Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Luật Nhà

Jacob Hunt là một đứa trẻ tự kỷ có trí thông minh phi thường và đam mê ngành khoa học pháp y. Cậu sống với  người mẹ tận tụy và cậu em trai đang tuổi nổi loạn.  Một ngày nọ, Jacob vướng vào một rắc rối lớn: cậu bị buộc tội sát hại chính gia sư kỹ năng của mình. Tất cả chứng cứ đều chống lại cậu. Với kỹ năng giao tiếp hạn chế do chứng tự kỷ gây ra, Jacob càng làm vấn đề trầm trọng thêm, bất chấp những nỗ lực của mẹ cậu, luật sư bào chữa và các bác sĩ, nhà tâm lý đang cố đưa cậu thoát khỏi vấn đề này... Ngòi bút bậc thầy của Jodi Picoult một lần nữa sẽ đưa bạn đọc đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác, với những kiến thức đáng kinh ngạc trong nhiều lĩnh vực và khả năng đào sâu vào từng ngóc ngách tâm lý của con người. *** “LUẬT NHÀ” CỦA JODI PICOULT - KHI LỜI RĂN CỦA MẸ LÀ TỐI THƯỢNG Update Date: 11/01/2019 Jacob Hunt – 18 tuổi - mắc chứng tự kỷ Asperger, rất thông minh, giỏi khoa học pháp y nhưng gặp vấn đề với các giao tiếp xã hội thông thường. Theo Hunt – 15 tuổi – em trai Jacob, luôn mặc cảm, cô đơn vì gia đình khác biệt, thèm khát một mái ấm bình thường. Emma Hunt – 40 tuổi - mẹ của Jacob, vất vả với vai trò người mẹ đơn thân, để bảo vệ con mình mà có thể chống cả thế giới. Cả ba mắc kẹt trong một vụ án mạng nghiêm trọng, tàn nhẫn mà nạn nhân chính là cô gia sư giỏi giang và đáng mến của Jacob. Khi đứa trẻ 18 tuổi mắc chứng Asperger trở thành kẻ tình nghi số 1, làm thế nào để cậu và gia đình vượt qua bão tố? Cuốn tiểu thuyết mang tầm vóc của một cuộc nghiên cứu tâm lý vĩ đại Jodi Picoult là nữ tác gia nổi tiếng trên toàn thế giới về những đề tài gai góc có tính thời đại. Với “Luật nhà” viết về Asperger, một hội chứng tự kỷ vẫn còn mới mẻ với toàn nhân loại, Jodi Picoult đã khiến người đọc phải thốt lên hai từ “Khâm phục”. Không chỉ đề cập đến những góc độ diễn biến tâm lý phức tạp của một người mắc hội chứng tự kỷ, “Luật nhà” có giọng văn lôi cuốn với nhiều giọng kể khác nhau cho thấy sự nhập vai hoàn hảo vào từng nhân vật, với những chi tiết và cảm xúc chân thật khiến người đọc xúc động. Nhận xét “Luật nhà” là giáo trình tâm lý bài bản để thấu hiểu về hội chứng Asperger nói riêng và tự kỷ nói chung cũng thật không ngoa. Từng con chữ lột tả, phơi bày trần trụi những góc khuất sâu kín nhất trong tâm lý của trẻ tự kỷ. Qua từng chương, người đọc sẽ dần hiểu thật cặn kẽ, tường tận mọi hành động, cảm giác, khao khát được kết nối với xã hội, và căn nguyên của những cơn bộc phát từ Jacob. Người đọc cũng sẽ đồng cảm với Emma, người mẹ can trường và nhẫn nại, hình mẫu phụ nữ hiện đại chứa đựng tình thương bao la dành cho con cái. Còn là cảm giác xót xa rất thực khi nhập vai cậu thiếu niên Theo 15 tuổi bơ vơ, lạc lõng, hoang mang tột độ trên con đường trưởng thành, khám phá cuộc đời. Một câu chuyện cảm động về gia đình “Luật nhà” chứa những giá trị cuộc sống căn bản mà bất cứ thời đại nào cũng cần học hỏi. Đó chính là “nếp nhà”, là cách để giữ ngọn lửa yêu thương cho gia đình. Trung tâm của “Luật nhà” ở đây là Emma. Người phụ nữ kiên cường này bị chồng bỏ rơi ngay khi cô phát hiện đứa con trai đầu vừa lên ba tuổi đang khỏe mạnh, thông minh, lanh lợi, hoạt bát đột nhiên không giao tiếp và bị chẩn đoán là tự kỷ. Người mẹ này lại đang mang bầu đứa con trai thứ 2, hoàn toàn khỏe mạnh và rất bình thường, nhưng thiệt thòi ngay từ khi cậu vừa sinh ra do thiếu thốn tình thương của bố. Emma không phải là siêu nhân. Bà cố gắng bằng mọi cách giúp Jacob hòa nhập với xã hội, đồng nghĩa với quỹ thời gian không có chỗ dành cho đứa con trai nhỏ.  