức quyến rũ, nơi đặc biệt chỉ chuyên mua sách hiếm và sách cũ – một di sản ông tôi để lại, mà cha hy vọng một ngày kia tôi sẽ kế thừa. Lớn lên giữa bao cuốn sách, tôi kết thân với những người người bạn vô hình trong các trang giấy dường như đúc từ bụi mà thành và mùi của họ đến tận bây giờ hai tay tôi vẫn còn mang đậm. Lúc còn nhỏ tôi học được cách chìm vào giấc ngủ giữa khi đang nói chuyện với mẹ trong bóng tốicăn phòng ngủ của tôi, thao thao với bà về những sự kiện trong ngày, chuyến phiêu lưu của tôi ở trường, những điều tôi được thầy cô chỉ dạy. Tôi không nghe được giọng nói hay cảm nhận được những vuốt ve của bà, nhưng sự rạng ngời và hơi ấm của bà ngập tràn mọi ngóc ngách trong ngôi nhà, và với sự ngây thơ của những đứa trẻ vẫn còn đếm ssược số tuổi của mình trên mười đầu ngón tay, tôi tin rằng nếu tôi nhắm mắt lại và thủ thỉ với mẹ thì mẹ có thể nghe thấy giọng tôi dù bà có đang ở nơi đâu đi nữa. Có đôi lần khi đang ngồi trong phòng ăn , cha nghe thấy tôi đang lầm rầm, ông thầm khóc trong im lặng.   Vào buổi sáng tháng Sáu hôm đó, trời vừa hừng sáng tôi đã bật dậy hét toáng lên. Tim tôi đấp thình thịch trong lồng ngực như thể chính linh hồn tôi đang muốn xé toang lối ra và   bỏ chạy khỏi thang gác. Cha vội vã xộc vào phòng và bao bọc tôi trong vòng tay ông, gắng sức trấn an tôi.   “Con không thể nhớ nổi. Con không nhớ được khuôn mặt của mẹ,” tôi thều thào, không ra hơi.   Cha siết chặt tay tôi.   “Đừng lo, Daniel. Cha sẽ nhớ cả hai chúng ta.”   Chúng tôi nhìn nhau trong căn phòng chạng vạng sáng, gắng sức thốt lên những từ ngữ vốn không hề tồn tại. Lần đầu tiên, tôi nhận ra rằng cha đang già đi. Ông đứng dậy vén rèm để cho ánh ban mai nhợt nhạt tràn vào.   “Đi nào, Daniel, mặc quần áo vào. Cha muốn cho con xem một thứ,” ông nói.   “Có những thứ chỉ nhìn thấy được trong bóng tối,” cha tôi nói, thoáng lên một nụ cười bí ẩn dường như vay mượn đâu đó từ những cuốn tiểu thuyết lãng mạn của Alexandre Dumas cũ nát của ông.   Lính tuần tra ban đêm vẫn đang loanh quanh trên các con phố mù sương khi chúng tôi bước ra cửa chính. Hàng đèn đường dọc khu RamBlas phác nên một đại lộ trong làn sương sớm khi thành phố bát đầu thức tỉnh, giống như một bức tranh màu nước chầm chậm trở thành thực tại. Sau khi tới được phố Nhà Hát Cổng Vòm[1], chúng tôi tiếp tục đi dọc theo dãy mái vòm của con phố dẫn về phía quận Raval, cùng tiến vào một vòm mù sương xám. Tôi theo bước cha dấn sâu vào lòng con hẻm hẹp, giống một vết sẹo hơn là một con phố, cho tới khi hình bóng của khu Ramblas dần tan mất phía sau hai chúng tôi. Ánh ban mai bị những ban công và mái đua gạn xuống thành những dải sáng xiên yếu ớt hòa tan vào bầu không trước khi chạm được tới mặt đất. Cuối cùng cha tôi dừng lại trước một cách cổng lớn bằng gỗ chạm, úa đen vì ẩm mốc và thời gian. Trước mắt chúng tôi lù lù hiện ra một công trình mà trong mắt tôi trông như xác chết của một toà lâu đài, nơi chốn của những tiếng vọng và bóng đen.   [1. Nguyên gốc: Arco del Teatro.]   “Daniel, con không được kể với bất kỳ ai những gì sắp thấy ngày hôm nay. Kể cả cậu bạn Tomás của con. Không một ai hết.”   Một người đàn ông nhỏ thó với khuôn mặt diều hâu đóng khung trong mái tóc xám dày ra mở cửa cho chúng tôi. Đôi mắt ông xoáy vào tôi một ánh nhìn sâu thẳm đầy cảnh giác như của loài chim ưng.   “Chào buổi sáng, Isaac. Đây là con trai tôi, Daniel,” cha tôi thông báo. “Nó sắp mười một tuổi rồi, về sau cửa hiệu sẽ là của nó. Giờ là lúc nó nên biết tới nơi này.”   Người đàn ông tên Isaac gật đầu và mời chúng tôi vào. Một cảnh u minh nhuốm sắc xanh làm mờ đi các đường quanh lượn sóng của một cầu thang đá cẩm thạch và dãy tranh tường đầy các nhân vật là những thiên thần và các sinh vật trong truyền thuyết. Chúng tôi theo chủ nhà đi qua dãy hành lang nguy nga dẫn tới một đại sảnh lớn hình tròn, cả một vương cung thành đường bóng tối hình xoắn ốc cuộn lên, bị những tia nắng từ mái vòm bên trên xuyên thủng. Những lối đi giữa các giá cao lên kín sách từ chân đến đỉnh làm nên cả một mê cung như một tổ ong kết hợp từ vô số đường hầm, nấc thang, bậc thềm và cầu nối – cho thấy trước về một thư viện khổng lồ có cấu trúc hình học tưởng như không thể tồn tại trên đời. Tôi ngước lên nhìn cha, sững người kinh ngạc. Ông cười và nháy mắt với tôi.   "Chào mừng con đến với Nghĩa Trang Những Cuốn Sách Bị Lãng Quên, Daniel.”   Tôi nhìn ra được chừng hơn chục người rải rác khắp các lối đi và thềm thư viện. Một vài trong số họ quay ra chào tôi từ xa, tôi nhận ra khuôn mặt các đồng nghiệp của cha tôi, họ là những người bạn cùng phường buôn sách cũ. Qua góc nhìn của đứa trẻ mới mười tuổi là tôi, họ trông như thể một hội kín các nhà giả kim đang nghiên cứu trong lén lút. Cha quỳ xuống cạnh tôi, đăm đăm nhìn vào mắt tôi mà nói bằng giọng thì thầm vốn chỉ dành để thốt ra các bí mật và lời thề.   “Đây là một nơi chốn của bí mật, Daniel, một thánh đường. Mỗi câu chuyện, mỗi tập sách con thấy ở đây đều chứa đựng một tâm hồn. Tâm hồn của người đã viết nên cuốn sách, của những người đã đọc, sống và mơ ước cùng nó. Mỗi lần một cuốn sách qua tay một người đọc khác, mỗi lần người nào đó lướt mắt qua từng trang sách là một lần linh hồn của cuốn sách ấy trưởng thành và trở nên mạnh mẽ hơn. Thư viện này đã rất lâu đời khi ông con dẫn cha tới đây lần đầu, nhiều năm về trước. Có lẽ nó cũng nhiều tuổi như thành phố này vậy. Không ai biết rõ thư viện này có từ khi nào, hay ai đã lập ra nó. Dù vậy, cha sẽ truyền lại hết cho con những điều đã được ông con chỉ dạy. Khi một thư viện biến mất, hay một hiệu sách phải đóng cửa, khi một cuốn sách bị ký thác cho sự lãng quên, những người biết rõ nơi này như chúng ta, những người bảo hộ cho cuốn sách, phải đảm bảo rằng cuốn sách ấy được đem tới đây. Ở nơi này, những cuốn sách không còn được ai nhớ tới, những cuốn sách bị quên lãng theo thời gian, đều sẽ tồn tại mãi mãi, im lìm chờ một ngày kia tới được tay một người đọc mới. Ở cửa tiệm chúng ta mua đi bán lại những cuốn sách, nhưng thực tế chúng không hề có chủ. Mỗi cuốn sách con thấy ở đây đều từng là người bạn thân thiết nhất của ai đó. Giờ chúng chỉ còn mỗi chúng ta thôi, Daniel ạ. Liệu con có thể giữ kín một bí mật nhường này chăng?”   Ánh nhìn của tôi lạc lối trong sự kỳ vĩ và trò ảo thuật ánh sáng của thư viện. Tôi gật đầu, và cha khẽ mỉm cười.   “Con có biết điều tuyệt vời nhất trong chuyện này không?” ông hỏi.   Tôi lắc đầu.   “Theo truyền thống, khi ai đó tới đây lần đầu tiên, anh ta phải chọn một cuốn sách, bất kể cuốn gì, và nhận bảo trợ cho nó, đảm bảo rằng cuốn sách ấy sẽ không bao giờ biến mất, rằng nó sẽ mãi tồn tại. Đó là một lời thề vô cùng quan trọng. Nó sẽ theo con suốt cuộc đời,” cha tôi giải thích. “Hôm nay đến lượt con đấy.”   Trong suốt một tiếng rưỡi đồng hồ, tôi thơ thẩn trong lòng chốn mê cung quanh co ấy, hít thở trong mùi giấy cũ và bụi bặm. Tôi lướt tay qua hàng hàng gáy sách trên giá, trầm ngâm suy nghĩ xem mình sẽ chọn cuốn gì. Trong số những dòng nhan đề bị phai mờ theo thời gian, tôi nhìn ra các từ thuộc những thứ ngôn ngữ quen thuộc và những từ khác tôi không thể nhận biết. Tôi lang thang khắp những dãy dài lèn kín hàng trăm, hàng nghìn tập sách. Sau một hồi tôi chợt ngộ ra rằng giữa những trang bìa của mỗi cuốn sách kia đều tồn tại một vũ trụ không bờ bến đang chờ được khám phá, trong khi ấy, bên kia những bức tường này, tại thế giới bên ngoài, người ta để mặc cho cuộc sống trôi qua với những buổi chiều chìm đắm trong bóng đá và các xê ri kịch truyền thanh sướt mướt, hài lòng với chuyện chả quan tâm gì hơn những vấn đề của riêng mình. Có lẽ là chính cái ý nghĩ ấy, hoặc cũng có thể chỉ do ngẫu nhiên, hay do số phận  –  người họ hàng hoa mỹ hơn của sự ngẫu nhiên, song chỉ biết rằng đúng vào thời khắc ấy tôi thấy mình đã chọn được cuốn sách cần phải bảo trợ, hay có khi chính cuốn sách ấy mới bảo trợ cho tôi. Nó nổi bật một cách khiêm tốn trên góc một giá sách, bọc bìa da có màu rượu vang. Những con chữ nhan đề bằng vàng long lanh trong những giọt nắng từ mái vòm phía trên rỉ xuống. Tôi lại gần, vừa nhẹ nhàng mân mê dòng chữ bằng đầu ngón tay vừa thầm thì đọc lên:   BÓNG HÌNH CỦA GIÓ   Julián Carax   Tôi chưa bao giờ biết đến nhan đề hay tác giả này, nhưng tôi không để tâm tới điều đó. Ý đã quyết rồi. Cẩn trọng hết mức, tôi nhấc cuốn sách xuống giở lướt qua các trang giấy, mặc chúng khẽ kêu lật phật. Được giải thoát khỏi nơi giam cầm trên giá sách, Bóng hình của gió toả ra một đám mây bụi vàng óng. Hài lòng với lựa chọn của mình, tôi kẹp cuốn sách vào nách rồi lần ngược lại các bước chân mình trong thư viện để quay trở ra, với một nụ cười trên môi. Có lẽ bầu không khí mê ảo nơi đây đã mạnh hơn tôi, song dù sao tôi cũng chắc chắn rằng Bóng hình của gió đã nằm đây bao năm chỉ để đợi chính tôi, thậm chí có khi còn từ trước cả khi tôi ra đời.   CHIỀU HÔM ĐÓ, ở căn hộ trên phố Santa Ana, tôi nhốt mình trong phòng để nghiền ngẫm những dòng đầu sách. Trước khi kịp nhận ra, tôi đã mê đắm nó tự lúc nào. Cuốn tiểu thuyết kể câu chuyện về một người đàn ông trên hành trình tìm lại cha ruột của mình, người mà anh chưa từng được biết đến cho tới khi mẹ anh tiết lộ về sự tồn tại của ông lúc bà đang hấp hối trên giường bệnh. Câu chuyện về hành trình tìm cha ấy trở thành một cuộc phiêu lưu siêu tưởng mà trong đó nhân vật chính phải đấu tranh để giành lại thời thanh xuân đã mất, và trong đó bóng ma của một tình yêu bị nguyền rủa dần dần hiện ra ám ảnh anh cho tới tận hơi thở cuối cùng. Khi bí ẩn được hé lộ, câu chuyện gợi tôi nhớ đến một trong những con búp bê Nga, loại có thể chứa vô số bản sao mỗi lúc một nhỏ dần của chính nó ở trong mình nó. Từng bước từng bước câu chuyện cứ tách ra thành hàng ngàn câu chuyện, như thể cuốn tiểu thuyết đó bước vào một khu trưng bày gương kính, khiến nhân dạng của nó phân mảnh rồi tan hoà vào vô cùng tận những ảnh ảo phản xạ. Từng phút từng giờ lướt qua cứ nhanh như trong