Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bầu Trời Sụp Đổ - Sidney Sheldon

Audiobook Bầu Trời Sụp Đổ   Winthrop là một gia đình quý tộc Mỹ, và trung tâm của nó là Gary Winthrop đầy hấp dẫn, lôi cuốn. Khi người đàn ông này đang trên đà để trở thành ngôi sao mới sáng nhất của Thượng nghị viện, thì bị giết trong ngôi nhà của mình - sự kiện mới nhất trong một loạt các vụ việc đã giết hại năm thành viên của gia đình chỉ trong vòng một năm. Một trong những người cuối cùng nhìn thấy Gary Winthrop còn sống là Dana Evans. Cô đã điều tra vụ này như những thảm kịch ngẫu nhiên, và nhận ra rằng cuộc điều tra này sẽ dẫn dắt cô qua nhiều châu lục, những nơi mà cô và cậu con trai bé bỏng của mình sẽ sống trong những mối nguy hiểm nghiêm trọng, để rồi cuối cùng nó dẫn cô đến một sự thật làm sửng sốt cả thế giới. *** "Nắm lấy cái thìa... một bát đầy hơi nước quyến rũ, sex và bốc hơi nghi ngút." - People "Một chuyến hành trình gấp gáp và bí ẩn... Sidney Sheldon là người biết cách chuyển tải sự kỳ bí... cùng lối kể chuyển đầy hồi hộp... và những tình tiết của ông được gắn kết, biến động và gây ngạc nhiên." - New York Post *** Sidney Sheldon là một tiểu thuyết gia người Mỹ, đoạt giải của Viện Hàn Lâm nghệ thuật Mỹ, ông còn là một kịch tác gia và một người viết kịch bản phim và chương trình truyền hình chuyên nghiệp. Sheldon sinh tại Chicago, Illinois, với tên khai sinh là Sidney Schechtel, có bố là người Do Thái gốc Đức, mẹ là gốc Nga. Các bộ tiểu thuyết của Sidney Sheldon: The Naked Face (1970) - Lộ mặt The Other Side of Midnight (1973) - Phía bên kia nửa đêm A Stranger in the Mirror (1976) - Người lạ trong gương Bloodline (1977) - Dòng máu Rage of Angels (1980) - Thiên thần nổi giận Master of the Game (1982) - Bậc thầy của trò chơi (Tên khác: Người Đàn Bà Quỷ Quyệt) If Tomorrow Comes (1985) - Nếu còn có ngày mai Windmills of the Gods (1987) - Sứ giả của thần chết The Sands of Time (1988) - Cát bụi thời gian Memories of Midnight (1990) - Kí ức lúc nửa đêm The Doomsday Conspiracy (1991) - Âm mưu ngày tận thế The Stars Shine Down (1992) - Sao chiếu mệnh Nothing Lasts Forever (1994) - Không có gì là mãi mãi Morning, Noon and Night (1995) - Sáng, trưa và đêm The Best Laid Plans (1997) - Kế hoạch hoàn hảo Tell Me Your Dreams (1998) - Hãy kể giấc mơ của em The Sky is Falling (2001) - Bầu trời sụp đổ Are You Afraid of the Dark? (2004) - Bạn có sợ bóng tối? (Bóng tối kinh hoàng) *** Nàng sải những bước dài vội vã trên đại lộ Pennsylvania cách Nhà Trắng một khu phố, run rẩy trong cơn gió lạnh lẽo của tháng mười hai, tai ù đặc vì tiếng oanh tạc và sau đó là tiếng các máy bay ném bom vần vũ trên đầu, sẵn sàng trút hết mớ hàng hoá của tử thần xuống mặt đất. Nàng đứng lại, toàn thân cứng đờ, chìm sâu vào màn sương đỏ rực của sự kinh hoàng. Bỗng nhiên nàng thấy mình trở lại Sarajevo, và nàng nghe thấy tiếng bom rơi rít lên đến chói tai. Nàng nhắm nghiền mắt lại nhưng hành động đó không thể xua đi hình ảnh về những gì đang diễn ra quanh nàng. Bầu trời sáng rực lên, tiếng pháo, tiếng động cơ máy bay ì ầm, tiếng đạn súng cối và nhiều loại súng khác - tất cả họ lẫn vào nhau tạo thành một thứ âm thanh quái dị làm cho tai nàng điếc đặc. Gần đó, những toà cao ốc bị hất tung lên thành những đám bụi mù với xi măng, gạch đá và cát. Đám đông hoảng loạn chạy tứ tán về mọi hướng, cố trốn tránh cái chết. Từ xa, rất xa, một giọng đàn ông vang lên: - Cô không sao chứ? Một cách thận trọng, nàng từ từ mở mắt ra. Nàng đã lại đứng trên đại lộ Pennsylvania, trong ánh nắng mùa đông ảm đạm, lắng nghe tiếng máy bay phản lực và tiếng chuông báo động đang nhỏ dần đi trong trí nhớ của mình. - Thưa cô… cô không sao chứ? Nàng cố ép mình trở về với thực tại: - Không, tôi… tôi không sao, cám ơn ông. Anh ta ngó sững nàng. - Khoan đã? Cô là Dana Evans. Tôi là một fan 1 lớn của cô đây. Đêm nào tôi cũng xem cô trên WTN, và tôi còn xem đầy đủ các tin tức của cô từ Nam Tư nữa cơ. - Giọng anh ta tràn đầy sự ngưỡng mộ. - Việc đó với cô thật hấp dẫn, theo dõi cuộc chiến ấy, phải không? - Vâng. - Cổ họng Dana Evans khô khốc. Hấp dẫn khi thấy người ta nổ tung thành từng mảnh, xác các em bé bị tung lên trời, những mẩu thịt người trôi vật vờ trong dòng sông đỏ lòm. Đột nhiên nàng thấy đau bụng. - Xin lỗi! - Nàng quay ngoắt lại và bỏ đi thật nhanh. Daná Evans mới từ Nam Tư về được ba tháng. Những gì trong ký ức nàng hầu như còn nguyên vẹn. Có cái gì đó không thật khi được bước đi thong dong trên đường phố, dưới ánh sáng ban ngày mà không một chút phập phồng lo sợ, thoải mái nghe chim hót, nghe mọi người xung quanh cười nói. Ở Sarajevo không hể có tiếng cười, chỉ có tiếng bom đạn đì đùng và tiếng khóc than thảm thiết mà thôi. John Donne nói đúng, Dana nghĩ. Không ai là một hòn đảo cả. Chuyện xảy ra cho một người, cũng là chuyện xảy ra cho tất cả chúng ta, vì chúng ta đều được tạo ra từ đất sét và phép màu của Thượng Đế. Chúng ta chia sẻ cùng một khoảnh khắc của thời gian. Cánh tay kia của tạo hoá bắt đầu lạnh lùng quét qua một phút tiếp theo. Ở Santiago, một bé gái mười tuổi đang bị