Luật nhà của Emma 1. Dọn sạch đống bày bừa của mình 2. Nói thật 3. Đánh răng hai lần mỗi ngày 4. Không trễ học 5. Chăm sóc anh em của mình, nó là người duy nhất con có Nghe có vẻ thật đơn giản, nhưng đối với một gia đình rất không bình thường như gia đình Emma, để bọn trẻ tuân theo luật lệ không hề dễ dàng. Theo dõi từng trang sách, người đọc sẽ từ đồng cảm đi đến cảm phục ý chí và cố gắng cân bằng cuộc sống của người phụ nữ này. Người đọc cũng sẽ xúc động trước tình cảm của anh em Jacob và Theo dành cho nhau, mặc dù thứ tình cảm đó không biểu hiện với vẻ ngoài dễ chịu thường thấy: Jacob luôn hành động theo bản năng tự bảo vệ mình và có thể làm tổn thương em trai theo đúng nghĩa đen. Còn Theo, đứa trẻ đang bước vào giai đoạn khủng hoảng tuổi thiếu niên, luôn muốn anh trai mình biến mất. Khi cuộc đời xô gia đình họ xuống vực sâu, chính Luật nhà của mẹ là sợi dây giúp Emma, Jacob và Theo thoát lên miệng vực.  Trên hết, nó vẫn là một cuốn tiểu thuyết điều tra gay cấn Trọng tâm của “Luật nhà” là một vụ án mạng. Bên cạnh ba mẹ con Emma, thế giới của những người thi hành và bảo vệ luật pháp, các luật sư, công tố viên, thám tử… hiện lên thật sống động và chân thực. Bạn sẽ bị cuốn theo từng tình tiết của câu chuyện, gỡ dần từng nút thắt của vụ án. Bạn cũng sẽ kinh ngạc trước sự hiểu biết về khoa học hình sự, khoa học pháp y của Jacob, cũng như khâm phục bởi công trình ngiên cứu kỹ lưỡng và kiến thức sâu sắc của nữ tác giả. Ai là kẻ giết người? Có phải là Jacob – Nghi can số 1 của vụ án, kẻ giết người máu lạnh thích thú với việc phục dựng hiện trường hoàn hảo? Hạy Mark – Kẻ sẵn sàng dùng vũ lực với người mà hắn yên thương nhất. Cũng có thể là Theo, nhân vật vô tình xuất hiện vào thời điểm xảy ra vụ án và nhìn thấy nữ nạn nhân trong tình huống oái oăm nhất? Hãy tự tìm cho mình câu trả lời, khi lần giở từng trang sách của câu chuyện điều tra đặc biệt hấp dẫn này. “Tôi cố gắng vác cô ấy vào rừng, nhưng càng đi cô ấy càng nặng, nên sau một hồi, tôi quyết định kéo lê cô ấy đi. Tôi muốn để cô ấy ở chỗ nào tôi biết là cô không phải chịu gió lạnh, mưa hay tuyết. Tôi thích ông cống, bởi tôi có thể vào đó từ đường cao tốc, thay vì phải băng qua nhà cô. Tôi nghĩ vè cô ấy ngay cả khi tôi chưa ở đây, ngay cả khi tôi biết cảnh sát đang tìm kiếm và tôi có thể dễ dàng bị phân tâm khi muốn theo dõi tiến trình của họ. Vì thế, tôi trở lại thăm cô ấy, và mang theo tấm mền của tôi. Tôi luôn thích tấm mền đó, và tôi nghĩ nếu cô ấy có thể nói, cô hẳn sẽ rất tự hào khi tôi khoác cho cô tấm mền đó. Làm tốt lắm, Jacob, cô ấy sẽ nói thế. Cậu nên đổi nó cho ai đó đi!” - Trích *** VỀ TÁC GIẢ: Nữ tiểu thuyết gia lừng danh Jodi Picoult Nữ văn sĩ nổi tiếng bởi những tác phẩm liên quan về những đề tài xã hội có tính gây tranh luận, đào sâu và lột trần bản chất của vấn đề và khiến người ta buộc phải suy ngẫm. Ở tuổi 42, chị đã xuất bản 16 đầu sách và là một trong những tiểu thuyết gia bán chạy nhất thế giới. “Điều gây ngạc nhiên lớn là tôi vẫn nỗ lực viết và có những đứa con. Tôi thường xuyên "quẳng" con cho chồng khi anh về nhà sau một ngày làm việc mệt nhọc. Anh sẽ trông chúng cả buổi tối để tôi viết lách. Nhưng với tôi, lũ trẻ vẫn chiếm vị trí quan trọng nhất. Tôi có thể bay suốt 24h để về nhà ngay cho kịp dự một buổi lễ ở trường với con. Nếu bạn muốn, bạn vẫn có thể vừa là một nhà văn tài năng vừa là một người mẹ tốt.” – Trích phỏng vấn Jodi Picoult (Nguồn: Time) *** TRI ÂN Như thường lệ, có quá nhiều người tôi cần ngỏ lời tri ân. Đội ngũ pháp lý xuất sắc của tôi: Jennifer Sternick và Lise Iwon; cũng như Jennifer Sargent, Rory Malone, và Seth Lipschutz. Những cảnh sát điều tra hiện trường đã chỉ dẫn cho tôi: Hạ sĩ Claire Demarais, Betty Martin, Beth Anne Zielinski, Jim Knoll, Trung úy Dennis Pincince, Trung úy Arthur Kershaw, Trung sĩ Richard Altimari, Trung úy John Blessing, Thám tử John Grassel, Cô Robin Smith, Bác sĩ Thomas Gilson, Bác sĩ Peter Gillespie, Thám tử Patricia Cornell thuộc Sở cảnh sát Providence, Cảnh sát về