Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đảo Plum

Đảo Plum - một cuốn tiểu thuyết đầy thú vị được Tuần báo Publishers nhận xét: "Sức lôi cuốn… Nhờ sự kết hợp hoàn hảo từ y học, huyền bí, các thủ tục trong ngành cảnh sát, và khám phá đại dương… cuốn sách đã đạt được thành công lớn trong việc chuyển hướng tới một kết thúc hoàn toàn bất ngờ... một cái kết nhẹ nhàng đối với một nhà văn già đầy kinh nghiệm...". *** Tác Giả Nelson DeMille: Nelson DeMille sinh năm 1943 tại thành phố New York. Ông lớn lên lại Long Island và tốt nghiệp trường đại học Hofstra về Khoa học và Lịch sử Chính trị. Sau khi làm sĩ quan bộ binh tại Việt Nam, DeMille vừa làm phóng viên vừa là nhà văn chuyên viết truyện ngắn. Ông đã viết cuốn tiểu thuyết lớn đầu tiên của mình là Bên dòng sông ở Babylon ( By the Rivers of Babylon) với tổng số bản bán ra là hơn 55 triệu bản và được dịch ra 24 thứ tiếng, và sau đó ông tiếp tục viết 11 cuốn tiểu thuyết khác đều bán chạy trên khắp thế giới. Ông sống tại Long Island. *** “Một cuốn tiểu thuyết kinh dị thật tài tình. Bạn sẽ thấy được cảm giác vui vẻ với những nút thắt là những đỉnh điểm của cuốn truyện”. - Timeout “Ớn lạnh... Cảm giác xuyên suốt cả cuốn tiểu thuyết hồi hộp này và sẽ khiến bạn luôn luôn trong suy nghĩ ngay cả khi bạn cười thật to”. - New day “Sức lôi cuốn... Nhờ sự kết hợp hoàn hảo từ y học, huyền bí, các thủ tục trong ngành cảnh sát, và khám phá đại dương... Cuốn sách đã đạt được thành công lớn trong việc chuyển hướng tới một kết thúc hoàn toàn bất ngờ... Một cái kết nhẹ nhàng đối với một nhà văn già đầy kinh nghiệm”. - Tuần báo Publishers “Ly kỳ, thú vị”. - Kirkus Reviews “Một cuốn tiểu thuyết đầy thú vị”. - Tạp chí Associated “Một cuốn sách thành công trong việc tạo tiếng cười giải trí... Kết hợp thông minh giữa thảm hoạ về sinh học và những truyền thuyết kỳ lạ về hải tặc”. - Tạp chí Associated *** Tác giả: Nelson Demille. Dịch giả: Đỗ Thúy Thể loại: Trinh thám, hành động, có chút cổ điển, phần nhiều hiện đại “Một thế kỷ trước, người ta thi thoảng mới phải đứng trước những ngã ba của cuộc đời và phải chọn lấy một hướng đi. Hôm nay, chúng ta sống bên trong một tấm vi mạch với hàng triệu con đường mở ra và đóng lại trong mỗi một phần tỉ giây. Điều tệ hơn là có ai đó đang bấm những chiếc nút”. ĐẢO PLUM Khi may mắn được biết đến tác giả Nelson Demille qua hai cuốn tiểu thuyết “Phía sau thảm họa” và “Lửa hoang”, tôi thật sự ưa thích những câu chuyện ly kỳ của tác giả này. Do đó, tôi đã để dành cuốn “Đảo Plum” khá lâu trước khi quyết định lấy ra đọc để vượt qua quãng thời gian hơi buồn chán trong việc đọc sách. Cuốn “Đảo Plum” đã giúp tôi có quá trình đọc thật sự thú vị, cười rất nhiều, say mê theo dõi những đoạn phiêu lưu máu lửa của nhân vật, và cuối cùng khép sách lại với cảm giác thỏa mãn 130%. Nhân vật chính vẫn là thanh tra cảnh sát John Corey thuộc lực lượng cảnh sát New York, nhưng lần này không có cô vợ xin-lỗi-tôi-quên-tên-cô-ấy-rồi bên cạnh. Truyện chỉ đề cập thoáng qua đến vợ cũ của ngài Corey, được cho biết rằng nghề nghiệp là luật sư. Bối cảnh truyện bắt đầu khi John Corey đang ở nhà ông cậu tại vùng North Fork của bang Long Island, New York để dưỡng thương sau khi bị bắn. Cảnh sát trưởng của vùng đến nhờ John tham gia với vai trò tư vấn vào cuộc điều tra vụ án mạng đôi, nạn nhân là hai vợ chồng nhà Gordon – từng là bạn với Corey. Vợ chồng Gordon là hai nhà khoa học làm việc tại Trung tâm nghiên cứu bệnh dịch động vật trên đảo Plum, thực chất cũng là nơi nghiên cứu về các mầm bệnh truyền nhiễm cực kỳ nguy hiểm để phục vụ tấn công hoặc phòng thủ trong trường hợp xảy ra chiến tranh sinh học / chiến tranh vi trùng. Trong quá trình điều tra, John Corey có dịp gặp gỡ những điều dễ chịu: quen được cô cảnh sát xinh đẹp thông minh Beth Penrose và chuyên gia lưu trữ tư liệu Emma Whitestone, nhưng đồng thời cũng đụng độ những gã khó nhằn và nhiễu sự thuộc FBI và CIA. Vì tình bạn với hai nạn nhân đã bị sát hại, Corey bất chấp mọi trở ngại để truy tìm hung thủ, dù điều đó thật sự gian nan. Trong cuốn tiểu thuyết này chỉ có một yếu tố mang hơi hướm hiện đại là chiến tranh sinh học, những điều còn lại vẫn khiến tôi đoán định rằng đây là một truyện trinh thám cổ điển, có lẽ vì chất nam tính cổ điển đậm đặc toát ra từ nhân vật chính. Truyện cũng không thấy nói gì đến lấy dấu vân tay, xét nghiệm nhóm máu, điều tra hiện trường kỹ lưỡng như trong những cuốn của Jeffery Deaver. Nhận xét thẳng thắn thì nhịp truyện khá chậm, quá trình điều tra được mô tả chi tiết tỉ mỉ, không ít lần dừng lại ở những đoạn chém gió giữa nam chính với nữ chính 1 và nữ chính 2, vậy mà không hiểu sao tôi vẫn kiên nhẫn + thích thú đọc từng đoạn đến hết, không lướt trang nào. Có lẽ vì giọng văn vừa nghiêm túc vừa hài hước, cách xây dựng quan hệ nhân quả đọc thấy rất hợp lý, xen kẽ giữa những đoạn suy luận sắc bén là những trường đoạn hành động rất gây cấn, đúng kiểu không thể buông sách xuống. Đầu sách có lời bình của Dan Brown rằng “Nelson Demille là một bậc thầy về tiểu thuyết trinh thám”, quả thật như vậy, tuy cuốn “Đảo Plum” không được nhiều người khen như “Phía sau thảm họa” hoặc “Lửa hoang” nhưng cá nhân tôi cho rằng chỉ riêng cuốn “Đảo Plum” cũng hấp dẫn hơn vài trong số những cuốn Dan Brown mà tôi từng đọc. Đọc cuốn này, tôi cũng thấy rằng không phải chỉ có tác giả kiêm chuyên gia hàng hải Clive Cussler là có thể tả đại dương một cách ấn tượng. Trong “Đảo Plum”, Nelson Demille đã khiến tôi (và chắc là hàng ngàn độc giả khác trước và sau tôi) khó có thể quên những trường đoạn tả cảnh hành động trên biển và trong bão biển. Dù không có lời nào trực tiếp nói rằng “thiên nhiên thật hùng vĩ và đáng sợ” nhưng trong từng khoảnh khắc người đọc vẫn sẽ cảm nhận rõ rệt thiên nhiên hùng vĩ và đáng sợ trong truyện này. “Chiếc Plum Runner lách qua eo biển hẹp vào một vịnh nước nhỏ, dường như được tạo ra không phải bởi Thượng Đế vạn năng mà là quân đoàn xây dựng, những người thích đặt những nét hoàn thiện vào những công trình của tạo hóa”. Qua những cuốn của Nelson Demille mà tôi từng đọc, tôi đã ấn tượng với tính cách của nhân vật John Corey. Đến cuốn “Đảo Plum”, nhân vật này đặc biệt thể hiện rõ nét sự ngang tàng, mạnh mẽ, vô cùng hài hước, galant với phụ nữ ngay cả khi tính mạng bản thân đang lâm nguy nhưng vẫn giữ vững bản chất “vô độc bất trượng phu”. Trong hai cuốn trước mà tôi đọc, John Corey có một người vợ cũng là cảnh sát, tính cách độc lập và xuất sắc không kém chồng. Trong cuốn này, có lẽ vì Corey đang chờ đơn ly dị và độc thân tự do quyến rũ nên nam chính chiếm 60% ‘thời lượng’ truyện. Tôi thích cách Corey rất hiếm khi kiềm chế khi bị hút về phía phụ nữ, đã thích thì tấn công dữ dội, nhưng khi quyết định không dính dáng đến nữa thì lạnh lùng như sông băng. Tuy như vậy sẽ khiến phụ nữ có chút đau lòng, vì hầu hết nữ giới luôn khao khát được khao khát, nhưng cá nhân tôi tán đồng những người đàn ông cương quyết trong tình cảm (và trong những chuyện khác), thà rằng cắt đứt từ khi chưa có gì còn hơn khiến dây tơ hồng vướng víu khắp các lối mình từng qua. ____ Có lẽ vì lý do này mà tôi bắt đầu thích nhân vật John Corey nhiều hơn cả Dirk Pitt, đang mấp mé thích hơn cả Jack Reacher! Hãy xem vài câu nói khá hay ho của John Corey: “Ngoại giao là nghệ thuật nói những thứ khốn nạn cho dễ nghe, cho đến khi tìm được một hòn đá”. “Thật khó khi bạn có nhiều câu hỏi vào lúc hai giờ sáng, bạn lại đang căng lên vì chất cà phê và không có ai muốn nói chuyện với bạn”. “Những người làm chính trị sợ bất cứ thứ gì mà họ không hiểu, mà họ thì lại chẳng hiểu được thứ gì”. Tôi cũng thích cả hai nhân vật nữ trong truyện: Beth Penrose xinh đẹp như người mẫu và can trường như chiến binh, Emma Whitestone tinh thông kim cổ và tự tin trong ..mmhh.. một lĩnh vực