Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nhật Ký Bí Mật của Tiểu Thư Miranda - Julia Quinn

Tiểu thuyết lãng mạn lịch sử xuất sắc nhất - RITA Awards 2007 Hôm nay mình đã yêu. Ở tuổi lên mười, tiểu thư Miranda Cheever không cho thấy bất cứ dấu hiệu nào của một Sắc đẹp Lộng lẫy. Cô bé đã học được cách chấp nhận những kỳ vọng của xã hội đối với mình… cho đến một buổi chiều, khi Nigel Bevelstoke - chàng Tử tước Turner đẹp trai, phong nhã – nghiêm trang hôn tay cô bé và hứa rằng: một ngày kia em sẽ trở thành chính mình, em sẽ thật xinh đẹp và thông minh. Ngày hôm ấy, Miranda đã biết mình sẽ yêu Turner mãi mãi. Mười năm sau, tất cả đều thay đổi, trừ tình yêu của Miranda dành cho Turner. Đi qua một cuộc hôn nhân đau khổ, Turner giờ trở thành một người đàn ông không còn niềm tin, cô độc và cay nghiệt. Còn Miranda, cô vừa tròn hai mươi, xinh đẹp theo cách của riêng mình, ngọt ngào vừa đủ, điềm tĩnh vừa đủ và mạnh mẽ vừa đủ. Đủ để không cho phép tình yêu kéo dài mười năm dành cho Turner một lần nữa trôi qua tầm tay… *** Ở tuổi lên mười, tiểu thư Miranda Cheever không hề bộc lộ dấu hiệu nào hứa hẹn một Sắc Đẹp Lộng Lẫy. Mái tóc nâu thảm hại đồng màu với đôi mắt; đôi chân dài khác thường từ chối bất cứ chuyển động nào có thể coi là duyên dáng dù mơ hồ nhất. Lúc nào mẹ cô bé cũng thấy cô nhảy loi choi khắp nhà. Thật không may cho Miranda, cái xã hội nơi cô bé sinh ra lại rất coi trọng vẻ bề ngoài của nữ giới. Và dù chỉ mới mười tuổi nhưng cô bé đã hiểu rằng về mặt này mình bị coi là thua kém so với hầu hết các bạn nữ khác trong vùng. Trẻ con thường có cách khám phá ra những điều như vậy, thường là từ những đứa trẻ khác. Chẳng hạn như sự cố không mấy vui vẻ xảy ra tại bữa tiệc sinh nhật lần thứ mười một của tiểu thư Olivia và công tử Winston Bevelstoke, cặp sinh đôi của vợ chồng ngài Bá tước xứ Rudland. Nhà Miranda khá gần Haverbreaks, điền sản của tổ tiên dòng họ Rudland gần Ambleside, quận Lake, Cumberland, và cô bé thường học bài cùng Olivia và Winston khi bọn trẻ về đây ở. Chúng trở thành bộ ba không thể tách rời và hiếm khi chơi với những đứa trẻ khác trong vùng, vì hầu hết đều sống cách đó khoảng một giờ đi ngựa. Khoảng chục lần mỗi năm, đặc biệt là những dịp sinh nhật, con cái tất cả các gia đình quý tộc và thượng lưu trong vùng lại tụ họp với nhau. Vì lý do này mà nữ Bá tước Rudland phải thốt ra một tiếng rền rĩ chẳng hề ra dáng quý bà; mười tám thằng nhóc tai quái đang hào hứng tha bùn đất khắp phòng khách nhà bà sau khi bữa tiệc của cặp sinh đôi tổ chức trong khu vườn bị trận mưa phá hỏng. “Má cậu dính bùn kìa, Livvy,” Miranda vừa nói vừa đưa tay lên lau vết bùn. Olivia thở hắt ra vẻ mệt mỏi đầy kịch tính. “Thế thì tốt hơn hết là mình nên vào phòng rửa mặt. Mình không muốn mẹ trông thấy mình thế này. Mẹ ghét bẩn, còn mình thì ghét phải nghe mẹ kêu ca bà ghét bẩn đến thế nào.” “Mình không hiểu bà lấy đâu ra thời gian để phàn nàn về vết bùn nhỏ trên mặt cậu trong khi cả tấm thảm của bà giờ toàn bùn đất thế kia cơ chứ.” Miranda liếc William Evans, thằng bé vừa mới hô “XUNG PHONGGGGGG” rồi phóng người lên trường kỷ. Cô bé phải bặm môi lại để khỏi cười. “Và cả đồ đạc nữa.” “Cũng thế cả thôi, tốt nhất là mình nên làm gì đó.” Nói rồi cô bé lẻn ra khỏi phòng, bỏ lại Miranda ở gần lối ra vào. Miranda quan sát cuộc bạo loạn chừng một vài phút rồi khá bằng lòng chấp nhận cái vị trí người-quan-sát thường lệ của mình, cho tới khi qua khóe mắt, cô bé thấy có ai đó đang đi tới. “Bạn tặng quà sinh nhật gì cho Olivia vậy Miranda?” Miranda quay sang thì thấy Fiona Bennet đang đứng trước mặt mình, xinh xắn trong chiếc váy yếm trắng kèm khăn quàng màu hồng. “Một cuốn sách,” cô bé đáp. “Olivia thích đọc sách. Còn bạn mang gì tới?” Fiona giơ ra một chiếc hộp có họa tiết vui mắt được thắt dây nơ màu bạc. “Một bộ sưu tập các dải ruy băng. Bằng lụa và xa tanh, thậm chí là bằng nhung nữa. Bạn có muốn xem không?” “Ôi, nhưng tớ không muốn làm hỏng lớp giấy gói đâu.” Fiona nhún vai. “Bạn chỉ cần tháo sợi dây buộc cho cẩn thận là được. Tớ vẫn làm thế với quà Giáng sinh mà.” Nói rồi cô bé kéo sợi nơ buộc và nâng cái nắp hộp lên. Miranda nín thở. Ít nhất có tới một tá ruy băng nằm trên lớp lót bằng nhung đen của chiếc hộp, mỗi sợi được thắt nơ bướm cực kỳ trang nhã. “Đẹp quá Fiona. Mình có thể xem một cái không?” Fiona nheo mắt. “Tay tớ không có tẹo bùn nào đâu. Thấy không?” Miranda giơ hai bàn tay lên để cô bạn kiểm tra. “Ừ, được rồi.” Miranda thò tay vào chọn một chiếc ruy băng màu tím. Chất xa tanh trơn mượt khủng khiếp và mềm mại trôi trong bàn tay cô bé. Cô bé đặt cái nơ bướm điệu đà ướm thử lên mái tóc mình. “Bạn nghĩ sao?” Fiona đảo tròn mắt. “Không phải màu tím, Miranda ạ. Ai cũng biết chúng dành cho tóc vàng cơ. Màu này thường bìm trên nền nâu. Bạn hiển nhiên không thể đeo nó rồi.” Miranda đưa trả dải ruy băng cho cô bạn. “Vậy màu nào thì hợp với tóc nâu? Xanh lá à? Mẹ mình có mái tóc màu nâu và mình đã thấy mẹ buộc những dải ruy băng màu xanh lá.” “Xanh lá cây có thể chấp nhận được, tớ nghĩ thế. Nhưng trên mái tóc vàng thì sẽ đẹp hơn. Mọi thứ đều đẹp hơn trên nền tóc vàng.” Miranda cảm thấy một thoáng phẫn nộ dâng lên trong lòng. “Vậy thì tớ không hiểu bạn sẽ làm gì hả, Fiona, bởi vì tóc bạn cũng nâu như tóc tớ mà.” Fiona giật lùi lại, nổi cáu. “Không phải!” “Đúng thế mà!” “Không phải!” Miranda nhoài người tới trước, hai mắt nheo lại vẻ đe dọa. “Bạn nên soi gương khi về nhà, Fiona ạ, bởi vì tóc bạn không phải màu vàng.” Fiona đặt dải ruy băng tím trở lại hộp và sập nắp đánh cạch một cái. “Vậy à, nó đã từng là màu vàng, còn tóc cậu chẳng bao giờ có màu đó cả. Và ngoài ra, tóc tôi có màu nâu nhạt, mà mọi người đều biết là nó đẹp hơn màu nâu sẫm. Sẫm như tóc bạn ấy.” “Tóc nâu sẫm chẳng có gì là sai trái cả!” Miranda đáp trả. Nhưng cô bé cũng biết rằng đa số người Anh đều không đồng tình với ý kiến của mình. “Và,” Fiona đắc thắng bổ sung, “bạn có đôi môi bự như con sên!” Bàn tay Miranda vụt đưa lên che miệng. Cô bé biết mình không đẹp; cô bé biết mình thậm chí còn không được coi là xinh xắn nữa cơ. Nhưng từ trước đến giờ cô bé chưa bao giờ thấy đôi môi của mình có gì không ổn cả. Cô bé ngước nhìn nhỏ bạn đang mỉm cười tự mãn. “Còn bạn thì có tàn nhang!” Cô la lên. Fiona giật lùi lại như vừa bị một cái tát. “Tàn nhang sẽ biến mất dần. Các nốt trên mặt tôi sẽ biến đi hết trước khi tôi bước sang tuổi mười tám. Tối nào mẹ tôi chẳng dặm nước chanh vắt lên.” Cô nàng cười khẩy vẻ khinh miệt. “Nhưng bạn thì vô phương cứu chữa, Miranda ạ. Bạn xấu xí.” “Bạn ấy không xấu!” Cả hai cô bé cùng quay sang nhìn Olivia - vừa mới từ phòng rửa mặt quay trở lại. “Ồ, Olivia,” Fiona nói. “Mình biết bạn kết thân với Miranda bởi vì cô ta sống gần nhà và cùng học bài với bạn, nhưng bạn phải thừa nhận là cô ta không xinh. Mẹ mình nói cô ta sẽ chẳng bao giờ lấy chồng được.” Đôi mắt xanh của Olivia lóe lên ánh nguy hiểm. Cô con gái độc nhất của Bá tước Rudland không bao giờ tha thứ một lỗi lầm nào, và Miranda lại là người bạn thân nhất của cô bé. “Miranda sẽ lấy được người chồng tốt hơn bạn đấy, Fiona Bennet ạ! Ba bạn ấy là một Tòng nam tước trong khi ba bạn chỉ là thường dân.” “Là con gái Tòng nam tước cũng chẳng có gì khác biệt cả trừ phi cô ta có nhan sắc hoặc có tiền,” Fiona ngân nga nhắc lại những lời mà cô bé hiển nhiên đã được nghe lúc ở nhà. “Mà cả hai thứ ấy Miranda đều chẳng có.” “Im đi, bạn là đồ bò già ngu ngốc!” Olivia giậm chân quát. “Đây là tiệc sinh nhật của tôi, nếu bạn không thể cư xử tử tế thì bạn có thể về!” Fiona nuốt giận. Cô bé biết tốt hơn là không nên làm cho Olivia - con gái của những người có đẳng cấp xã hội cao nhất vùng - xa lánh mình. “Mình xin lỗi, Olivia,” cô bé lẩm bẩm nói. “Đừng xin lỗi tôi. Xin lỗi Miranda ấy.” “Tôi xin lỗi, Miranda.” Miranda vẫn im lặng cho tới khi Olivia phải đá cô bé một cái. “Tôi chấp nhận lời xin lỗi của bạn,”miễn cưỡng nói. Fiona gật đầu rồi chạy biến. “Mình không thể tin được cậu lại gọi cậu ta là con bò già ngu ngốc,” Miranda nói. “Bạn cần phải học cách tự bảo vệ mình, Miranda ạ.” “Trước khi cậu tham gia vào, mình vẫn đang tự bảo vệ rất tuyệt đấy chứ, Livvy. Mình chỉ không muốn tự bảo vệ một cách quá ầm ĩ thôi.” Olivia thở dài. “Mẹ bảo mình không có chút xíu khả năng kiềm chế hay lương tri gì cả.” “Đúng là vậy,” Miranda tán thành. “Miranda!” “Đó là sự thật, cậu đúng là như thế mà. Nhưng dù thế nào mình vẫn yêu cậu.” “Mình cũng yêu cậu, Miranda. Và đừng để tâm đến Fiona già ngớ ngẩn. Khi nào lớn cậu có thể cưới Winston