mơ. Khi tiếng chuông nhà thờ báo hiệu nửa đêm, tôi hầu như chẳng nghe thấy. Dưới ánh sáng ấm áp từ chiếc đèn bàn hắt xuống, tôi bị ném vào một thế giới xa lạ đầy những hình ảnh và xúc cảm, với những nhân vật mà với tôi cũng thật như bầu không khí tôi đang hít thở. Trang này nối tiếp trang kia, tôi mặc cho bản thân bị ma thuật của cuốn sách và thế giới bên trong nó bỏ bùa hoàn toàn, cho tới khi hơi thở của bình minh chạm tay vào cửa sổ phòng và đôi mắt mỏi mệt của tôi lướt qua trang cuối cùng. Tôi nằm trong ánh mờ nhập nhoạng sắc xanh với cuốn sách trên ngực, lắng nghe tiếng lầm rầm của thành phố còn say ngủ. Mắt tôi dần trĩu nặng, nhưng tôi cố cưỡng lại cơn buồn ngủ. Tôi còn chưa muốn ma thuật của câu chuyện tan biến đi, cũng chưa muốn nói lời chia tay với những nhân vật trong đó.   MỘT LẦN NỌ, trong cửa hàng sách của cha, tôi nghe một khách hàng quen nói rằng hiếm có gì để lại dấu ấn trong lòng người đọc sâu đậm như cuốn sách đầu tiên tìm được đường vào trái tim người đó. Những hình ảnh đầu tiên ấy, tiếng vọng của những từ ngữ mà ta tưởng mình đã bỏ quên lại phía sau tự khi nào, chúng vẫn đồng hành cùng ta trong suốt cuộc đời, chúng khắc tạc một lâu đài trong ký ức ta, nơi mà sớm hay muộn – bất kể ta có đọc bao nhiêu cuốn sách, khám phá ra bao nhiêu thế giới, thậm chí học được cách lãng quên bao nhiêu điều  –  chúng ta vẫn sẽ quay trở lại. Với tôi, những trang sách nhiệm mầu đó sẽ luôn là những trang sách tôi khám phá ra trong hành lang nơi Nghĩa Trang Những Cuốn Sách Bị Lãng Quên      Mời các bạn đón đọc Bóng hình của gió của tác giả Carlos Ruiz Zafón.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Đi Ra Từ Bóng Tối
Bộ ba tự truyện nổi tiếng của Dave Pelzer – câu chuyện khó tin và có giá trị truyền cảm hứng về cuộc đời của chính tác giả – đã thu hút sự quan tâm theo dõi của hàng triệu độc giả trên toàn thế giới. Đi Ra Từ Bóng Tối là phần kết thúc được chờ đợi từ rất lâu trong bộ ba tác phẩm: Không Nơi Nương Tựa (A Child Called “It”), Đứa Trẻ Lạc Loài (The Lost Boy) và Đi Ra Từ Bóng Tối (A Man Named Dave). Câu chuyện là hồi kết cho cuộc đấu tranh sinh tồn không ngừng của cậu bé David đáng thương qua bao năm tháng sống trong sự bạo hành về thể xác lẫn tinh thần do chính người mẹ ruột gây ra. Câu chuyện đưa người đọc đi cùng chàng trai tên Dave qua những khúc quanh cuộc đời để trở thành một người đàn ông trưởng thành, đầy khát vọng sống. Giấc mơ cuộc đời, thất bại đắng cay, vinh quang ngọt ngào và hạnh phúc vẹn tròn là những gì người đọc sẽ cảm nhận được bằng những rung cảm chân thật nhất, sâu sắc nhất đằng sau những trang sách sống động của Đi Ra Từ Bóng Tối. Chàng thanh niên tên Dave sẽ phải đối diện như thế nào trước sự thật rằng cha mình - vị anh hùng trong những giấc mơ thuở bé của cậu - sẽ không còn sống được bao lâu nữa? Cậu sẽ làm gì với tâm nguyện một lần được trò chuyện với cha như bao đứa con trai bình thường khác khi ông thậm chí còn không đủ sức để siết nhẹ bàn tay cậu? Cậu sẽ đối xử như thế nào với người mẹ nghiện ngập, tàn bạo người đã chối bỏ sự tồn tại của con trai mình và đem đến bao nỗi kinh hoàng cho tuổi thơ của nó? Và cuối cùng, liệu có ai đó để cậu yêu thương, tin tưởng và giúp cậu lấy lại niềm tin vào tình cảm thiêng liêng của gia đình hay không? Đi Ra Từ Bóng Tối sẽ lần lượt giúp người đọc tháo gỡ tất cả những nút thắt ấy, dẫn dắt chúng ta tìm ra câu trả lời cho số phận của Dave, của từng nhân vật trong tác phẩm tự truyện. Và, có thể ở đâu đó trong tác phẩm, người đọc cũng sẽ tìm thấy câu trả lời cho cuộc đời của chính mình như những ai đã có may mắn được là người đầu tiên đọc và làm công việc chuyển ngữ cho bộ ba tác phẩm này vậy. Với sự bao dung vô biên và lòng can đảm tuyệt vời, Dave Pelzer đã làm nên một kết thúc hoàn hảo cho bộ ba tự truyện của mình cũng như cho chính cuộc đời của ông. Bằng kết thúc ấy, Dave Pelzer đã minh chứng một cách hùng hồn rằng: Không một thế lực, một xiềng xích nào có thể trói buộc được ý chí của con người. Ý nghĩa lớn lao này thật quý giá biết bao đối với những ai đang trên con đường đi tìm hạnh phúc đích thực trong cuộc sống. *** David James Pelzer sinh ngày 29/12/1960, là con trai thứ hai trong gia đình có năm người con trai. Tuy nhiên, mọi thứ trở nên vô cùng tồi tệ khi David bắt đầu bị mẹ ruột của mình hành hạ từ năm lên 4 tuổi. Sự ngược đãi mà David Pelzer phải chịu đựng nghiêm trọng đến mức nó đã trở thành một trong những trường hợp ngược đãi trẻ em tồi tệ nhất được biết đến ở Mỹ. Bộ ba tác phẩm Không Nơi Nương Tựa(1995), Đứa Trẻ Lạc Loài (1997) và Đi Ra Từ Bóng Tối (1999) tái hiện câu chuyện tuổi ngây thơ rúng động dư luận của ông. Dave Pelzer được xem là một trong những phát ngôn viên quốc gia làm việc hiệu quả nhất và đáng tin cậy nhất, chuyên hoạt động trong các nhóm hội, tổ chức chuyên nghiệp về dịch vụ nhân quyền. Dave đã nhận được những lời khen tặng từ đích thân cựu Tổng thống Ronald Reagan và George Bussh. Năm 1993, Dave được