Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bông Hồng Vàng - K. G. Paustovsky

K. G. Paustovsky (1892 – 1968) là một trong những nhà văn Nga xuất sắc nhất của thế kỷ hai mươi, mang tầm vóc quốc tế. Những tác phẩm của ông đã được dịch sang nhiều ngôn ngữ khác nhau trên thế giới và được bạn đọc khắp năm châu vô cùng ngưỡng mộ. Chính vì vậy ông đã từng được đề cử để trao giải Nôben về văn học.  Ngay từ khi mới xuất hiện trên văn đàn Nga, Paustovsky đã làm cho bạn đọc và giới phê bình chú ý, bởi một giọng văn hết sức độc đáo giàu chất thơ đến mức nồng nàn, càng đọc càng thấm thía sâu xa về cuộc đời, về những nét rung động tinh tế nhất của tâm hồn trước tình người hồn hậu, trước thiên nhiên Nga bình dị mà tráng lệ và vô cùng quyến rũ. Tác phẩm của Pauxtốpki có một ma lực khổng lồ quyến rũ bạn đọc đến với những điều tưởng chừng nhỏ nhặt mà ẩn giấu trong đấy bao ý nghĩa lớn lao về cuộc đời. Người ta thường gọi ông là nhà thơ bị đóng đinh trên cây thánh giá của văn xuôi. Văn của ông là tiếng nói tâm hồn nồng cháy đến mức tột cùng của ông đối với Tổ quốc Nga Xô Viết.  Từ xưa tới nay khi viết truyện ngắn hay tiểu thuyết, các nhà văn đều chú ý đến việc xây dựng cốt truyện sao cho hấp dẫn. Riêng truyện ngắn và truyện vừa của Paustovsky lại không chú ý đến cốt truyện, mà đọc lại rất hấp dẫn. Ông viết truyện theo cốt cách và bút pháp của một nhà thơ, tiêu biểu như tác phẩm “Bông hồng vàng”. *** Cơn bão tuyết tràn vào thành phố từ chập tối. Tắt ánh mặt trời là nhiệt độ hạ xuống đột ngột. Khi cơn bão ập tới, nhiệt độ còn xuống nữa. Không khí khô đến khó thở. Từ trong nhà nhìn ra chỉ thấy trời đất trắng bệch một màu bạc xỉn của băng bụi. Gió quyện chúng quẩn quanh trên mặt đường, xếp thành từng đống ở chân tường. Không một bóng người bóng vật ngoài phố. Thỉnh thoảng mới thấy một chiếc xe tải, chăn trấn thủ bọc kín máy, lạc lõng chạy qua, bụi trắng cuồn cuộn dưới gầm xe. Tì tay trên bậu cửa sổ, tôi bần thần nhìn ra những ngọn đèn đường vàng ệch trong bóng tối nhuốm màu trắng phản chiếu của tuyết già mà rùng mình cảm trước thấy chiều dài ghê gớm của thời gian một đêm mất ngủ. Guenađy Shpalikov, bạn cùng phòng với tôi, nhà thơ chưa được ai biết đến trong những năm xa xôi ấy, quẳng cho tôi một cuốn sách dày cộp, bìa bọc simili: - Đọc đi! Những đêm như đêm nay mà đọc Paustovsky thì đúng lúc lắm. Nếu cậu thích, có thể coi như mình tặng cậu. Đây là tuyển tập. Mình đã đặt mua toàn tập hôm qua rồi. Tôi ngần ngại nhìn cuốn sách dày cộp. Nhưng chỉ vừa đọc mấy chục trang đầu, tôi đã hiểu ngay rằng không gì có thể bắt tôi gấp cuốn sách lại chừng nào tôi chưa đọc xong. Và thế là đêm đó – một đêm giá lạnh mùa đông năm 1956 ở Moskva – tôi đã gặp Paustovsky. Từ những hàng chữ in bình thường trên trang giấy xanh lên màu chao đèn ngủ, những nhân vật sống bước ra, đi lại, làm việc, yêu, ghét, đau khổ, vui, buồn, trong những câu chuyện đầy tình cảm của những xúc động thường là thầm kín và cao cả, trên nền phong cảnh Nga với những hàng bạch dương run rẩy trong gió, những vì sao trong vũng nước đêm, mùi lá mục trong rừng… Tôi nghiễm nhiên trở thành người chứng kiến, người tham gia vô vàn chuyện đời chuyện người, rất thường mà rất lạ, không sao quên được. Là nhờ Konstantin Paustovsky. Và tôi thật sự đã không quên, bởi vì, hơn là những chuyện kể mà ta có thể nghe ở bất cứ ai, trong một đêm đó Paustovsky đã giúp tôi sống một đoạn đời tính bằng nhiều năm, mà