và rồi chúng mình sẽ thật sự là chị em.” Miranda liếc ngang qua phòng nhìn Winston vẻ hoài nghi. Cậu đang giật tóc một cô bé con. “Mình không biết nữa,” cô bé e dè nói. “Mình không chắc là mình muốn lấy Winston đâu.” “Vớ vẩn. Như thế thật hoàn hảo. Mà nhìn xem, anh ấy mới làm đổ rượu pân ra váy của Fiona kìa.” Miranda cười toe toét. “Đi với mình nào,” Olivia nói, cầm tay cô bạn. “Mình muốn mở quà. Mình hứa là sẽ reo to nhất khi nhận quà của cậu.” Hai cô bé trở lại phòng khách, rồi Olivia và Winston mở quà. Tạ ơn Chúa (theo ý kiến của Phu nhân Rudland), hoàn tất việc mở quà vào đúng bốn giờ, thời điểm những đứa trẻ phải về nhà. Đứa nào cũng được đích thân phụ huynh đến đón, ai cũng xem chuyện được mời tới nhà Haverbreaks là một niềm vinh dự, và không vị phụ huynh nào lại muốn bỏ lỡ cơ hội làm thân với ông bà Bá tước. Ngoại trừ bố mẹ của Miranda, đúng thế. Đến năm giờ, cô bé vẫn còn ở phòng khách nhà Bevelstoke, cùng Olivia xem xét các chiến lợi phẩm. “Ta không biết có chuyện gì với bố mẹ cháu thế, Miranda,” Phu nhân Rudland nói. “Ôi, cháu biết đấy ạ,” Miranda hào hứng đáp. “Mẹ cháu đã đến Scotland thăm bà ngoại, và cháu dám chắc là ba cháu đã quên béng cháu rồi. Ba cháu vẫn thường thế khi ông mải làm việc với một bản thảo nào đó. Ông dịch từ tiếng Hy Lạp.” “Ta biết,” Phu nhân Rudland mỉm cười. “Hy Lạp cổ đại.” “Ta biết,” Phu nhân Rudland thở dài. Đây không phải lần đầu tiên ngài Rupert Cheever quên mất cô con gái của mình. “Chà, phải tìm cách đưa cháu về nhà thôi.” “Con sẽ đi với bạn ấy,” Olivia đề xuất. “Con và Winston cần phải cất đồ chơi mới và viết thiệp cảm ơn. Nếu không làm việc đó tối nay, con sẽ không nhớ được ai đã tặng con thứ gì.” “Nhưng mẹ không thể để một người hầu đưa Miranda về nhà được. Bạn ấy sẽ không có ai để trò chuyện cả.” “Tớ có thể nói chuyện với người hầu mà,” Miranda nói. “Tớ vẫn thường xuyên nói chuyện với bọn họ ở nhà.” “Không phải với người hầu nhà tớ,” Olivia thì thầm. “Bọn họ cứng nhắc và câm như hến, lại còn thường nhìn tớ vẻ không bằng lòng nữa chứ.” “Hầu như lúc nào con cũng đáng bị nhìn với vẻ không hài cả,” Phu nhân Rudland ngắt ngang, âu yếm vỗ đầu cô con gái. “Ta tìm ra giải pháp cho cháu rồi đây, Miranda. Tại sao chúng ta không nhờ Nigel đưa cháu về nhà nhỉ?” “Nigel ư!” Olivia kêu lên. “Miranda, cậu thật là chú vịt may mắn.” Miranda nhướn mày. Cô bé chưa bao giờ gặp anh trai lớn của Olivia. “Được thôi,” cô bé từ tốn nói. “Tớ mừng vì cuối cùng cũng được gặp anh ấy. Cậu vẫn luôn miệng kể về anh ấy mà, phải không Olivia.” Phu nhân Rudland ra lệnh cho một cô hầu gái đi tìm Nigel. “Cháu chưa bao giờ gặp Nigel sao Miranda? Kỳ lạ thật. À, ta cho là vì nó thường chỉ về nhà vào dịp Giáng sinh, mà Giáng sinh thì cháu lại hay đi Scotland. Ta đã phải dọa sẽ từ mặt nó để bắt nó về nhà vào ngày sinh nhật của hai đứa sinh đôi đấy. Nó không dự bữa tiệc vì sợ một trong mấy bà mẹ kia sẽ cố gắng gả một đứa trẻ mười tuổi cho nó.” “Nigel mười chín rồi, anh ấy là một đám rất sáng giá đấy,” Olivia thản nhiên nói. “Anh ấy là một Tử tước. Và cực kỳ đẹp trai. Trông anh ấy giống mình.” “Olivia!” bà Rudland nhắc nhở vẻ không hài lòng. “Thì đúng thế mà mẹ. Nếu là con trai thì con sẽ rất đẹp trai cho xem.” “Là con gái thì cậu cũng xinh xắn thế còn gì, Livvy,” Miranda thành thực nói, nhìn những lọn tóc vàng của cô bạn với vẻ hơi ghen tị. “Cậu cũng vậy. Này, cậu chọn một dải ruy băng của con bò Fiona đi. Dù gì mình cũng không cần toàn bộ chỗ ruy băng này.” Miranda mỉm cười trước lời nói dối của cô bạn. Olivia là người bạn tốt như thế đấy. Cô bé nhìn xuống hộp ruy băng và ngoan cố chọn sợi xa tanh màu tím. “Cảm ơn cậu, Livvy. Thứ Hai mình sẽ buộc nó đến trường.” “Mẹ gọi con ạ?” Nghe giọng nói trầm ấm, Miranda quay mặt về lối cửa ra vào và gần như há hốc vì kinh ngạc. Đang đứng ở đó là một sinh vật lộng lẫy tuyệt vời nhất mà cô bé từng trông thấy. Olivia đã nói rằng Nigel mười chín tuổi, nhưng Miranda ngay lập tức nhận thấy anh đã ra dáng đàn ông lắm rồi. Đôi vai rộng cân đối trông như vẽ, thân hình thanh thoát nhưng rắn chắc. Tóc anh đậm màu hơn tóc Olivia nhưng vẫn có ánh vàng kim, bằng chứng cho thấy anh thường xuyên ở ngoài trời. Nhưng phần đẹp nhất của anh, Miranda lập tức nghĩ ra, chính là đôi mắt. Nó sáng ngời, màu xanh lam rạng rỡ, giống đôi mắt của Olivia. Chúng cũng lấp lánh ánh tinh nghịch, láu lỉnh. Miranda mỉm cười. Mẹ cô bé vẫn thường bảo rằng có thể nhìn vào đôi mắt của một người mà nói về người đó, mà anh trai của Olivia thì có đôi mắt tuyệt đẹp. “Nigel, con hộ tống Miranda về nhà được không?” bà Rudland hỏi. “Ba của cô bé dường như bị cầm chân ở đâu đó mất rồi.” Miranda tự hỏi tại sao Nigel lại nhăn mặt khi nghe mẹ gọi tên mình. “Chắc chắn rồi, thưa mẹ. Olivia, em đã có một bữa tiệc vui vẻ chứ hả?” “Đập phá tanh bành.” “Winston đâu rồi?” Olivia nhún vai. “Anh ấy đi chơi với thanh kiếm Billy Evans tặng rồi.” “Anh hy vọng không phải là đồ thật.” “Chúa phù hộ chúng ta nếu nó là đồ thật,” bà Rudland xen vào. “Được rồi, Miranda, chúng ta sẽ đưa cháu về. Ta tin là áo choàng của cháu đang ở phòng bên.” Bà biến mất qua khung cửa và xuất hiện trở lại vài giây sau với chiếc áo choàng bền chắc màu nâu của Miranda. “Chúng ta lên đường chứ, Miranda?” Sinh vật đến từ thiên đường ấy đưa tay ra cho cô bé. Miranda khoác áo rồi đặt bàn tay mình vào tay anh. Thiên đường! “Mình sẽ gặp cậu vào thứ Hai nhé!” Olivia gọi với theo. “Và đừng lo lắng về những gì Fiona nói. Cậu ta chỉ là con bò già ngớ ngẩn thôi.” “Olivia!” “Thì đúng thế mà mẹ. Con không muốn bạn ấy quay lại đây nữa.” Miranda mỉm cười khi để anh trai Olivia dẫn xuống tiền sảnh, giọng của Olivia và bà Rudland nhỏ dần, nhỏ dần. “Cảm ơn anh rất nhiều vì đã đồng ý đưa em về nhà, Nigel,” cô bé khẽ nói. Anh lại nhăn mặt. “Em... em xin lỗi,” cô bé vội nói. “Đáng lẽ em nên nói ‘thưa ngài’, đúng không? Chỉ tại Olivia và Winston thường nhắc đến anh bằng tên riêng nên em...” Cô bé khổ sở nhìn xuống sàn nhà. Chỉ mới hai phút được đi cạnh anh mà cô bé đã mắc sai lầm ngớ ngẩn rồi. Anh dừng lại và cúi xuống để cô bé có thể nhìn thấy mặt mình. “Đừng lo lắng về cái từ ‘thưa ngài’ ấy, Miranda. Anh sẽ nói cho em một bí mật nhé.” Đôi mắt Miranda tròn xoe, cô bé quên cả thở. “Anh ghét tên thánh của mình.” “Đó không hẳn là một bí mật, Nig... ý em là, thưa ngài, mà mặc kệ anh muốn được gọi là gì cũng được. Cứ khi nào mẹ anh gọi anh bằng cái tên đó là anh lại nhăn mặt.” Nigel mỉm cười với Miranda. Có điều gì đó khiến trái tim anh nhói lên khi Nigel nhìn thấy cô gái bé nhỏ với nét mặt quá ư nghiêm nghị này chơi với đứa em gái ương bướng không thể khuất phục của anh. Cô bé là một sinh vật nhỏ nhắn trong cái vẻ ngoài thật buồn cười, nhưng đôi mắt nâu to tròn rất có hồn của cô lại ánh lên vẻ gì đó khá đáng yêu. “Thế anh được gọi là gì ạ?” Miranda hỏi. Anh mỉm cười với cô bé, không hề kiểu cách. “Turner.”[1] [1] Có nghĩa là Thợ tiện. Mất một lúc anh tưởng cô bé sẽ không nói gì. Miranda chỉ đứng đó, hoàn toàn bất động, chỉ có đôi mắt vẫn long lanh. Và rồi, như thể cuối cùng đã tìm ra kết luận, cô bé nói, “Cái tên hay thật. Hơi kỳ lạ một chút, nhưng em thích.” “Hay hơn Nigel nhiều, em không nghĩ thế à?” Miranda gật đầu. “Anh đã chọn nó à? Em vẫn nghĩ rằng người ta nên tự chọn tên cho mình. Em cũng biết hầu hết người ta sẽ chọn một cái tên nào đó khác với tên mình được đặt.” “Và em sẽ chọn tên gì?” “Em không chắc nữa, nhưng không phải là Miranda. Thứ gì đó mộc mạc hơn, em nghĩ thế. Người ta kỳ vọng một điều gì đó khác khi nghe đến cái tên Miranda và hầu như thường thất vọng khi họ gặp em.” “Vô lý,” Turner mạnh mẽ phản đối. “Em là một Miranda hoàn hảo.” Cô bé cười rạng rỡ. “Cảm ơn anh, Turner. Em có thể gọi anh như thế không?” “Dĩ nhiên rồi. Và anh e là không phải anh chọn cái tên này. Nó chỉ là một tước hiệu lịch thiệp. Tử tước Turner. Từ hồi tới Eton đến giờ anh vẫn dùng cái tên ấy thay cho Nigel.” “Ồ. Nó hợp với anh, em nghĩ thế.” “Cảm ơn em,” anh trang trọng đáp lại, hoàn toàn bị đứa trẻ nghiêm nghị này mê hoặc. “Giờ thì, đưa tay em cho anh lần nữa nào, chúng ta sẽ lên đường.” “Cái gì thế?” “Cái này ạ? Ồ, ruy băng ấy mà. Fiona Bennet tặng khoảng hai chục chiếc cho Olivia, và Olivia nói em có thể giữ mộtchiếc.” Mắt Turner hơi nheo lại rất khẽ khi anh nhớ lại Olivia đã nói gì lúc tạm biệt Miranda. Đừng lo lắng về những gì Fiona nói. Anh kéo dải ruy băng ra khỏi tay cô bé. “Anh nghĩ chỗ của ruy băng là ở trên mái tóc chứ nhỉ.” “Ờ, nhưng nó không hợp với váy của em,” Miranda yếu ớt phản đối. Lúc này anh