hưu Trooper Robert Hathaway thuộc Sở cảnh sát Tiểu bang Connecticut, Trung úy Ed Downing thuộc Sở cảnh sát Providence, Amy Duhaime, và Kim Freeland. Katherine Yanis và Jacob con trai cô ấy đã vô cùng rộng tay đóng góp cho tổ chức Tiếng nói Tự kỷ Anh quốc, và cũng là cảm hứng để tôi đặt tên cho nhân vật chính của truyện này. Jim Taylor, người cung cấp tiếng lóng ngành vi tính cho nhân vật Henry, và cũng là người lập cho tôi một trang web dành cho tác giả đẹp nhất tôi từng thấy. Cảnh sát trưởng Nick Giaccone đã giúp tôi hiểu các thủ tục của cảnh sát. Julia Cooper giúp tôi bằng kiến thức chuyên ngành ngân hàng của mình. Và đội ngũ xuất bản của tôi: Carolyn Reidy, Judith Curr, Kathleen Schmidt, Mellony Torres, Sarah Branham, Laura Stern, Gary Urda, Lisa Keim, Christine Duplessis, Michael Selleck, đội kinh doanh, và tất cả những người đã cất công tìm kiếm và mời gọi những người chưa từng biết đến tôi. Biên tập viên của tôi, Emily Bestler, cô đã thực sự khiến tôi quên mất đây là công việc, bởi làm việc với cô thật quá vui. Người phụ trách quan hệ công chúng của tôi, Camille McDuffie, cô vẫn luôn phấn khích mỗi khi thấy tôi lên mặt báo. Quản lý của tôi, Laura Gross, người đem lại những câu chuyện hài tuyệt vời trong những chuyến đi căng thẳng, và cô không bao giờ quên chúng tôi là một nhóm làm việc tuyệt vời. Mẹ tôi. Chúng ta không được chọn bố mẹ cho mình, nhưng nếu được chọn, tôi vẫn chọn mẹ tôi. Bố tôi. Bởi tôi chưa bao giờ chính thức nói lời tri ân ông vì đã quá tự hào về tôi. Tôi cũng ngỏ lời cảm ơn rất nhiều người đã chia sẽ cảm nghiệm riêng của mình về hội chứng Asperger. Linda Zicko và con trai Rich, Laura Bagnall và con trai Alex Linden. Jan McAdams và con trai Matthew, Deb Smith và con trai Dylan, Mike Norbury và con trai Chris, Kathleen Kirby và con trai David, Kelly Meeder và hai cậu con trai Brett và Derek, Catherine McMaster, Charlotte Scott và con trai James, Tiến sĩ Boyd Haley, Lesley Dexter và con trai Ethan, Sue Gerber và con gái Liza, Nancy Albinini và con trai Alec, Stella Chin và con trai Scott Leung, Michelle Destefano, Katie Lescarbeau, Stephanie Loo, Gina Crane và Bill Kolar and và con trai Anthony, Becky Pekar, Suzanne Harlow và con trai Brad. Xin gửi lời cảm ơn đặc biệt đến Ronna Hochbein, một tác giả thông tuệ, đã làm việc với những đứa trẻ tự kỷ, và bà không chỉ là nguồn thông tin quý giá cho tôi về vacxin và chứng tự kỷ, mà còn sắp xếp cho tôi gặp phỏng vấn trực tiếp các bé và bố mẹ chúng. Tôi không biết phải cảm ơn Jess Watsky bao nhiêu cho đủ. Cô còn xứng đáng hơn thế, tôi cảm thấy mình bé nhỏ trước cô, vô cùng tri ân và muốn làm theo cô trong mọi chuyện. Là một thiếu nữ mang hội chứng Asperger, cô không chỉ cho tôi đi vào cuộc sống và ký ức của mình, mượn lấy một vài ký ức và sự việc để đưa vào trang sách, mà cô còn đọc từng từ của quyển sách này với tốc độ ánh sáng, rồi cho tôi biết đoạn nào khiến cô bật cười và đoạn nào nên sửa lại. Cô là trái tim của tiểu thuyết này. Không có cô, tôi không tài nào tạo nên được một nhân vật như Jacob. Và cuối cùng, nhưng không bao giờ kém quan trọng, xin cảm ơn Tim, Kyle, Jake, và Sammy. Chỉ cần anh và ba con, thì em sẽ là người phụ nữ giàu có nhất trên đời. Mời các bạn đón đọc Luật Nhà của tác giả Jodi Picoult & Thái Hòa (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Chiến Dịch 'Cặp Bài Trùng' - Gyorgy Falus & Gábor József