là những năm giá trị, khi con người bỗng nhận ra rằng mình không thể giản đơn tồn tại, mà phải được sống thực, sống đầy đủ, với những rung cảm thực, cái duy nhất làm cho cuộc sống của ta phong phú thêm và vì thế có ý nghĩa hơn. Đọc Paustovsky tôi bỗng hiểu tôi hơn, tôi bỗng hiểu mọi người hơn. Và, đây mới là cái chính: tôi chợt hiểu rằng mỗi con người, dù người đó là ai, là nhà bác học, nhà thơ, là ông thợ mộc bình dị…, tất cả, đều là một thế giới phong phú. Thế giới ấy không lồ lộ dưới ánh sáng mặt trời, và ta không thể thấy được nó, càng không thể nhìn rõ nó, bằng cặp mắt lười biếng. Mỗi dòng chữ của Paustovsky nói với chúng ta một cái gì rất mới về cái thế giới không dễ thấy ấy. Tôi đọc mê mải, không biết rằng cơn bão tuyết đã lặng từ lâu, có lẽ từ nửa đêm, và khi tôi gập sách lại thì ánh bình minh màu trắng đục của riêng những chân trời phương Bắc đã tràn ngập khắp phòng. Ngọn đèn đêm vẫn cháy, nhưng ánh sáng màu xanh lơ của nó nhợt nhạt hẳn. Qua một đêm, tuyết đã xếp thành những vồng trắng mịn màng trên bậc cửa sổ. Tôi trở dậy, mở một cánh cửa, lặng ngắm những bông tuyết đang sà xuống. Chúng bay chậm, đung đưa trong gió nhẹ, rồi từ từ đậu xuống những đống tuyết lớn. Tôi chìa tay ra đón tuyết. Lúc đầu, tôi có cảm giác những bông tuyết lảng tránh tay tôi. Nhưng có những bông bạo dạn hơn đến gần, ngập ngừng trong giây lát, rồi mới nhẹ nhàng đáp xuống. Khi tôi thu tay về thì trong lòng bàn tay chỉ còn mấy vệt ướt: tuyết đã tan rồi. Trong khoảnh khắc ấy tôi chợt hiểu rằng tôi đã bỏ qua rất nhiều, nhiều lắm, cái đẹp trên những con đường mà tôi đã đi qua, tính cả về không gian lẫn thời gian. Cũng như trước cái đêm đáng nhớ ấy tôi đã không biết đến cái đẹp của những bông tuyết này, chỉ vì tôi không biết nhìn, chưa biết đến niềm mê say mà cái đẹp mang tới. Paustovsky chỉ cho tôi thấy cái mất mát ấy. Như một người bạn rất gần gụi với ta, như một người thân của ta, Paustovsky bước vào tâm hồn ta rồi ở lại đó, ông thủ thỉ với ta những chuyện tâm tình. Nghe xong những câu chuyện ấy, ta cảm thấy tâm hồn ta lớn thêm, rộng thêm, nhẹ hơn. * * * Văn của Paustovsky, cũng như sự tiếp nhận cuộc đời ở trong ông, những suy ngẫm của ông, mang một sắc thái đặc biệt. Lần đầu đọc Paustovsky, trong cái đêm bão tuyết không ngừng gào thét, tung băng bụi ra khắp nơi và trùm lên tất cả, khi ngọn đèn đêm tỏa ánh sáng nhè nhẹ mơ hồ lên những trang giấy, trong cái thời gian mung lung làm cho con người dễ đi vào mình hơn cả, tôi cảm thấy cuộc sống vụt ngưng lại, nhưng bên cạnh nó lại hiện ra một cuộc sống khác, với đầy đủ đường nét, màu sắc, âm thanh và tình người. Cuộc sống ấy rõ nét đến nỗi ta có thể nhìn thấy, nghe thấy, cảm thấy tất cả những gì thuộc về nó. Nhưng đồng thời nó cũng mơ hồ, huyền ảo, như một cái gì không thực, không dễ có thực, nhưng nó làm ta tin ngay rằng nó thật sự hiện hữu, sung sướng để mà tin. Bởi vì những cái đó đúng là có thực, nhưng lại là những cái, tiếc thay, ta không thể thấy được dễ dàng. Có lẽ, tôi đã nói điều mâu thuẫn. Nhưng, thú thật, tôi không biết diễn tả thế nào những cảm giác mới sinh mỗi lần đọc Paustovsky. Nguyễn Khải nói với tôi về Paustovsky thế này: “Hình như Paustovsky thích thả sương mù vào truyện của ông ta. Cái đó làm người đọc nhiều lúc tưởng những điều ông ta nói giống như những giấc mơ, để rồi sau khi suy nghĩ kỹ, mới tin là chúng có thật, lúc đó họ mới phát hiện rằng mình đã lớn thêm một chút trong tâm