đã buộc nó thật chặt lên đỉnh đầu của cô bé rồi. “Nó trông thế nào ạ?” cô bé thì thầm. “Tuyệt vời.” “Thật ạ?” Cô tròn xoe mắt vẻ hoài nghi. “Thật mà. Anh luôn nghĩ rằng ruy băng màu tím trông đặc biệt xinh xắn trên mái tóc nâu.” Miranda thấy mình phải lòng Tuner ngay tức khắc. Cảm xúc quá mãnh liệt đến nỗi cô bé quên cả cảm ơn lời khen của anh. “Chúng ta khởi hành chứ?” anh nói. Cô gật đầu, không tin tưởng chính giọng nói của mình nữa. Họ rời ngôi nhà đến tàu ngựa. “Anh nghĩ chúng mình có thể cưỡi ngựa,” Turner nói. “Một ngày quá đẹp để ngồi trong xe.” Miranda lại gật đầu. Thời tiết ấm áp khác thường đối với tháng Ba. “Em có thể lấy chú ngựa con của Olivia. Anh chắc chắn là con bé không thấy phiền đâu.” “Livvy không có ngựa con,” cuối cùng thì Miranda cũng tìm lại được giọng nói của mình. “Bây giờ cậu ấy có một con ngựa cái hẳn hoi. Em cũng có một con ở nhà. Bọn em không phải là trẻ con.” Turner nén cười. “Ừ, anh có thể thấy là bọn em không còn nhỏ nữa. Anh mới ngớ ngẩn làm sao chứ. Anh chẳng suy nghĩ gì cả.” Vài phút sau, yên ngựa đã thắng xong, và họ bắt đầu chặng đường mười lăm phút đi ngựa đến nhà Cheever. Miranda vẫn im lặng khoảng một phút đầu, quá hạnh phúc đến nỗi không muốn làm hỏng khoảnh khắc này bằng những lời nói. “Ở bữa tiệc em có vui không?” rốt cuộc Turner lên tiếng. “Ồ, vâng. Phần lớn thời gian rất vui ạ.” “Phần lớn thời gian thôi à?” Anh thấy Miranda nhăn mặt. Rõ ràng cô bé không định nói quá nhiều. “À,” cô bé chậm rãi đáp, cắn môi rồi lại nhả ra, “một cô gái đã nói những lời không tốt với em.” “Ồ?” Anh biết tốt hơn là không nên tò mò thái quá. Và quả nhiên anh đã đúng, bởi vì khi Miranda nói chuyện, cô bé gợi anh nhớ đến em gái mình - đang ngước nhìn anh chăm chú với ánh mắt thẳng thắn trong khi từ ngữ thì ào ào mạnh mẽ. “Đó là Fiona Bennet,” cô bé nói với vẻ cực kỳ chán ghét, “Olivia gọi cô ta là con bò già ngu ngốc, và em phải nói là em không thấy hối tiếc khi cậu ấy làm vậy.” Turner vẫn giữ thái độ trang nghiêm thích hợp. “Anh cũng không thấy tiếc vì con bé đã làm vậy, nếu Fiona đã nói những lời tàn nhẫn với em.” “Em biết mình không xinh đẹp,” Miranda bùng nổ. “Nhưng thật là thô lỗ bất lịch sự khi nói vậy, ấy là chưa kể còn ám chỉ thẳng thừng color="black">Turner nhìn Miranda một lúc lâu, không chắc mình phải an ủi cô gái bé nhỏ này như thế nào. Miranda không xinh đẹp, đó là sự thật, và nếu anh cố bảo rằng cô bé xinh xắn thì cô bé sẽ không tin anh. Nhưng cô bé không xấu xí. Chỉ... hơi vụng về. Tuy nhiên anh đã được giải thoát khỏi tình huống khó khăn này, không phải nói bất cứ điều gì nhờ câu bình luận tiếp theo của Miranda. “Đó là vì mái tóc màu nâu này, em nghĩ thế.” Anh nhướn mày. “Nó chẳng đúng mốt gì cả,” Miranda giải thích. “Và cả đôi mắt nâu nữa. Em cũng quá gầy và mặt em quá dài, em quá xanh xao nữa.” “Chà, những cái đó đều đúng cả,” Turner nói. Miranda quay sang đối diện với anh, đôi mắt cô bé mở to, nhòa lệ và gương mặt đượm vẻ buồn rầu. “Hiển nhiên em có mái tóc và đôi mắt màu nâu. Không có gì phải bàn cãi ở điểm đó cả.” Anh nghiêng đầu vờ săm soi nghiên cứu cô bé thật toàn diện. “Em khá gầy, và mặt em đúng là hơi dài một tí. Và em rõ ràng là trông xanh tái.” Môi Miranda run run, và Turner không thể trêu chọc cô bé thêm nữa. “Nhưng mà,” anh mỉm cười, “anh lại thích phụ nữ có tóc và mắt màu nâu hơn.” “Không phải thế!” “Đúng thế đấy. Lúc nào anh cũng thích như vậy. Anh cũng thích họ gầy và xanh xao nữa.” Miranda nhìn anh vẻ hoài nghi. “Thế còn mặt dài thì sao?” “À, anh phải công nhận anh chưa bao giờ nghĩ ngợi nhiều về vấn đề ấy, nhưng anh chắc chắn là không thấy phiền lòng với một khuôn mặt dài.">“Fiona Bennet nói em có đôi môi bự,” cô bé vẫn bướng bỉnh nói. Turner hơi mỉm cười đáp lại. Cô bé thở dài thườn thượt. “Trước đây em thậm chí chưa bao giờ nhận thấy là mình có đôi môi bự.” “Không quá bự đâu.” Cô bé ném cho anh ánh nhìn cảnh giác. “Anh đang nói thế để làm em thấy dễ chịu hơn thôi.” “Quả là anh muốn em cảm thấy khá hơn thật, nhưng đó không phải là do anh nói thế. Và lần tới Fiona Bennet mà nói em có đôi môi bự thì hãy bảo với nó là nó sai rồi. Em có đôi môi đầy đặn.” “Có gì khác nhau đâu?” Cô bé nhìn anh nôn nóng, đôi mắt tối sẫm hết sức nghiêm nghị. Turner hít vào một hơi. “Chà chà,” anh nói tránh. “Môi bự thì không hấp dẫn. Nhưng môi đầy đặn thì có đấy.” “Ồ.” Điều đó có vẻ làm cô bé hài lòng. “Môi Fiona mỏng dính.” “Môi đầy đặn thì tốt hơn nhiều, nhiều so với môi mỏng,” Turner nói dứt khoát. Anh khá thích cô gái bé nhỏ vui nhộn này và muốn cô bé vui hơn. “Tại sao?” Turner thầm cầu xin các vị thần của nghi thức xã giao và tính đúng đắn chừng mực tha lỗi trước khi trả lời: “Đôi môi đầy đặn thì hôn sẽ tuyệt hơn.” “Ồ.” Miranda đỏ mặt, và rồi cô bé mỉm cười. “Hay quá.” Turner cảm thấy hài lòng với bản thân một cách ngớ ngẩn. “Em có biết anh nghĩ gì không, tiểu thư Miranda Cheever? “Dạ?” “Anh nghĩ em chỉ cần trở thành chính mình thôi.”[2] Vừa nói ra điều đó, anh lập tức cảm thấy hối tiếc. Chắc chắn cô bé sẽ hỏi ý anh là gì, và anh chẳng biết phải trả lời cô ra sao nữa. [2] Nguyên văn là “I think you just need to grow into yourself” và Miranda hiểu lầm ý của anh nói cô bé cần phải lớn hơn để cơ thể cân đối với đôi chân quá dài của mình. Nhưng cô bé lớn trước tuổi này chỉ nghiêng nghiêng đầu suy nghĩ về tuyên bố của anh. “Em mong là anh đúng,” cuối cùng cô nói. “Hãy nhìn chân em mà xem.” Một tiếng ho kín đáo lấp liếm nụ cười nén vội trong họng Turner. “Ý em là gì?” “Thế đấy, chân quá dài. Mẹ em thường nói rằng chân dài đến nách vậy.” “Có vẻ như chân em bắt đầu từ phần hông của em đấy chứ.” Miranda cười rúc rích. “Em đang nói ẩn dụ mà.” Turner nháy mắt. Cô bé mười tuổi này quả là thích lý sự. “Ý em là,” cô tiếp tục, “đôi chân của em có kích thước không cân đối so với phần còn lại của cơ thể. Em nghĩ đó là lý do em không thể học khiêu vũ được. Em cứ giẫm vào ngón chân của Olivia hoài.” “Giẫm lên ngón chân của Olivia?” “Chúng em tập khiêu vũ cùng nhau,” Miranda mau lẹ giải thích. “Em nghĩ nếu các bộ phận trên cơ thể em ăn khớp với đôi chân thì em sẽ không quá lóng ngóng vụng về. Vì vậy em cho là anh đúng đấy. Em đúng là phải lớn hơn để cho vừa với chính mình.”[3] [3] Nguyên văn là “I do have to grow into myself.” “Tuyệt vời,” Turner nói, vui mừng nhận ra chẳng hiểu xoay xở thế nào mà anh đã nói trúng điều cần nói. “À, có vẻ như chúng ta đến nơi rồi.” Miranda ngước nhìn ngôi nhà đá xám xịt của mình. Nó tọa lạc ngay trên một trong những dòng suối ăn thông với các hồ trong vùng, và dòng suối này chảy qua cây cầu nhỏ bằng đá cuội dẫn đến cửa trước của ngôi nhà. “Cảm ơn anh rất nhiều vì đã đưa em về, Turner. Em hứa sẽ không bao giờ gọi anh là Nigel.” “Em cũng hứa là sẽ véo Olivia nếu nó gọi anh là Nigel chứ?” Miranda khẽ bật ra tiếng cười khúc khích và bụm tay che miệng. Cô bé gật đầu. Turner xuống ngựa rồi quay sang giúp cô bé xuống. “Em có biết anh nghĩ em nên làm gì không hả Miranda?” anh đột nhiên hỏi. “Gì ạ?” “Anh nghĩ em nên viết nhật ký.” Cô bé chớp mắt ngạc nhiên. “Tại sao? Ai muốn đọc nó chứ?” “Không ai cả. Em giữ riêng nó cho mình thôi. Và có thể một ngày nào đó sau khi em qua đời, con cháu của em sẽ muốn đọc nó để biết được hồi còn trẻ em sống như thế nào.” Cô nghiêng nghiêng đầu. “Ngộ nhỡ em không có con cháu thì sao?” Turner bất giác đưa tay vò tóc cô bé. “Em hỏi nhiều quá đấy, mèo con ạ.” “Nhưng nhỡ em không có con cháu thì sao?” Chúa ơi, cô bé thật cứng đầu. “Có lẽ em sẽ nổi tiếng.” Anh thở dài. “Và bọn trẻ học ở trường sẽ muốn được biết về em.” Miranda ném cho anh ánh mắt hoài nghi. “Ôi, thôi được rồi, em muốn biết tại sao anh thật sự nghĩ em nên viết nhật ký không?” Cô bé gật đầu. “Bởi vì một ngày nào đấy em sẽ lớn lên và trở thành chính mình, em sẽ xinh đẹp và thông minh. Rồi em có thể đọc lại nhật ký và nhận ra những đứa con gái như Fiona Bennet mới ngốc nghếch làm sao. Và em sẽ cười khi nhớ lại rằng mẹ em đã nói chân em dài tới tận nách. Và có thể em sẽ dành cho anh một nụ cười tủm tỉm khi nhớ lại buổi trò chuyện tuyệt vời giữa chúng ta hôm nay.” Miranda ngước nhìn anh, nghĩ rằng anh chắc hẳn phải là một trong những vị thần Hy Lạp mà ba vẫn thường đọc cho mình nghe. “Anh biết em nghĩ gì không?” cô bé thì thầm. “Em nghĩ Olivia rất may mắn vì có anh là anh trai.” “Anh nghĩ nó rất may mắn vì có em là bạn.” Môi Miranda run run. “Em sẽ dành cho anh một nụ cười rạng rỡ, Turner ạ,” cô bé thì thầm. Anh cúi xuống ân cần hôn lên mu bàn tay của cô bé đúng như anh hẳn sẽ làm với một tiểu thư xinh