quan trọng + cần thiết của cuộc sống (tức là tình dục). Tôi tin rằng ngoài đời thực vẫn có những phụ nữ dù bị vết thương đạn bắn nhưng vẫn có thể trải qua nhiều giờ lao đao trên một chiếc tàu cao tốc giữa cơn bão biển để săn lùng hung thủ, nhưng khi đọc thấy nhân vật Beth Penrose thực hiện những điều đó, tôi vẫn vô cùng thán phục cô ấy. Cả hai nữ chính đều có thể đối đáp ngang hàng với một John Corey tếu táo trong mọi thời điểm (kể cả lúc sắp chết). Dù bản thân không thích hình tượng Mary Sue nhưng khi đọc “Đảo Plum”, tôi vẫn mơ mộng mình sẽ có được sự kết hợp những ưu điểm của cả hai nữ chính trong truyện. Vâng, tôi vừa tham lam vừa phi thực tế. Tuy từ nhỏ đã có niềm yêu thích đặc biệt đối với truyện trinh thám (từ khi tôi còn chưa biết sách chia ra nhiều thể loại và trinh thám là một trong những thể loại đó) nhưng do tham gia hội trinh thám khá muộn (4~5 năm sau khi thành lập) nên tôi đã bỏ lỡ không mua nhiều cuốn hay, trong đó có những cuốn của Lee Child và Nelson Demille. Tuy vậy, tôi rất may mắn được các anh chị trong hội quý mến và rộng lượng cho mượn thật nhiều sách, kể cả sách cũ hiếm, do đó tôi vẫn có cơ hội được đọc những cuốn không còn bán ngoài thị trường, chẳng hạn như “Đảo Plum”. Đây là một cuốn sách bản to, bìa cứng, đủ nặng để không thể nằm đọc, thuộc loại sách mà tôi rất thích ôm đọc đến khi mỏi cả tay. Truyện được dịch thuật tốt, trình bày ổn, cốt truyện và văn phong đều khiến tôi hài lòng. Điều buồn cười duy nhất là thiết kế bìa quá kỳ dị. (Sea, 10-2-2021) Xin cảm ơn chị N. đã cho em Biển mượn sách Cáo Biển Non Xanh *** Tôi nhìn qua ống nhòm. Một chiếc tàu dài hơn chục mét đậu cách bờ biển chừng vài trăm thước. Trên boong, hai cặp nam nữ độ ba mươi tuổi đang cười đùa, tắm nắng, uống bia hay thứ gì đó. Hai người phụ nữ mặc quần lót bé xíu, ngực để trần. Một trong hai gã đang ở mũi tàu trút bỏ bộ đồ tắm, đứng đó một lát, khom người rồi nhảy tùm xuống nước và bơi quanh con tàu. Đất nước này vĩ đại thật. Tôi bỏ ống nhòm và nhấp một ngụm Budweiser. Đó là cuối mùa nghỉ hè, không phải là cuối tháng Tám, mà là tháng Chín, trước Thu phân. Đã qua ngày nghỉ lễ Lao động, sắp sang nửa kia của mùa thu. Tôi là John Corey, nghề nghiệp cảnh sát đang dưỡng thương, khi đó đang ngồi dưới mái hiên sau nhà của ông cậu ruột, ngả mình trên chiếc ghế bằng liễu gai, đầu óc miên man với những ý nghĩ hời hợt thoáng qua trong đầu. Với tôi, vấn đề của sự nhàn rỗi là không biết đến khi nào cuộc đời mình kết thúc. Hiên nhà được làm theo kiểu cũ, bao bọc ba bề của ngôi nhà trong trang trại xây từ những năm 1890, thời Victoria. Tất cả đều làm vách gỗ, có trang trí, chóp nhọn, đầu hồi, đủ mọi thứ. Từ chỗ tôi ngồi có thể nhìn về phía nam tới Vịnh Great Peconic qua một bãi cỏ xanh dốc. Mặt trời đã xuống thấp ở chân trời phía tây, vị trí lúc 6 giờ 45 chiều. Tôi sống ở thành phố, nhưng lại thực sự thích những gì ở nông thôn, bầu trời và mọi thứ ở đó. Cuối cùng, cách đây vài tuần, tôi đã thấy được chòm Đại hùng tinh. Tôi mặc chiếc áo phông đơn màu và quần jean ngắn mà trước đây khi chưa sút cân còn vừa vặn. Hai chân tôi gác lên lan can, khoảng giữa hai ngón chân cái phía đằng xa chính là con tàu khi nãy. Thời gian này trong ngày là lúc ta bắt đầu nghe thấy tiếng dế, tiếng côn trùng. Nhưng tôi không hâm mộ gì những tiếng ồn ã đó của tự nhiên nên đã để một chiếc đài quay băng xách tay trên chiếc bàn con bên cạnh và nghe nhạc của nhóm The Big Chill,chai Budweiser đặt bên trái, chiếc ống nhòm để trên bụng. Trên sàn gần tay phải tôi là khẩu Smith & Wesson .38 với nòng dài năm phân, vừa khít với chiếc ví của tôi. Chỉ để đùa thôi. Trong cái khoảng hai giây chuyển từ bài When a Man Loves a Woman sang bài Dancing in the Street, tôi nghe, hay linh cảm thấy, tiếng bước chân ai đó trên ván sàn đi quanh hiên. Vì sống một mình và cũng không mong chờ ai đó đến thăm, tôi với khẩu súng bên tay phải đặt vào bọc. Các bạn đừng cho rằng tôi mắc bệnh hoang tưởng, vì tôi đang điều trị, không phải bệnh tật mà là ba vết thương do đạn bắn, hai viên loại 9 li và một viên Magnum nòng 44. Kích cỡ của lỗ đạn không thành vấn đề. Cũng như trong mua bán nhà đất, quan trọng là vị trí, vị trí và vị trí. Rõ ràng mấy vết thương này ở những chỗ không đáng ngại, vì tôi đang phục hồi, chứ không rữa ra. Tôi nhìn sang phía phải nơi góc hiên quanh qua mặt phía tây của ngôi nhà. Một người đàn ông xuất hiện và dừng lại cách tôi dăm mét, đôi mắt dõi theo những bóng dài của mặt trời sắp lặn. Kỳ thực, bóng anh ta phủ cả lên người tôi nên có vẻ như không nhìn thấy tôi. Với mặt trời phía sau lưng người đàn ông, tôi rất khó mà nhìn ra khuôn mặt hay phán đoán ý định của người đó. Tôi nói, “Có thể giúp gì được anh không?” Người đàn ông quay lại phía tôi. “Ô, John, tôi không nhìn thấy cậu ở đó”. “Mời sếp ngồi”. Tôi nhét khẩu súng vào cạp quần dưới áo và vặn nhỏ tiếng của bài Dancing in the Street. Đó là Sylvester Maxwell, gọi tắt là Max, cảnh sát trưởng của thị trấn này. Max bước đến phía tôi và tựa vào lan can, đối diện với tôi. Anh mặc chiếc áo khoác màu xanh da trời mang phù hiệu, sơ mi trắng cài khuy thấp, quần màu nâu, đi giày không tất, kiểu của dân đi tàu. Không thể biết anh đang làm nhiệm vụ hay không. Tôi nói, “Có nước ngọt trong thùng lạnh đấy.” “Cám ơn”. Anh cúi xuống lấy một chai Budweiser ra khỏi thùng đá. Max thích gọi bia là nước ngọt. Anh nhấp một chút, đôi mắt đăm chiêu nhìn vào khoảng không trước mặt. Tôi hướng lại ra phía vịnh và nghe bài Too Many Fish in the Sea của nhóm Marvelettes. Vì là ngày thứ hai nên khách đi nghỉ cuối tuần đã về hết, ơn Chúa. Nhu tôi đã nói, sau ngày lễ Lao động, hầu hết những người thuê nhà nghỉ đã đi khỏi và bạn có thể cảm nhận sự yên tĩnh trở lại. Max là người bản xứ mà lại không đi thẳng vào chuyện, nên tôi chỉ còn cách là chờ đợi. Cuối cùng, anh hỏi tôi: “Cậu là chủ nhà ở đây à?”. “Là của cậu tôi. Ông ấy đang muốn tôi mua chỗ này.” “Đừng mua bất cứ thứ gì. Phương châm của tôi là, nếu nay đây mai đó thì chỉ thuê thôi.” “Cám ơn anh.” “Cậu sẽ ở đây một thời gian chứ?” “Tới khi nào không có gió thổi qua ngực tôi nữa.” Anh mỉm cười, nhưng rôi đăm chiêu trở lại. Max có khổ người to lớn, trạc tuôi tôi, khoảng trên dưới bốn mươi lăm, tóc vàng hoe hơi gợn sóng, nước da đỏ khỏe mạnh và đôi mắt màu xanh. Dường như trong mắt phụ nữ, anh là người điển trai. Điều này rất có lợi cho một cảnh sát trưởng Maxwell độc thân lại không mắc bệnh đồng tính. Max nói, “Cậu cảm thấy thế nào rồi ?” “Không tệ lắm.” “Cậu có thấy giống như bài tập cho tinh thần không?” Tôi không đáp. Tôi đã quen biết Max mười năm nay, nhưng vì không sống ở đây nên tôi chỉ thi thoảng mới gặp anh. Cũng phải nói thêm, tôi là điều tra viên ở thành phố New York chuyên về các vụ án giết người, trước đây làm ở Bắc Manhattan cho tới khi tôi bị thương. Đó là vào ngày 12 tháng Tư. Trong khoảng hai chục năm chưa có điều tra viên nào bị bắn ở New York nên vụ của tôi gây chú ý lớn. Phòng Thông tin Công chúng của Sở Cảnh sát New York tiếp tục đưa tin vì vẫn đang trong thời gian hợp đồng. Với bề ngoài khá được của tôi, hay đại loại như vậy, họ cũng có chút lợi, với sự hợp tác của báo chí, và chúng tôi cứ tiếp tục như vậy. Trong lúc đó, hai tên thủ phạm đã bắn tôi thì vẫn nhởn nhơ bên ngoài. Vì thế, tôi mất một tháng ở Trung tâm y tế Columbia Presbyterian, sau đó nghỉ vài tuần trong căn hộ của tôi ở Manhattan trước khi cậu Harry gợi ý căn nhà nghỉ mùa hè của ông là nơi thích hợp với một người hùng. Sao lại không nhỉ? Tôi đến đây vào cuối tháng Năm, ngay sau ngày Tưởng niệm Liệt sỹ*. Max nói, “Chắc cậu biết Tom và Judy Gordon.” Tôi nhìn anh. Ánh mắt hai người gặp nhau. Tôi hiểu. Tôi hỏi, “Cả hai người à?” Anh gật đầu. “Cả hai.” Sau một thoáng yên lặng kính cẩn, anh nói, “Tôi muốn cậu đến xem hiện trường.” “Tại sao lại là