hồn”. Tôi thấy đó là một nhận xét xác đáng. Cái hư mà thực, thực mà hư trong Paustovsky là thế. Nói cách khác, trong văn ông thực hư lẫn lộn – trong thực có hư, trong hư có thực. Để làm được việc đó, nhà văn phải rất dày công nghiên cứu cuộc sống, nghiên cứu thật tỉ mỉ, đến chân tơ kẽ tóc, nhập tâm cuộc sống mà mình quan sát, rồi hòa mình vào nó, sống thực với nó. Đến khi ngồi vào bàn viết thì cuộc sống ấy đã thành của mình, còn hơn của mình nữa, vì nó được nghiên cứu, được suy ngẫm, để cuối cùng bật ra chỉ những đường nét chính, những màu sắc chính mà thôi. Đó là cuộc sống trong sự biểu đạt tiết kiệm, được đưa lên giấy chỉ những gì cần thiết nhất, tinh chất nhất, đẹp đẽ nhất. Cách biểu đạt này của Paustovsky giống phong cách làm việc của những họa sĩ Trung Hoa cổ trong trường phái quốc họa. Khác với bạn đồng nghiệp phương Tây, những họa sĩ quốc họa Trung Hoa không bao giờ làm phác thảo cho những bức tranh sẽ vẽ. Họ an nhiên sống trong đời, lặng lẽ quan sát nó, lặng lẽ thu nó vào lòng, nói cách khác, họ sống như mọi người, nhưng chăm chú quan sát cuộc sống đến mức thuộc lòng nó, chỉ đến lúc ấy họ mới nhả tinh chất của nó ra trên giấy trên lụa. Cuộc sống được biểu đạt theo cách ấy hiện ra ở những điểm tập trung nhất, dường như không còn lệ thuộc chủ đề. Những gì không cần thiết, những tạp chất, đều bị họ gạt bỏ không thương tiếc. Nhưng khoan, cũng không hẳn là thế. Bên cạnh những cái thuộc tinh chất ta lại bắt gặp những nét tưởng chừng chẳng có liên quan gì tới chủ đề, có vẻ như thừa. Nhưng thử bỏ những cái thừa ấy đi mà xem – tác phẩm sẽ mất đi vẻ đẹp mà ta đã được thấy. Tức là, chúng là những cái thừa cần thiết, những cái thừa có chọn lọc bằng vô thức, những cái thừa xét cho cùng là cố ý của tác giả. Thiếu những cái thừa đó văn hết là văn. Nó thành xác chết. Tôi sẽ không chứng minh điều này. Nó vô ích như khi ta cố chứng minh vẻ đẹp của một buổi bình minh chẳng hạn. Mà cũng đừng hoài công kể lại những truyện ngắn của Paustovsky. Chúng ta hãy thử nhớ lại “Chú Bé Chăn Bò”, “Gió Biển”, “Chuyến Xe Đêm”, “Người Đầu Bếp Già”… Liệu có thể kể lại những câu chuyện trong những truyện ngắn đó không nhỉ? Có người đã kể, kể rất hay, nhưng nghe xong, tôi nghĩ rằng sự mất mát trong câu chuyện được kể lại có thể tính bằng số bách phân là 90 phần trăm. Paustovsky có thể từ một chi tiết rất nhỏ mà dựng thành một truyện ngắn. Nhưng qua truyện ngắn đó ta được biết không phải một người – nhân vật chính – mà nhiều người, và hơn thế nữa, dấu vết của cả một khoảng thời gian. Cái “hư” trong văn Paustovsky có một đặc tính được nhiều người nhận xét. Dường như ông khám phá được trong tâm hồn ông, và trong tâm hồn người nói chung, sự ưa thích bản năng những cái không bình thường. Cho nên nói về cái bình thường bằng con đường tìm kiếm, lựa chọn để rồi đưa ra cái có vẻ không bình thường lại là con đường ngắn nhất của sự biểu đạt cái đẹp. Nhưng nếu cái không bình thường ấy quá xa lạ với trí tưởng tượng của người đọc thì cũng hỏng, người đọc sẽ đẩy nó ra và người viết thế là hoài công. Cần phải chọn cái không bình thường bình dị, nghĩa là cái có thể có, có thể xảy ra, dường như người đọc có thể thấy nó, nhưng do vô tình đã đi lướt qua nó, đi lướt qua cái đẹp, một cách hững hờ, và giờ đây, khi được nhà văn chỉ cho thấy, mới biết ra để mà nuối tiếc. Khả năng nhìn thấy cái không bình thường trong cái bình thường ở trong ông làm nên nét độc đáo của văn ông. Paustovsky