đẹp nhất London. “Hãy chờ xem nhé, mèo con.” Anh mỉm cười và gật đầu chào trước khi lên ngựa, dắt con ngựa cái của Olivia đi đằng sau. Miranda dõi theo cho tới khi anh biến mất ở đường chân trời, rồi cô bé cứ nhìn đăm đăm thế thêm mười phút tuyệt vời nữa. Khuya hôm đó Miranda thơ thẩn đi vào phòng làm việc của ba. Ông đang cắm cúi vào một văn bản, quên bẵng cây nến sáp đang nhỏ giọt trên bàn làm việc. “Ba, đã bao nhiêu lần con phải nhắc ba để ý đến mấy cây nến rồi ạ?” Cô bé thở dài đặt cây nến vào giá cắm. “Gì cơ? Ồ, con yêu.” “Và ba cần nhiều hơn một cây nến. Ở đây tối quá không thể đọc được.” “Thế à? Ba không để ý.” Ông chớp mắt và rồi nheo lại. “Không phải đã quá giờ đi ngủ của con rồi à?” “Vú nói đêm nay con có thể thức thêm ba mươi phút nữa.” “Vú nói vậy à? Ờ ờ, miễn là bà ấy đồng ý.” Ông lại cắm cúi trở lại bản thảo, tỏ ý không muốn nói chuyện nữa. “Ba à.” Ông thở dài. “Gì nữa thế, Miranda?” “Ba có quyển sổ thừa nào không? Giống như những cuốn ba dùng khi đang dịch ấy, nhưng là trước khi ba chép ra bản nháp cuối cùng cơ?” “Chắc là có đấy.” Ông mở ngăn kéo dưới cùng của bàn làm việc ra lục tìm trong đó. “Đây rồi. Nhưng con muốn làm gì với nó thế? Đây là một cuốn sổ rất tốt, con biết đấy, và không rẻ đâu.” “Con sẽ viết nhật ký.” “Bây giờ ư? À, thế thì ba cho là cuốn sổ này xứng đáng đấy.” Ông đưa cuốn sổ cho Miranda. Cô bé cười rạng rỡ trước lời tán dương của ba. “Cảm ơn ba. Con sẽ cho ba biết khi nào hết chỗ viết và cần một cuốn khác.” “Được rồi. Chúc ngủ ngon, con yêu.” Ông quay trở lại với đống giấy tờ của mình. Miranda ôm cuốn sổ vào ngực chạy lên lầu về phòng ngủ. Cô bé lấy ra một lọ mực và cây bút lông rồi mở cuốn sổ ra. Ở trang đầu tiên, cô bé ghi ngày tháng, và rồi, sau một hồi cân nhắc, cô viết một dòng duy nhất. Dường như đó là tất cả những gì cần viết. 2 THÁNG BA 1810 Hôm nay mình đã yêu. Nigel Bevelstoke, vốn được tất cả những kẻ muốn lấy lòng anh biết đến nhiều hơn với cái tên Turner, biết rất nhiều thứ. Anh biết đọc tiếng Latin và tiếng Hy Lạp. Anh biết tán tỉnh phụ nữ bằng tiếng Pháp và tiếng Ý. Anh biết vừa cưỡi ngựa vừa nhắm bắn một mục tiêu di động, và biết chính xác phải uống bao nhiêu ly thì không đánh mất phẩm giá địa vị của mình. Anh biết tung một nắm đấm hoặc một đường gươm với phong thái bậc thầy, và cũng có thể làm cả hai việc đó trong khi vẫn ngâm nga Shakespeare hay Donne đầy duyên dáng. Tóm lại, anh biết mọi thứ mà một quý ông nên biết, và theo những thông tin thu được thì anh xuất sắc trong mọi lĩnh vực. Người ta nhìn ngắm anh. Người ta tôn kính anh. Nhưng không có gì - không một giây nào trong cuộc đời xuất chúng và vinh quang của anh - giúp anh chuẩn bị sẵn sàng để đối mặt với thời khắc này. Và chưa bao giờ anh cảm thấy sức nặng của những ánh mắt soi xét dè chừng nhiều như lúc này, khi anh bước tới trước và ném nắm đất lên quan tài của vợ mình. Tôi rất lấy làm tiếc, người ta cứ nói đi nói lại mãi. Tôi rất lấy làm tiếc. Chúng tôi rất lấy làm tiếc. Và trong lúc đó, Turner không thể ngăn được cái ý nghĩ rằng không biết có phải đang cười anh không, bởi vì tất cả những gì anh có thể nghĩ đến là... Tôi không thấy tiếc. À, Leticia. Anh cảm ơn cô ta rất nhiều về điều đó. Hãy xem nên bắt đầu từ đâu thì hợp lý? Danh tiếng của anh bị tổn hại, dĩ nhiên rồi. Chỉ quỷ sứ mới biết có bao nhiêu người tường tận rằng anh là kẻ bị cắm sừng. Một lần, hai lần, ba lần,... Thế rồi đến bản tính trong sáng của anh cũng mất. Giờ đây, thật khó lòng hồi tưởng lại, nhưng anh đã từng không hề nghi ngờ bất cứ ai. Anh đã từng tuyệt đối tin vào những gì tốt đẹp nhất của con người - rằng nếu anh đối xử với người khác bằng danh dự và sự kính trọng thì họ sẽ làm như vậy với anh. Và cuối cùng, linh hồn anh cũng mất. Bởi vì trong khi anh bước lùi lại, chắp hai tay cứng nhắc phía sau lắng nghe vị linh mục chuyển thân xác Leticia vào lòng đất, anh không thể trốn chạy cái thực tế là anh đã ao ước điều này xảy ra. Anh muốn thoát khỏi cô ta. Anh đã và sẽ không than khóc cho cô ta. “Thật đáng tiếc,” ai đó phía sau anh thì thào nói. Quai hàm Turner giần giật. Không có gì đáng tiếc ở đây. Nó là một trò hề. Và bây giờ anh sẽ dùng một năm sắp tới để tang cho một người phụ nữ đến với anh mà lại mang thai đứa con của kẻ khác. Cô ta làm anh mê mẩn, bỡn cợt anh cho tới khi anh không thể nghĩ đến điều gì khác ngoài việc chiếm cho được cô ta. Cô ta nói rằng cô ta yêu anh, và cô ta mỉm cười với vẻ ngây thơ dịu dàng đầy vui sướng khi anh tuyên thệ lòng tận tâm và cam kết bằng cả linh hồn mình. Cô ta đã từng là giấc mơ ngọt ngào của anh. Và rồi cô ta trở thành ác mng của anh. Cô ta mất đứa bé đó, đứa trẻ đã dẫn đến cuộc hôn nhân của họ. Bố nó là một vị Bá tước người Ý nào đó, ít nhất là cô ta nói thế. Gã đã có vợ, hoặc không phù hợp, hoặc có lẽ cả hai. Turner đã sẵn sàng tha thứ cho cô ta, ai cũng phạm sai lầm, và cả anh cũng vậy còn gì, chẳng phải anh muốn dụ dỗ cô ta trước đêm tân hôn đó sao? Nhưng Leticia không muốn tình yêu của gã. Anh không biết cô ta muốn cái quái quỷ gì nữa - quyền lực, có lẽ thế, cơn say thỏa mãn khi hãy còn người đàn ông khác đổ nhào xuống vì bùa mê của cô ta. Turner tự hỏi liệu cô ta có cảm thấy thế khi gã chết không. Hay có lẽ nó chỉ là một sự giải thoát. Tính đến khi Turner và cô ta cưới nhau, cô ta đã mang thai được ba tháng. Cô ta không có nhiều thời gian rảnh. Và giờ thì cô ta đây. Hay đúng hơn là, cô ta kia. Turner không biết chính xác dùng từ nào là thích đáng hơn cả cho cái thân xác không còn sự sống trong lòng đất ấy. Mà từ nào cũng được. Anh chỉ thấy tiếc rằng cô ta sẽ chia sẻ sự vĩnh hằng trong mảnh đất của anh, yên nghỉ giữa những người nhà Bevelstoke mãi mãi. Bia đá của cô ta sẽ mang tên anh, và rồi một trăm năm nữa người nào đó sẽ nhìn vào dòng chữ khắc trên tấm đá granit kia mà nghĩ cô ta chắc hẳn là một phu nhân đáng kính, và tự hỏi bi kịch gì đã khiến cô ta ra đi khi còn quá trẻ như vậy. Turner ngước nhìn vị linh mục. Ông ta trẻ nhất trong các đồng đạo, mới đến giáo xứ, và theo anh biết thì vị linh mục này vẫn còn niềm tin rằng có thể biến thế gian này thành một nơi tốt đẹp hơn. “Tro tàn trở về với tro tàn,” linh mục vừa nói vừa nhìn lên người đàn ông giờ đã trở thành góa vợ. À phải, Turner chua chát nghĩ, đó là mình. “Cát bụi trở về với cát bụi.” Phía sau anh, có ai đó sụt sịt. Và vị linh mục, với đôi mắt xanh sáng ngời ánh lên niềm cảm thông được đặt hoàn toàn không đúng chỗ, tiếp tục nói... “Trong niềm hy vọng chắc chắn và vững vàng vào sự hồi sinh...” Chúa nhân từ. “... tới cuộc sống vĩnh hằng.” Vị linh mục nhìn Turner và thực sự nao núng. Turner thắc mắc không rõ chính xác thì ông ta nhìn thấy gì trên gương mặt anh. Chẳng có gì tốt đẹp, điều đó hẳn quá rõ ràng rồi. Ai nấy đồng thanh “Amen!”, và rồi buổi lễ kết thúc. Mọi người nhìn vị linh mục, rồi nhìn Turner, sau đó lại nhìn vị linh mục siết chặt hai bàn tay của Turner mà nói: “Mọi người sẽ nhớ cô ấy.” “Tôi,” Turner nén lại, “thì không.” Mình không thể tin anh ấy lại nói thế. Miranda nhìn xuống những dòng cô đã viết. Cô đang ở trang thứ bốn mươi hai của cuốn nhật ký thứ mười ba, nhưng đây là lần đầu tiên - lần đầu tiên kể từ sau cái ngày định mệnh chín năm về trước - cô không biết viết gì cả. Ngay cả trong những tháng ngày xám xịt ảm đạm (mà chúng thường xuyên xuất hiện), cô cũng xoay xở để viết được một đoạn dài. Tháng Năm năm cô mười bốn tuổi... Thức dậy. Mặc quần áo. Ăn sáng: bánh mì nướng, trứng, thịt lợn muối. Đọc Lý trí và Tình cảm; được sáng tác bởi một tiểu thư vô danh. Giấu Lý trí và Tình cảm. Ăn tối: thịt gà, bánh mì, pho mát. Chia động từ tiếng Pháp. Viết thư cho bà ngoại. Ăn khuya: bò bít tết, xúp, bánh pudding. Đọc tiếp Lý trí và Tình cảm, nhận diện về tác giả vẫn chưa biết. Lui về nghỉ ngơi. Ngủ. Mơ về anh. Còn đây là những điều cô ghi vào ngày 12 tháng Mười một cùng năm đó... Thức dậy. Ăn sáng: Trứng, bánh mì nướng, giăm bông. Thực hiện một cuộc biểu dương vĩ đại đọc bi kịch Hy Lạp. Không có kết quả. Dành nhiều thời gian nhìn chăm chăm ra ngoài cửa sổ. Ăn trưa: cá, bánh mì, đậu Hà Lan. Chia động từ Latin. Viết thư cho bà ngoại. Ăn khuya: bánh mì nướng, khoai tây, bánh pudding. Mang bi kịch đến bàn (sách, không phải sự kiện). Ba không. Lui về nghỉ ngơi. Ngủ. Mơ về anh. Nhưng bây giờ - khi một sự kiện trọng đại đã thực sự xảy ra (điều chưa bao giờ xảy ra) thì cô lại chẳng có gì để viết ngoại trừ... Mình không thể tin anh ấy lại nói thế. “Than ôi, Miranda,” cô lầm bầm, nhìn mực khô đi trên đầu cây viết lông, “mày sẽ không nổi danh được với tư cách là một người viết nhật ký đâu.” “Cậu vừa nói g&igrav