bố đẻ cưỡng hiếp. Ở New York, một đôi tình nhân đang hôn nhau dưới ánh nến lung linh… Ở Flanders, một cô gái mười bảy tuổi đang sinh hạ một em bé… Ở Chicago, một người lính cứu hoả đang liều mạng cứu một con mèo khỏi toà nhà đang cháy… Ở Sao Paolo, hàng trăm cổ động viên đang giày xéo nhau đến chết khi hàng rào bị đổ trong một trận bóng đá. Ở Pisa, một bà mẹ bật khóc vì hạnh phúc khi chứng kiến đứa con mình chập chững bước những bước đầu tiên trong đời… Và còn biết bao chuyện khác diễn ra trong vũ trụ trong vòng sáu mươi giây, Dana nghĩ thầm. Thời gian cứ tiếp tục trôi cho đến khi nó ngùng lại và đưa tất cả chúng ta cùng sang một cõi vĩnh hằng huyền bí nào đó. Dana Evans hai mươi bảy tuổi, vẻ ưa nhìn, thân hình mảnh dẻ, mái tóc đen xoã ngang vai, có cặp mắt xám thông minh, khuôn mặt hình quả tim và nụ cười ấm áp. Con một đại tá quân đội, Dana lớn lên như một đứa bé lang thang, theo bố đi từ căn cứ này sang căn cứ khác và cuộc sống này đã cho nàng nếm đủ mọi mùi vị của những cuộc phiêu lưu. Nàng vừa yếu ớt lại vừa can đảm và chính nét tương phản này đã mang lại cho nàng sức hấp dẫn mạnh mẽ. Trong suốt một năm Dana làm phóng viên mặt trận tại Nam Tư, khán giả khắp thế giới đã bị hấp dẫn bởi một người phụ nữ trẻ, đẹp, tận tuỵ tường thuật lại tình hình nóng hổi nhất ngay giữa lòng cuộc chiến, mạo hiểm cả tính mạng mình để đánh đổi lấy những tin tức mới nhất về những sự kiện đầy chết chóc đang diễn ra xung quanh. Và bây giờ, dù đi đến bất kỳ nơi nào nàng cũng dễ dàng bị mọi người nhận ra. Dana Evans thậm chí còn phát xấu hổ vì sự nổi tiếng của mình. Bước nhanh trên đại lộ Pennsylvania, rảo bước qua Nhà Trắng, Dana nhìn đồng hồ và nghĩ thầm, mình lại đến muộn mất thôi. Tập đoàn viễn thông Washington Tribune chiếm hết toàn bộ khu nhà lớn của đường NW số 6 với 4 toà nhà riêng biệt: ban quản trị, xưởng in ấn báo chí, bộ phận văn phòng, và khu truyền thông tổng hợp. Các studio của WTN toạ lạc trên tầng sáu của toà nhà thứ tư. Không khí làm việc ở đây lúc nào cũng căng như dây đàn với những nhân viên luôn dán mắt vào máy tính. Chính tại đây Dana đã gặp Jeff Connors. Anh từng là một ngôi sao bóng chày cho đến khi bị thương ở cánh tay do gặp tai nạn khi đang trượt tuyết, còn bây giờ Jeff là phóng viên thể thao cho WTN và thêm cả việc trình bày báo cho Nghiệp đoàn cung cấp báo chí Washington. Anh ngoài ba mươi tuổi, gầy, rắn rỏi, vẻ ngoài trẻ trung và dễ dãi, hấp dẫn mọi người bằng phong thái ung dung, điềm đạm. Jeff và Dana yêu nhau và họ đã bắt đầu tính đến chuyện hôn nhân. Ba tháng sau ngày Dana trở về từ Sarajevo, ở Washington không có sự kiện gì nổi bật. Leslie Stewart, bà chủ cũ của Tập đoàn viễn thông Washington Tribune đã bán tống bán tháo nó đi rồi biến mất, và chủ mới giờ đây là Elliot Cromwell, một ông trùm truyền thông quốc tế. Cuộc họp vào buổi sáng với Matt Baker và Elliot Cromwell có vẻ như đã bắt đầu. Khi Dana đến nơi, Abbe Lasmann, cô thư ký tóc đỏ quyến rũ của Matt bước ra chào nàng. - Mọi người đang đợi cô, - Abbe nói. - Cám ơn, Abbe. - Dana bước vào phòng họp. - Matt… Elliot… - Cô đến trễ, - Matt Baker càu nhàu. Đây là một người đàn ông lùn tè, tóc xám, vừa bước qua tuổi năm mươi, bộ dạng cộc cằn nóng nảy nhưng bù lại có đầu óc năng động và vô cùng sáng suốt. Bộ đồ vest của Matt trông nhàu nhĩ như thể ông ta đã mặc nó đi ngủ, và Dana ngờ rằng đó hoàn toàn là chuyện có thật. Ông ta điều hành WTN, bộ phận truyền hình của Diễn đàn doanh nghiệp Washington. Elliot Cromwell đã ngoài sáu mươi, vẻ thân thiện cởi mở với nụ cười thường trực trên môi. Đó là tỷ phú, và có đến hàng tá các bài khác nhau miêu tả việc ông ta đã có được số tài sản khổng lồ đó như thế nào. Trong lĩnh vực kinh doanh truyền thông, nơi mà mục đích chính là truyền bá thông tin, Elliot Cromwell vẫn là một con người bí ẩn. Ông ta nhìn Dana và nói: - Matt bảo rằng chúng ta đang giã cho các đối thủ nhừ tử. Hiệu suất làm việc của chúng ta vẫn tiếp tục tăng cao. - Tôi rất vui khi biết tin này, Elliot. - Dana, tối nào tôi cũng xem nhiều bản tin khác nhau, nhưng của cô bao giờ cũng có sự khác biệt lớn so với những cái kia. Tôi không biết rõ tại sao, nhưng tôi thích điều này. Dana có thể cho Elliot Cromwell biết nguyên nhân. Những bản tin kia chỉ đơn giản là - thông báo tin tức cho hàng triệu khán thính giả. Còn Dana thì quyết định biến nó thành một cái gì đấy riêng tư hơn. Trong tâm trí nàng, đêm nay, nàng sẽ nói với một quả phụ cô đơn, đêm mai, với một người bệnh nằm bất lực trên giường, đêm mốt, với một người bán hàng đang sống cách xa gia đình. Bản tin của nàng bao giờ cũng toát lên giọng điệu thân tình và ngầm chia sẻ, vì vậy người ta yêu thích chúng và hưởng ứng chúng một cách nhiệt tình. - Tôi biết đêm nay cô sẽ phỏng vấn một vị khách đặc biệt thú vị, - Matt Baker nói. Dana gật đầu. - Là Gary Winthrop. Gary Winthrop là vị hoàng tử quyến rũ đối với toàn thể Mỹ quốc, thành viên của một trong những dòng họ xuất sắc nhất đất nước. Anh ta còn trẻ, đẹp trai và hết sức lôi cuốn. - Winthrop không thích công khai về đời tư, - Cromwell lên tiếng. - Làm sao mà cô