Có một ông Banks nào đó cử nhân viên tình báo tấn công vào đất Hungary, lọt vào một công ty năng lượng thì phải. Bối cảnh truyện xảy ra ở Hungary, Đức, Áo... Sau nhiều tình tiết li kỳ thì mấy tay gián điệp đó hẳn nhiên sa lưới ^^. *** Ban đêm, phòng đợi dành cho hành khách của sân bay Pherissen ở gần Budapest thường vắng vẻ nên hành lang dường như càng trống trải. Bãi đỗ xe ôtô bus trước nhà ga lại càng trống vắng và mênh mông hơn. Quá nửa đêm ở đây chỉ có một vài chiếc máy bay đưa thư đậu, ngoài ra không còn loại máy bay nào khác. Việc bốc dỡ hàng chỉ chiếm mất rất ít thời gian và người bưu tá hàng không lại tiếp tục cuộc hành trình của mình. Những ngọn đèn pha báo hiệu trên tháp, nơi có điều độ viên chính đang ở, với một phần tư độ sáng, chỉ rực lên trong chốc lát cho các máy bay cất cánh hoặc hạ cánh. Thật ra chung quanh đường băng lên xuống được bảo vệ bằng một mạng đèn dày đặc có độ sáng cực mạnh và sáng suốt đêm nhưng chúng chỉ hướng lên bầu trời. Nhân viên trực ca đêm từ lâu nay đã bị tinh giản tới mức độ chỉ còn lại ít nhất. Vì không có hành khách nên những cuộc gặp gỡ và đưa tiễn cũng không. Bởi vậy sân bay như chìm trong im lặng. Thế nhưng vào đêm mùng 7 tháng 8, toàn cảnh ở đây trông có vẻ không giống với những gì đã miêu tả ở trên. Khi những chiếc kim của chiếc đồng hồ lớn treo trên tường đã chỉ sang giờ thứ hai và tòa nhà của ga hàng không ngập tràn ánh sáng, người ta thấy rất đông nhân viên phục vụ kíp đêm đã có mặt tại nơi làm việc của mình. Những tiếng va chạm khe khẽ phát ra từ vô số ly tách cà phê mà họ đang uống để chống lại sự mệt mỏi khi họ gặp nhau – với họ, những cuộc gặp như vậy cũng đã khá nhiều – và cùng bực dọc đưa mắt nhìn lên bảng điện báo, ở đó sáng lên một cách lì lợm độc một dòng chữ: “ Chuyến bay MA – 424, Frankfurt – Budapest – và sau đó, ở cột cuối viết mấy chữ to hơn, – ĐẾN CHẬM”. Gặp nhau chỉ tổ buồn rầu, một số đến ngồi vào những chiếc ghế fauteuil, số khác đi lại vẩn vơ trong phòng hoặc đến đứng cạnh tấm biển điện báo. Mặc dầu có “ Bản thông báo”đã ghi phía sau bàn điều khiển song họ cũng không biết gì hơn, vì những cô gái mặc đồng phục màu xanh đã tỏ ra mệt mỏi do phải giữ lịch thiệp để lặp đi lặp lại mấy câu: - Vâng, đúng đấy ạ! Chuyến bay đến chậm. Không, không phải tại tôi. Công nhân viên chức làm việc ở sân bay tại Frankfurt đã tuyên bố bãi công… Khi nào bay ấy à? Xin lỗi, cho đến lúc này cũng chưa thể biết gì hơn… Lúc ấy, hai người đã cao tuổi, có lẽ là hai vợ chồng vừa đến kịp chỗ quầy bán vé. Người đàn bà khoảng dưới bảy mươi tuổi, còn người đàn ông trông có vẻ già hơn. Nhẫn nại chờ cho đến lúc cô nàng xinh đẹp với chiếc mũ ca –lô trên đầu ngồi trịnh trọng sau chiếc bàn chỉ dẫn chú ý đến mình, người đàn bà hỏi: - Xin làm ơn cho biết, máy bay từ Frankfurt… ... Mời các bạn đón đọc Chiến Dịch "Cặp Bài Trùng" của hai tác giả György Falus & Gábor József.
Nhân Chứng Đã Chết - Harlan Coben
Vợ chưa cưới KATHY mất tích bí ẩn, sự nghiệp mới chớm nở tưởng như bị đe dọa, nhưng bằng cách nào đó, ngôi sao bóng bầu dục sinh viên CHRISTIAN STEELE vẫn nhẹ nhàng vượt qua được áp lực của dư luận. Mặc dù vậy, khi bức ảnh khỏa thân của KATHY bất ngờ xuất hiện trên một tạp chí khiêu dâm, mọi diễn biến đã đảo lộn đến chóng mặt. Quá nhiều kẻ tình nghi, quá nhiều động cơ, và quá nhiều bí ẩn. Với những lập luận chặt chẽ và hiểu biết sâu sắc của mình về thế giới thể thao Mỹ, HARLAN COBEN đã cùng nhân vật chính của mình, thám tử kiêm nhà đại diện thể thao MYRON, đưa người đọc qua những mặt trái của xã hội, của đời vận động viên để đến với một cái kết đầy bất ngờ và ám ảnh. *** Otto Burke, phù thủy thương thuyết, nâng tầm cuộc đấu lên một bậc. “Đi mà, Myron,” hắn thúc giục với vẻ hăng hái theo cung cách mộ đạo kiểu mới. “Tôi chắc chắn chúng ta có thể thấu hiểu nhau. Anh nhường một ít. Tôi nhường một ít. Titans là một đội. Hiểu theo nghĩa rộng hơn thì tôi muốn tất cả chúng ta là một đội. Bao gồm cả anh nữa. Hãy làm một đội đích thực đi Myron. Anh thấy sao?” Myron Bolitar chụm đầu ngón tay vào nhau. Anh đọc được ở đâu đó rằng hành động đó làm ta trông có vẻ trầm tư. Nhưng bản thân anh thì lại thấy điều đó quả là ngớ ngẩn. “Otto à, tôi nào muốn gì hơn,” anh nhắc lại cái câu vô nghĩa