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Minh Đạo Nhân Sinh
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Minh Đạo Nhân Sinh của tác giả Christine Gross Loh & Michael Puett. Một buổi sáng nắng giòn tan vào mùa thu năm 2013, tôi tham dự một lớp triết học Trung Quốc tại Đại học Harvard. Tôi có mặt ở trường để viết một bài cho báo Atlantic để lý giải vì sao một lớp dạy về chủ đề phức tạp như vậy lại trở thành lớp phổ biến thứ ba ở trường này, đứng sau hai lựa chọn dễ đoán được đó là kinh tế học và khoa học máy tính. Giáo sư Michael Puett, một quý ông cao lớn, tràn đầy năng lượng ở độ tuổi bốn mươi, đứng trên bục sân khấu tại Nhà hát Sanders giảng bài sôi nổi trước hơn bảy trăm sinh viên. Anh khá cừ khôi trong việc thực hiện các bài giảng hấp dẫn mà không cần bất kỳ ghi chú hay file trình chiếu nào – suốt năm mươi phút liền chỉ thuần nói và nói. Sinh viên không được yêu cầu đọc bài viết nào khác trừ những tác phẩm được dịch sang tiếng Anh của chính các triết gia: Luận ngữ của Khổng Tử, Đạo đức kinh, hay các trước tác của Mạnh Tử. Họ không cần phải có bất kỳ kiến thức tiền đề hay mối quan tâm gì trước với lịch sử hay triết học Trung Quốc; họ chỉ cần cởi mở và sẵn lòng gắn bó với các tác phẩm cổ xưa này. Lớp học này nổi tiếng bởi lời hứa táo bạo mà mỗi năm giáo sư đều cam kết vào ngày đầu khóa: “Nếu bạn nghiêm túc lĩnh hội những tư tưởng trong các tác phẩm này, chúng sẽ thay đổi cuộc đời bạn”. Tôi lấy bằng tiến sĩ về lịch sử Đông Á tại Harvard, khi còn là học viên sau đại học, tôi từng tham gia giảng dạy cho các sinh viên đại học về triết học Trung Quốc. Thế nên tôi chẳng xa lạ gì các tác phẩm ấy. Nhưng khi nghe Michael giảng ngày hôm đó và suốt những tuần tiếp theo, tôi thấy anh đã đưa được những tư tưởng này vào cuộc sống theo cách mà trước giờ tôi chưa từng trải nghiệm. Anh yêu cầu sinh viên không phải chỉ đánh vật với ý tưởng của các nhà tư tưởng mà còn phải để cho những ý tưởng ấy thách thức những giả định cơ bản của họ về chính mình và về thế giới họ đang sống. Michael giảng về triết học Trung Quốc tại các trường đại học và tổ chức khác trên toàn thế giới. Sau mỗi bài nói chuyện, mọi người luôn tìm đến anh, thiết tha muốn biết làm thế nào để có thể áp dụng những ý tưởng này vào cuộc sống của họ và các vấn đề thực tế như: mối quan hệ, nghề nghiệp, những mâu thuẫn trong gia đình. Đó là vì họ nhận ra những nguyên tắc này cho thấy một góc nhìn mới mẻ về một cuộc đời tốt đẹp và ý nghĩa là thế nào; một quan điểm mâu thuẫn với rất nhiều điều họ vẫn cho là đúng. Đó là một cách nhìn đã tác động đến nhiều người theo hướng tốt đẹp hơn. Các sinh viên của Michael đã chia sẻ với tôi những câu chuyện rằng cuộc sống của họ đã thay đổi thế nào nhờ những tư tưởng này. Một số người bảo tôi họ đã thay đổi cách nhìn nhận về các mối quan hệ, bây giờ họ mới nhận ra rằng những hành động nhỏ nhất cũng gây ra một hiệu ứng lan tỏa tới bản thân họ và mọi người xung quanh. Như một sinh viên đã giải thích: “Giáo sư Puett đã mở ra cánh cửa đến với con đường khác biệt trong sự tương tác với thế giới quanh tôi, quá trình xử lý cảm xúc của tôi, kiến tạo bản thân tôi và cả những người khác, một cảm giác điềm tĩnh mà trước giờ tôi chưa từng cảm nhận được”. Những người trẻ thành công được định vị để trở thành những nhà lãnh đạo tương lai trong bất kỳ nghề nghiệp nào họ theo đuổi ấy cho tôi biết những tư tưởng này đã thay đổi cách họ tiếp cận với các quyết định lớn trong cuộc sống và quỹ đạo riêng của họ như thế nào. Dù họ quyết định đi theo con đường tài chính hay nhân loại học, luật hay y học, thì những tư tưởng này cũng trang bị cho họ những công cụ khác và một thế giới quan khác với những gì họ từng biết, mở ra một cánh cửa mới về mục đích của cuộc sống và những khả năng vô hạn của nó. Một sinh viên đã nói với tôi: “Quá dễ để có tư duy rằng bạn đang xây dựng một mục tiêu tối hậu nào đó và đang từng bước leo đến kết cuộc tốt đẹp của một giấc mơ – dù mục tiêu đó là một danh vọng hay vị trí trong cuộc đời. Nhưng đây thật sự là một thông điệp có sức ảnh hưởng mạnh mẽ: khi sống theo một cách khác, bạn sẽ tự khai mở cho mình những khả năng mà bạn không bao giờ tưởng tượng là mình có thể”. Và không phải chỉ những tác phẩm triết học ấy thôi đã định hình được các sinh viên. Chính bản thân Michael mới là nguồn cảm hứng. Anh được biết đến bởi sự ân cần, khiêm tốn và tận tâm giúp sinh viên của mình phát triển: những đặc điểm khởi nguồn trực tiếp từ hàng thập niên đắm chìm trong tư tưởng Trung Quốc của anh. “Thầy là hiện thân hoàn hảo cho những bài giảng”, một sinh viên đã nói. Vậy trong những triết lý ấy có gì mà gây tác động to lớn đến vậy với những người nghiên cứu chúng? Không có tư tưởng nào trong số đó bảo bạn “chấp nhận và trân trọng bản thân”, “tìm ra chính mình”, hay phải làm theo một loạt chỉ dẫn để đạt được mục tiêu cụ thể. Trên thực tế, chúng chính là thứ đối chọi với kiểu tư duy đó. Chúng không cụ thể, không ra lệnh, cũng không đao to búa lớn. Thay vào đó, chúng thay đổi từ nền tảng theo những cách không thể đoán định hay hình dung ra trước. Một sinh viên lý giải rằng thật nhẹ nhõm biết bao khi nhận ra những gì chúng ta nghĩ là vốn dĩ và đã ăn sâu một cách thâm căn cố đế trong đầu thật ra không phải là vậy: “Bạn có thể áp dụng những thói quen mới và thật sự thay đổi cách bạn tiếp nhận thế giới, phản ứng lại với nó và tương tác với người khác. Tôi đã học được rằng có thể sử dụng sức mạnh của thói quen, hay 'lễ nghi', để đạt được những điều mà bạn không bao giờ nghĩ là mình có thể, dù bạn nghĩ mình là ai đi nữa”. Từ lâu, chúng ta đã nhìn nhận tư tưởng của người Trung Quốc qua những lăng kính sai lầm, có xu hướng cho rằng nó không thể thoát ra khỏi “một thế giới truyền thống” và vì thế cứ nghĩ nó chẳng liên quan gì đến cuộc sống đương đại của chúng ta. Nhưng như những sinh viên này có thể chứng thực, lời dạy của các triết gia Trung Quốc cổ đại buộc chúng ta phải đặt nghi vấn nhiều niềm tin mà chúng ta vẫn cho là hiển nhiên. Những tư tưởng của các vị về cách con người tiếp cận thế giới của hai ngàn năm trước – rằng làm thế nào chúng ta có thể gắn kết với người khác, đưa ra quyết định, đối phó với những thăng trầm cuộc sống, cố gây ảnh hưởng lên người khác, chọn lựa hướng đi cho đời mình – cũng phù hợp với ngày nay giống như hai ngàn năm trước vậy. Thực tế, chúng còn thích hợp hơn bao giờ hết. Michael và tôi nhận ra rằng có thể đưa những tư tưởng này đến với tất cả chúng ta, và đó là lý do cuốn sách này ra đời. Ở những trang tiếp theo, chúng tôi sẽ chỉ ra cho bạn thấy lời dạy của các triết gia Trung Quốc có thể khiến bạn suy nghĩ lại về bản thân và tương lai của mình như thế nào. - Christine Gross-Loh *** Khổng Tử. Mạnh Tử. Lão Tử. Trang Tử. Tuân Tử. Có thể bạn đã biết đến một số trong những tư tưởng gia này; cũng có những người hẳn bạn chưa từng nghe nói tới. Một viên quan trở thành thầy dạy học, dành cả cuộc đời để truyền dạy kiến thức cho một nhóm nhỏ môn đệ. Một người khác chu du từ vùng này sang vùng khác để cố vấn cho các quan lại địa phương. Một người nữa sau này được tôn là thần thánh. Cuộc đời và những trước tác của họ dường như đã quá mơ hồ và xa lạ với cuộc sống hiện đại của chúng ta. Rốt cuộc, những triết gia Trung Quốc sống hơn hai ngàn năm trước có thể dạy gì cho chúng ta về nghệ thuật sống? Nếu bạn từng nghĩ về họ, thì hẳn bạn nghĩ họ là những bậc hiền triết điềm tĩnh, phun châu nhả ngọc ra những lời vô vị hay ho về sự hài hòa và tự nhiên. Trong khi đó, ngày nay chúng ta hướng đến cuộc sống hiện đại, năng động, tự do. Giá trị, phong tục, công nghệ và văn hóa của chúng ta hoàn toàn khác họ. Nếu chúng tôi nói với bạn rằng mỗi người trong số những nhà tư tưởng này lại đưa ra một quan điểm sâu sắc khác thường về cách trở thành một con người tốt hơn và tạo ra một thế giới tốt hơn thì sao? Nếu chúng tôi nói với bạn rằng khi bạn nghiêm túc tiếp thu chúng, những tư tưởng trong các tác phẩm Trung Quốc kinh điển khác thường này có khả năng biến đổi cách bạn sống thì sao? Đó chính là chủ đề trọng tâm của cuốn sách này, rằng lời dạy của các triết gia Trung Quốc cổ đại đối với các vấn đề rất giống với chúng ta hiện nay sẽ cho ta những quan điểm hoàn toàn mới mẻ về cách để sống một cuộc đời tốt đẹp. Hầu hết chúng ta đều nghĩ mình đang làm đúng khi nhìn vào nội tâm, tìm ra chính mình và định đoạt cuộc đời chúng ta nên trở thành thế nào. Chúng ta tìm ra loại nghề nghiệp nào phù hợp nhất với