lại thuyết phục được anh ta? - Chúng tôi có cùng một sở thích, - Dana trả lời. Cromwellcau mày. - Thật không? - Thật. - Dana mỉm cười. - Tôi thích xem tranh của Monets và Van Goghs, còn anh ta thì thích mua chúng. Thành thật mà nói, trước đây tôi đã phỏng vấn anh ta, và từ đó chúng tôi trở nên thân thiết. Chúng ta sẽ cho phát cuốn băng có những tin tức mới về anh ta, rồi sau đó là cuộc phỏng vấn của tôi. - Tuyệt vời, - Cromwell cười rạng rỡ. Họ dành một tiếng đồng hồ tiếp theo để bàn bạc về chương trình mới của đài, có tên là Đường dây tội ác.Mục đích của chương trình này là sửa chữa sự bất công đã phán xét và nhắc lại những vụ án nổi tiếng đã được khám phá. - Hiện nay đang có rất nhiều chương trình thực tế trên đài, - Matt cảnh cáo, - vì thế chúng ta phải tỏ ra nổi trội hơn họ. Tôi muốn ta hãy bắt đầu bằng một sự tình cờ. Có thể chuyện này sẽ thu hút được sự chú ý của khán giả và… Hệ thống liên lạc nội bộ reo lên. Matt Baker nhấn một nút. - Tôi đã bảo cô rồi, không nhận một cú điện thoại nào cơ mà. Sao lại… Giọng của Abbe vang lên. - Tôi xin lỗi. Đây là của cô Evans. Trường học của Kemal gọi tới. Có vẻ khẩn cấp lắm. Matt Baker nhìn Dana. - Đường dây số một. Dana nhấc ống nghe, tim đập mạnh. - Alô… Kemal không sao chứ ạ?. - Nàng nghe một lát. - Tôi hiểu… tôi hiểu… Vâng, tôi sẽ đến ngay. - Nàng dập máy. - Chuyện gì vậy? - Matt hỏi. Dana trả lời. - Họ muốn tôi đến đón Kemal về. Elliot Cromwell cau mày. - Đứa bé mà cô mang từ Sarajevo về à? - Vâng. - Cả một câu chuyện dài đây. - Vâng. - Dana miễn cưỡng trả lời. - Có phải cô tìm nó, còn sống, trong một khu đất hoang. - Đúng vậy, - Dana trả lời. - Nó có bệnh tật gì hay sao? - Không. - Dana trả lời một cách cứng nhắc, vẻ như không muốn nói về những ngày tháng đó. - Kemal bị mất một cánh tay. Do bom gây ra. - Và… Cô nhận nó làm con nuôi?! - Không hẳn là vậy, Elliot. Tôi chỉ sắp sửa làm thế thôi. Còn bây giờ, tôi là người bảo trợ của nó. - Được, vậy cô cứ đi đi. Chúng ta sẽ bàn bạc về Đường dây tội ác sau. Khi Dana đến trường trung học Theodore Roosevelt, nàng đi ngay vào văn phòng gặp trợ lý hiệu trưởng, Vera Kostoff, ngoài năm mươi, tóc xám, điệu bộ hấp tấp, vẻ mặt lo lắng đang ngồi phía sau bàn làm việc. Đối diện với bà ta là Kemal. Trông nó có vẻ nhỏ hơn tuổi mười hai của mình, gầy gò và xanh xao, mớ tóc vàng bù xù và cái eằm bướng bỉnh. Nơi cánh tay phải là một ống tay áo trống khống. Thân hình mỏng mảnh của nó dường như đã bị căn phòng làm cho bé lại. Lúc Dana bước vào, không khí trong phòng đang rất nặng nề. - Chào bà Kostoff, - Dana nhẹ nhàng lên tiếng. - Kemal. Kemal nhìn chằm chằm vào đôi giày của nó. - Tôi được biết có chuyện gì đó đã xảy ra. - Dana tiếp tục. - Vâng, chính xác là như thế, cô Evans. - Bà ta trao cho nàng một mảnh giấy. Dana nhìn nó, bối rối. Trên đó viết: Vodja, Pizda, zbosti, fukati, nezakonski otrok, umreti, tepec. Nàng ngước lên. - Tôi… tôi không hiểu. Đây là tiếng Serbi, phải không? Bà Kostoff sin sít trả lời: - Vâng, đúng thế. Thật không may cho Kemal là tôi cũng là người Serbi. Đó là những từ mà em đã nói trong trường. - Mặt bà ta đỏ bừng. - Ngay cả cánh lái xe tải người Serbi cũng không nói thế, cô Evans, và tôi không thể tưởng tượng những lời lẽ như vậy lại được thốt ra từ mồm của đứa trẻ này. Kemal gọi tôi là một pizda. Dana nhắc lại: - Một pi… - Tôi hiểu rằng Kemal còn xa lạ với đất nước chúng ta, và tôi cũng đã rất chiếu cố đến điều này, nhưng… biểu hiện của nó thật đáng bị khiển trách. Nó thường xuyên tham gia các vụ đánh lộn và khi tôi trách phạt nó, vào sáng nay, nó đã… lăng mạ tôi. Như thế là quá lắm rồi. Dana khéo léo đáp. - Tôi chắc rằng bà hiểu hoàn cảnh khó khăn của nó, bà Kostoff, và… - Tôi đã nói rồi, tôi luôn chiếu cố, nhưng hình như nó đang định thử thách sự nhẫn nại của tôi. - Tôi hiểu. - Dana nhìn sang Kemal. Nó vẫn nhìn xuống đất, mặt mũi sưng sỉa. - Tôi hy vọng đây sẽ là vụ rắc rối cuối cùng, - bà Kostoff nói. - Tôi cũng vậy. - Dana đứng lên. - Đây là bảng thành tích học tập của Kemal. - Bà Kostoff mở ngăn kéo, lấy một tờ giấy ra và đưa cho Dana. - Cám ơn. - Dana nói. Trên đường về nhà, Kemal hoàn toàn yên lặng. - Cô phải làm gì với cháu bây giờ? - Dana hỏi, - Tại sao cháu cứ thích đánh nhau, và tại sao cháu lại nói những từ như thế chứ? - Cháu không biết là bà ta nói được tiếng Serbi. Khi cả hai về đến căn hộ của Dana, nàng nói: - Cô phải trở về phòng thu, Kemal. Cháu ở nhà một mình, được chứ? - Word. Lần đầu tiên Kemal nói thế với nàng, Dana tưởng rằng nó không hiểu ý mình, nhưng nàng nhanh chóng nhận ra đây là một kiểu tiếng lóng của bọn trẻ. Word có nghĩa là "vâng, phải" dùng để chỉ người thuộc giới tính kia… Dana lôi bảng kết quả học tập mà bà Kostoff đưa ra xem. Môi nàng mín lại, Lịch sử: D, Tiếng Anh: D. Khoa học tự nhiên: D. Khoa học xã hội: F. Toán: A. Nhìn bảng kết quả, Dana nghĩ, ồ, Chúa ơi, Cô phải làm gì với cháu bây giờ? - Chúng ta sẽ bàn chuyện này vào lúc khác, - nàng nói - Cô trễ giờ rồi. Đối với Dana, Kemal vẫn luôn là một điều bí ẩn. Khi ở bên nàng, nó cư xử rất có lễ phép, còn tỏ ra dễ thương, chu đáo và