mà suốt từ nãy đã được nhai đi nhai lại không biết bao nhiêu lần. “Thật đấy. Nhưng chúng tôi đã nhường hết mức rồi. Giờ đến lượt anh.” Otto gật đầu lia lịa, như thể hắn vừa nghe thấy một quan điểm triết học kỳ quái khiến ngay cả Socrates cũng phải hổ thẹn. Hắn nghiêng đầu, hướng nụ cười thớ lợ về phía huấn luyện viên đội bóng. “Larry, anh thấy sao?” Bắt lấy tín hiệu gợi ý, Larry Hanson vội gõ nắm tay lông lá to như con chuột nhảy lên chiếc bàn hội nghị. “Quỷ tha ma bắt cậu đi, Bolitar!” gã hét lên. “Nghe thấy không, Bolitar? Cậu có hiểu tôi đang nói gì với cậu không? Quỷ tha ma bắt cậu đi.” “Quỷ tha ma bắt,” Myron gật đầu nhắc lại. “Hiểu rồi.” “Cậu giở trò láu cá với tôi đấy hử? Trả lời tôi xem nào, bố khỉ! Láu tôm láu cá hử?” Myron nhìn gã, “Răng anh giắt hạt anh túc kìa.” “Mẹ kiếp đồ láu cá.” Larry Hanson trợn mắt. Gã liếc mắt về phía sếp rồi quay lại nhìn Myron. “Việc này không hợp với cậu đâu, Bolitar. Mà cậu biết mẹ nó rồi còn gì.” Myron làm thinh. Thực chất, Larry Hanson cũng có phần đúng. Myron không thích hợp. Anh mới làm đại diện thể thao hai năm nay. Phần lớn khách hàng của anh là những trường hợp còn non - những kẻ may mắn đạt đủ tiêu chuẩn và chạm mức tối thiểu của liên đoàn. Và bóng bầu dục chưa bao giờ là món tủ của anh. Anh chỉ có ba cầu thủ chơi ở giải bóng bầu dục nhà nghề Mỹ NPL, trong đó chỉ có một cầu thủ chính thức. Giờ Myron ngồi đối diện bậc tuổi trẻ tài cao - Otto Burke, ba mốt tuổi, người trẻ nhất sở hữu một đội bóng thuộc NFL, và Larry Hanson, một huyền thoại bóng bầu dục nay đã là giám đốc điều hành, đàm phán một hợp đồng mà dù chỉ do một tay non nớt như anh đảm nhận nhưng lại là bản hợp đồng khởi nghiệp bự nhất lịch sử NFL. Phải, anh - Myron Bolitar - đã giành được ‘Hàng nóng’, Christian Steele. Tiền vệ hai lần giành cúp Heisman*. Ba lần lọt vào thẳng bảng xếp hạng của hãng tin AP và UPI với tư cách quán quân. Nếu thế chưa đủ thì cậu nhóc này còn là chàng trai trong mộng của các cô gái. Một sinh viên ưu tú, sáng sủa, ăn nói lưu loát, lịch sự và là người da trắng (hầy, nếu điều này quan trọng). Trên hết, cậu ta thuộc về Myron. “Đề nghị được đưa ra rồi đấy, thưa các quý ông,” Myron nói tiếp. “Chúng tôi nghĩ thế là quá công bằng rồi.” Otto Burke lắc đầu. “Thật vãi cả phân!” Larry Hanson hét lên. “Cậu ngu bỏ mẹ, Bolitar ạ. Cậu sẽ làm sự nghiệp của thằng nhóc đi tong mất.” Myron dang tay ra. “Sao mọi người không cùng ôm nhau một cái cho nó tình cảm nhỉ?” Larry định buông thêm một câu chửi thề, nhưng Otto đã giơ tay lên ngăn lại. Hồi Larry còn thi đấu, những cú đòn chặn của Dick Butkus và Ray Nitzchke không thể cản bước gã. Giờ chỉ một cái khoát tay cũng có thể làm kẻ tốt nghiệp Harvard nặng ngót bảy mươi cân này ngậm miệng. Otto Burke nhoài người ra. Hắn vẫn chưa tắt nụ cười, chưa thôi khua khoắng tay, chưa thôi trao đổi ánh mắt - như một bộ phim quảng cáo sống động về Năng lực Cá nhân của diễn giả Anthony Robbins vậy. Làm người khác bối rối phát điên. Otto nhỏ thó, một gã đàn ông hom hem với những ngón tay bé nhất mà Myron từng thấy. Hắn có mái tóc dài sẫm màu kiểu dân Rock xõa xuống vai. Mặt hắn trông non tơ với chòm râu dê ngớ ngẩn nom như được phác họa bằng bút chì. Hắn hút một điếu thuốc dài ngoẵng, hay có lẽ nằm trên mấy ngón tay bé xíu của hắn nên nó thành ra vậy. “Nào, Myron,” Otto nói, “ta hãy nói chuyện có lý có tình, được chứ?” “Có lý có tình. Mời.” “Tuyệt, Myron, thế sẽ có ích đấy. Sự thật Christian Steele là kẻ vô danh, một tay ất ơ chưa được kiểm chứng. Cậu ta còn chưa từng được khoác đồng phục chuyên nghiệp. Biết đâu cậu ta lại là quả bom xịt của thế kỷ cũng nên.” Larry khịt mũi. “Cậu nên biết chút ít về điều này, Bolitar à, về những cầu thủ chẳng làm được trò trống gì. Những kẻ thất bại.” ... Mời các bạn đón đọc Nhân Chứng Đã Chết của tác giả Harlan Coben.