vinh danh là một trong mười Đại diện tiêu biểu nhất của Thanh niên Hoa Kỳ và năm 1994, Dave là công dân duy nhất của nước Mỹ vinh dự được trao tặng giải thưởng Thanh niên tiêu biểu nhất của thế giới. Dave còn được chọn làm người rước đuốc trong Thế Vận hội năm 1996. Dave đã cống hiến cả cuộc đời mình để giúp nhiều người khác thoát khỏi nghịch cảnh. Vượt qua một tuổi thơ u tối và nghiệt ngã, Dave trở thành một sĩ quan Không quân Hoa Kỳ. Trước khi về hưu, ông từng đóng vai trò quan trọng trong một số hoạt động mang tên Just Cause, Desert Shield và Desert Storm. Trong thời gian phục vụ trong không quân, Dave còn hoạt động trong Hội Trẻ vị thành niên và những chương trình khác về “Tuổi trẻ với những nguy cơ” trên toàn bang California. Những thành tựu đáng kể của Dave đã được thừa nhận bằng nhiều giải thưởng cũng như những nhận xét cá nhân của các cựu Tổng thống Ronald Reagan, George Bush và Bill Clinton. Năm 1990, ông là người được nhận giải thưởng J.C. Penney Golden Rule. Tháng 1 năm 1993, Dave vinh dự được bầu chọn là một trong mười thanh niên xuất sắc của Hoa Kỳ. Tháng 11 năm 1994, Dave là công dân Mỹ duy nhất được trao tặng giải thưởng Thanh niên tiêu biểu nhất của Thế giới ở Kobe, Nhật, vì những cống hiến của anh trong lĩnh vực thông tin và ngăn ngừa nạn bạo hành trẻ em cũng như cổ vũ tinh thần và truyền cảm hứng để người khác có được ý chí kiên cường. Dave còn vinh dự được rước đuốc trong Thế vận hội năm 1996. Dave hiện sống một cuộc sống hạnh phúc ở Rancho Mirage, California, với vợ, con trai Stephen và chú rùa cưng tên Chuck. Những hoạt động vì thanh thiếu niên của Dave Pelzer có thể được tìm hiểu thêm tại website: www.davepelzer.com *** Ngày 4 tháng 3 năm 1973 Thành phố Daly, California Tôi sợ hãi. Chân tôi lạnh buốt và bụng kêu gào vì đói. Trong bóng tối của cái ga-ra, tôi chăm chú căng tai lắng nghe từng tiếng động nhỏ nhất từ phía phòng của mẹ ở trên lầu, từng tiếng cót két mỗi khi bà trở mình. Tôi thậm chí còn có thể biết được bà đang ngủ hay chuẩn bị tỉnh giấc qua những tiếng ho khan của bà. Tôi mong bà không bị tỉnh giấc bởi chính những tiếng ho của mình. Tôi ước mình có thêm một chút thời gian. Chỉ còn vài phút là một ngày tồi tệ nữa lại bắt đầu. Tôi nhắm mắt lại và lẩm bẩm nhanh một lời cầu nguyện, mặc dù tôi biết rõ Chúa chẳng mấy yêu quý mình. Bởi tôi chẳng xứng đáng làm một thành viên của “Gia đình”, nên tôi phải ngủ trên một cái cũi cũ kỹ, xấu xí và thậm chí chẳng có lấy một cái chăn. Tôi cuộn tròn như một quả bóng để cố giữ cho cơ thể càng ấm càng tốt. Tôi lấy áo sơ mi trùm kín đầu, hy vọng hơi thở của mình sẽ giúp mặt và tai ấm hơn một chút. Tôi kẹp hai tay vào giữa hai chân, có khi kẹp vào nách để bớt lạnh. Bất kỳ lúc nào đủ dũng khí và biết chắc rằng mẹ đã ngủ rất say, tôi mới dám trộm một cái giẻ rách từ đống đồ dơ quấn chặt quanh chân để giữ ấm. Tôi làm mọi thứ để có thể ấm hơn một chút. Giữ ấm được nghĩa là sống sót. Cả tinh thần lẫn thể chất của tôi đều rã rời. Phải mất hàng mấy tháng trời tôi mới có thể thoát khỏi những cơn ác mộng. Dù có cố thế nào đi chăng nữa, tôi vẫn không tài nào ngủ lại được. Toàn thân tôi tê cóng. Đầu gối tôi rung lên bần bật. Tôi khẽ cọ hai bàn chân vào nhau, lòng vẫn nơm nớp lo sợ nếu gây ra bất cứ tiếng động nào thì mẹ cũng sẽ nghe thấy. Tôi không được phép làm bất kỳ điều gì nếu không có lệnh trực tiếp của bà. Thậm chí ngay cả khi tôi biết bà đã chìm lại vào giấc ngủ, tôi vẫn có cảm giác bà đang kiểm soát tôi. Mẹ vẫn luôn như vậy. Đầu óc tôi bắt đầu quay cuồng khi cố nhớ lại quá khứ. Tôi biết rằng để sống sót, tôi phải tìm những lời giải đáp ngay trong quá khứ của mình. Ngoài giải pháp để có cái ăn, để được sưởi ấm, để được sống sót, việc tìm hiểu lý do vì sao mẹ lại đối xử với tôi như vậy cũng sẽ chi phối rất nhiều đến cuộc sống của tôi. Những ký ức đầu tiên của tôi về mẹ chỉ là những lời chửi mắng và nỗi khiếp đảm. Năm tôi lên bốn, chỉ cần nghe giọng nói của bà thế nào là tôi có thể biết ngày hôm ấy của tôi sẽ ra sao. Bất cứ khi nào bà tỏ ra kiên nhẫn và độ lượng, bà chính là “Người mẹ hiền”; nhưng mỗi khi bà nổi giận và điên tiết với mọi thứ, thì bà chính là “Mẹ” - một người mẹ lạnh lùng, vô cảm, sẵn sàng hành hạ tôi bằng những cách không ai có thể ngờ được. Tôi lúc nào cũng nơm nớp lo sợ sẽ làm bà phật lòng, thậm chí tôi còn chẳng dám vào nhà vệ sinh nếu không xin phép bà trước. Dù còn rất bé, nhưng tôi cũng nhận ra rằng càng uống rượu nhiều, mẹ càng thay đổi nhanh và để con người thứ hai kiểm soát mình hoàn toàn. Một buổi chiều Chủ nhật nọ, lúc đó tôi mới năm tuổi, trong lúc say khướt, bà đã tấn công và vô tình làm gãy tay tôi. Ngay khi nhận ra mọi chuyện, mắt bà mở thao láo như hai đồng đô-la bạc. Mẹ biết bà đã đi quá đà. Bà biết bản thân mình đã mất kiểm soát. Sự việc đó không còn đơn giản như những cái tát, những cú đấm hay những lần tôi bị ném xuống cầu thang trước đây. Mời các bạn đón đọc Đi Ra Từ Bóng Tối của tác giả Dave Pelzer....