quan tâm. Vào các ngày cuối tuần, Dana và Jeff đưa nó đi chơi khắp Washington. Họ đến Vườn thú quốc gia, nơi có vô vàn các loại thú hoang quý hiếm, say sưa quan sát những con gấu trúc khổng lồ độc đáo. Họ tham quan Viện bảo tàng không gian và vũ trụ quốc gia, và Kemal được trông thấy chiếc máy bay đầu tiên của anh em Wright đung đưa trên trần nhà, rồi họ đi qua khu Skylab để sờ vào những hòn đá mang từ mặt trăng về. Họ đến trung tâm Kennedy và sân khấu Arena. Hai người giới thiệu với Kemal món pizza ở quán Tom Tom, món tacos ở quán Mextec, món gà rán phương Nam ở Georgetowns. Kemal yêu quý quá từng giây phút vui vẻ đó. Nó thật sự hạnh phúc khi có Dana và Jeff ở bên. Nhưng… mỗi khi Dana phải đi làm, Kemal trở thành một người khác hẳn. Nó tỏ ra chống đối và thù địch với tất cả. Dana cũng không tiện giao nó cho những người đến giúp việc, và những người đến trông đã kể những câu chuyện ghê gớm về những buổi tối ở cùng Kemal. Jeff và Dana đã cố giải thích khuyên bảo nó, nhưng vô hiệu. Có lẽ nó cần một sự trợ giúp đặc biệt, Dana nghĩ. Nàng không biết gì về những nỗi sợ hãi kinh khủng luôn bám riết lấy Kemal. Bản tin tối của WTN đã bắt đầu. Richard Melton, đồng sự bảnh bao của Dana và Jeff Connors ngồi phía sau nàng. Dana Evans đang nói: "… theo các tin tức quốc tế, Anh và Pháp vẫn đang gặp nhiều khó khăn với căn bệnh bò điên… đây là những thông tin của René Linaud từ Reims". Trong phòng điều khiển, đạo diễn Anastasia Mann ra lệnh: - Chuyển cảnh. Trên màn hình giờ là cảnh nông thôn nước Pháp. Cửa phòng thu bật mở và một nhóm người bước vào. Mọi người ngước nhìn lên. Tom Hawkins, một đạo diễn trẻ nhiều tham vọng của mục tin tức buổi chiều lên tiếng: - Dana, cô quen Gary Winthrop à? - Dĩ nhiên. Ở ngoài, Gary Winthrop còn đẹp trai hơn trong ảnh nhiều. Anh ta trạc tuổi bốn mươi, cặp mắt xanh sáng, nụ cười ấm áp và có sức quyến rũ kỳ lạ. - Chúng ta lại gặp nhau, Dana. Cám ơn vì đã mời tôi. - Hoan nghênh sự có mặt của anh. Dana nhìn quanh. Nửa tá thư ký bỗng nhiên tìm được lý do đột xuất để có mặt trong phòng thu. Gary Winthrop hẳn là đã quen với cảnh này rồi. Dana nghĩ, chợt cảm thấy vui vui. - Vài phút nữa là đến phần của anh rồi. Tại sao không ngồi xuống đây, cạnh tôi nhỉ? Đây là Richard Melton. Hai người đàn ông bắt tay nhau. - Anh biết Jeff Connors rồi, phải không? - Dĩ nhiên. - Rồi Gary đùa luôn. - Anh nên ra ngoài làm việc đi, Jeff, đừng có ngồi tào lao mãi. - Vâng, tôi cũng đang định làm như vậy đấy. Cảnh quay về nước Pháp đã kết thúc và tiếp theo là chương trình quảng cáo. Gary Winthrop lặng lẽ ngồi xem cho đến hết. Từ phòng điều khiển, Anastasia Mann nói: - Chuẩn bị, chúng ta sẽ phát cuốn băng. - Bà ta lặng lẽ đếm ngược bằng các ngón tay của mình. - Ba… hai… một… Trên màn hình giờ đây là quang cảnh bên ngoài của Bảo tàng Nghệ thuật Georgetown. Một phóng viên đang cầm chắc lấy chiếc microphone, bất chấp cơn gió lạnh buốt. "Chúng tôi đang đứng trước bảo tàng nghệ thuật Georgetown, nơi ông Gary Winthrop đang tổ chức trao một món quà trị giá năm mươi triệu đôla cho viện bảo tàng. Nào, chúng ta hãy cùng vào trong". Bây giờ là cảnh nội thất tráng lệ của viện bảo tàng. Vô số quan chức, nhân viên cấp cao và phóng viên đang vây chặt lấy Gary Winthrop. Ông giám đốc bảo tàng, Morgan Ormond trao cho anh ta một tấm bằng lớn. - Ông Winthrop, thay mặt cho viện bảo tàng, cho hàng triệu khách tham quan đến đây, và cho ban quản trị viện, chúng tôi xin chân thành cám ơn sự đóng góp vô cùng to lớn này của ông. Đèn flash thi nhau loé sáng. Gary Winthrop trả lời: - Tôi hy vọng việc này sẽ giúp các hoạ sĩ trẻ nước Mỹ có cơ hội tốt hơn để không chỉ thể hiện bản thân mà còn giới thiệu được tài năng của họ ra toàn thế giới. Tiếng vỗ tay vang lên rào rào. Phóng viên trong cuốn băng nói: - Đây là Bill Toland, tại bảo tàng Nghệ thuật Georgetown. Trở về phòng thu chứ, Dana? Đèn đỏ của camera bật sáng. - Cảm ơn Bill. Chúng ta thật may mắn vì đã mời được ông Gary Winthrop đến đây cùng nói chuyện về món quà tuyệt vời của ông. Máy quay lia một cú rộng và hình Gary Winthrop ngồi trong phòng thu đã xuất hiện trên màn hình. Dana lên tiếng: - Món tiền năm mươi triệu đôla này, ông Winthrop, sẽ được dùng để mua tranh cho viện bảo tàng chứ? - Không. Đây là một sự bảo trợ mới dành cho những hoạ sĩ trẻ người Mỹ, những người không thể, hay nói một cách khác là không có cơ hội được thể hiện những gì mà họ có. Một phần của số tiền sẽ được dùng để hỗ trợ những em học sinh có năng khiếu ở các thành phố thuộc bang. Có rất nhiều em nhỏ lớn lên mà không có chút kiến thức nào về nền nghệ thuật của nước mình. Chúng có thể biết đến trường phái ấn tượng Pháp, nhưng tôi muốn chúng nhận thức rõ hơn về những di sản của chính chúng, với những hoạ sĩ Mỹ như Sargent, Homer và Remington. Nói tóm lại, số tiền này dùng để cổ động các hoạ sĩ trẻ phát huy hết tài năng của họ cũng như dành cho tất cả những bạn trẻ nào có hứng thú với nghệ thuật. - Có tin đồn rằng ông đang dự tính chạy đua vào Nghị viện, ông Winthrop. Đây có phải là sự thật không? - Dana hỏi. Gary Winthrop mỉm cười: - Tôi