tôi?” “Tại sao lại không? Coi như giúp tôi. Trước khi có người khác lần ra được điều gì đó. Tôi đang thiếu điều tra viên án giết người.” Kỳ thực, cảnh sát thị trấn Southold không có lấy một điều tra viên án giết người nào và điều này cũng chẳng sao vì rất ít khi có ai đó bị giết. Mà nếu có thì cảnh sát quận Suffolk sẽ nhảy vào cuộc, còn Max đứng ngoài. Max không thích điều này. Cần nói thêm một chút về nơi này. Đây là vùng North Fork của đảo Long Island, bang New York. Theo một tấm bảng trên đường cao tốc, thị trấn Southold được một số người từ New Haven, bang Connecticut dựng lên vào những năm 1640. Theo tất cả những gì được biết, những người này đang trên đường chạy trốn khỏi sự truy đuổi của nhà vua. Vùng South Fork của đảo Long Island nằm ở phía bên kia của vịnh Peconic là một Hamptons đầy sành điệu: các nhà văn, nghệ sĩ, diễn viên, các hạng người được công chúng biết đến và đủ thứ hỗn tạp khác. Còn ở North Folk này, dân cư hầu hết là nông dân, ngư dân hay đại loại như vậy. Và có lẽ có một kẻ sát nhân. Ngôi nhà của cậu Harry nằm ngay trong thôn Mattituck, khoảng một trăm dặm đường bộ từ Đường 102 Tây, nơi hai quý ông trông như dân Latinh xả mười bốn, mười lăm phát đạn chào tạm biệt, ba phát trúng vào mục tiêu di động cách chừng dăm sáu mét. Không phải là một màn trình diễn ấn tượng, nhưng tôi không chê bai hay phàn nàn gì. Thị trấn Southold chiếm phần lớn vùng North Fork, bao gồm tám thôn và một ngôi làng, có tên là Greenport. Lực lượng cảnh sát gồm khoảng bốn mươi sỹ quan có tuyên thệ và Sylvester là cảnh sát trưởng. Max nói, “Trông cậu không có vẻ đau đớn.” “Có chứ. Điều gì sẽ xảy ra nếu tôi có trát đòi ra làm chứng ngoài này vào một thời điểm không mấy dễ chịu? Tôi không được trả tiền để làm điều này.” “Tôi đã gọi cho giám viên của thị trấn và được chấp nhận cho thuê cậu về làm chính thức với tư cách cố vấn. Một trăm đô la mỗi ngày.” “Chà. Nghe như thứ công việc mà tôi phải tiết kiệm để có được.” Max tự cho mình nở nụ cười. “Này, nhưng bao cả tiền gas và điện thoại của cậu. Với lại hiện giờ cậu cũng không làm gì.” “Tôi đang cố chữa lành vết thương ở phổi bên phải.” “Công việc này cũng không nặng nhọc gì lắm.” “Làm sao anh biết.” “Đây là cơ hội để cậu trở thành công dân tốt của thị trấn Southold đấy.” “Tôi là người New York. Không ai bắt tôi phải làm công dân tốt.” “Này, cậu có biết rõ nhà Gordon không? Họ là bạn của cậu à?” “Đại loại thế.” “Vậy còn gì nữa? Đó là động cơ cho cậu. Thôi nào, John. Đứng dậy. Chúng ta đi. Tôi sẽ nợ cậu chuyện này. Đặt một vé nhé.” Quả thật, tôi đã chán ngán, nhưng vợ chồng nhà Gordon là những người tốt... Tôi đứng dậy và đặt chai bia xuống. “Tôi sẽ nhận công việc với mức lương một đô la mỗi tuần để làm chính thức.” “Tốt. Cậu sẽ không tiếc đâu.” “Đương nhiên là sẽ tiếc.” Tôi tắt nhạc bài Jeremiah Was a Bullfrog và hỏi Max, “Có nhiều máu không.” “Ít thôi, vết thương ở đầu.” “Anh nghĩ tôi có cần xỏ dép không?” “Ồ... một ít óc và xương sọ vỡ phía sau...” “Được.” Tôi xỏ dép rồi cùng Max đi vòng theo hiên ra đường xe phía trước. Tôi ngồi vào chiếc xe cảnh sát không phù hiệu của Max, chiếc Jeep Cherokee màu trắng có lắp điện đài cảnh sát với thứ âm thanh loạc xoạc. Chúng tôi đi dọc theo con đường dài từ nhà ra. Con đường được phủ bằng vỏ sò và hến cá từ trăm năm nay do cậu Harry và những người trước đó trải chúng lên đường cùng với tro và xỉ than của lò sưởi để tránh bùn và bụi. Dù sao đi nữa, chỗ này trước đây đã từng được gọi là trang trại của vịnh, giờ vẫn nằm phía trước vịnh, nhưng hầu hết diện tích của trang trại đã bị bán hết. Cây cối ở đây hơi quá lứa, chủ yếu là những thứ không còn dùng đến, như cây đầu xuân, liễu tơ và những hàng rào thủy lạp. Ngôi nhà sơn màu kem với những đường trang trí màu xanh, mái nhà cũng màu xanh. Tất cả đều rất đẹp, thực sự đẹp. Có lẽ tôi sẽ mua nó nếu mấy tay bác sĩ của cảnh sát nói tôi phải nghỉ hẳn. Tôi phải tập ho ra máu mất thôi. Về chuyện vết thương, tôi được trả lương hưu miễn thuế suốt đời vì tỉ lệ thương tật ba phần tư. Chuyện này ở Sở Cảnh sát New York chẳng khác gì đến thành phố Atlantic, sà vào sòng bạc Trump’s Castle, chúi đầu vào một chiếc máy đánh bạc trước sự chứng kiến của một luật sư chuyên về nợ. Độc đắc rồi! “Cậu nghe thấy tôi nói không?” “Gì cơ?” “Tôi nói, một người láng giềng phát hiện ra họ lúc 5 giờ 45 chiều.” “Tôi được tính lương ngay lúc này đấy à?” “Chắc chắn rồi. Mỗi người bị bắn một phát vào đầu. Người láng giềng phát hiện ra họ nằm ở hiên sau nhà.” “Max, tôi sẽ xem xét toàn bộ hiện trường. Còn người láng giềng kia thì sao?” “Đó là Edgar Murphy, một ông già. Ông ta nghe tiếng tàu của vợ chồng Gordon về lúc 5 giờ 30. Khoảng mười lăm phút sau ông ta đi qua thì thấy họ đã bị giết. Không nghe thấy tiếng súng nào.” “Ông ta dùng máy trợ thính à?” “Không. Tôi đã hỏi ông ta. Edgar nói bà vợ ông ta cũng vẫn thính tai. Vì thế, có thể là súng giảm thanh. Cũng có thể tai họ không được tốt như họ nghĩ.” “Nhưng họ đã nghe thấy tiếng con tàu. Edgar chắc chắn về thời gian à?” “Rất chắc chắn. Ông ta gọi cho chúng tôi lúc 5 giờ 51 chiều, tức là gần thời điểm đó.” “Đúng.” Tôi nhìn đồng hồ. Lúc này là 7 giờ 10 phút. Chắc hẳn ngay sau khi đến hiện trường, Max đã có ý tưởng sáng suốt là tìm tôi. Tôi đoán các nhân viên điều tra án mạng của quận Suffolk hiện đang ở đó. Có lẽ họ đến từ một thị trấn nhỏ có tên là Yaphank, nơi đặt trụ sở của cảnh sát quận và cách chỗ vợ chồng Gordon sống khoảng một giờ lái xe. Max nói đủ thứ dài dòng, còn tôi cố tập trung suy nghĩ. Nhưng đã năm tháng nay tôi chưa phải nghĩ đến những điều như thế này. Tôi định ngắt lời, “Chỉ các sự kiện chính thôi, Max!”, nhưng tôi lại để anh tiếp tục lải nhải. Cùng lúc đó, âm điệu của bài hát Jeremiah Was a Bullfrog vẫn luẩn quẩn trong đầu tôi. Các bạn biết đấy, thật sự rất khó chịu khi không thể dứt hẳn một điệu nhạc ra khỏi đầu. Nhất lại là thứ này. Tôi nhìn ra ngoài qua cửa xe. Chúng tôi chạy dọc theo con đường chính theo hướng đông-tây có cái tên nghe dễ chịu là đường Main Road, tới một nơi gọi là Nassau Point, nơi vợ chồng Gordon sống - hoặc đã từng sống. North Folk gần giống như Cape Cod, vùng đất gió lộng nhô ra biển, ba bề là nước, một nơi có nhiều sự kiện lịch sử. Dân cư bản địa không nhiều, chỉ khoảng hai mươi nghìn, nhưng lượng người đi nghỉ hè và nghỉ cuối tuần đến đây rất đông. Những xưởng sản xuất rượu vang cũng thu hút khách đến rồi đi trong ngày. Cứ thử mở một xưởng rượu, bạn sẽ có cả chục nghìn tay ăn chơi từ thành thị gần nhất đến nhâm nhi. Đố bao giờ sai. Chúng tôi rẽ theo hướng nam tới Nassau Point. Nơi đây là một dải đất dài hai dặm giống như một lưỡi dao cắt vào vịnh Great Peconic. Từ cầu tàu ở nhà tôi tới nhà Gordon khoảng bốn dặm. Nassau Point trở thành một điểm nghỉ hè từ khoảng những năm 1920. Nhà cửa ở đây từ những căn nhà gỗ đơn giản đến những tòa nhà hoành tráng. Albert Einstein cũng đã từng đến đây nghỉ hè, và chính từ đây, vào khoảng những năm 1930, ông đã biết “Bức thư Nassau Point” nổi tiếng gửi Roosevelt thúc giục ngài tổng thống tiến hành việc nghiên cứu chế tạo bom nguyên tử. Phần còn lại, như người ta nói, là cả lịch sử. Một điều thú vị là Nassau Point vẫn là nơi ở của một số nhà khoa học. Một số người làm việc tại Phòng Thí nghiệm Quốc gia Brookhaven, cơ quan nghiên cứu hạt nhân bí mật hay gì đó cách đây khoảng ba mươi lăm dặm. Một số nhà khoa học làm việc trên Đảo Plum, khu vực tuyệt mật nghiên cứu sinh học đáng sợ tới mức phải đặt nó trên một hòn đảo. Đảo Plum cách khoảng hai dặm từ mũi Orient Point, điểm cuối cùng trên đất liền ở North Folk - điểm dừng tiếp theo là châu Âu. Không phải ngẫu nhiên, Tom và Judy Gordon là hai nhà nghiên cứu sinh học làm việc trên Đảo Plum. Bạn có thể đánh cược là cả Sylvester Maxwell và John Corey đều đang nghĩ đến điều đó. Tôi hỏi Max. “Anh đã gọi cho cơ quan liên bang chưa?” Anh lắc đầu. Mời các bạn mượn đọc sách Đảo Plum của tác giả Nelson DeMille & Đỗ Thúy (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Holmes ở Kyoto