Theo Đuổi
Là một trong 5 tác phẩm lọt vào vòng chung khảo Giải thưởng Văn học Đoàn Thị Điểm, Theo Đuổi của cây bút trẻ Phạm Thanh Thúy sẽ khiến bạn đọc day dứt mãi cùng nỗi trăn trở khôn nguôi: - Bạn sẽ đến tương lai hay trở về quá khứ, nếu có thể xoay chiều thời gian? - Nhân duyên và những nợ nần tiền kiếp là gì? - Và nếu kiếp trước bạn nợ một ai đó, kiếp này bạn sẽ phải trả họ bằng những nỗi buồn, vì họ… Theo Đuổi viết về cô gái trẻ Hàm Yên. Suốt thời thanh xuân, Hàm Yên ôm ấp mối tình từ thuở thơ bé với người bạn thiếu thời tên Phố. Duyên phận đưa Hàm Yên và Phố đến những cuộc gặp gỡ tình cờ. Hết lần này đến lần khác, họ để lỡ nhau. Hàm Yên luôn muốn gợi cho Phố nhớ về những ký ức thời thơ bé, trong đó có cả ký ức đau buồn về cái chết của bố mẹ anh. Ngược lại, Phố tìm cách quên đi. Họ cứ thế đi tìm bóng hình nhau. Khi đã ở bên nhau, họ lại làm tổn thương nhau bằng ký ức. *** Tôi đến Cẩm Xuyên vào giữa mùa mưa. Mưa suốt ngày suốt đêm, mưa gối ngày này sang ngày khác. Bầu trời gần như lúc nào cũng sũng nước. Vào những khi mưa ngớt, từ trên cung đường quanh co uốn lượn theo dáng núi, thấy phía xa xa những thác nước huyền ảo như những áng tóc buông dài của nữ chúa thượng ngàn. Rồi thình lình, hàng trăm con thác ấy đột ngột băng qua đường, tuyệt đẹp và hung hãn, dường như muốn ngốn ngấu lấy tất cả những vật thể bé nhỏ đang trườn trên lằn chỉ vắt ngang núi kia. Con đường nhỏ chìm lút trong làn mưa trắng xóa. Vượt qua hàng trăm con thác trữ tình ấy thì đến Cẩm Xuyên. Cẩm Xuyên nằm trên độ cao 1500 mét so với mực nước biển. Cảm nhận đầu tiên chính là lạnh. Cái lạnh của gió, của hơi nước khi những đám mây trườn trên những ngọn núi, luồn sâu vào từng kẽ lá, băng qua những cây cầu treo chênh chao bắc ngang lòng những con suối mùa mưa sục sôi gầm gào bất tận. Ở xứ này, lúc nào người ta cũng có thể nghe thấy tiếng thác nước tuôn ở đâu đó. Khu nhà cũ, tường vôi trắng loang lổ tróc từng mảng thảm hại, rêu xanh phủ dày trên mái ngói. Và căn phòng, vì lâu không có người ở, toát lên một mùi đặc trưng ẩm mốc, sự cô đơn, lạnh lẽo và nỗi buồn. Nỗi buồn dường như trú ngụ ở đó từ rất lâu, thấm vào từng mi-li-mét không khí. Có hai cửa sổ, tất cả đều sơn xanh, có sẵn một số đồ đạc thiết yếu, hẳn nhiều người đã từng sống ở đó. Phía sau là một đồi thông. Tôi nhận lời viết tự truyện cho một cựu quan chức. Một người đàn bà quyền lực, nay đã nghỉ hưu và hưởng thụ cuộc sống nhàn nhã sau cả một đời lăn lộn với chính trường. Tài liệu đã thu thập đầy đủ từ một năm trước, giờ tôi chỉ cần tìm một nơi gợi cảm xúc để viết thành một cuốn sách. Một thời gian dài chìm trong nỗi buồn sâu thẳm, tôi muốn đến Cẩm Xuyên. Và tôi đã đến, giữa mùa mưa, sẽ ở lại một thời gian nào đó, tùy thuộc vào tôi quyết định. Trái ngược với vẻ u buồn của khu nhà là những bông hồng trước khoảng sân hẹp láng xi măng đã nhiều vết thủng lỗ chỗ. Những bông hoa màu hồng phấn, nở đều và dày, toát lên một mùi thơm ngọt ngào ngay cả khi những cơn mưa không ngừng gột rửa chúng. “Tất cả chỗ hoa này đều do Hạc trồng đấy”. Đó là câu Hải Đường giới thiệu với tôi về hoa. “Hạc là ai?”. Mời các bạn đón đọc Theo Đuổi của tác giả Phạm Thanh Thúy.
Phanny
Darkwater - tên đó đã được đặt cho ngôi nhà vì màu sắc tối tăm của những vũng nước còn đọng lại từ thế kỷ trước. Chiếc cầu treo đã mất, những hàng ống khói với hình dáng cong queo vẫn còn đó. Chỉ vào mùa hè nơi này mới có vẻ hiền hòa, những hình dáng khắc khổ của những cây dẻ ẩn hiện dưới hàng cây xanh rậm, những bông hoa dại màu vàng đong đưa bên bờ hồ và mặt nước in dấu những đám mây chạy trốn... Nhưng vào mùa đông thì cảnh vật hoàn toàn khác lạ. Những cái cây trong sân vườn trụi lá. Mây và sương mù giăng bay trên mặt đất…Gió xô mạnh vào cửa sổ làm những chiếc mành treo nặng nề căng lên kỳ quái... Bà Arabella với những câu chuyện khó tin mà bà hay kể. Bắt đầu bằng một chuyện cổ tích vô tư, nhưng khi những đứa bé bị hút hồn hoàn toàn, câu chuyện dần trở nên rùng rợn… Nhưng những cảnh sắc nặng nề, ảm đảm và câu chuyện bí ẩn của bà Arabella lại khiến Phanny thấy mê hoặc. Cô lớn lên với sự mạnh mẽ, kiên cường và lòng nhân hậu bao dung, dù cho bị chú thím cô đối xử như một người hầu gái, sự ganh tỵ của cô em và đặc biệt là tình yêu kỳ dị của người anh họ bệnh hoạn... Chuyện gì sẽ xảy đến trong cuộc đời cô? liệu Phanny có thoát được những mối đe dọa bủa vây và tìm thấy cho mình niềm hạnh phúc, sự bình yên và một tình yêu đích thực... *** Đánh giá về tác phẩm: ”Tiểu thuyết mới của Dorothy Eden diễn ra trong khung cảnh một gia đình giàu có, ngôi nhà được bao bọc xung quanh bởi một công viên râm mát một cách đáng lo ngại, một không khí nặng nề ảm đạm, gây cảm giác hồi hộp và bất ngờ đến phút cuối. Với không khí đậm chất Ăng-lê đặc trưng, Dorothy Eden một lần nữa chứng minh với chúng ta rằng bà là người rất thành thạo trong việc thêm thắt những yếu tố bất ngờ và cảm xúc với một quan điểm tâm lý khá cứng rắn và làm cho người đọc phải hồi hộp chờ đợi cho đến