Nhân Chứng Câm - Agatha Christie
Cách đây không lâu Agatha Christie, nữ nhà văn Anh nổi tiếng, chuyên viết truyện trinh thám, đã qua đời, hưởng thọ trên chín mươi tuổi. Truyện đầu tay của bà xuất hiện năm 1920. Suốt trên sáu mươi năm cầm bút, bà đã viết hàng mấy trăm truyện về tiểu thuyết trinh thám. Nhiều nước trên thế giới đã dịch in tuyển tập của bà, hoặc dựng thành phim. Agatha Christie khác với một số khá đông các nhà văn viết truyện trinh thám phương Tây. Bà không lạm dụng những sự việc rắc rối bí ẩn hoặc bất ngờ để làm chốt dẫn truyện. Bà chú ý đi sâu vào tâm lý con người. Nhân vật các truyện của bà bao giờ cũng được đặt vào những tình huống tâm lý xã hội phức tạp. Câu chuyện phát triển theo sự diễn biến của tâm cảnh các nhân vật và được giải quyết qua cách nhìn nhận thấu đáo cơ sở tâm lý xã hội của những hành động phạm pháp. Ngôn từ các nhân vật trong các truyện của bà rất phong phú thể hiện được tính cách nguồn gốc xã hội của họ, từ giới thượng lưu đến bọn lưu manh đao búa, đồng thời vẫn giữ vẻ độc đáo, gọn gàng, chính xác của tiếng Anh hiện đại. Do đó, như nhà nữ phê bình người Mỹ Ruth Penison đã viết: "Những truyện của Agatha Christie đã phác họa cho các thế hệ mai sau một bức tranh sinh động và chính xác về xã hội nước Anh hiện tại mà bà am hiểu rất tường tận." *** Ngày 1 tháng 5, tiểu thư Arundell từ trần sau một cơn đau ngắn ngủi. Cái chết của tiểu thư không gây ra bất kỳ một chút kinh ngạc nào ở cái thị trấn thôn dã Market Basing nhỏ nhoi này, nơi tiểu thư đã sống từ năm mười sáu tuổi. Thực ra cô gái già này đã quá tuổi bảy mươi, và ai cũng biết là sức khỏe của bà khá mỏng manh. Mười tám tháng trước, bà đã bị một cơn đau gan giống hệt cơn vừa mới rước bà đi. Nếu cái chết của tiểu thư Arundell không làm ai ngạc nhiên thì tờ di chúc của bà lại không phải như vậy. Những ý nguyện cuối cùng của nữ chủ nhân biệt thự Littlegreen đã gây ra ở những người thân của bà biết bao cảm xúc rất khác biệt: kinh ngạc, vui mừng, chê bai, giận dữ và thất vọng. Trong nhiều tuần, thậm chí nhiều tháng ở Market Basing người ta không nói đến chuyện gì khác cả. Mỗi người phát biểu một cách, từ ông John, bác hàng khô, nhà bảo vệ quyền gia đình đến bà Lampri, cô hàng thuốc lá, ai cũng lặp đi lặp lại cả ngày rằng: "Chắc có gì ám muội đây! Các vị cứ nhớ lấy lời tôi!". Chuyện tiểu thư Arundell viết tờ di chúc này, ngày 21 tháng 4 nghĩa là chỉ ít ngày trước khi chết, cũng đủ để khuấy động tâm trí người ta lên rồi. Hơn nữa, nếu ta biết rằng những người thân cận nhất của Emily Arundell đã đến Littlegreen nghỉ lễ Phục sinh thì sẽ dễ dàng hiểu rằng những giả thuyết tai tiếng nhất đã được phát ra, đem đến cho cuộc sống buồn tẻ của cư dân Market Basing một trò giải khuây thú vị. Người ta ngờ rằng bà Wilhelmina Lawson, tùy nữ của tiểu thư Emily Arundell đã biết nhiều về vụ rắc rối này mà không định nói ra. Tuy thế bà Lawson vẫn khẳng định là mình không biết gì hơn những người khác, và còn tỏ ra sững sờ khi đọc tờ di chúc. Nhiều người nghi ngờ tính thành thực của bà ta. Dù sao thì cũng có một người duy nhất biết đích xác bí mật này: Đó là người chết. Theo thói quen, tiểu thư Arundell chỉ hỏi ý kiến bản thân mình để soạn thảo những ý nguyện cuối cùng của mình và bà cũng tránh bộc lộ cho công chứng viên của bà biết những lý do đã buộc bà đổi ý vào giờ chót. Sự giữ kín này của tiểu thư Arundell là điểm nổi bật về tính cách của bà. Là sản phẩm điển hình của thời Nữ hoàng Victoria, bà có những ưu điểm cũng như những khuyết điểm của thời đại. Bề ngoài kiêu kỳ trong bà ẩn giấu một trái tim vàng. Lời nói của bà ngấn gọn, nhưng hành vi của bà biểu lộ một tâm hồn nhân hậu. Và trong thâm tâm bà bảo tồn nhiều điều tế nhị. Các tùy nữ không tồn tại được lâu ở Littlegreen: tiểu thư Arundell vừa hành hạ họ không thương tiếc, vừa đối đãi rộng lượng với họ. Hơn nữa còn bày tỏ công khai là bà hết sức tôn sùng gia đình dòng họ mình. Thứ Sáu trước ngày Chủ nhật Lễ Phục sinh, Emily Arundell ngồi ở tiền sảnh