tính cách và khuynh hướng của chúng ta. Chúng ta nghĩ về kiểu người nào sẽ phù hợp với mình. Và chúng ta nghĩ rằng nếu tìm ra những điều ấy – con người thật sự của chúng ta, nghề nghiệp mà chúng ta định theo đuổi và người bạn đời phù hợp – thì cuộc đời sẽ viên mãn. Chúng ta sẽ nuôi dưỡng con người bản chất của mình và lập ra một kế hoạch để được hạnh phúc, thịnh vượng và thỏa mãn bản thân. Dù chúng ta có nhận ra hay không, thì quan điểm về cách xây dựng một cuộc sống tốt đẹp như thế này đã khởi nguyên từ lịch sử, cụ thể là tư tưởng của những người theo thuyết Calvin* về vận mệnh tiền định thế kỷ 16, một “người được chọn”** và một Thiên Chúa sắp đặt kế hoạch cho từng người để đi theo. Những người theo thuyết Calvin chối bỏ các lễ nghi mà họ cho là rỗng tuếch và cứng nhắc, thay vào đó họ đề cao niềm tin thành khẩn vào Đấng Tối Cao này. Ngày nay, chúng ta không còn suy nghĩ theo kiểu số mệnh tiền định, theo kiểu “người được chọn”, thậm chí một số người trong chúng ta không còn nghĩ đến Thiên Chúa nữa. Nhưng phần lớn suy nghĩ của chúng ta hiện nay đều là di sản của những quan điểm Tin Lành thuở ban đầu ấy. * Thần học Calvin còn được biết đến là “Thần học cải cách”, được đặt theo tên của nhà thần học người Pháp Jean Calvin (1509 – 1564). Thần học Calvin hướng đến quyền tể trị tuyệt đối của Đức Chúa Trời và tin rằng Kinh thánh có thẩm quyền trên mọi vấn đề của đức tin. Năm luận điểm của Thần học Calvin bao gồm: Sa ngã toàn diện, Lựa chọn vô điều kiện, Sự chuộc tội có giới hạn, Ân điểm bất khả kháng, Sự gìn giữ các Thánh đồ. ** Luận điểm “Lựa chọn vô điều kiện” của Thần học Calvin cho rằng Thiên Chúa lựa chọn (không có điều kiện) một số người để cứu rỗi và định trước cho họ một số phận. Nhiều người hiện nay tin rằng mỗi người nên là một cá nhân duy nhất hiểu rõ chính mình. Chúng ta hiện tin rằng ta nên xác tín và trung thành với một chân lý, không phải một vị thần tối cao mà là với chính bản thân ta. Chúng ta mong muốn được sống theo đúng bản thân mình. Nhưng sẽ ra sao nếu những tư tưởng mà chúng ta tin rằng giúp nâng cao chất lượng cuộc sống của mình thật ra lại đang giới hạn chúng ta? Chúng ta thường liên tưởng triết học với những tư tưởng trừu tượng, thậm chí vô tích sự. Nhưng sức mạnh của các nhà tư tưởng trong cuốn sách này nằm ở chỗ họ thường minh họa cho những lời dạy của mình bằng các khía cạnh bình thường, cụ thể trong cuộc sống hằng ngày. Họ tin rằng chính từ cấp độ thường ngày ấy lại dễ dẫn đến những thay đổi lớn, và một cuộc đời viên mãn sẽ bắt đầu. Khi chúng tôi nghiên cứu những nhà tư tưởng này, hy vọng của chúng tôi là bạn sẽ cho phép họ thách thức một số quan niệm mà bạn xem trọng nhất. Một số tư tưởng của họ có thể mang tính trực giác; và những tư tưởng khác thì không như thế. Chúng tôi không nhất thiết mong đợi rằng bạn sẽ đồng ý với mọi thứ bạn đọc. Nhưng chính cuộc gặp gỡ với những tư tưởng quá khác biệt so với tư tưởng của chúng ta sẽ giúp ta nhận ra rằng những giả định của chúng ta về việc sống thế nào cho tốt thật ra chỉ là một trong số rất nhiều cách khác nhau. Và một khi đã nhận ra điều đó, bạn không thể quay về cuộc sống trước đây của mình mà không có sự thay đổi nào. *** Tóm tắt Cuốn sách "Minh Đạo Nhân Sinh" của Christine Gross-Loh và Michael Puett là một cuốn sách về triết học Trung Quốc, tập trung vào các tác phẩm của Khổng Tử, Lão Tử và Mạnh Tử. Cuốn sách khám phá cách những tư tưởng này có thể áp dụng vào cuộc sống hiện đại, giúp chúng ta sống một cuộc đời tốt đẹp và ý nghĩa hơn. Review Cuốn sách được chia thành ba phần chính: Phần 1: Lễ nghi và đạo đức Phần này khám phá tầm quan trọng của lễ nghi và đạo đức trong triết học Trung Quốc. Lễ nghi được hiểu là những thói quen và hành vi được chấp nhận xã hội, trong khi đạo đức là những nguyên tắc hướng dẫn hành vi của chúng ta. Các tác giả chỉ ra rằng lễ nghi và đạo đức không chỉ là những quy tắc cứng nhắc mà còn là những công cụ giúp chúng ta kết nối với người khác và sống một cuộc sống có ý nghĩa. Phần 2: Bản chất con người Phần này khám phá cách triết học Trung Quốc nhìn nhận bản chất con người. Các tác giả chỉ ra rằng triết học Trung Quốc không coi con người là những cá nhân tách biệt mà là những phần tử của một mạng lưới phức tạp. Chúng ta được kết nối với nhau và với thế giới xung quanh bằng những mối quan hệ, và những mối quan hệ này định hình nên bản thân chúng ta. Phần 3: Sống một cuộc đời tốt đẹp Phần này khám phá cách chúng ta có thể áp dụng những tư tưởng của triết học Trung Quốc vào cuộc sống hàng ngày. Các tác giả chỉ ra rằng triết học Trung Quốc có thể giúp chúng ta sống một cuộc đời tốt đẹp hơn bằng cách giúp chúng ta: * Tạo dựng các mối quan hệ lành mạnh * Đưa ra quyết định có suy nghĩ * Đối phó với những thăng trầm của cuộc sống * Tìm thấy ý nghĩa và mục đích Đánh giá Cuốn sách "Minh Đạo Nhân Sinh" là một cuốn sách xuất sắc, cung cấp cho người đọc một cái nhìn toàn diện và sâu sắc về triết học Trung Quốc. Cuốn sách được viết một cách dễ hiểu và hấp dẫn, và các tác giả đã làm một công việc tuyệt vời trong việc giải thích những khái niệm phức tạp của triết học Trung Quốc. Cuốn sách này là một tài nguyên quý giá cho bất kỳ ai quan tâm đến triết học Trung Quốc hoặc muốn tìm hiểu cách sống một cuộc đời tốt đẹp và ý nghĩa hơn. Mặt mạnh Cuốn sách được viết một cách dễ hiểu và hấp dẫn, và các tác giả đã làm một công việc tuyệt vời trong việc giải thích những khái niệm phức tạp của triết học Trung Quốc. Cuốn sách cung cấp cho người đọc một cái nhìn toàn diện và sâu sắc về triết học Trung Quốc. Cuốn sách có thể giúp người đọc sống một cuộc đời tốt đẹp và ý nghĩa hơn. Mặt yếu Cuốn sách có thể hơi dài và nhiều thông tin đối với một số người đọc. Kết luận Cuốn sách "Minh Đạo Nhân Sinh" là một cuốn sách xuất sắc, cung cấp cho người đọc một cái nhìn toàn diện và sâu sắc về triết học Trung Quốc. Cuốn sách này là một tài nguyên quý giá cho bất kỳ ai quan tâm đến triết học Trung Quốc hoặc muốn tìm hiểu cách sống một cuộc đời tốt đẹp và ý nghĩa hơn. Mời các bạn mượn đọc sách Minh Đạo Nhân Sinh của tác giả Christine Gross Loh & Michael Puett.
Chiếc Ngai Vàng
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Chiếc Ngai Vàng của tác giả Lan Khai. Lan Khai (24 tháng 6 năm 1906 – 1945). Trong lịch sử văn học hiện đại Việt Nam trước năm 1945, Lan Khai được xem là một cây bút sung mãn, một nhà văn "đường rừng" sáng giá. Dù ở thể loại nào ngòi bút của ông vẫn thuyết phục được cảm tình và lý tính của độc giả. Đặc sắc nhất vẫn là ở lĩnh vực sáng tác hiện thực về đời sống miền núi. Mời các bạn đón đọc Tiểu thuyết lịch sử: Chiếc ngai vàng. *** Tóm tắt Chiếc ngai vàng là tiểu thuyết lịch sử của nhà văn Lan Khai, viết về cuộc đời và sự nghiệp của vua Hùng thứ 18, An Dương Vương. Tác phẩm được chia thành 12 chương, kể về cuộc đời của An Dương Vương từ khi còn là một thiếu niên, đến khi trở thành vua Hùng, rồi đến khi thất bại trước quân xâm lược Triệu Đà. Đánh giá Chiếc ngai vàng là một tiểu thuyết lịch sử xuất sắc, được đánh giá cao về mặt nội dung và nghệ thuật. Tác phẩm đã tái hiện một cách chân thực và sinh động lịch sử nước ta thời Hùng Vương, đặc biệt là cuộc đời và sự nghiệp của An Dương Vương. Về mặt nội dung, Chiếc ngai vàng đã khắc họa một cách sâu sắc và cảm động hình tượng của An Dương Vương - một vị vua anh minh, dũng cảm nhưng cũng mắc sai lầm đáng tiếc. Tác phẩm đã thể hiện niềm tự hào dân tộc, tinh thần yêu nước của nhân dân ta. Về mặt nghệ thuật, Chiếc ngai vàng có lối viết hấp dẫn, lôi cuốn, kết hợp hài hòa giữa yếu tố lịch sử và yếu tố nghệ thuật. Tác phẩm sử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật đặc sắc như: miêu tả, kể chuyện, đối thoại,... để khắc họa nhân vật và sự kiện một cách sinh động. Chiếc ngai vàng là một tác phẩm văn học có giá trị, góp phần làm phong phú thêm kho tàng văn học Việt Nam. Một số nhận xét của độc giả về tác phẩm "Chiếc ngai vàng là một tiểu thuyết lịch sử hay và ý nghĩa. Tác phẩm đã giúp tôi hiểu thêm về lịch sử nước ta thời Hùng Vương, đặc biệt là cuộc đời và sự nghiệp của An Dương Vương." "Chiếc ngai vàng là một tác phẩm văn học xuất sắc, được viết với lối văn hấp dẫn, lôi cuốn. Tôi rất thích tác phẩm này." "Chiếc ngai vàng là một tác phẩm văn học giàu giá trị nhân văn. Tác phẩm đã thể hiện niềm tự hào dân tộc, tinh thần yêu nước của nhân dân ta." Kết luận Chiếc ngai vàng là một tiểu thuyết lịch sử hay và ý nghĩa, xứng đáng được bạn đọc đón nhận. Mời các bạn mượn đọc sách Chiếc Ngai Vàng của tác giả Lan Khai.