biến cố cuối cùng.” - bibliopoche.com ​ *** Dorothy Enid Eden (1912 - 1982) là một tiểu thuyết gia và nhà văn truyện ngắn. Bà sinh 03 Tháng 4 năm 1912 tại Canterbury Plains, New Zealand, nơi bà được học tập và làm việc như một thư ký pháp lý. Bà chuyển đến Anh vào năm 1954 để tập trung phát triển sự nghiệp văn chương của mình. Bà mất vì căn bệnh ung thư tại London vào ngày 4 tháng 3 năm 1982. Dorothy Eden được biết đến với những tác phẩm mang phong cách cổ điển với một giọng văn đầy bí ẩn và lãng mạn, gây cảm giác lo sợ và hoang mang cho người đọc. Ngoài việc viết tiểu thuyết, bà còn tham gia viết bài cho tạp chí, bao gồm Redbook và Good Housekeeping. *** Như vậy, đây là tiếng nói của cha nàng. Phanny đọc lại lá thư nhàu nát đã được giấu lâu ngày trong cái gối ghim kim của bà Arabella. “ Chú Leonard kính mến! Làm sao chứng tỏ sự biết ơn của con khi được chú cho biết sẽ để lại tất cả của cải của chú cho con! Tiếc thay! Con sợ rằng, chỉ được hưởng một thời gian ngắn, vì con sẽ không sống được quá hai năm nữa, có lẽ ! Nhưng chú không thể biết rằng quyết định của chú đã làm con yên tâm. Bây giờ, con có thể yên chí rằng con gái Francecca của con sẽ không thiếu thốn. Nó chỉ là một đứa bé rất giống mẹ nó, nhưng về đầu óc, đúng là một Davenport. Con đã nhờ người em họ Edgar của con, một người thật hoàn toàn, làm giám hộ cho nó… ” Nàng không thể ngủ được. Và giữa đêm, không biết mấy giờ, nàng ra khỏi phòng và rón rén đi về phía phòng bà Arabella. Như nàng đã đoán, đèn còn sáng trong phòng. Nàng gõ cửa và bước nhanh vào phòng. - Thưa bà, con nghĩ rằng bà còn thức… Bà Arabella đang ngồi trên giường, dựa lưng vào chồng gối và đang đọc sách thánh kinh. Bà đóng sách lại, nhưng cẩn thận giữ lại trang bà đang đọc dở bằng ngón tay. - Lẽ tất nhiên là bà không ngủ được. Giấc ngủ chỉ tốt cho những kẻ vô tội. Con muốn gì ? - Bà không thể là kẻ thù của con, bà nhé ? ... Mời các bạn đón đọc Phanny của tác giả Dorothy Eden.
Người Đàn Ông Mỹ Cuối Cùng
Thế nào là “người đàn ông Mỹ”? Cuốn sách kỳ lạ, lôi cuốn của Elizabeth Gilbert, tác giả của Ăn, cầu nguyện, yêu, dẫn ta đi sâu tìm lời đáp cho câu hỏi đó. Eustace Conway, “người đàn ông Mỹ”, có niềm tin quyết liệt rằng sứ mệnh của mình là làm mọi cách sao cho người dân Mỹ thấy lẽ ra họ có thể mạnh mẽ và đảm lược như cha ông họ ngày xưa - những người Mỹ thời lập quốc - ra sao, họ đã sa đọa và trở nên kém cỏi đến thế nào vì tiện nghi vật chất của cuộc sống hiện đại. Conway là “thần tượng” với nhiều người bởi ý chí kiên định đi theo con đường mình đã chọn, cho dẫu anh không phải không có những nhược điểm riêng khiến cho công cuộc xây chốn địa đàng theo tâm nguyện của anh thật không dễ dàng. Song cái lớn ở anh là những khiếm khuyết và bất thành đó không làm anh gục ngã; anh luôn luôn là anh, con người xứng đáng với cái danh xưng đẹp mà gây bứt rứt, “Người Đàn Ông Mỹ Cuối Cùng”. *** “Conway là một nhân vật đẹp đến nỗi khó tin là thật. Ở Gilbert, có lẽ anh đã tìm được nhà văn hoàn hảo để viết ra câu chuyện của anh… Từ cuộc đời Conway, Gilbert bàn rộng ra về bản chất của nam tính, sự hấp dẫn của các cộng đồng không tưởng chủ nghĩa, lịch sử vùng biên cương và huyền thoại dai dẳng về người đàn ông vùng biên cương. Chủ đề trở nên rộng lớn hơn nhiều so với một đời người. Cuốn sách cho ta thấy sự tiến bộ đã khiến ta đánh mất những gì và ta có thể phục hồi lại những gì.” - The Atlanta Journal-Constitution *** Elizabeth Gilbert thực sự “gây chấn động” giới văn chương với cuốn tự truyện Eat, Pray, Love: One Woman’s Search For Everything Across Italy, India And Indonesia (NXB Viking - 2006). Thành công của Eat, Pray, Love... là tác phẩm này gây ấn tượng với độc giả không phải bằng những thủ pháp thông thường như đánh vào cảm giác mạnh, khêu gợi những bản năng hay thú tính tầm thường. Vấn đề mà nó đặt ra đầy mới mẻ và thời sự... Cố gượng dậy sau vụ ly dị người chồng đầu tiên, Elizabeth Gilbert quyết định dành một năm đi qua Italia, Ấn Độ và Indonesia để tìm kiếm những trải nghiệm mới cho sự nghiệp sáng tác của mình, dù khi đó chị đã 34 tuổi... Ngay sau khi xuất hiện tại các hiệu sách, cuốn tự truyện này lập tức có tên trong danh sách các tác phẩm ăn khách thể loại không hư cấu trên tờ New York Times. Eat, Pray, Love... còn được hãng Paramount Pictures chọn chuyển thể thành tác phẩm điện ảnh với diễn xuất của “Người đàn bà đẹp” Julia Roberts. Tác phẩm thứ tư này của chị được tạp chí Entertainment Weekly suy tôn là “1 trong 10 tác phẩm không hư cấu hay nhất năm 2006” và đã đến với khoảng 5 triệu độc giả ở 36 quốc gia, đa phần là độc giả nữ. Khi mới 18 tuổi, Elizabeth Gilbert đã bắt đầu gửi đăng các truyện ngắn của mình, với mục đích mà như chị nói là “phải đem đến cho công chúng một cái gì đó trước khi chết”. Nhưng đáp lại, mấy năm sau đó, chị chỉ nhận được những lá thư từ chối. Mãi đến năm 1993, tạp chí Esquire mới chọn đăng truyện ngắn Pilgrims của Elizabeth Gilbert với lời quảng cáo “Sự ra mắt của một nhà văn