đang nắn gân mọi người đấy. - Thật là thú vị. Theo kết quả bỏ phiếu thử mà chúng tôi đã xem qua, thì ông đang dẫn đầu. Gary Winthrop gật đầu. - Gia đình tôi đã có một bảng thành tích dài về việc phục vụ chính phủ rồi. Nếu như tôi có được chút hữu dụng nào với đất nước thì, tôi xin làm bất cứ việc gì mà Chính phủ yêu cầu. - Xin cảm ơn sự có mặt của ông, ông Winthrop. - Cảm ơn. Gary Winthrop chào tạm biệt và rời phòng thu trong lúc phát quảng cáo. Jeff Connors, ngồi cạnh Dana nói: - Chúng ta cần nhiều người như anh ta ở trong Quốc hội hơn! - Chúa ơi. - Chúng ta có thể nhân bản anh ta. À mà… Kemal sao rồi? Dana nhăn mặt. - Jeff… làm ơn đừng bỏ cả Kemal và nhân bản vào cùng một rọ. Em không chịu nổi đâu. - Vẫn còn bị ảnh hưởng bởi chuyện sáng nay à? - Ừ, nhưng chỉ hôm nay thôi. Ngày mai sẽ… Anastasia Mann nói: - Trở lại nào. Ba… hai… một… Đèn đỏ bật sáng. Dana nhìn về phía ống kính. "Sau đây là phát thanh viên Jeff Connors với phần tin thể thao". Jeff nhìn vào ống kính và bắt đầu nói: "Hôm nay, trận bóng rổ giữa hai đội…" Vào lúc hai giờ sáng, trong căn nhà của Gary Winthrop ở khu tây bắc Washington, hai người đàn ông đang gỡ những bức tranh trên tường phòng khách xuống. Một người đeo mặt nạ, Lone Ranger, còn người kia là đại uý Midnite. Họ làm với vẻ ung dung hết mức, lôi từng tờ tranh khỏi khung kính và nhét vào chiếc bao bố to sụ. Lone Ranger nói: - Mấy giờ thì xe tuần mới quay lại? Đại uý Midnite trả lời: - Bốn giờ. - Họ thật tốt bụng khi hẹn đầy đủ giờ giấc với chúng ta, nhỉ? Đại uý Midnite nhấc một bức tranh trên tường và đập nó xuống nền nhà lát gỗ sồi, gây ra một tiếng động lớn. Hai người dừng lại một lát và nghe ngóng. Yên lặng. Lone Ranger nói: - Lại lần nữa. Đập mạnh vào. Đại uý Midnite lấy một bức tranh khác và ném mạnh xuống sàn. - Nào, xem chuyện gì xảy ra nhé. Trên giường ngủ ở tầng trên, Gary Winthrop bị tiếng ồn làm thức giấc. Anh ta ngồi hẳn lên. Mình đã nghe thấy tiếng động, hay chỉ là mơ thấy nó? Anh ta lắng nghe một hồi lâu. Vẫn yên lặng. Không chắc lắm, anh ta đứng dậy, bước ra hành lang và bật đèn. Hành lang vẫn tối om. - Này. Có ai ở dưới đó không? - Không có tiếng trả lời. Đi xuống lầu, anh ta bước dọc theo hành lang cho đến cửa phòng khách. Anh ta dừng lại và ngó sững hai người đàn ông đeo mặt nạ với vẻ hoài nghi. - Các anh làm cái quái gì ở đây thế này? Lone Ranger quay sang anh ta và nói: - Chào Gary. - Xin lỗi vì đã đánh thức ông dậy. Hãy đi ngủ tiếp đi. Không một tiếng động, khẩu Beretta xuất hiện trên tay hắn. Hắn đẩy cò hai lần và một màu đỏ lòm bắn tung toé ra từ ngực Gary. Lone Ranger và đại uý Midnite nhìn cái xác của Gary Winthrop đổ ập xuống nền nhà. Hài lòng, chúng quay lưng và tiếp tục hoàn thành nốt việc lấy đi các bức tranh. ... Mời các bạn đón đọc Bầu Trời Sụp Đổ của tác giả Sidney Sheldon.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Luật Giang Hồ - Jeffrey Archer
Câu chuyện xảy ra vào năm 1993. Ðịa điểm là Washington DC. Tổng thống Hoa Kỳ, Clinton thay thế George Bush. Ở London, Margaret Thatcher đã bị mất chức bởi đảng của chính bà. Ở Moscow, Gorbachev bị lật đổ bởi những thế lực mà ông không thể kìm chế. Những đối thủ trong chiến tranh vùng Vịnh, người sống sót duy nhất là Saddam Hussein. Và Saddam đang mưu tính một cuộc trả thù khiến Hoa Kỳ không còn có thể làm gì khác hơn là trả đũa. Với sự thông đồng của một trùm mafia, một tay làm giấy tờ giả giỏi nhất thế giới và một trong những phụ tá đặc biệt của Tổng thống Clinton, Saddam sắp đặt kế hoạch: âm thầm đánh tráo bản gốc Tuyên ngôn Ðộc Lập của Hoa Kỳ tại viện Bảo tàng lịch sử bằng một bản giả và dự định thiêu huỷ bản gốc tại Baghdad vào ngày Quốc khánh Mỹ, 4 tháng 7, với sự chứng kiến của các cơ quan truyền thông quốc tế. Mục đích là hạ nhục dân tộc Hoa Kỳ. Trong lúc âm mưu được tiến hành, chính phủ Hoa Kỳ không hề hay biết. Một nhân vật hoàn toàn không thích hợp vô tình bị lôi cuốn vào tấn kịch này: Scott Bradley, một giáo sư trẻ tuổi của trường Ðại học Luật Yale. được CIA giao một nhiệm vụ đơn giản là khám phá lý do một nữ nhân viên Mossad xinh đẹp được cài vào Ban lợi ích của Iraq trong toà Ðại sứ Jordan ở Paris, và bất ngờ khởi sự lần ra manh mối của âm mưu phi thường này. Một nhân viên Mossad và một giáo sư Yale có thể ngăn chặn được Saddam Hussein trước ngày Ðộc lập hay không? Câu hỏi này xin để Jeffrey Archer trả lời quý bạn đọc. Một điều kỳ thú khác: cho đến nay, trong toàn bộ tác phẩm của Jeffrey Archer bao gồm 11 cuốn tiểu thuyết, 5 tập truyện ngắn, 3 vở kịch và 2 hồi ký về nhà tù, đã có 9 cuốn tiểu thuyết và 3 tập truyện ngắn được xuất bản tại Việt Nam, tất cả đều được nhiệt liệt đón tiếp, nhất là cuốn “Hai Số Phận” đã được xuất bản, và cuốn cuối cùng “Song of Fortune” vừa mới được ấn hành trong năm 2003 và chắc chắn cũng sẽ được ra mắt ở nước ta trong nay mai. Jeffrey Archer sinh năm 1940 và theo học tại trường trung học Wellington ở Sommerset, rồi trường đại học Brasenose ở Oxford. Ông đã bắt đầu sự nghiệp văn chương từ năm 1974 với tác phẩm “Không Hơn Một Xu, Không Kém Một Xu”. Ông đã từng được đắc cử