Nằm lẻ loi tại một góc phố mua sắm Teramachi Sanjo ở Kyoto là cửa hàng đồ cổ “Kura”. Từ một sự việc tình cờ, nữ sinh cấp ba Mashiro Aoi đã quen biết cháu trai chủ cửa hàng ấy, tên là Yagashira Kiyotaka, rồi sau đó, cô bé bắt đầu làm thêm tại đây. Kiyotaka là một người ăn nói dịu dàng, cư xử hoà nhã, nhưng lại sắc sảo đến đáng sợ. Anh được gọi là “Holmes của phố Teramachi”. Aoi cùng Kiyotaka nhận được rất nhiều yêu cầu liên quan tới các món cổ vật mà khách hàng mang tới... Một tác phẩm kì bí nhẹ nhàng rất xuất sắc lấy bối cảnh cố đô Kyoto! *** Yagashira Kiyotaka: Hai mươi hai tuổi. Sinh viên cao học năm nhất Đại học Kyoto. Tên thường gọi là “Holmes”. Cháu trai ông chủ tiệm đổ cổ “Kura” toạ lạc ở Teramachi Sanjo, Kyoto. Cư xử dịu dàng và lịch lãm, nhưng lại sắc sảo đến đáng sợ. Đôi lúc thích bắt nạt người khác, một chàng trai Kyoto “nham hiểm”. Mashiro Aoi: Mười bảy tuổi. Học sinh lớp Mười Một. Chuyển từ thành phố Omiya tỉnh Saitama đến Kyoto sinh sống đã được bảy tháng. Từ một sự việc không lường trước mà bắt đầu làm thêm tại cửa tiệm “Kura”. Vẫn còn vương vấn người yêu cũ ở trường cấp ba ngày trước. *** #độc_giả_review_sách  [HOLMES Ở KYOTO - Mai Mochizuki]  Chắc hẳn khi đọc tiêu đề Holmes ở Kyoto, bất kì ai cũng sẽ liên tưởng tới thám tử Sherlock Holmes lừng danh. Cuốn sách này lại viết về anh chàng Yagashira Kiyotaka 20 tuổi, sinh viên năm nhất đại học Kyoto, có biệt danh là Holmes bởi “sự sắc sảo đến đáng sợ” của anh.  Cuốn sách được viết dựa trên lời kể của cô bé Mashiro Aoi, mười bảy tuổi, học sinh lớp Mười Một. Aoi đã bị Holmes nắm thóp từ lần đầu gặp mặt và tình cờ trở thành nhân viên giúp việc tại cửa hàng đồ cổ của gia đình anh. Từng câu chuyện khác mở ra, kéo theo sau những biến chuyển trong tình cảm của Aoi với sự dịu dàng, lịch lãm nhưng lại sắc sảo đến đáng sợ của Holmes. Những tưởng Holmes cũng là một người siêu phàm, thật bất ngờ khi Aoi khám phá ra được Holmes cũng là một người có quá khứ, giống như Aoi, cũng từng để mất người yêu vào tay của người khác… Điều mình cảm thấy cực kì thích ở cuốn sách này đó là cuốn sách mang đến cho người đọc những cảm nhận hết sức chân thật về văn hóa cũng như lịch sử của Nhật Bản. Bản thân mình là người rất thích đi du lịch, khi đọc cuốn sách mình cảm thấy như đang thật sự được trải nghiệm từng ngóc ngách và nét văn hóa của Nhật.  Cách sử dụng vốn từ trong cuốn sách khá là dung dị, đời thường, cộng thêm các câu chuyện đều rất thực tế, không đẫm máu, không chết chóc, không có những thủ đoạn giết người hay khủng bố như nhiều cuốn sách trinh thám khác, nên cuốn sách mang lại cảm giác dễ chịu gần gũi, đôi lúc khiến người đọc bật cười khi những suy nghĩ của mình bị bóc mẽ bởi lập luận cùng khả năng quan sát tinh tường của Holmes, từ đó mình có thể học hỏi và áp dụng trong cuộc sống hàng ngày. Đặc biệt hơn cả, cuốn sách lấy bối cảnh là ở Kyoto, xoay quanh cửa hàng đồ cổ Kura của nhà Holmes và những nhân vật hết sức nhã nhặn, lịch sự, có đam mê và sở thích rất tao nhã với nghệ thuật cổ, cộng thêm sự am hiểu văn hoá và lịch sử nước nhà của tác giả khiến cho mình có cảm giác rất thanh khiết khi đọc cuốn sách này.  Mình nghĩ đây sẽ là một cuốn sách rất phù hợp cho những ai đang chịu áp lực và muốn giải tỏa stress cũng như những bạn yêu thích Nhật Bản và thích đi du lịch Nhật Bản mà chưa có điều kiện đi như mình. - Review của bạn @Linh Phương *** HOLMES VÀ THIỀN SƯ BẠCH ẨN “Quý khách có món đồ cổ nào đang ngủ quên trong nhà không? Cửa hàng chúng tôi nhận giám định và thu mua đồ cổ!” Khi đi bộ dọc con phố mua sắm mái vòm[1] đông đúc náo nhiệt ở Teramachi Sanjo thuộc Kyoto, ta sẽ thấy một tiệm đồ cổ nhỏ nằm giữa những cửa hàng kề nhau san sát. Trên biển hiệu, chỉ có một chữ Hán “Kura”[2]. Đây có vẻ là tên cửa hàng. (Nếu nói đến tiệm đồ cổ, trong đầu mình sẽ hiện lên các cái tên như, “Phòng triển lãm OO”, hay “Antique[3] OO”, hoặc cái tên nào đó có gắn chữ “Đường”[4], thế nhưng ở đây lại có mỗi một chữ “Kura”, đơn giản quá nhỉ...) Đó là ấn tượng đầu tiên của tôi với cửa hàng này Không khí cửa hàng giống như một quán cà phê retro[5]hơn là một tiệm đổ cổ. Cửa hàng được bài trí kết hợp phong cách Nhật Bản và phương Tây, làm người ta liên tưởng tới thời kì Minh Trị - Đại Chính[6]. Sát lối vào là một góc uống trà, còn phía bên trong thì bày sản phẩm. Tôi thấy bóng dáng một người phụ nữ đứng tuổi với một người đàn ông đang uống cà phê và chuyện trò vui vẻ. Thật sự là nếu không nhìn biển hiệu, có khi tôi sẽ nghĩ đây là một quán cà phê. Trong khi tôi đang đứng trước cửa hàng và lấm lét ngó vào trong, tôi nhận ra mấy người đi ngang qua cứ thi thoảng lại lén liếc nhìn tôi một cái. “...” Tôi luống cuống chỉnh lại tư thế, mặt làm ra vẻ chẳng biết gì. Chắc người ta sẽ thấy lạ lắm khi bắt gặp một nữ sinh cấp ba lảng vảng trước cửa hàng đổ cổ. “Cô bé kia muốn vào cửa hàng mà không vào được nhỉ?” Có thể họ sẽ nghĩ về tôi theo kiểu ấy cũng nên. Nếu người ta nghĩ như thế thì... vâng, chuẩn rồi. Đúng, tôi là một cô nữ sinh cấp ba chán đời, dù muốn vào hàng đồ cổ này nhưng không thể, thế nên đang lảng vảng ở bên ngoài. Cũng bởi, nếu đây là một tiệm tạp hoá mang phong cách Bắc Âu cởi mở, hay một cửa hàng đồ cổ nhẹ đô hơn thì đã chẳng nói làm gì. Nhưng không khí cửa tiệm này lại đậm chất “cửa hàng mĩ nghệ cổ”, nên tôi không thể thoải mái bước vào. “Nhận giám định và thu mua đồ cổ.” Kể từ khi tình cờ nhìn thấy dòng chữ đó, tôi đã để ý đến cửa hàng này. Bao nhiêu lần tôi đã bụng bảo dạ rằng, “Vào thôi, vào thôi,” nhưng kết quả là tôi vẫn cứ lướt qua. “Kyoto”. Không phải quá lời khi nói đây là địa điểm tham quan số một Nhật Bản. Trong vòng một năm, rất nhiều khách du lịch từ khắp nơi trên thế giới đã ghé thăm nơi đây. Thế nhưng, đối với một học sinh cấp ba sống tại mảnh đất này mà nói, đây không ngờ lại là một “thành phố không có chỗ để vui chơi”. Đền chùa miếu mạo thì tuyệt vời và cũng xoa dịu lòng người đấy, nhưng không phải nơi cho bạn bè tụ tập chơi đùa. Chỗ để giải trí loanh quanh chỉ có tới quán karaoke hoặc trung tâm thương mại lớn, tạt vào rạp chiếu phim ở Sanjo rồi đi dạo lòng vòng ở khu mua sắm mái vòm mà thôi. Nhân tiện, tôi thấy con chim linh vật tên “Sanjoto~ri”, biểu tượng của khu phố mua sắm Sanjo, đáng yêu hết biết. Tôi thích nó ghê. A, ở lối vào cửa hàng này cũng dán poster “Sanjoto~ri” nữa. Quả nhiên là đáng yêu thật, nhìn mà dịu cả lòng. Mà thôi, tạm thời không nói đến chuyện đó. Vì lí do kể trên, hễ tới chơi ở phố mua sắm Sanjo, tôi lại liếc nhìn cửa hàng “Kura”, nhưng lần nào cũng chỉ lướt ngang qua nó. Đến nước này rồi, tôi không thể cứ lảng vảng bên ngoài mãi được. Tôi nắm chặt quai chiếc túi giấy trong tay. (Được rồi, vào thôi!) Ngay giây phút tôi vừa hạ quyết tâm, một người đàn ông trung niên mặc com lê từ sau lưng vượt qua tôi êm ru rồi mở cửa đánh xạch một cái. “Chào cả nhà, Holmes có đây hôn?” Ông vừa nói vậy vừa bước vào cửa tiệm. (Holmes?) Dù cảm thấy khá là kì quặc, tôi vẫn bước vào cửa hàng, như thể bị lôi kéo bởi người đàn ông nọ. Vừa mới vào bên trong, tôi trông thấy ngay một bộ sô pha cổ làm người ta liên tưởng tới phòng tiếp khách của những tòa kiến trúc phương Tây cổ kính. Một phụ nữ đứng tuổi đang vui vẻ nâng tách cà phê lên miệng. Chiếc đèn chùm nhỏ treo trên trần nhà không cao lắm. Một cái đồng hồ tủ đứng rất to dựng sát tường. Rất nhiều những món đồ cổ và vật dụng đủ loại được bày trên giá nằm sâu bên trong cửa hàng. Nhìn từ cửa ra vào thì cửa hàng trông cũng nhỏ, nhưng bên trong có vẻ khá sâu. Mời các bạn mượn đọc sách Holmes ở Kyoto của tác giả Mai Mochizuki & Thu Thủy, Nhân Văn (dịch).