Nghệ Thuật Tối Giản - Có Ít Đi, Sống Nhiều Hơn
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Nghệ Thuật Tối Giản - Có Ít Đi, Sống Nhiều Hơn - Dominique Loreau Sinh ra và lớn lên tại Pháp, nhưng vì luôn tò mò về những đất nước khác trên thế giới, tôi đã quyết tâm đi đây đi đó trong những năm tháng sinh viên. Mười chín tuổi, tôi làm trợ giảng tại Anh và hai mươi bốn tuổi, tôi theo học đại học tại Missouri, Mỹ. Tôi cũng khám phá gần như toàn bộ các bang khác của Mỹ, cùng với Canada, Mexico và các nước Trung Mỹ. Khi tham quan Vườn Trà Nhật Bản tại công viên Cổng Vàng của San Francisco, tôi tha thiết muốn tìm ra cội nguồn của vẻ đẹp tuyệt vời ấy. Vậy là tôi tới Nhật Bản, một đất nước luôn cuốn hút tôi đến mức không từ ngữ nào có thể diễn tả được. Tôi đến Nhật Bản và ở lại đó. Việc trải nghiệm hai nền văn hóa hoàn toàn khác biệt nhau gợi lên sự tự vấn không ngừng trong tôi. Tôi bắt đầu tìm kiếm một cách sống hoàn hảo. Và bằng quá trình loại bỏ dần dần, tôi bắt đầu hiểu rằng theo đuổi sự giản dị là con đường đúng đắn dành cho mình, để sống thoải mái và có một tâm hồn thanh thản. Tại sao lại là Nhật Bản? Tôi thường được hỏi khi kể với mọi người rằng mình đã sống ở đây hơn ba mươi năm. Và cũng như tất cả những người đã chọn Nhật Bản là quê hương thứ hai, tôi trả lời: Nhật Bản là niềm say mê, là sự cần thiết sâu thẳm trong tim. Tôi cảm thấy dễ chịu, bị mê hoặc, thậm chí cho đến tận bây giờ, bởi viễn cảnh mỗi ngày là một khám phá thú vị mới. Trong nhiều năm, tôi luôn bị Thiền Nhật Bản và các hình thức biểu thị của nó như tranh thủy mặc, đền đài, những khu vườn, suối nước nóng, nghệ thuật nấu ăn, nghệ thuật cắm hoa Nhật Bản (ikebana)... lôi cuốn. Tôi quả thực rất may mắn, khi sớm được gặp một bậc thầy về tranh thủy mặc (sumi-e) và dành trọn mười năm để học hỏi không chỉ về nghệ thuật tranh thủy mặc nói riêng mà còn về quan niệm rất Nhật Bản đằng sau môn nghệ thuật ấy: thái độ chấp nhận tất cả những gì cuộc sống ban tặng mà không cần phải phê phán, phân tích hay giải thích. Nói một cách đơn giản, tranh thủy mặc là một sự thể hiện của cách sống Thiền. Tôi dạy tiếng Pháp tại một viện đại học Phật giáo và tham gia một khóa tu tập tại Thiền viện Aichi Senmon Niso-do ở Nagoya. Khi rời khỏi đó, tôi mới hiểu hơn bao giờ hết, đằng sau nét hiện đại của đất nước, vẻ bề ngoài công nghệ cao là một triết lý sống được truyền từ đời xưa, thấm nhuần trong mọi khía cạnh của cuộc sống tại Nhật Bản đến từng chi tiết nhỏ bé nhất. Càng hiểu về nước Nhật, tôi càng nhận thức được tính tích cực và giá trị bồi đắp của sự giản dị: một nguyên tắc mà những triết gia cổ điển, những vị thánh Cơ Đốc giáo, các đại sư Phật giáo và những vị hiền triết Ấn Độ đã nỗ lực truyền bá hàng thế kỷ, để chúng ta có thể sống tự do mà không bị gò bó bởi định kiến, áp lực và gánh nặng đang làm sao nhãng sự tập trung của chúng ta, gây ra các hội chứng căng thẳng. Sự giản dị mang đến giải pháp để giải quyết rất nhiều vấn đề. Tuy nhiên, học cách sống đơn giản lại không hề đơn giản chút nào. Tôi đã trải nghiệm một quá trình biến đổi dần dần, nhu cầu sống một cuộc sống với ít vật dụng hơn ngày một tăng lên và bù lại, tôi cảm thấy mình nhẹ nhõm hơn, tự do hơn, cơ động hơn và, tất nhiên, tinh tế hơn. Từng chút một, tôi nhận ra rằng khi giảm bớt hành trang, những gì tôi đã bỏ lại dường như càng ít quan trọng đi. Chúng ta thật sự cần rất ít để tồn tại. Và vì thế, tôi đã giác ngộ một chân lý uyên thâm rằng, càng sở hữu ít đồ vật hơn, chúng ta càng cảm thấy tự do và trưởng thành. Tôi cũng hiểu được sự cần thiết của lời cảnh báo: chủ nghĩa tiêu dùng, tính trì trệ (cả về thể chất và tâm lý) và sự tiêu cực luôn chực chờ để đánh gục chúng ta mỗi khi nản chí. Cuốn sách này tập hợp những ghi chép trong nhiều năm sống tại Nhật Bản của tôi, lưu giữ và tổng hợp những trải nghiệm, những điều bất ngờ mà tôi gặp quá trình đọc và suy ngẫm, một sự biểu thị của lý tưởng cá nhân, một tín ngưỡng, quy tắc hành xử, một lối sống mà tôi rất muốn duy trì và luôn nỗ lực để thực hành. Tôi giữ tất cả những cuốn sổ ghi chép của mình, mang chúng theo mỗi khi đi đây đó, như là kim chỉ nam nhắc nhở tôi về những điều mà tôi thường quên hoặc không thực hành. Chúng mang đến cho tôi cảm giác dễ chịu, là sự khẳng định và cũng là cội nguồn của niềm tin nội tâm khi cả thế giới bên ngoài dường như đang trở nên xiên lệch. Những cuốn sổ ghi chép là kho báu chứa đựng những lời khuyên và bài tập thực hành mỗi khi cần thiết để thấm nhuần, thích nghi với những thách thức mới, với sự thay đổi về nhu cầu, khả năng và tình huống (bạn sẽ tìm thấy chỗ để tự ghi chép ở trang 307). Chúng ta mới chỉ mới bắt đầu nhận thức về nguy cơ của sự thừa thãi và dư dả vật chất. Ngày càng có nhiều người kiếm tìm niềm vui và lợi ích của cách sống đơn giản hơn, gần gũi với thiên nhiên hơn và vượt lên trên sự cám dỗ để sáng tạo ra những phong cách sống mới hiện đại, nhiều ý nghĩa. Cuốn sách này dành cho tất cả những độc giả như thế. Tôi hy vọng rằng, cuốn sách sẽ giúp quảng bá sự hiểu biết đúng đắn về nghệ thuật sống tối giản như một cách sống viên mãn thật sự. *** Tóm tắt Cuốn sách Nghệ thuật tối giản - Có ít đi, sống nhiều hơn của Dominique Loreau là một cẩm nang hướng dẫn về cách sống tối giản, được tác giả đúc kết từ những trải nghiệm của bản thân trong nhiều năm sống tại Nhật Bản. Theo tác giả, sống tối giản không có nghĩa là sống thiếu thốn, mà là sống với những gì thật sự cần thiết, để có được sự tự do, bình yên và hạnh phúc trong tâm hồn. Cuốn sách được chia thành ba phần chính: Phần 1: Tối giản vật chất Phần này đề cập đến những lợi ích của việc tối giản vật chất, chẳng hạn như: * Giảm bớt căng thẳng và lo lắng * Tăng cường sự tự do và chủ động * Cải thiện sức khỏe thể chất và tinh thần Tác giả cũng đưa ra một số lời khuyên cụ thể để giúp độc giả bắt đầu thực hiện lối sống tối giản, chẳng hạn như: * Tách biệt bản thân khỏi những thứ không cần thiết * Tạo ra một không gian sống gọn gàng, ngăn nắp * Tập trung vào những trải nghiệm hơn là vật chất Phần 2: Tối giản tâm trí Phần này đề cập đến những cách để tối giản tâm trí, chẳng hạn như: * Học cách chấp nhận * Tập trung vào hiện tại * Tìm kiếm sự bình an trong tâm hồn Tác giả cũng chia sẻ những kinh nghiệm của bản thân trong quá trình tối giản tâm trí, chẳng hạn như: * Học cách chấp nhận những điều không thể thay đổi * Tập trung vào những điều tích cực trong cuộc sống * Tìm kiếm sự bình yên trong tâm hồn thông qua thiền định Phần 3: Tối giản mối quan hệ Phần này đề cập đến những cách để tối giản mối quan hệ, chẳng hạn như: * Loại bỏ những mối quan hệ độc hại * Tập trung vào những mối quan hệ có ý nghĩa * Tạo ra sự cân bằng trong các mối quan hệ Tác giả cũng đưa ra một số lời khuyên cụ thể để giúp độc giả cải thiện các mối quan hệ của mình, chẳng hạn như: * Loại bỏ những mối quan hệ không mang lại giá trị * Tập trung vào những mối quan hệ có ý nghĩa * Tìm kiếm sự cân bằng trong các mối quan hệ Đánh giá Cuốn sách Nghệ thuật tối giản - Có ít đi, sống nhiều hơn là một cuốn sách hữu ích và dễ đọc, cung cấp cho độc giả những thông tin và lời khuyên thực tế để bắt đầu thực hiện lối sống tối giản. Tác giả đã chia sẻ những trải nghiệm và quan điểm của bản thân một cách chân thành và gần gũi, giúp độc giả hiểu rõ hơn về những lợi ích của lối sống tối giản. Cuốn sách phù hợp với những độc giả đang tìm kiếm một lối sống đơn giản, bình yên và hạnh phúc hơn. Một số câu nói hay trong sách "Sống tối giản không có nghĩa là sống thiếu thốn, mà là sống với những gì thật sự cần thiết." "Khi chúng ta sở hữu ít hơn, chúng ta sẽ có nhiều thời gian hơn để dành cho những thứ quan trọng." "Tối giản không chỉ là một lối sống, mà còn là một cách suy nghĩ." "Tối giản không phải là một mục tiêu, mà là một hành trình." Kết luận Cuốn sách Nghệ thuật tối giản - Có ít đi, sống nhiều hơn là một cuốn sách đáng đọc dành cho những ai đang tìm kiếm một lối sống đơn giản, bình yên và hạnh phúc hơn. Mời các bạn mượn đọc sách Nghệ Thuật Tối Giản - Có Ít Đi, Sống Nhiều Hơn của tác giả Dominique Loreau.