vào Hạ nghị viện Anh năm 1969, từ tháng 9 năm 1985 đến tháng 10 năm 1986 là Phó Chủ tịch đảng Bảo thủ. Ông có gia đình với hai người con. Ngày 30 tháng 01 năm 2004. BỒ GIANG N.N.T. *** Jeffrey Archer (sinh ngày 15/04/1940) là nhà văn người Anh và cũng là một chính trị gia. Ông từng là một thành viên Quốc hội (1969-1974), và Phó Chủ tịch Đảng Bảo thủ (1985-1986). Jeffrey Archer sáng tác cuốn tiều thuyết Hai số phận (có tên gốc tiếng Anh là Kane and Abel) vào năm 1979. Tựa đề “Kane and Abel” dựa theo câu chuyện của anh em Cain và Abel trong Kinh Thánh Cựu Ước. Tác phẩm được xuất bản tại Vương quốc Anh vào năm 1979 và tại Hoa Kỳ vào tháng 2 năm 1980 và cuốn sách đã được phổ biến trên toàn thế giới. Sách đạt danh hiệu sách bán chạy nhất theo danh sách của từ New York Times và năm 1985 nó được đưa lên chương trình truyền hình miniseries của CBS cũng với tên là Kane & Abel. *** Trong lúc chiếc xe cảnh sát dẫn đầu từ từ di chuyển ra khỏi lề đường, giàn đỡ máy quay phim của đạo diễn bắt đầu chạy thụt lùi cùng một tốc độ theo đường ray của nó. Những đám đông đứng sau phía rào cản bắt đầu hoan hô và vẫy tay. Nếu họ đang quay một cuốn phim thực thì đạo diễn đã lên tiếng bảo “Cắt” sau hai mươi giây bởi vì viên sĩ quan phối hợp ngu ngốc vẫn còn đứng giữa đường, tay chống nạnh, rõ ràng anh ta không phải là vai chính trong cuốn phim. Cavalli không để ý tới viên sĩ quan trong lúc y chú tâm vào con đường trước mặt. Y gọi điện thoại cho Andy, mà y biết vẫn còn ngồi trên ghế dài ở đường 7, đọc tờ Washington Post. — Đầu này không có việc gì nhiều, thưa sếp. Chỉ ở dưới cùng một đoạn đường dốc là hơi hoạt động một chút. Mọi việc phía ông suôn sẻ chứ, ông đang trễ đấy? — Vâng, tôi biết. Nhưng chúng tôi sẽ đến chỗ anh trong vòng sáu mươi giây, – Cavalli nói trong lúc viên đạo diễn tới cuối đường ray riêng và đưa một ngón tay cái lên không để ra hiệu cho những chiếc xe hơi giờ đây có thể tăng tốc độ lên bốn mươi cây số giờ. Johnny nhảy ra khỏi giàn đỡ máy và bước chân chậm trở lại đại lộ Pennsylvania để có thể chuẩn bị cho việc quay phim lần hai. Cavalli tắt máy điện thoại và hít vào một hơi thở sâu, trong lúc đoàn xe hộ tống qua đường 9; y chăm chú nhìn đài tưởng niệm FDR[30] được đặt trên một bãi cỏ phía trước lối vào Viện Bảo tàng. Chiếc xe hơi thứ nhất quẹo vào đường 7, chỉ còn lại một nửa khối nhà trước khi họ tới đoạn đường dẫn vào bục lên xuống hàng. Những chiếc mô tô dẫn đầu tăng tốc độ và khi đối diện với Andy đang đứng trên lề đường, chúng quẹo phải và chạy xuống đoạn đường dốc. Phần còn lại của đoàn xe hạ tống tạo thành một hàng dọc, đối diện ngay với cổng giao hàng, trong lúc chiếc thứ ba chạy xuống đoạn dốc tới tận bục giao hàng. ... Mời các bạn đón đọc Luật giang hồ của tác giả Jeffrey Archer.
Ảo Thuật Văn Chương - Alexandra Marinina
Đầu năm 1993, A. Marinina cho nữ thám tử Nastia Kamenskaya xuất hiện trong cuốn Hoàn cảnh đưa đẩy, tiếp đó trong Chơi trên sân lạ và Giấc mơ bị đánh cắp. Từ năm 1995, bà cho in trong tủ sách phổ biến “Mèo đen” của Nhà xuất bản EKSMO hai cuốn Serafim sáu cánh và Kẻ sát nhân miễn cưỡng. Thành công khiến nhà xuất bản này phải chạy đua với các đối thủ, tăng nhuận bút gấp bội để giữ được nhà văn ăn khách cho mình và mở ra cả một tủ sách riêng A. Marinina - nữ chúa truyện trinh thám. Từ đấy, với hàng loạt đầu sách Lò xo cho bẫy chuột, Hôm qua tôi đã chết, Đánh tráo đối tượng, Mặt nạ của người khác, Bộ mặt sáng sủa của thần chết, Ảo giác của tội lỗi, Khi thần thánh bật cười... hành trình điều tra phá án của Nastia Kamenskaya cơ hồ bất tận. Mỗi năm hai cuốn - đó là tốc độ sáng tác mà A. Marinina duy trì được trong nhiều năm, xây dựng nên hình tượng một nữ thám tử hoàn toàn chính diện: cực kỳ thông minh, can đảm và tinh tế. Truyện trinh thám của A. Marinina bắt đầu được đưa lên màn ảnh từ năm 1999. Đến nay đã có 12 quyển sách của bà được dựng thành phim. A. Marinina ký hợp đồng với nhà xuất bản nước ngoài năm 1997, từ đó sách của bà được dịch in bằng 20 thứ tiếng. Ở Việt Nam, các tác phẩm của tác giả được giới thiệu: Ảo thuật văn chương (Vũ Đình Phòng dịch, Nxb Thanh Niên, 2000), Giấc mơ bị đánh cắp (Nguyễn Văn Thảo dịch, Nxb Công An Nhân Dân, 2004)... *** Alexandra Marinina được gọi là Nữ hoàng trinh thám Nga. Ảo thuật văn chương là một trong những lác phẩm hay nhất của bà, mô tả hàng loạt vụ án li kì và bi thảm diễn ra xung quanh một tài năng văn chương bị buộc phải phục vụ cho lòng tham của một chủ xuất bản vô nhân đạo.  