Kẻ Đào Tẩu
Khi được đề nghị nhận trước 500.000 đô la để bào chữa cho Charlie Marsh, nữ luật sư xinh đẹp Amanda Jaffe không thể từ chối. Marsh, vốn phải chạy trốn khỏi Mỹ sau khi bị buộc tội sát hại hạ nghị sĩ Arnold Pope, giờ đây buộc phải quay về Mỹ khi bị tên độc tài Jean-Claude Baptise truy sát vì đã dám ngủ với người vợ quyến rũ của hắn. Liệu sự thông minh của Amanda có giúp Marsh thoát khỏi mức án tử hình, ông bố khát máu của Arnold Pope hay sát thủ của Baptiste và bao ân oán cũ? “Một cốt truyện đầy gay cấn... Độc giả sẽ bị cuốn theo hành trình lần tìm, ghép nối các manh mối của nữ luật sư thông minh, xinh đẹp Amanda.”  – Publishers Weekly “Nhịp điệu dồn dập, cốt truyện hấp dẫn… và một cái kết bất ngờ. Bạn còn đòi hỏi gì nữa?” – BookPage “Một vụ giết người bí ẩn với những nhân vật độc đáo, một bối cảnh thú vị và hàng loạt màn đấu trí thông minh. Kẻ đào tẩu hoàn toàn là một tuyệt tác của Margolin.” – The Globe and Mail *** Nữ luật sư thông minh Amanda Jaffe không khoan nhượng tội ác trên hành trình tìm kiếm sự thật. Tên sách: Kẻ đào tẩu Tác giả: Phillip Margolin Dịch giả: Vũ Thị Việt Hà Công ty Văn hóa Đông A và NXB Văn học liên kết xuất bản Thuộc thể loại trinh thám, hình sự, tiểu thuyết Kẻ đào tẩu của nhà văn Mỹ Phillip Margolin dồn nén nhiều kịch tính, cuốn hút độc giả qua từng tình tiết của vụ án mạng và cuộc đấu trí không khoan nhượng giữa một bên là luật pháp và một bên là bóng tối của tội ác. Cuốn sách viết về hành trình nữ luật sư xinh đẹp Amanda Jaffe bào chữa cho tên tội phạm Charlie Marsh. Amanda Jaffe không thể từ chối bào chữa cho hắn khi được đề nghị nhận trước 500.000 USD. Marsh chạy trốn khỏi Mỹ sau khi bị buộc tội sát hại hạ nghị sĩ Arnold Pope. Và giờ đây, hắn buộc phải quay về Mỹ khi bị tên độc tài Jean-Claude Baptise truy sát vì dám ngủ với người vợ quyến rũ của hắn. Thế nhưng, lần trở về này, Charlie Marsh bị bao vây bởi rất nhiều khó khăn và kẻ thù. Án cũ vẫn còn treo lơ lửng trên đầu hắn trong khi ông bố khát máu của Arnold Pope luôn theo sát Marsh để tìm cơ hội trả thù cho con. Sát thủ Baptiste do Jean-Claude Baptise phái đến luôn gây áp lực với Marsh. Bên cạnh đó, gã cũng vướng phải ân oán cũ với những người bạn tù ngày xưa. Tất cả khiến Charlie Marsh không có một giây phút nào bình an. Hắn luôn đứng giữa ranh giới sống và chết. Và luật sư thông minh Amanda Jaffe phải dấn thân vào hành trình tìm ghép các manh mối giúp thân chủ của cô thoát khỏi vòng vây bủa của tội ác. Trong hành trình đó, nhiều bí mật được phơi bày ra. Đan xen giữa hiện tại và quá khứ, cuốn tiểu thuyết của Phillip Margolin dày đặc tình tiết, kịch tính được dồn nén. Với kinh nghiệm 25 năm làm luật sư và kiến thức dày dặn về tội phạm, Phillip Margolin đã xây dựng cốt truyện được tờ National Examiner nhận xét: “Một cuốn tiểu thuyết hình sự giật gân cuốn hút ở tầm quốc tế”. Phillip Margolin đã có gần hai mươi tiểu thuyết nằm trong danh sách ăn khách nhất của tờ The New York Times, trong đó có Kẻ đào tẩu. Mỗi tác phẩm của ông là một cái nhìn độc đáo về hành vi tội phạm được miêu tả và phân tích dưới góc nhìn của người trong cuộc. Bản thân Margolin từng tiến hành bào chữa ba mươi vụ giết người trong thời gian ông là luật sư. Margolin đã giành được nhiều giải thưởng về thể loại truyện trinh thám hình sự. Hiện ông  sống ở Portland, Oregon, Mỹ. Bạch Tiên *** “Charlie đang ở đâu?” 1997   “Anh Burdett, hãy cho tôi biết khi anh đưa ra được quyết định nhé,” thẩm phán Dagmar Hansen đáng kính nói. “Chúng ta sẽ tạm hoãn phiên tòa cho tới khi tôi nghe được tin từ anh đấy.” Amanda Jaffe đứng dậy cùng những người tham dự phiên tòa khi ngài thẩm phán Hansen rời ghế quan tòa, nhưng cặp mắt cô không hề nhìn vị thẩm phán. Chúng đang dõi theo cuộc trao đổi gay cấn giữa bố cô và thân chủ của ông. Miệng Frank Jaffe chỉ cách tai Sally Pope có vài inch và ông đang nói gì đó rất nhanh. Bà Pope đang đặt tay lên cánh tay của bố cô, đôi lông mày bà ta nhíu lại, tập trung vào những lời ông đang nói. Amanda cau mày. Cô cảm nhận rõ ở hai người có sự thân mật hơn mức bình thường của quan hệ luật sư và thân chủ. Karl Burdett, ủy viên công tố quận Washington, trông đầy giận dữ khi lao ra khỏi cửa phòng xử án, theo sau là hai viên trợ lí. Một lúc sau, Frank Jaffe và bà Pope cũng rời đi. Ngay trước khi cánh cửa phòng xử án khép lại, Frank giơ ngón tay cái về phía Amanda. Sáng nay, trước khi tới phiên tòa, Frank đã bóng gió về một tiến triển lớn trong vụ này. Amanda ao ước biết được những gì đã xảy ra trong phòng riêng của ngài thẩm phán trước đó nhưng cô biết thừa chẳng nên quấy rầy bố cô khi vụ xử còn đang dang dở. Amanda quyết định đi thang bộ tới tiền sảnh. Cuộc đi bộ này có thể là bài tập thể dục duy nhất cô có được trong ngày hôm nay và cô cảm thấy vơi đi cảm giác tội lỗi. Amanda đã luyện tập rất căng suốt mùa hè vừa rồi khi rời trường về nhà. Là sinh viên năm thứ ba của Berkeley, cô đã giành về cho trường giải quán quân bơi 200 m tự do tại Cúp Liên đoàn PAC-10*và được xếp thứ sáu trong bảng xếp hạng quốc gia. Nếu như về đích sớm hơn vài giây, hẳn là Amanda đã được xếp hạng ba quốc gia và có cơ hội vào đội tuyển Olympic 2000. Những đột phá như vậy không dễ gì mà có nếu như cô bỏ lỡ quá nhiều buổi tập luyện, nhưng cô không thể bỏ qua cơ hội xem bố cô trình diễn trong phiên xử vụ án giết người xôn xao dư luận cả nước. Frank Jaffe là một trong những luật sư bào chữa giỏi nhất bang Oregon và Amanda đã muốn nối nghiệp cha từ hồi học tiểu học. Trong khi bọn con gái mải mê đọc mấy cuốn tạp chí thời trang thì Amanda nghiền ngẫm Perry Mason . Lúc bọn con gái mơ mộng chuyện đi dự vũ hội cuối cấp thì cô chỉ mơ về việc được tham gia xét xử những vụ án mạng. Từ trước tới giờ, ở bang Oregon chưa từng có vụ xét xử nào được công luận quan tâm nhiều như vụ xử Sally Pope về tội giết chồng, ngài nghị sĩ Arnold Pope con. Góp thêm vào sự ồn ào đó là sức thu hút của nhân vật được cho là đồng phạm của Sally Pope, anh chàng Charlie Marsh, hay còn gọi là Guru*Gabriel Sun, người đã từ một tên tội phạm quèn trở thành anh hùng quốc gia và từ đó, vị guru Thời đại mới đã dành được sự quan tâm của cả nước. Amanda có mang theo một cuốn Ánh sáng Nội tâm, tự truyện của Marsh, trong đó tác giả hé lộ về việc đã bị lạm dụng khi còn nhỏ và lí giải vì sao sự tổn thương tinh thần ấy khiến anh ta có một cuộc sống đầy bạo lực sau này. Điều làm cho cuốn sách trở nên đặc biệt là sự giải thích quá trình chuyển hóa tín ngưỡng đáng kinh ngạc của Marsh, xảy ra vào đúng giây phút anh ta liều mình cứu một viên giám ngục thoát khỏi sự tấn công của tên tù nhân điên loạn. Amanda nhìn tấm hình Marsh in ở mặt sau cuốn sách. Chẳng có gì khó hiểu tại sao phụ nữ lại lũ lượt kéo nhau tới dự những buổi nói chuyện của vị guru này để nghe anh ta giảng giải cách thức tìm ra nguồn sáng nội tâm, thứ ánh sáng đã lan tỏa trong cơ thể anh ta khi cận kề cái chết. Marsh sở hữu vẻ ngoài ưa nhìn của một ngôi sao điện ảnh, tóc vàng, mắt xanh nhưng cái quá khứ bạo lực của anh ta lại gợi ra một con quỷ đang tiềm ẩn. Sally Pope là một trong những người phụ nữ xinh đẹp và tự chủ nhất mà Amanda từng gặp, nhưng rồi ngay cả bà ta cũng gục ngã trước bùa chú của Marsh, đấy là nếu bạn tin vào những thứ trên mấy tờ báo lá cải. Trong vụ của Sally Pope có yếu tố tình dục, có người nổi tiếng và có cả cái chết thê thảm. Chỉ thiếu có một thứ - là Charlie. Dòng tít “GURU ĐANG Ở ĐÂU?” xuất hiện trên khắp các mặt báo cả nước vào ngày tòa mở phiên xét xử. Câu hỏi ấy trở đi trở lại trong các bản tin truyền hình. Charlie Marsh đã biến mất khỏi Câu lạc bộ Westmont đúng lúc Arnold Pope con bị bắn. Cũng như mọi người dân nước Mỹ, Amanda tự hỏi giờ này anh ta ở đâu và đang làm gì. Mời các bạn mượn đọc sách Kẻ Đào Tẩu của tác giả Phillip Margolin & Vũ Thị Việt Hà (dịch).