nhà mình và ra chỉ thị cho bà Lawson. Thời con gái, Emily Arundell rất xinh đẹp. Hiện nay cô gái già này vẫn giữ được dáng dấp thanh nhã, cũng còn rất năng động. Nước da bà khá vàng, cho ta biết bà vẫn phải thực hiện chế độ ăn kiêng. Tiểu thư Arundell nói với bà tùy nữ: - Này u! U đã thu xếp cho họ chỗ nghỉ ở đâu rồi? - Quả là con tin... con hy vọng đã xếp sắp ổn rồi... Bác sĩ Tanios và phu nhân ở phòng gỗ sồi, Theresa ở phòng sơn xanh, còn cậu Charles ở phòng ngày xưa dành cho trẻ con... Tiểu thư Arundell ngắt lời bà ta: - Tốt hơn cho Theresa ở phòng trẻ con, còn phòng xanh để cho Charles. - Vâng, vâng... con xin lỗi... con tưởng phòng trẻ con là thích hợp hơn với... - Theresa ở đó sẽ rất tốt. Tiểu thư Arundell thuộc thế hệ coi phụ nữ là thứ yếu. Trong mắt bà, nam giới là bộ phận quan trọng trong xã hội. - Con tiếc rằng các con nhỏ của bà Tanios không đến. - Bà Lawson nói thì thào, giọng buồn buồn. Bà rất yêu trẻ nhưng lại tỏ ra kém khả năng cai quản chúng. - Bốn vị khách là vừa đủ cho chúng ta rồi. - Tiểu thư Arundell vặc lại, bà rất nuông chiều các cháu bà, còn họ chẳng chịu nghe lời bà chút nào. U Lawson thở dài nói: - Bella Tanios là một người mẹ hiền từ. - Phải, Bella, rất tốt. - Tiểu thư Arundell chấp nhận. ... Mời các bạn đón đọc Nhân Chứng Câm của tác giả Agatha Christie.
Tên Trộm Xác Người - James Bradley
Tên Trộm Xác Người là tác phẩm thứ ba của nhà văn người Úc James Bradley, sinh năm 1967. Ông được nhật báo Sydney Morning Herald hai lần phong tặng danh hiệu là một trong “Những tiểu thuyết gia trẻ người Úc tài ba nhất”. Hiện ông sinh sống ở Sydney. Câu chuyện kể về Gabriel Swift, một sinh viên y khoa ngành phẫu thuật. Anh tới London vào năm 1826 để theo học với Edwin Poll, một bác sĩ phẫu thuật lớn. Từ những giao dịch mua bán tử thi, Swift dần lún sâu vào con đường tội lỗi do sự dụ dỗ của Lucan, kẻ nhiều quyền lực nhất trong số những tên đào trộm xác chết của thành phố và cũng là tên trùm cai quản hoạt động này. Bị bác sĩ Poll đuổi học, Gabriel bị cuốn vào thế giới ngầm tàn ác và bí ẩn của thủ đô London thời kỳ Georgian, trở thành một tội phạm. Dù sao, sự cứu rỗi đã đến với Swift ở phần cuối sách. Quyển tiểu thuyết dựa một phần vào sự kiện có thật về hai tên giết người hàng loạt Burke và Hare hồi đầu thế kỷ 19 ở Anh và các hoạt động mua bán xác người của các bệnh viện hay trung tâm phẫu thuật lúc bấy giờ. Truyện không phân theo chương nên khó theo dõi nếu bạn đọc không đọc liền một mạch. Rất cảm ơn sự ủng hộ của các bạn. Sài Gòn, tháng 4/2015 ★★★ “Chúng ta chào đời cùng người chết Thấy chăng, họ quay về, và mang chúng ta theo.” — T.S. Eliot, Four Quartets ★★★ “Nhiều tháng sau khi bạn đã khép lại trang sách cuối, những câu chữ của James Bradley vẫn còn đọng trong tâm trí bạn: Đẹp, hấp dẫn và không thể nào quên.”  — Markus Zukas, tác giả quyển The Book Thief “Một thiên tiểu thuyết lãng mạn kinh dị đầy chất cổ điển.”  — Daily Telegraph “Một quyển truyện kinh dị trần trụi, khơi gợi suy tư… Khi bạo liệt, khi đầy triết lý, quyển truyện này đầy ắp không khí.”  — Big Issue ★★★ London, 1826-1827 Họ nằm trong những cái bao tời như nằm trong tử cung của mẹ; gối chạm cằm, đầu ép xuống, như thể chết chỉ đơn giản là quay về với nhục thể mà từ đó chúng ta sinh ra, và đây là sự thụ thai lần thứ hai. Một sợi thừng sau gối giữ họ trong tư thế đó, một sợi khác cột đôi tay họ, rồi miệng bao khép lại bên trên họ và được cột ràng lần nữa, toàn thể trông như một gói đồ nén chặt, đã được ngụy trang một cách dễ dàng, vì nếu bị người bên ngoài nhìn thấy, một thứ hàng hóa như thế sẽ thu hút cả một đám đông. Thế rồi một con dao cắt phăng sợi thừng cột bao, và người này nhấc lên, người nọ kéo, chúng tôi lôi những thứ bên trong bao ra, đặt họ duỗi dài lên mặt bàn, trần truồng và giá lạnh, như một con bê hoặc một em bé chuồi ra khỏi lòng của mẹ, sợi dây và cái bao được giữ lại, vì một lát sau chúng tôi sẽ dùng lại chúng, để thu dọn những mảnh xác bị cắt rời. Chúng tôi cùng giữ chặt họ, kéo thẳng thi thể họ ra lần nữa. Dù tứ chi của họ không mềm quặt mà cũng không cứng lại, bất chấp sự giá lạnh vẫn còn nấn ná bên trong, tình trạng cứng đờ của họ đã bị phá vỡ bên cạnh nấm mồ khi họ bị bẻ gập lại và cột ràng để nhét vào bao. Lúc này, họ duỗi ra dưới bàn tay nắm giữ của chúng tôi, di chuyển với sự dễ uốn nắn lạ lùng của một thân hình nằm giữa cái chết và tình trạng thối rữa. Đấy là một công việc ghê tởm, thế nhưng sự ghê tởm không nằm ở việc đứng gần người chết mà ở sự thân mật nó đòi hỏi từ chúng tôi, sự cận kề với xác thịt và vật chất của thi thể họ. Khi họ đã được uốn nắn xong, nằm tái nhợt và trần truồng trên bàn, chúng tôi bắt tay vào việc. Trước hết chúng tôi lật úp họ xuống, để lộ phần lưng và mông lốm đốm tím và xanh giống như những vết bầm do máu đã tụ lại suốt nhiều giờ sau khi chết. Nếu lớp thịt bắt đầu thối rữa, sẽ có những chỗ phồng dộp, mềm, nhũn nước và tái nhợt, có thể vỡ toang nếu bị chạm vào, nhưng khi đó, lớp da cũng ẩm ướt do thứ chất lỏng giống như mồ hôi rỉ ra từ chúng. Đôi khi, những người liệm xác sẽ nút kín những lỗ hậu môn, và nếu thế, những vật đó phải được lấy ra khỏi xác. Sau đó, với giẻ lau, nước và dấm, chúng tôi bắt đầu rửa ráy cho họ, đôi tay cẩn thận di chuyển qua lớp da của họ, mùi dấm lẫn vào những thứ mùi u ám hơn bám vào họ, chúng tôi tiết chế những cử động nhưng không phải không lau chùi một cách nhẹ nhàng. Khi đã làm xong phần lưng và hai cẳng chân, chúng tôi lật họ trở lại, lau từ bàn chân lên háng, từ háng lên ngực, hai cánh tay và hai bàn tay, cuối cùng tới bộ mặt. Ở đây chúng tôi làm việc cẩn trọng nhất, lau quanh những đầu xương và chỗ nhô lên với những tấm giẻ gấp gọn, quanh đôi gò má, quanh phần trũng quanh mắt. Đôi khi hai mí mắt vẫn còn hé mở, cứng đờ, đôi mắt bên dưới mờ đục và không màu sắc như mắt của những người rất già. Khi lau rửa xong xuôi, chúng tôi xuống sân lấy nước, xà bông và dao cạo. Nước lạnh, dùng cho thi thể lạnh. Thế rồi, kéo thẳng lớp da chùng, chúng tôi bắt đầu cạo; trước tiên là phần da đầu và mặt, tóc ướt được tách thành từng lọn để lộ ra phần u lên của cái sọ; sau đó là lồng ngực và hai nách; rồi cuối cùng là bộ phận sinh dục, lưỡi dao cạo soàn soạt lướt trên lớp da. Đôi khi chúng tôi cắt phạm vào họ, nhưng chẳng có chút máu nào chảy ra, vết đứt tái nhợt và trống rỗng. Tôi không thể nói do đâu chúng tôi biết rằng đây là công việc cần phải được tiến hành trong im lặng. Chỉ biết cách thức là thế, phải luôn là thế. Vào những lúc khác chúng tôi di chuyển quanh họ như thể họ không nằm đó, nói cười với nhau trong lúc lôi kéo, cắt và dọn dẹp những mảnh thịt, gạt chúng sang bên một cách ngẫu nhiên giống như gạt sang bên một cuốn sách hay cái áo khoác đang nằm ở nơi ta định ngồi xuống. Nhưng lúc này chúng tôi lặng lẽ làm việc, không nói nhiều hơn mức cần thiết. Như thể việc rửa ráy người chết này chính là một nghi lễ: giống như người ta rửa sạch những thứ nhớt nhau từ lòng mẹ trên thân hình một em bé, chúng tôi chùi sạch mùi âm ty địa ngục khỏi những xác chết bị đánh cắp đó, đưa chúng mới tinh khôi vào thế giới. Khi công việc đã hoàn tất, mấy cái bao đã được gấp lại gọn gàng, mấy cái xô đã trút sạch nước, những tấm giẻ đã được vắt và phơi, bắt đầu tới việc tính tiền. Thầy chúng tôi kỹ lưỡng nhất trong việc lưu giữ sổ sách tiền nong, và số tiền trả cho Caley và Walker phải được ghi lại: tám đồng tiền vàng cho một xác đàn ông hay phụ nữ đã trưởng thành, hay thứ chúng tôi gọi là một cái lớn; bốn đồng tiền vàng cho một đứa trẻ con, hay một cái nhỏ; một siling mỗi phân Anh cho thứ mà chúng tôi gọi là một bào thai, hay một em bé dài chưa tới một bộ Anh. Và cứ vậy, trong lúc tôi lau sàn, Robert lặng lẽ tính toán trên cuốn sổ cái, ghi lại những khoản thanh toán, kiểm lại số tiền còn tồn trong hộp đựng tiền, gương mặt giấu sau một tấm mặt nạ lặng buồn mà anh luôn khoác lên khi nghĩ rằng mình không bị ai quan sát. ... Mời các bạn đón đọc Tên Trộm Xác Người của tác giả James Bradley.