Sức Mạnh Của Ngôn Ngữ Không Lời
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Sức Mạnh Của Ngôn Ngữ Không Lời của tác giả Carol Kinsey Goman. CÓ BAO GIỜ BẠN TỰ HỎI... Ấn tượng bạn để lại trong lòng cấp trên của bạn như thế nào? Bạn có nên tin vào những điều cấp trên đã hứa hay không? Bạn đang nuôi dưỡng mối quan hệ với một khách hàng tiềm năng, hay đang lãng phí thời gian của bản thân? Liệu các thành viên trong nhóm có hiểu những gì bạn nói hay không? Làm thế nào để biết rằng anh ấy/cô ấy thật sự ủng hộ ý kiến của bạn? Khán giả đang chán ngán, thất vọng, hay thích thú với những gì bạn đang trình bày? Lời đáp cho những câu hỏi trên đang ở ngay trước mắt bạn. Bạn biết đấy, chính ngôn ngữ là phương tiện được dùng để chuyển tải thông điệp trong công việc cũng như trong giao tiếp thường ngày. Tuy nhiên, có những điều không phải lúc nào cũng được nói ra bằng ngôn ngữ. Chẳng hạn, cấp trên của bạn nói rằng cô ấy sẽ xem xét việc thăng chức cho bạn, nhưng trong khi nói, cô ấy lại khoanh tay và mỉm cười gượng gạo. Rõ ràng hai thông điệp mà cô ấy đưa ra hoàn toàn trái ngược nhau. Tương tự, nếu một khách hàng nói với bạn rằng ông ấy không quan tâm tới chuyện mua xe mới, nhưng ánh mắt ông ấy lại không rời bản hợp đồng trên bàn thì điều đó nghĩa là ông ấy thực sự muốn có một chiếc xe mới. Dấu hiệu của giao tiếp không lời thường tiết lộ những động cơ và cảm xúc ẩn chứa bên trong như sự sợ hãi, lòng trung thực, niềm vui, sự do dự, nỗi thất vọng và hơn thế nữa… Những cử chỉ nhỏ nhặt nhất, như cách đồng nghiệp của bạn đứng hoặc bước vào phòng cũng cho thấy sự tự tin, thận trọng hoặc độ tin cậy nơi họ. Rồi, cách bạn ngồi, đứng hoặc cách bạn nhìn người khác cũng hé lộ phần nào trạng thái cảm xúc trong con người bạn. Bạn là một chuyên gia ngôn ngữ hình thể! Ngay từ lúc lọt lòng, tôi đã là một chuyên gia ngôn ngữ hình thể! Có thể bạn sẽ ngạc nhiên về điều này. Nhưng, giống như tôi – bạn cũng là một chuyên gia như vậy. Khi còn là trẻ sơ sinh, chúng ta đã biết biểu lộ nhiều nét mặt khác nhau để thể hiện tâm trạng và nhu cầu của bản thân. Chúng ta biết chỉ đúng những vật mình thích, biết kết nối với mẹ qua ánh mắt yêu thương. Lớn hơn một chút, chúng ta biết tiếp thu những cử chỉ và biểu hiện phù hợp với truyền thống văn hóa trong gia đình. Rồi khi trưởng thành, chúng ta học cách chọn lọc (và che đậy) những dấu hiệu mình muốn hoặc không muốn. Tất cả những điều đó được thực hiện một cách vô thức. Đối với tôi, từ khi tôi theo học chương trình cao học và chuẩn bị trở thành nhà trị liệu thì việc thực hiện những dấu hiệu không lời đã không còn là vô thức nữa. Tôi bắt đầu để ý tới các cử chỉ mà mình thể hiện hoặc bắt gặp trong giao tiếp. Việc tham gia giảng dạy chương trình Ngôn ngữ Thần kinh học và Phương pháp Erickson trong thôi miên và liệu pháp tâm lý đã dạy tôi cách quan sát những chuyển động mắt, những biểu hiện trên gương mặt và những cử chỉ cơ thể nhằm khám phá sự đồng thuận hay phản kháng ẩn chứa bên trong chúng. Khi tôi bắt đầu tư vấn cho nhiều tổ chức thương mại và diễn thuyết trước đông đảo khán giả trong và ngoài nước, tôi chú ý hơn tới ngôn ngữ cơ thể mình, sao cho mọi cử chỉ, tư thế, và biểu hiện của tôi đều phản ánh chính xác thông điệp mà tôi muốn truyền tải. Sau này, tôi truyền lại ý tưởng và kỹ thuật đó cho các nhân viên và các nhà quản lý mà tôi đào tạo. Trước khi cho ra đời cuốn sách này, tôi đã tìm hiểu hầu hết những tiến bộ gần đây trong nhiều lĩnh vực. Các nhà nghiên cứu thuộc ngành tâm lý học, thần kinh học, y học, xã hội học, nhân chủng học và giao tiếp học đã chia sẻ với tôi phương pháp và suy nghĩ của họ trong lĩnh vực giao tiếp không lời. Nhờ những đóng góp ấy, tôi hiểu hơn vì sao và làm thế nào ngôn ngữ hình thể lại có được sức mạnh kỳ diệu đến như vậy. Ngôn ngữ hình thể nơi công sở Hiểu rõ vai trò của ngôn ngữ hình thể trong các hoạt động thường ngày là việc hết sức quan trọng. Rất nhiều nhân viên, nhà quản lý chỉ vì không đọc được dấu hiệu ngôn ngữ cử chỉ của đối phương, hoặc không nhận ra sự khác biệt về văn hóa khi đưa ra cử chỉ, khiến cho mọi nỗ lực trong mối quan hệ hai bên bị đổ vỡ. cũng như sức mạnh của ngôn ngữ cử chỉ trong giao tiếp, đặc biệt là trong môi trường công sở. Khi nắm vững các kỹ năng được trình bày ở đây, bạn sẽ không chỉ đọc chính xác các dấu hiệu không lời từ đối phương, mà còn biết sử dụng ngôn ngữ hình thể một cách hiệu quả, nhờ đó đạt được lợi thế cạnh tranh trong đàm phán. Và điều này có thể áp dụng vào bất cứ lĩnh vực nào! Thực tế cho thấy, thành công trong công việc gắn liền với trình độ và kỹ năng sử dụng ngôn ngữ hình thể. Những ví dụ sau sẽ chứng minh rất rõ điều ấy. Khả năng lãnh đạo Vào cuối Thời đại Công nghiệp (Industrial Age), hiệu quả của lối quản lý mệnh lệnh và kiểm soát đang suy giảm mạnh. Thay vào đó, các nhà lãnh đạo (từ các thành viên ban quản trị cấp cao đến các tổ trưởng sản xuất) đều phải tìm cách lãnh đạo cấp dưới thông qua ảnh hưởng của mình hơn là dựa vào quyền hành từ chức vụ. Ảnh hưởng đó có được nhờ vào hai khả năng sau: ■ Hiểu tâm lý nhân viên, biết lắng nghe những gì họ nói và biết đọc những thông điệp không lời mà họ thể hiện. ■ Cử chỉ và lời nói phải đồng bộ. Điều này có nghĩa là ngôn ngữ hình thể phải phù hợp với lời nói để từ đó củng cố nội dung muốn truyền đạt thay vì phá hỏng nó. Giáo dục Ngôn ngữ cử chỉ của giáo viên là nhân tố quan trọng thúc đẩy học sinh hoàn thành bài tập về nhà. Nghiên cứu ở các nhóm học sinh tiểu học, trung học và đại học cho thấy, ở mọi lứa tuổi khác nhau, học sinh đều có thiện cảm với những giáo viên hay sử dụng cử chỉ thân thiện hơn, như giao tiếp bằng mắt, gật đầu, hướng người về trước, mỉm cười… Việc phát huy những cử chỉ này ở giáo viên sẽ giúp học sinh có thêm động lực học tập, các em sẽ yêu thích giờ học hơn và sẵn sàng nghe theo lời thầy cô giáo. Bán hàng Khi một nhân viên bán hàng gặp gỡ khách hàng tiềm năng, khách hàng sẽ đánh giá nhân viên ấy dựa vào vẻ ngoài và cách cư xử của họ. Quá trình này chỉ diễn ra trong khoảng bảy giây nhưng ấn tượng đó lại kéo dài. Việc bán hàng được hay không tùy thuộc vào những hành vi không lời được thể hiện ngay trong lần gặp đầu tiên. Trang điểm, tư thế, tác phong, nét mặt và ánh mắt là những yếu tố mà các nhân viên bán hàng thành công cần nắm vững và biết cách vận dụng. Đàm phán Một cuộc đàm phán thành công có thể nhờ vào khả năng nắm bắt những ẩn ý sau lời nói của đối phương. Để có được điều này, bạn cần hiểu được ngôn ngữ hình thể. Nhà đàm phán tài ba là người nhận ra khi nào nên trì hoãn hoặc thúc đẩy quá trình đàm phán. Họ biết cách xoa dịu và bình ổn những tình huống căng thẳng. Tuy nhiên, thay vì chỉ căn cứ vào lời nói, cách chủ yếu họ sử dụng để đánh giá diễn biến xung quanh là quan sát những cử chỉ không lời vốn bộc lộ những động cơ vô thức và dễ bị bỏ qua. Y tế Kỹ năng giao tiếp không lời của bác sĩ đối với bệnh nhân có một vai trò rất quan trọng. Mặc dù không ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng điều trị bệnh (như các thiết bị kỹ thuật, dụng cụ y tế), nhưng việc nhạy bén với những dấu hiệu không lời và thể hiện "sự thấu cảm lâm sàng" đối với người bệnh sẽ đem lại cảm giác hài lòng nơi người bệnh, giúp họ bình tâm và lạc quan hơn. Pháp luật Khi thẩm vấn nghi phạm, thay vì chỉ lắng nghe những câu trả lời mâu thuẫn nhau, một cảnh sát được đào tạo bài bản sẽ tìm kiếm những phản ứng tâm lý thoáng qua trên khuôn mặt nghi phạm. Chẳng hạn nụ cười thoáng qua có thể ngầm hiểu rằng nghi phạm tự tin rằng hắn vừa đánh lừa được thẩm vấn viên. Dịch vụ khách hàng Nhiều người cho rằng thái độ phục vụ tận tình của nhân viên chính là chìa khóa đem lại thành công cho dịch vụ khách hàng. Nghiên cứu cho thấy khả năng nhận biết các dấu hiệu không lời của nhân viên cũng quan trọng không kém. Việc nắm bắt ngôn ngữ hình thể một cách tinh tế sẽ giúp nhân viên hiểu rõ khách hàng thật sự đang nghĩ gì hoặc cảm nhận được gì. Xây dựng kỹ năng Vận dụng kỹ năng giao tiếp không lời nghĩa là bạn đi vào tìm hiểu và áp dụng những cử chỉ gần như vô thức trước đó. Thay vì chỉ cảm nhận về một ai đó, bạn có thể nhìn vào dấu hiệu hình thể để đọc suy nghĩ của họ. Thay vì chỉ hy vọng rằng bản thân tạo được ấn tượng tốt thì bạn có thể biết cử chỉ nào giúp bạn có được sự tự tin và lấy được thiện cảm từ đối phương. Nắm được các kỹ năng nghề nghiệp cần thiết này không chỉ giúp bạn học hỏi những điều mới mẻ mà còn giúp bạn nhận thức được sức mạnh của ngôn ngữ cử chỉ để từ đó phát huy hơn nữa năng lực của bản thân. Bạn sẽ biết cách tạo ấn tượng tốt đẹp ngay từ lần gặp đầu tiên. Bạn cũng sẽ biết cách giải mã một ánh mắt, một nét mặt hay cử chỉ nào đó và nhanh chóng xây dựng niềm tin với khách hàng cũng như các thành viên trong nhóm. *** Đánh giá Cuốn sách Sức mạnh của ngôn ngữ không lời của tác giả Carol Kinsey Goman là một tài liệu tham khảo hữu ích cho bất kỳ ai muốn nâng cao kỹ năng giao tiếp của mình, đặc biệt là trong môi trường công sở. Cuốn sách cung cấp một cái nhìn tổng quan toàn diện về ngôn ngữ không lời, từ những khái niệm cơ bản đến các ứng dụng cụ thể trong các lĩnh vực khác nhau. Ưu điểm: Nội dung cuốn sách được trình bày rõ ràng, dễ hiểu, với nhiều ví dụ minh họa sinh động. Cuốn sách cung cấp kiến thức nền tảng về ngôn ngữ không lời, từ những khái niệm cơ bản như ánh mắt, cử chỉ, nét mặt đến những ứng dụng cụ thể trong các lĩnh vực khác nhau như lãnh đạo, bán hàng, đàm phán, dịch vụ khách hàng,... Cuốn sách có tính ứng dụng cao, giúp người đọc nâng cao kỹ năng giao tiếp và thành công hơn trong công việc. Nhược điểm: Một số thông tin trong cuốn sách có thể hơi cũ, cần cập nhật thêm. Kết luận: Cuốn sách Sức mạnh của ngôn ngữ không lời là một tài liệu tham khảo hữu ích cho bất kỳ ai muốn nâng cao kỹ năng giao tiếp của mình. Cuốn sách cung cấp kiến thức nền tảng và các kỹ năng thực tế giúp người đọc hiểu rõ hơn về ngôn ngữ không lời và sử dụng nó một cách hiệu quả trong giao tiếp. Mời các bạn mượn đọc sách Sức Mạnh Của Ngôn Ngữ Không Lời của tác giả Carol Kinsey Goman.