Ám Dạ Hành
Thành phố Thanh Dương liên tiếp xảy ra các vụ án mạng, nạn nhân có vẻ như không quan hệ gì với nhau nhưng nguyên nhân tử vong lại giống nhau đến kỳ lạ: bị móng tay dính nọc độc rắn cào xước da, trúng độc, suy tim mà chết. Một vụ hỏa hoạn bùng phát giữa đêm khiến người đàn ông trẻ thiệt mạng, qua khám nghiệm tử thi, nạn nhân không phải chết cháy mà do do trúng độc rắn, trên mặt, đầu và cổ là những vết móng tay cào. Mọi nghi ngờ đều chĩa về phía vợ nạn nhân nhưng không có chứng cớ. Vụ án đi vào ngõ cụt. Sau đó chỉ trong một thời gian ngắn, một ông lão về hưu, một gã ăn mày, một thương nhân giàu có và một cô gái điên đều được phát hiện tử vong với nguyên nhân tương tự. Tin đồn lan ra khắp nơi, người dân hoảng hốt, thật sự có ma đầu móng tay độc giết người bừa bãi, hay còn có huyền cơ khác?   Dưới sự dẫn dắt của tổ trưởng Tần Hán Xuyên, tổ trọng án số 2 đi sâu vào điều tra nhưng mãi chưa tìm ra hung thủ. Cùng lúc, thám tử tư trẻ tuổi Kim Nhất Điền lại phát hiện ra manh mối quan trọng, chĩa mũi nhọn về phía nội bộ cảnh sát, và khơi lại một câu chuyện quá khứ đau lòng… *** Reviewer: Điền Yên Ấn tượng đầu tiên của tôi với Ám dạ hành là: Có phải Ám ảnh đen yêu đương với Bạch dạ hành đẻ ra Ám dạ hành không vậy? Tiếp đến là cái bìa thì kiểu Cửu âm bạch cốt trảo nên duyên cùng tuyệt kỹ của Kim xà lang quân Hạ Tuyết Nghi. Nói chung là hơi bị tạp. Truyện mở đầu với bi kịch con lỡ tay phóng hỏa làm bố chết ngạt trong nhà. Tuy nhiên, sau đó pháp y phát hiện ra ông này đã chết vì nọc độc rắn hổ mang trước khi chết ngạt. Loạt bỏ tất cả các đối tượng tình nghi, vụ án rơi vào bế tắc. Liên tiếp sau đó diễn ra các vụ giết người tương tự. Nạn nhân đều là đàn ông, nghề nghiệp tuổi tác giàu nghèo có thể khác nhau nhưng đều chết vì bị cào và nọc độc rắn xâm nhập cơ thể từ vết thương dẫn đến cái chết của nạn nhân. Đội cảnh sát hình sự tìm mãi chẳng ra manh mối gì. Đến đây, nếu bạn đã quen với motif trinh thám thì hẳn sẽ nghi ngờ thủ phạm là công an hoặc người thân của công an. Chỉ có thế mọi manh mối mới đi vào ngõ cụt. Nhưng nghi mà không có chứng cứ thì cũng chẳng làm được gì. Thế nên tác giả mới đưa vào truyện nhân vật thám tử tư Kim Nhất Điền.Nói thật là anh chàng này không để lại cảm tình nhiều đối với tôi vì quá trình phá án khá mờ nhạt. Điều này không trách được vì thám tử tư không thể nhúng tay quá nhiều vào chuyện của công án, vụ nào thám tử lấn lướt công an thì e rằng đều là bịa đặt. Được cái, những gợi ý hay thông tin do Kim Nhất Điền mang tới đều có tính bước ngoặt. Tôi chỉ không thích anh chàng này ở chỗ hình như thần kinh anh ta hơi thô hơi bình thường, đặc biệt là khúc cuối, khi anh vạch mặt thủ phạm thì đúng là bất chấp mặt mũi người ta, cái cách anh ta xỉa vào nỗi đau của người khác khiến tôi không tiêu hóa được. Đổi lại, tôi đánh giá cao việc tác giả không buff Kim Nhất Điền thành nhân vật anh hùng bất chấp tất cả vì đạo nghĩa, sống dưới cờ đỏ búa liềm phải làm việc vì nhân dân. Anh chỉ là một thám tử tư và hành động theo đúng đạo đức nghề nghiệp của nghề đó.Tuy truyện không đề cập nhưng khi đọc, trong đầu tôi luôn hiện lên câu hỏi: tội này có đáng chết không? Một tên cặn bã làm hàng đống việc xấu xa lại ngộ sát người vô tội thì có đáng chết không? Những kẻ tuy không giết người trực tiếp nhưng hủy hoại cuộc đời người khác thì có đáng chết không? Vụ án không quá lắt léo, nếu đọc kỹ và cảm nhận thì có thể đoán ra hung thủ. Điều đọng lại sau cuốn truyện là nỗi đau không bao giờ lành của nạn nhân và gia đình nạn nhân. Và một lần nữa, tôi nghĩ mình không hợp làm cảnh sát khi nảy sinh cảm giác đồng tình với thủ phạm. Ngoài ra, vấn đề này không thuộc khía cạnh trinh thám, đó là chuyện tình cảm của nhân vật chính. Cô gái này vừa xao động trước ân sư vừa cảm thấy mến sư đệ. Quả thực là người ăn tạp y như bìa truyện: nam (phụ) lão ấu đều không chê. Văn phong tác giả khá ổn, có lúc trộn chút hài Mỹ. Có 1 vài lỗi chính tả. Dang Thi Quynh Anh‎ *** Màn đêm, tựa như một tấm lưới khổng lồ, từ từ bao phủ mặt đất. Thành phố Thanh Dương vào tháng Ba, trời chuyển sang mùa ấm nhưng vẫn còn se lạnh, gió đêm thanh mát thổi khắp phố lớn, trang phục mùa xuân của các cửa hàng thời trang đang rất đắt hàng. Hơn tám giờ tối, hai khách hàng bước vào shop thời trang Y Yến, một trai một gái, người con gái trông khoảng mười bảy, mười tám tuổi, mặc một chiếc quần đồng phục màu xanh, chắc là học sinh cấp ba từ trường học nào đó trốn tiết tự học ban đêm; người nam tóc nhuộm vàng, đeo một chiếc khuyên tai, phần cổ bên phải xăm hình chiếc đầu lâu, trên miệng đầu lâu ngậm một cành hoa hồng, vừa nhìn đã biết là Thanh niên hư hỏng mà giáo viên trong trường thường nói. Bà chủ Diêu Y Yến đóng ứng dụng QQ trên di động, từ sau quầy thu ngân đứng dậy tươi cười tiếp đón, “Hai vị muốn xem quần áo gì ạ?” Thanh niên hư hỏng ôm nữ sinh vào lòng rồi nói, “Hôm nay là sinh nhật bạn gái tôi, tôi muốn chọn một bộ trang phục đẹp tặng cô ấy làm quà sinh nhật.” Bà chủ cười hì hì nhìn cô gái kia, xoay người lấy một chiếc váy liền dài tay màu trắng và nói, “Chiếc váy này mang phong cách Hàn Quốc, chất vải khá dày, hoa văn cũng rất đẹp, là kiểu thịnh hành nhất năm nay, vừa ngọt ngào vừa có chút tươi mới, rất hợp với khí chất của cô ấy.” Thanh niên hư hỏng cầm chiếc váy hỏi cô gái, “Tiểu Lộ, em thấy đẹp không?” Cô gái không lên tiếng, hơi thẹn thùng gật đầu một cái. “Vậy thì mua cái này đi. Tối nay đám anh em của anh tổ chức tiệc sinh nhật cho em, em mặc chiếc váy này đến đó, chắc chắn sẽ làm bọn nó lóa mắt cho xem.” Thanh niên hư hỏng lại hỏi bà chủ, “Bao nhiêu tiền?” Diêu Y Yến báo một cái giá cao hơn giá bán ban đầu một phần ba. Chị ta biết thời điểm này là lúc đàn ông hào phóng nhất. Người thanh niên không nói lời nào, lấy ví ra thanh toán, đưa chiếc váy đã được đóng gói cho cô gái và nói, “Tặng quà sinh nhật cho em, có thích không?” “Thích ạ!” Cô gái nói, khuôn mặt ngập tràn hạnh phúc của cô gái vừa biết yêu. Nhìn bóng lưng đôi tình nhân trẻ nắm tay nhau rời đi, Diêu Y Yến bất giác có chút ngưỡng mộ cô bé. Chị ta cất mấy tờ tiền vừa thu được vào ví, mở ứng dụng QQ lên, thấy ảnh đại diện của một người đàn ông sáng đèn, hiển thị đang online QQ trên điện thoại, bèn mở khung đối thoại lên, đánh một hàng chữ, “Anh yêu, anh về đến nhà chưa?” Đợi vài phút, không thấy đối phương trả lời, chị ta thấy có chút mất mát, nghĩ bụng, đàn ông là vậy đấy, trên giường đối với bạn tốt biết mấy, kéo quần lên là quên bạn ngay. Ngõ Thanh Vân ở trước cửa tiệm, đèn đường mờ mịt, từ lâu vắng tanh không một bóng người. Diêu Y Yến biết không thể đợi được thêm vị khách nào nữa, bèn đứng dậy hạ cửa cuốn xuống, thu dọn sơ qua cửa tiệm, sau đó đi lên lầu. Cơ thể đầy đặn bước lên cầu thang cũ kĩ phát ra tiếng kêu ọp ẹp. Căn nhà hai tầng của Diêu Y Yến được xây vào những năm 80 của thế kỷ trước, dưới tầng trệt mở cửa hàng, tầng hai là nơi ba người nhà chị sinh sống. Diêu Y Yến thấy phòng con trai mình vẫn sáng đèn, biết Tiểu Lượng đang làm bài tập. Tiểu Lượng năm nay mười bốn tuổi, là học sinh lớp tám. Đứa trẻ này rất chăm học, thành tích cũng tốt, chỉ có một cái tật là không thích nói chuyện, suốt ngày cúi đầu, giống hệt ông cụ non. Chồng Diêu Y Yến tên là Hà Khánh Quốc, lớn hơn chị ta mười tuổi chẵn. Năm xưa, Diêu Y Yến là một cô gái trẻ từ quê lên thành phố, sở dĩ gả cho Hà Khánh Quốc chủ yếu vì nhìn trúng anh ta có một phiếu cơm dài hạn. Bấy giờ Hà Khánh Quốc làm việc ở nhà máy Giang Nam, đó là doanh nghiệp nhà nước vang danh gần xa. Không ngờ sau khi kết hôn được vài năm, gặp phải đợt tái cơ cấu doanh nghiệp, anh ta bị giảm biên chế, trở thành kẻ thất nghiệp. Sau này được một người bà con sắp xếp đến Đông Quan, Quảng Đông làm công, đến nơi mới biết người bà con kia lừa anh ta đi bán hàng đa cấp, lừa sạch mấy chục vạn tệ tiền bồi thường giảm biên chế mới thả anh ta về nhà. Hà Khánh Quốc thất nghiệp ngồi không hai năm, cuối cùng xin được một chân chạy vặt trong nhà ăn của trường Kỹ thuật thành phố, hàng ngày cưỡi chiếc xe đạp cũ kỹ đi sớm về khuya, nhưng chẳng thấy đem được bao nhiêu tiền về nhà. Diêu Y Yến cởi giày cao gót, biếng nhác ngả người trên sofa, tay cầm điều khiển tivi bấm liên tục. Bỗng cảm thấy dưới mông có vật gì đó cấn vào người, đưa tay mò xuống thì phát hiện dưới đệm sofa có một chiếc túi đeo chéo. Vừa nhìn chị ta biết ngay là của Chu Chính để lại. Chu Chính là người tình của chị ta. Hà Khánh Quốc là người trầm tính, không có chút thú vui cuộc sống gì, chẳng làm được việc gì ra hồn, trên người lại có mùi hôi. Ba năm trước, Diêu Y Yến và anh ta đã chia phòng ngủ. Có lúc nửa đêm Hà Khánh Quốc mò lên giường chị ta, chị ta đạp anh ta xuống giường hoặc cãi nhau một trận ầm ĩ. Khi cãi nhau chị ta không như những người phụ nữ khác, mà sẽ vừa động khẩu vừa động thủ, vừa mắng đến nước bọt bay tung tóe vừa nhe răng múa vuốt, móng tay bén nhọn như vuốt mèo không ngừng cào lên người Hà Khánh Quốc, thường xuyên cào cho anh ta mặt đầy thương tích. Sở dĩ Diêu Y Yến càng lúc càng không ưa chồng mình, càng lúc càng chán ghét chồng mình, còn có một nguyên nhân khác, đó là chị ta có tình nhân ở bên ngoài. Ban ngày Diêu Y Yến trông cửa hàng quần áo, lúc không có khách thì lên QQ trò chuyện với người khác. Hơn hai năm trước, chị ta quen biết Chu Chính qua mạng. Chu Chính làm việc cho một công ty kinh doanh dược liệu ở trung tâm thành phố, nhỏ hơn Diêu Y Yến sáu, bảy tuổi, vẫn chưa kết hôn. Hai người biết nhau qua QQ, trò chuyện vô cùng ăn ý, thỉnh thoảng Chu Chính nhắn vài mẩu chuyện sắc dục để trêu chọc Diêu Y Yến, chị ta không những không giận mà còn cười khúc khích. Sau này hai người trao đổi địa chỉ và số điện thoại liên lạc. Có một hôm, Diêu Y Yến đang trông cửa hàng, có một chàng trai trẻ bước vào, mặc áo vest, gương mặt trắng trẻo rất đẹp trai, trông có nét giống minh tinh Hồng Kông - Lê Minh. Diêu Y Yến tiến đến hỏi anh ta muốn mua trang phục gì? “Lê Minh” nói, “Tôi có một chị gái xinh đẹp, muốn mua bộ váy tặng chị ấy, khiến chị ấy vui vẻ một chút.” Diêu Y Yến hỏi, “Chị gái cậu bao nhiêu tuổi?” Lê Minh dùng ánh mắt táo bạo nhìn chị ta, cười hì hì nói, “Chị ấy xấp xỉ chị, dáng người cũng tương đương. Chị cứ chọn một bộ thật đẹp theo sở thích của chị đi.” Diêu Y Yến bèn chọn chiếc váy ren dài đắt nhất trong cửa hàng đưa cho anh ta. “Lê Minh” trả tiền, sau đó cầm túi quần áo lên, hai tay đưa đến trước mặt chị ta, nói, “Tiểu Yến Tử, đây là quà gặp mặt của Chu Chính tặng chị.” “Tiểu Yến Tử” là tên tài khoản QQ của Diêu Y Yến. Chị ta ngẩn ra, lúc sau mới có phản ứng lại, thì ra “Lê Minh” này chính là người bạn Chu Chính trên QQ. Diêu Y Yến chưa bao giờ được đàn ông tặng quà, cảm động suýt rơi nước mắt, trong lúc xuân tình nhộn nhạo, bất giác ôm lấy cổ anh ta, bạo dạn dâng lên một nụ hôn cháy bỏng. Chu Chính cũng hàm hồ, thuận thế đè chị ta lên chiếc sofa phía sau quầy thu ngân… Bắt đầu từ đó, hai người từ bạn trên mạng, phát triển thành một đôi tình nhân. Diêu Y Yến thường đợi sau khi con trai đi học, chồng đi làm, gọi Chu Chính đến cửa hàng quần áo để hẹn hò. Thời gian lâu dần, Hà Khánh Quốc tuy là người có đầu óc chậm chạp, cũng thầm hiểu ra chút ít nội tình, nhưng anh ta chỉ mắt nhắm mắt mở, vờ như không hay biết gì. Anh ta sợ một khi vạch trần sự việc, Diêu Y Yến sẽ ly hôn với mình. Dầu sao anh ta cũng đã 45 tuổi, với điều kiện của bản thân, muốn tìm một người vợ khác e là hơi khó khăn. Diêu Y Yến hiểu rõ tính cách anh ta, lại càng không kiềm chế, mỗi lần sau khi hẹn hò với tình nhân xong liền quay lại đánh phủ đầu, bắt bẻ những chuyện vụn vặt để cãi nhau với chồng, lần nào cũng mắng cho chồng mình không ngóc đầu lên được, cào cho rách đầu chảy máu, như thể người có lỗi là Hà Khánh Quốc vậy. Cả Chu Chính cũng thấy có chút khó coi, nói chị ta ở trước mặt mình giống như một con mèo nhỏ, trước mặt Hà Khánh Quốc lại như một con cọp cái. Chiều nay, Hà Khánh Quốc gọi điện thoại về nói có người đồng nghiệp mời uống rượu, không về ăn tối. Hà Khánh Quốc thích uống rượu, lần nào uống cũng phải say bí tỉ mới về. Có một tối, anh ta uống rượu xong đạp xe về nhà, đi dọc đường thì ngã gãy một bên tay, treo tay suốt một tháng mới hồi phục. Từ đó, anh ta uống rượu xong thì không dám đạp xe nữa. Diêu Y Yến lập tức gọi điện thoại cho Chu Chính, nói rằng buổi tối mình nấu mấy món ngon, gọi anh ta đến ăn cơm. Con trai Tiểu Lượng một ngày ba bữa đều ăn ở trường, buổi tối cũng học xong tiết tự học ban đêm mới về nhà, nên Chu Chính vừa đến Diêu Y Yến liền hạ cửa cuốn của cửa hàng xuống, dẫn anh ta lên lầu, tận hưởng thế giới của hai người. Ăn cơm tối xong, hai người lăn lộn trên giường, tất nhiên tránh không khỏi quấn quýt một phen. Xong việc, Diêu Y Yến gối đầu trước ngực người tình, bất tri bất giác chìm vào giấc mơ ngọt ngào. Trong lúc chị ta mơ màng ngủ còn nghe thấy Chu Chính vừa vuốt ve ngón tay mình vừa khen ngợi, “Tiểu Yến Tử này, mười đầu ngón tay của em trắng trẻo nuột nà, đẹp thật đấy!” Mời các bạn mượn đọc sách Ám Dạ Hành của tác giả Nhạc Dũng & Tú Phương (dịch).