Nữ thám tử Nastia Kamenskaya - nhân vật xuyên suốt trong những tác phẩm của A. Marinina - được người Nga yêu mến không thua Hercule Poirot của nữ hoàng truyện trinh thám Anh Agatha Christie. Alexandra Marinina là bút hiệu của Marina Alexieva (cũng như “Kamenskaya” và “Nastia Kamenskaya” là hai thương hiệu đã được tác giả đăng ký độc quyền từ năm 2003). Sinh năm 1957 tại Lvov, sống ở Leningrad đến năm 1971 chuyển về Matxcơva, từ một cô học trò lớp chuyên Anh, Marina tốt nghiệp khoa luật Đại học Quốc gia Lomonosov, trở thành cán bộ nghiên cứu khoa học của Viện Hàn lâm thuộc Bộ Nội vụ Liên Xô. Nghiệp vụ khoa học hình sự giúp bà được bổ nhiệm phó trưởng ban nghiên cứu khoa học của Đại học Luật - Bộ Nội vụ Liên bang Nga. Đang đeo lon trung tá, năm 1998 bà xin giải ngũ để chuyên sáng tác. *** Colia đang say tình yêu, sau một thời gian dài sống cô đơn. Anh cảm thấy vô cùng sung sướng và muốn mọi người xung quanh cũng hạnh phúc như mình. Sau khi biết kết qủa thẩm định các mẫu đất, Colia phấn khởi, ngồi vào xe lao thẳng đến khu biệt thự “Mộng Mơ”. Anh chưa báo tin vui này cho Naxtia, vì biết tối nay chị đi ăn khách sạn với vợ chồng cậu em. Trong biên bản xét nghiệm có ghi rõ, chất đất trong phong bì số “1” (lấy được trên sàn nhà Trercaxov, dưới tấm thảm) có thành phần hoá học rất gần với chất đất trong phong bì số “3” (lấy tại ngôi nhà xây gần đây nhất trong khu biệt thự “Mộng Mơ”).   Lúc này đã hơn chín giờ tối, vậy mà Colia thấy Xoloviov đón tiếp anh với vẻ mừng rỡ, khác hẳn hôm anh đến đây lần trước. Hôm đó ông ta cau có làm anh rất bực. Vẫn như lần trước, Xoloviov khẳng định ban ngày hôm đó ông không nhận thấy có người lạ nào lảng vảng bên ngoài. - Tôi rất ít khi nhìn ra ngoài cửa sổ, - ông ta thú nhận giọng uể oải, khiến Colia thấy rõ ông ta không hào hứng tiếp chuyện mình. Rồi đột nhiên Xoloviov nói. - Tôi muốn nhờ anh một việc, được không ? - Việc gì ? - Theo tôi đoán, chắc anh đã có thẩm vấn cô Naxtia Camenxcaia. - Đúng thế, - Colia dè dặt đáp. - Tôi muốn nhờ anh giúp tôi bắt liên lạc với cô ấy. Tôi có số điện thoại nhà riêng của cô ấy, nhưng tôi gọi bao nhiêu lần mà không thấy ai nhấc máy. Số điện thoại nơi cô ấy làm việc tôi lại không có. Anh có thể cho tôi biết số điện thoại đó được không ? - Theo tôi đoán thì hai vợ chồng cô ta hiện đang đi nghỉ hè, hẳn thế thì mới không có ai nhấc máy trả lời ông. Còn số điện thoại nơi cô ấy làm việc, tôi không thể cho ông được, bởi tôi chưa biết cô ấy có muốn cho ông biết không. Tôi không có quyền can thiệp vào việc riêng của người khác. - Vậy anh giúp tôi, anh chịu khó liên lạc với cô ấy và nhắn hộ là tôi rất cần gặp. - Có chuyện gì vậy  ? - Chuyện riêng tư thôi. Xưa kia tôi rất thân với cô ấy, và lúc này tôi rất cần sự chia sẻ của một người bạn... Sáng hôm sau, mới đầu giờ, Colia đã chạy vào phòng làm việc của Naxtia, giận dữ nói luôn: - Sao cô không cho Xoloviov biết cô đã thay số điện thoại nhà riêng ? - Nhưng tại sao tôi lại phải cho ông ta biết  ? - Vì ông ta mê cô. Gọi cô không biết bao nhiêu lần mà không thấy ai nhấc máy. Lúc đề nghị tôi giúp ông ta bắt liên lạc với cô, tôi thấy mắt ông ta rơm rớm... - Anh tưởng tượng thì có, Colia. Anh phóng đại lên đấy thôi. Và bản thân ông ta cũng phóng đại. Ngồi một mình cô đơn, tưởng tượng ra đủ thứ. - Nhưng cô không cố tình làm cho ông ta mê cô đấy chứ ? - Không ! Hoàn toàn không. - Nhưng dù sao cô cũng gọi điện cho ông ta, kẻo ông ta lại nghĩ không hay về tôi. - Nhưng tối qua anh đến ông ta làm gì  ? - Quên tôi chưa nói với cô: bên chuyên môn họ đã thẩm định xong hai mẫu đất, kết quả mẫu đất chúng ta lấy được trong căn hộ của Trercaxov đúng là từ khu biệt thự “Mộng Mơ”. Không chỉ chất xi măng mà cả chất đất cũng giống hệt nhau. ... Mời các bạn đón đọc Ảo Thuật Văn Chương của tác giả Alexandra Marinina.
Người Con Trai - Jo Nesbo
Sonny Lofthus là một tù nhân, một con nghiện ma túy. Ít ai biết trước cậu từng là một sinh viên ưu tú, một tay đấu vật đầy hứa hẹn, có người cha là một cảnh sát gương mẫu. Simon Kefas là một tay cảnh sát hết thời, mắc chứng nghiện cờ bạc. Khi còn trẻ ông bắt đầu sự nghiệp với hai người bạn thân và lập nên nhóm tam hùng lừng lẫy. Hai con người, hai hành trình đi tìm công lý riêng biệt nhưng cuối cùng lại giao nhau tại một điểm. Càng tiếng gần đến sự thật, Sonny và Simon càng cảm nhận rõ hơn một thế lực bóng tối đã bao trùm lấy toàn bộ cuộc đời họ ngay từ những ngày đầu tiên… Người con trai đánh dấu sự trở lại mới mẻ của Jo Nesbø, với kết cấu dày đặc những hệ thống tội phạm, hệ thống điều tra được lồng ghép chặt chẽ trong từng diễn biến, từng hành động của các nhân vật thông minh, đa sắc màu. Một lần nữa Jo Nesbø cho thấy ông thực sự là ông hoàng trong thể loại trinh thám Bắc Âu đang gây sóng gió khắp nơi trên thế giới. *** Jo Nesbo sinh năm 1960, là tác giả viết tiểu thuyết dành cho thiếu nhi và cho cả người lớn thành công nhất tại Na uy. Ông là một nhà văn, nhưng ông cũng là một nhà kinh tế học và ông đã làm việc như là một môi giới chứng khoán và nhà báo. Là một tác giả, ông đã viết cuốn sách 16 và tiểu thuyết ngắn. cuốn sách 9 của ông có một loạt về cảnh sát Harry Hole và 3 trong số họ là một loạt các cuốn sách của trẻ em. Ông đã giành được nhiều giải thưởng cho các thành tựu của ông là một nhà văn.. *** Rover cứ dán mắt nhìn sàn bê tông sơn trắng trong gian xà lim mười một mét vuông. Gã cắn xuống cái răng cửa bọc vàng hơi dài ở hàm dưới. Gã đã đến chỗ nặng nề nhất trong lời xưng tội. Âm thanh duy nhất trong xà lim là tiếng móng tay gã cào cào hình xăm Đức Mẹ trên cẳng tay. Cậu thanh niên ngồi xếp bằng trên giường đối diện vẫn im lặng từ lúc Rover vào. Cậu ta chỉ gật đầu và mỉm cười an nhiên