Mỹ” và ngay lập tức thu hút sự chú ý của công chúng yêu văn chương. Elizabeth Gilbert là nhà văn đầu tiên chưa có tác phẩm xuất bản xuất hiện trên Esquire kể từ sau Norman Mailer (1923 - 2007) hồi năm 1964. Pilgrims được nhà văn, nhà báo nổi tiếng người Mỹ Annie Proulx ca ngợi là “tác phẩm của một tài năng trẻ rực sáng”. Thành công của Pilgrims giúp Elizabeth Gilbert có công việc viết báo khá ổn định cho nhiều tạp chí có uy tín như SPIN, GQ, New York Times Magazine, Allure, Real Simple, Travel + Leisure. Elizabeth Gilbert sinh ngày 18/ 7/1969 trong một gia đình nông dân ở Connecticut (Mỹ). Năm 1991, chị tốt nghiệp ngành Khoa học chính trị tại Đại học Tổng hợp New York. Cho đến nay, Elizabeth Gilbert mới có 4 tác phẩm được xuất bản, nhưng khá đa dạng về thể loại, gồm tập truyện ngắn Pilgrims (1997), tiểu thuyết Stern Men (2000), cuốn tiểu sử The Last American Man (2002) và tác phẩm mới đây nhất là tự truyện Eat, Pray, Love... (2006). Là một người sở hữu cá tính mạnh, trong Elizabeth Gilbert luôn có sự giằng xé giữa ham muốn được tự do với việc phải tuân thủ một cách rập khuôn, đôi khi quá gò bó những nguyên tắc hoặc các ràng buộc xã hội. Elizabeth Gilbert từng sống như một “nhà văn lang thang” - trải nghiệm cuộc đời của một đầu bếp, người phục vụ quán bar, chân sai vặt ở một tạp chí... tại nhiều bang của Mỹ, rồi qua cả châu Âu, châu Phi... để viết về chính những con người, sự việc mà chị gặp thường ngày. Các ghi chép của Elizabeth Gilbert trong những ng ngày rong ruổi đã làm nên tập truyện ngắn đầu tay Pilgrims (NXB Houghton-Mifflin - 1997, đoạt giải văn học Pushcart và vào chung khảo giải PEN/Hemingway). Bài báo “The Muse Of The Coyote Ugly Saloon” của Elizabeth Gilbert trên tạp chí GQ năm 1997, một ký sự về quãng thời gian chị làm người phục vụ quán bar Coyote Ugly Saloon ở East Village (Manhattan, New York), được lấy làm cốt truyện cho phim Coyote Ugly (ra mắt năm 2000 và từng giành được một số giải thưởng điện ảnh). Elizabeth Gilbert sau đó còn chuyển thể bài báo “Eustace Conway Is Not Like Any Man You’ve Ever Met” trên GQ năm 1998 thành cuốn tiểu sử về nhà tự nhiên học đương đại người Mỹ Eustace Conway mang tên The Last American Man (NXB Viking - 2002, tác phẩm này vào chung khảo giải Sách quốc gia Mỹ ở thể loại Tác phẩm không hư cấu và Giải thưởng Hội phê bình Văn học quốc gia Mỹ). Elizabeth Gilbert ở Việt Nam hồi tháng 8/2006. *** Bạn không thể giải quyết nó. Bạn không thể vứt bỏ nó đi. Tôi chẳng biết bạn định làm gì với nó, nhưng tôi biết mình sẽ làm gì với nó. Đơn giản là tôi sẽ bỏ nó ra đi. Có thể một phần nhỏ của nó sẽ chết nếu tôi không ở bên chăm sóc cho nó nữa. - Lew Welch Tiểu sử của Eustace Conway chính là lịch sử phát triển của con người trên lục địa Bắc Mỹ này. Đầu tiên, anh ngủ trên mặt đất và mặc đồ da thú. Anh đánh lửa bằng que củi và ăn những gì có thể săn bắn hái lượm. Khi đói, anh ném đá vào chim chóc và phóng tên vào thỏ và đào rễ củ từ lòng đất, và thế là anh sống sót. Anh đan giỏ từ thân cây cối trong lãnh thổ của mình. Anh là dân du cư; anh chỉ đi bộ. Rồi anh chuyển vào sống trong lều vải và trở thành kẻ bẫy thú tinh vi hơn. Anh đánh lửa bằng đá lửa và thép. Khi thành thạo việc này rồi, anh dùng diêm. Anh bắt đầu mặc đồ len. Anh không ở lều vải nữa mà chuyển vào sống trong nhà gỗ đơn sơ. Anh trở thành nông dân, phát quang đất đai và trồng vườn. Anh kiếm được gia súc. Anh mở lối vào rừng, lối đi ấy trở thành đường mòn rồi thành đường cái. Anh hoàn thiện đường cái bằng những cây cầu. Anh mặc vải bò. Ban đầu anh là thổ dân da đỏ, sau đó trở thành nhà thám hiểm, rồi thành người khai hoang. Anh xây cho mình căn nhà gỗ và trở thành người định cư thực thụ. Là con người mang mộng tưởng về xã hội không tưởng, giờ đây anh duy trì cuộc đời mình với niềm hy vọng rằng những người có cùng chí hướng như anh sẽ mua đất quanh Đảo Rùa và nuôi nấng gia đình mình như anh sẽ nuôi nấng gia đình của chính anh một ngày nào đó. Những người hàng xóm ấy sẽ canh tác trên đất đai của họ với máy móc sử dụng sức kéo gia súc, đến giúp đỡ nhau vào đúng vụ mùa, tham gia bữa tiệc nhảy nhót vui vẻ của nhau, và họ sẽ cưỡi ngựa sang nhà nhau để trao đổi hàng hóa. Chừng nào tất cả điều này xảy ra, Eustace sẽ trở thành một người làng. Đó là điều anh muốn - xây dựng một thị trấn. Và khi tất cả đã đâu ra đó, anh sẽ xây ngôi nhà mơ ước của mình. Anh sẽ rời căn nhà gỗ mà chuyển vào sống trong một ngôi nhà xa hoa rộng thênh thang đầy các phòng thay đồ khổng lồ và trang thiết bị và con cái đề huề và đủ thứ. Và cuối cùng anh sẽ bắt kịp thời đại mình. Tới lúc đó, Eustace Conway sẽ là hình mẫu của một người Mỹ hiện đại. Anh biến đổi liên tục trước mắt chúng ta. Anh cải tiến và mở rộng rồi lại cải tiến và mở rộng bởi vì anh thông minh và tháo vát tới mức không dừng được. Anh không muốn nghỉ ngơi vui thú với những gì anh đã biết rõ cách làm; anh phải không ngừng tiến lên. Anh không dừng lại được. Và chúng ta cũng không dừng lại được. Con người