Ve Sầu Mười Bảy Năm
Một nhà nghiên cứu lịch sử chết trong thư phòng bên bài thơ kỳ lạ. Một cô gái khao khát “kết án đàn ông” gục trên biển giấy với vô số dòng chữ “Chết đi!”. Một cựu nữ cảnh sát tử vong vì khí thải trong ô tô bị bịt kín. “Tự sát” hay “bị giết”. Điều tra viên Kuraishi Yoshio thuộc đội điều tra số 1 chuyên phụ trách những cái chết bất thường, là người sẽ nhìn ra. Vì từ hoa trong chậu hay tiếng hót của chim trong lồng, ông có thể đọc được thông tin liên quan đến tử thi. Tác phẩm được đề cử Giải Honkaku Mystery lần thứ 5 và được chuyển thể thành các phiên bản phim truyền hình, phim điện ảnh và manga. *** Sợi dây thừng thắt ngang cái cổ trắng muốt. Cơ thể người phụ nữ mềm oặt như không còn chút sức sống. Chỉ cần gã đàn ông nới lỏng cánh tay đang ôm quanh eo cô thôi, là cơ thể ấy sẽ lập tức ngã ập từ trên cái kệ xuống sàn. Người phụ nữ đang chìm sâu trong cõi mộng. Cô cảm thấy có gì đó kỳ lạ quanh cổ, hai hàng lông mày khẽ nhíu lại, “hức hức hức”, mũi cô phát ra tiếng thở khó nhọc. Đó chính là dấu hiệu. Gã đàn ông buông cơ thể người phụ nữ, mũi chân cô đạp vào cái kệ. Sợi dây phơi đồ duỗi căng ngay dưới xà ngang của thiết bị thể dục đa năng, nghiến sâu vào dưới cái cằm mảnh mai. Móng chân sơn màu loáng lên giữa khoảng không cách sàn nhà mười lăm xen-ti-mét, đung đưa tạo thành những vòng cung nhỏ. Sự dao động đó khiến nút thắt của dây thừng phát ra âm thanh “kẹt… kẹt…” vang vọng khắp phòng. Nước mũi quyện với máu chảy ra từ lỗ mũi, kéo thành vệt xuống môi trên. Cơn co giật nhanh chóng kéo đến. Phần bụng dưới co thắt, chất dịch như thấm ra từ chiếc váy màu vàng nhạt chạy dọc hai bên đùi. Chất lỏng ấy tránh qua đầu gối, lượn vòng quanh bắp chân, chảy xuống đọng lại trên sàn nhà, bốc mùi hôi thối. Người đàn ông cáu bẳn nhìn chòng chọc, sau đó đưa mắt sang chiếc đồng hồ treo tường. Không giờ mười lăm phút sáng. Mạch ở cổ người phụ nữ đã ngừng đập. Gã xoay gót, băng ngang qua phòng. Đầu ngón tay đeo găng sập công tắc trên tường. Cả căn phòng rơi vào màn đêm sâu thẳm. Gã mò mẫm mở cửa kéo, bước ra ngoài hành lang. Quay lại nhìn người phụ nữ lần nữa, gã thản nhiên đóng cửa lại rồi tiến về phía lối ra vào. *** “Hiện trường 70%, tử thi 30%” – Kuraishi Yoshio Ve sầu 17 năm là 1 tuyển tập truyện ngắn có yếu tố trinh thám kể về công việc của “điều tra viên chung thân” Kuraishi – người được ví như hiệu trưởng, hay huyền thoại sống của sở cảnh sát 1 tỉnh nào đó ở Nhật Bản….truyện gồm 8 phần truyện nhỏ, mỗi phần truyện là 1 vụ riêng biệt…. Sở dĩ mình nói đây là truyện “có yếu tố trinh thám” vì các đặc điểm của 1 tiểu thuyết trinh thám như: điều tra, khám nghiệm, suy luận, đuổi bắt hay phá án đều chỉ như lướt qua, ko có điểm gì đào sâu, ko có điểm nào được làm rõ ràng cả….1 phần vì mỗi phần truyện ko quá dài, nên ko đủ thời lượng nhồi nhét những yếu tố trên vào, và phần khác (chủ yếu) có lẽ là dụng ý của tác giả, chỉ muốn mượn câu chuyện về những ng cảnh sát, những điều tra viên, những vụ án mạng để kể những câu chuyện khác sâu hơn về xã hội Nhật Bản…. Trong 8 phần truyện thì phần truyện “món quà chia tay” gây ấn tượng với mình nhất, ấn tượng hơn cả phần cuối cùng – vốn đc chọn để đặt tên cho cả tập truyện….có lẽ vì đó là phần truyện mà mình cảm thấy có thể hiểu đc rõ nhất tâm lý từng nhân vật cũng như câu chuyện ẩn đằng sau….(mấy phần khác cũng ko quá khó hiểu đâu, chỉ là mình ấn tượng với phần này nhất, thế thôi  Về nhân vật Kuraishi, đây có lẽ là kiểu nhân vật tài năng có tính cách điển hình: thích tự do hành động, ko quan tâm đến chức quyền, ko ngại bật sếp, sống kiểu mặc kệ đời, ngoài lạnh trong nóng blah blah….và nếu nói về tài năng của ông này thì có lẽ phải xếp hàng thiên tài mất!!!….kiểu như chỉ nhìn qua hiện trường là ông ý phục dựng đc nguyên trạng quá trình gây án/tự sát xảy ra trc đó, xong còn biết cả nguyên nhân sâu xa của tội ác/hành vi tự sát, các kiểu các kiểu….thế nên phần điều tra phá án của Kuraishi thường vô cùng ngắn gọn, thậm chí chóng vánh!….chính bởi lẽ đó nên cái yếu tố trinh thám càng bị giảm hấp dẫn và ko đủ sức thuyết phục!…. Tóm lại, đây như 1 truyện trinh thám nhẹ nhàng đọc giải trí giết thời gian mùa dịch vậy ….đc cái bìa đẹp, gáy sách chắc chắn, lại có đánh dấu sách hình con ve sầu bao ngầu luôn! Đánh giá cá nhân: 7/10 Nguyễn Thành Tiến *** Ve sầu mười bảy nămVE SẦU MƯỜI BẢY NĂM Đánh giá: 4/5 “Sợi dây thừng thắt ngang cái cổ trắng muốt. Cơ thể người phụ nữ mềm oặt như không còn chút sức sống. Chỉ cần gã đàn ông nới lỏng cánh tay đang ôm quanh eo cô thôi, là cơ thể ấy sẽ lập tức ngã từ trên kệ xuống sàn” Đây là một đoạn trong phần mở đầu của mẩu truyện “danh thiếp đỏ” trong quyển “Ve sầu 17 năm”. Nếu như với những cuốn tiểu thuyết tôi đã đọc qua, đa phần họ sẽ đều xoay quanh cảnh sát điều tra suy luận và phá án. Mở đầu mỗi chương là đôi khi là một cảnh tượng gây án của hung thủ, đôi khi là một câu chuyện xoay quanh nạn nhân. Nếu như đã biết trước là án mạng hay tự sát. Thì chắc hầu ai cũng nghĩ là còn gì thú vị để đọc nữa?Tuy vậy ở quyển “ve sầu mười bảy năm” thay vì độc giả đi theo mạch suy luận của chuyên viên điều tra Kurashi hay được gọi là “điều tra viên chung thân” với óc phán đoán nhạy bén và không bỏ qua bất kì những chứ cứ nào. Ông ấy không hề bỏ qua những chứng cứ nhỏ nhất như làm sáng tỏ vụ việc, độc giả sẽ đi theo dòng suy nghĩ của những người điều tra đi cùng với Kuraishi để xem cách ông ấy hành động và đưa ra kết luận. Truyện dài khoảng gần 400 trang, gồm 8 chương, mỗi chương về một vụ án khác nhau. Mỗi vụ án đều có những điểm hấp dẫn nhất định. “Một vụ án giết người trong phòng kín đã xảy ra ngay trước mắt chúng ta, ngay khi chúng ta đang theo dõi nó” hay một cô gái luôn thù ghét đàn ông, cô có nguyện vọng trở thành một thẩm phán, quyết chí “kết án đàn ông” được tìm thấy đã chết trên vô số đống giấy được trải khắp sàn được gửi từ máy fax với cỡ chữ giống nhau đều ghi chữ “chết đi” Tình tiết truyện được giải thích khá cặn kẽ và hợp logic, một số cái kết trong các chương chuyện gây bất ngờ, bản dịch khá tốt. Bìa truyện và bookmark được trình bày khá đẹp. ‎Trần Huy‎    Mời các bạn mượn đọc sách Ve Sầu Mười Bảy Năm của tác giả Hideo Yokoyama & Khánh Trang, Miki (dịch).