như Đức Phật, cái nhìn dồn vào một điểm trên trán Rover. Người ta gọi cậu ta là Sonny và nói hồi còn trẻ cậu ta đã sát hại hai mạng người, cha cậu ta là một cảnh sát tha hóa và Sonny có đôi tay chữa bệnh. Khó mà chắc cậu ta có lắng nghe hay không, đôi mắt xanh lá và gần hết khuôn mặt cậu ta khuất sau mái tóc rối dài, nhưng chuyện đó hề gì. Rover chỉ muốn được tha tội và Sonny ban phúc lành để ngày mai bước ra khỏi Nhà tù An ninh Tối đa Staten gã cảm thấy mình là một con người đã hoàn toàn được thanh tẩy. Chẳng phải Rover ngoan đạo nhưng cũng chẳng hại gì khi gã có ý sửa đổi, thực bụng muốn hoàn lương. Rover hít một hơi thật sâu. “Tôi nghĩ cô ta là người Belarus. Minsk là ở Belarus, phải không nào?” Rover liếc nhanh lên, nhưng cậu thanh niên không đáp. “Nestor đặt biệt danh cô ta là Minsk,” Rover nói. “Hắn lệnh cho tôi bắn cô ta.” Lợi ích thấy rõ của việc thú tội với kẻ đầu óc phê thuốc là chẳng còn cái tên hay sự kiện nào bám lại trong cậu ta; y như mình tự nói với mình. Có lẽ điều này giải thích vì sao phạm nhân ở Staten thích anh chàng này hơn cha tuyên úy hay bác sĩ tâm lý. “Nestor nhốt cô ta cùng tám đứa con gái nữa trong một cái chuồng ở tận Enerhaugen. Người Đông Âu và châu Á. Trẻ. Thiếu nữ. Ít ra thì tôi cũng hy vọng chúng cỡ tuổi đó. Nhưng Minsk thì lớn tuổi hơn. Mạnh hơn. Cô ta trốn thoát. Chạy đến tận công viên Toyen rồi chó của Nestor mới đuổi kịp. Giống chó lớn tai cụp Argentina - biết tôi đang nói gì không?” Mắt cậu thanh niên không hề máy động, nhưng cậu ta đưa tay lên. Sờ chòm râu. Mấy ngón tay bắt đầu thong thả chải. Cánh tay áo sơ mi cáu bẩn, rộng thùng thình tuột xuống để lộ những vảy vết thương và dấu kim tiêm. Rover nói tiếp. ... Mời các bạn đón đọc Người Con Trai của tác giả Jo Nesbo.
Chim Cổ Đỏ
1944: Daniel, một người lính, một huyền thoại Na Uy tại Mặt trận phía Đông bị giết. Hai năm sau, một người lính bị thương thức giấc trong một bệnh viện Vienna. Anh có một mối tình với một y tá trẻ, và sóng gió của mối tình bất thành ấy sẽ còn lan tỏa đến tận đầu thế kỷ sau. 1999: Một khẩu súng trường với khả năng sát thương khủng khiếp bị nhập lậu vào Na Uy. một cựu binh Thế chiến bị cắt cổ. Một đồng nghiệp thân thiết của thanh tra Harry Hole bị giết. Vào đêm bị sát hại,cô đã phát hiện ra điều gì? Và đó mới chỉ là khởi đầu của một cuộc thanh trừng mà sát thủ tiến hành để lập lại cái mà hắn cho là công lý. Chim cổ đỏ đã giành giải Glass Key cho tiểu thuyết hình sự/ trinh thám hay nhất ngay khi xuất bản lần đầu tiên và nhanh chóng trở thành hiện tượng trên các bảng xếp hạng quốc tế. Đủ phức tạp để làm rối trí bất cứ người đọc nào thiếu tập trung, đủ hấp dẫn để buộc người ta phải tập trung vào chính sự phức tạp ấy, đủ bất ngờ để người đọc thỏa mãn khi đã đi đến cuối con đường, và đủ tình tiết ngầm cho một sequence tiếp theo, Chim cổ đỏ thực sự là một ngôi sao mới của thể loại trinh thám *** Jo Nesbo sinh năm 1960, là tác giả viết tiểu thuyết dành cho thiếu nhi và cho cả người lớn thành công nhất tại Na uy. Ông là một nhà văn, nhưng ông cũng là một nhà kinh tế học và ông đã làm việc như là một môi giới chứng khoán và nhà báo. Là một tác giả, ông đã viết cuốn sách 16 và tiểu thuyết ngắn. cuốn sách 9 của ông có một loạt về cảnh sát Harry Hole và 3 trong số họ là một loạt các cuốn sách của trẻ em. Ông đã giành được nhiều giải thưởng cho các thành tựu của ông là một nhà văn.. *** Trạm thu phí tại Alnabru. Ngày 1 tháng Mười một năm 1999. Một con chim lông xám chao lượn trong tầm nhìn của Harry. Mấy ngón tay anh gõ gõ trên vô lăng. Thời gian trôi chậm chạp. Hôm qua trên truyền hình ai đó đã nói về chuyện “thời gian trôi chậm chạp”. Đây là lúc thời gian trôi chậm lại. Như đêm Noel trước khi ông già Noel đến. Hay ngồi trên ghế điện trước khi dòng điện bật lên. Anh gõ nhịp mạnh hơn. Họ đỗ xe trong khu vực lộ thiên phía sau mấy buồng bán vé tại cổng thu phí. Ellen vặn to radio lên một chút. Giọng của xướng ngôn viên vang lên đầy trang trọng và cung kính. “Phi cơ đã hạ cánh cách đây năm mươi phút, và đúng 6 giờ 38 phút sáng ngài tổng thống đã đặt chân lên đất Na Uy. Ngài được thị trưởng Ullensaker nghênh tiếp. Hôm nay là một ngày thu tuyệt vời ở Oslo: một khung cảnh Na Uy tráng lệ làm nền cho cuộc họp thượng đỉnh này. Chúng ta hãy cùng nghe lại những gì ngài tổng thống phát biểu tại cuộc họp báo nửa giờ trước.” Lần thứ ba rồi. Một lần nữa Harry trông thấy các đoàn báo chí hò hét chen lấn bên hàng rào chắn. Mấy gã mặc com lê xám đứng phía bên kia hầu như chẳng buồn cố gắng sao cho khỏi giống Mật vụ, khom vai rồi lại thả lỏng khi theo dõi đám đông, kiểm tra tới lần thứ mười hai xem tai nghe đã ngay ngắn chưa, theo dõi đám ông, chú mục mấy giây vào tay chụp ảnh có ống kính tele hơi quá dài, tiếp tục theo dõi, kiểm tra tai nghe đến lần thứ mười ba. Ai đó chào đón tổng thống bằng tiếng Anh, mọi thứ im bặt. Rồi một tiếng lạo xạo trong micro. “Trước hết, cho phép tôi nói rằng tôi rất vui mừng khi đến đây…” Tổng thống nói đến lần thứ tư bằng thứ tiếng Anh Mỹ nặng và khàn. ... Mời các bạn đón đọc Chim Cổ Đỏ của tác giả Jo Nesbo.