chúng ta trên lục địa này xưa nay vẫn không dừng lại được. Tất cả chúng ta đều tiến lên, như de Tocqueville từng nhận xét, “giống như một dòng lũ người, cứ cuồn cuộn dâng lên không hề suy giảm, và tiến lên phía trước từng ngày dưới bàn tay điều khiển của Thượng đế.” Chúng ta vắt kiệt sức mình và mọi người khác. Chúng ta vắt kiệt nguồn lực - cả tự nhiên lẫn nội tâm - và Eustace chỉ là đại diện rõ ràng nhất cho tình trạng khẩn cấp của chúng ta. Tôi nhớ có một buổi cuối chiều, tôi cùng anh lái xe trở lại Đảo Rùa sau khi tới thăm Trại Sequoyah, đế chế cũ xưa của ông ngoại anh. Chúng tôi sắp về đến nhà, đang đi qua Boone, và dừng lại tại một đường giao. Bỗng nhiên Eustace quay ngoắt đầu lại hỏi, “Hai ngày trước, hôm chúng ta đi Asheville, tòa nhà kia đã ở đó chưa?” Anh chỉ vào khung của một tòa nhà văn phòng nhỏ mới. Chưa, hai ngày trước tôi không thấy nó ở đó. Nhưng trông có vẻ như nó sắp hoàn thiện rồi. Chỉ cần lắp cửa sổ vào nữa thôi. Một tốp thợ xây đang rời khỏi công trường vào cuối ngày. “Không thể thế được,” Eustace nói. “Chẳng lẽ họ xây được một ngôi nhà nhanh đến thế sao?” “Tôi không biết nữa,” tôi nói, thầm nghĩ anh phải biết rõ hơn ai hết. “Tôi nghĩ họ làm được đấy.” Anh thở dài. “Đất nước này…” anh than. Nhưng Eustace Conway là đất nước này. Và, từ thực tế đó, sẽ còn lại cái gì? Sẽ còn lại gì sau tất cả hoạt động này? Đó là câu hỏi Walt Whitman từng đặt ra. Ông nhìn khắp lượt nhịp độ thần tốc của đời sống Mỹ, sự phát triển công nghiệp, sự ồn ào gồng mình trong tham vọng của đồng bào mình, và tự hỏi, “Sau khi ta đã vắt kiệt những gì có trong buôn bán, chính trị, tiệc tùng... - nhận ra rằng rốt cuộc chẳng thứ gì trong số này làm ta thỏa mãn, hay tồn tại lâu bền vĩnh cửu - sẽ còn lại cái gì?” Và như mọi khi, nhà thơ già Walt đáng mến đưa ra cho chúng ta một câu trả lời: “Còn lại tự nhiên.” Đó cũng là thứ còn lại cho Eustace. Tuy nhiên, giống như tất cả chúng ta (và đây là điều trớ trêu nhất của anh), Eustace không có nhiều thời gian như anh ao ước để tụng ca thế giới Đúng như anh nói với tôi qua điện thoại vào một đêm đông, “Tuần này trên Đảo Rùa chúng tôi có một cơn bão tuyết. Một người bạn lên thăm có bảo, ‘Này Eustace, cậu đã làm việc vất vả quá đấy. Cậu nên nghỉ tay ra ngoài nặn người tuyết. Đã bao giờ nghĩ đến điều đó chưa?’ Ôi trời ơi, tất nhiên là tôi đã từng nghĩ đến điều đó chứ. Buổi sáng hôm ấy chỉ cần bước một bước chân ra khỏi cửa là tôi đã có thể thấy lớp tuyết tuyệt vời để làm người tuyết. Tôi đã tưởng tượng sẵn người tuyết mà tôi sẽ đắp, nếu thật sự phải đắp. Tôi nhanh chóng phân tích độ đặc của tuyết và quyết định chính xác chỗ đặt người tuyết để trưng bày đẹp nhất, chính xác nó to cỡ nào, và tôi có thể tìm mẩu than làm đôi mắt ở đâu trong xưởng rèn của mình. Tôi tưởng tượng ra mọi chi tiết của người tuyết đến tận cái mũi làm bằng củ cà rốt, với cái mũi này tôi phải nghĩ trong một giây: Bọn mình có còn đủ cà rốt dự trữ để mình có thể thửa một củ cho người tuyết này không? Sau khi thôi chơi người tuyết mình có thể lấy lại củ cà rốt để cho vào món hầm kẻo phí phạm không? Hay là một con thú nào đó sẽ chén mất củ cà rốt trước rồi? Tôi suy nghĩ lướt qua tất cả điều này trong khoảng năm giây, ước tính xem mình phải bỏ ra bao nhiêu thì giờ trong một ngày bận rộn để đắp người tuyết ấy, tôi cân nhắc thấy thời lượng đó tỉ lệ nghịch với mức độ niềm vui mà việc đắp người tuyết sẽ mang đến cho tôi - và quyết định không làm.” Thật quá đáng buồn, bởi vì anh thực sự thích được ở bên ngoài kia và biết đâu anh đã có được nhiều niềm vui từ người tuyết hơn bản thân anh có thể ước lượng một cách logic. Bởi vì anh thực sự yêu thiên nhiên, bất chấp mọi cam kết và nghĩa vụ của anh. Anh yêu mọi thứ thuộc về thiên nhiên - cái bao la của rừng; đốm nắng xuyên xuống qua một tấm mái thiên nhiên tươi tốt; vẻ đẹp của các từ bồ kết, bu lô, hoàng dương... Hơn cả tình yêu, anh cần thiên nhiên. Như ông ngoại của Eustace từng viết, “Khi trí óc mệt mỏi hay tâm thần bất an, chúng ta hãy đi vào rừng để hít vào đầy ắp phổi làn không khí được tắm gội trong mưa và thanh lọc trong nắng, để đong đầy trái tim ta vẻ đẹp của cây cối, hoa lá, pha lê, đá quý.” Người đàn ông tốt nhất mà Eustace có thể làm là người đàn ông mà anh trở thành khi một mình trong rừng thẳm. Đó là lý do tại sao lần nào lên Đảo Rùa tôi cũng lôi anh ra khỏi phòng làm việc và bắt anh đưa đi dạo. Mặc dù nói chung anh không có thời gian cho việc này, tôi buộc anh phải làm, bởi vì chưa đi được mười bước vào rừng là anh đã thao thao, “Đây là hương phong thảo. Cô có thể dùng cái thân rỗng của nó làm ống hút để uống nước ẩn nơi những viên đá cuội nằm trong lòng suối cạn quá nên có thể ta không dùng miệng uống được.” Hoặc, “Đây là hoa huệ đốm tím, loài hoa này rất giống hoa huệ đốm da cam, chỉ có điều trông lạ mắt hơn. Nó cực hiếm đấy. Tôi ngờ là chỉ có năm cây hoa này trên toàn bộ một nghìn mẫu đất Đảo Rùa.” Mời các bạn đón đọc Người Đàn Ông Mỹ Cuối Cùng của tác giả Elizabeth Gilbert.