thú nhận rằng khả năng đó bắt nguồn từ tính chuộng lạ vốn có trong ông từ thuở thiếu thời. Ông thuật lại: “Thế giới sặc sỡ của những cái lạ chỉ tồn tại trong trí tưởng tượng của tôi”. “Môn học mà tôi thích nhất ở trường trung học là môn địa lý. Môn này khẳng định với tôi rằng trên trái đất có những xứ sở kỳ lạ. Tôi biết rằng cuộc sống nghèo nàn và vất vưởng của gia đình tôi hồi ấy không thể cho phép tôi nhìn thấy những xứ sở ấy. Mơ ước của tôi không thể thực hiện được. Nhưng không phải vì thế mà nó chết dần chết mòn đâu”. “Tâm trạng tôi khi ấy có thể định nghĩa bằng hai từ: hào hứng và buồn rầu. Hào hứng trước cái thế giới mà mình tưởng tượng ra, buồn rầu vì không thể nhìn thấy nó. Hai cảm giác ấy chiếm thế thượng phong trong những vần thơ thuở thiếu thời của tôi và trong những tác phẩm văn xuôi đầu tiên còn non nớt của tôi”. “Những năm tháng qua đi và dần dần tôi rời bỏ tính chuộng lạ, vẻ diêm dúa, hương vị làm ta mê mẩn, chất bốc của nó và thái độ dửng dưng đối với con người bình dị, không có gì đáng chú ý. Nhưng trong một thời gian dài, trong những truyện dài và truyện ngắn của tôi vẫn cứ còn rơi rớt những sợi chỉ mạ vàng của nó.” Paustovsky kể rằng lần cắt đứt quyết liệt và cuối cùng với tính chuộng lạ ở trong ông xảy ra trong lần ông đi xem nhà chiếu hình vũ trụ Moskva. Cũng như mọi người, ông bị lóa mắt bởi sức sáng tạo của con người với những máy móc kỳ diệu đó. Ông ra về khi trời đã khuya. Một buổi tối tháng Mười với mùi lá rụng trên đường. Paustovsky ngẩng đầu lên. Ông bàng hoàng. Tưởng chừng ông được trông thấy,lần đầu tiên trong đời, một bầu trời thực sự – một bầu trời sống – với muôn vàn vì sao lấp lánh. “Và thế là tôi thấy tất cả những gì tôi viết từ trước tối hôm đó chỉ là giả tạo, hệt như cái nhà chiếu hình vũ trụ với những chòm sao giả của nó”. Sau đêm đó, ông vội vã hủy đi một số truyện ngắn quá diêm dúa và giả tạo mà trước kia ông thích thú. Tuy nhiên, không phải cái gì khác, mà chính lòng ham mê cái lạ trong buổi thiếu thời đã dạy cho ông biết cách nhìn thấy những nét đẹp, và hơn nữa, những nét hoàn toàn không dễ thấy đối với người khác, trong những sự vật tầm thường. Những nét đẹp đó chúng ta gặp luôn luôn trong những tác phẩm của ông, hầu như trên mỗi trang giấy. Chúng làm nên cái thần thái đặc sắc của văn ông. Ngay ở trong những truyện dài “Những Kẻ Lãng Mạn”, “Những Vầng Mây Lấp Lánh”, mà ông than phiền rằng trong đó tính chuộng lạ còn để lại nhiều dấu vết, chúng ta vẫn thấy những nét đẹp nhờ lòng ham mê tính chuộng lạ mà có. Có lẽ cái hại của tính chuộng lạ chỉ ở chỗ nó dễ làm người viết ham cái bề ngoài hào nhoáng mà quên mất cái bề trong còn đẹp hơn rất nhiều của cuộc sống. Về vấn đề này Paustovsky viết: “Tôi cho rằng một trong những đặc tính thuộc sáng tác văn xuôi của tôi là cái thần thái lãng mạn của chúng”… “Cái đó, tất nhiên, là chất riêng của từng người. Đòi hỏi người nào cũng vậy, nhất là nhà văn, phải từ bỏ cái thần thái ấy là lố bịch. Chỉ có dốt nát mới đi đòi hỏi như thế”… “Cái thần thái lãng mạn không hề sống chung dưới một mái nhà với sự quan tâm cấp thiết đối với cuộc sống “thô thiển” và tình yêu đối với cuộc sống ấy. Trong hết thảy lĩnh vực của thực tại và hoạt động của con người, trừ một vài trường hợp ngoại lệ, bao giờ cũng sẵn có những hạt giống lãng mạn… Vì không nhận thấy những hạt giống ấy, người ta có thể giày xéo lên chúng, nhưng cũng có thể ngược lại, tạo điều kiện cho chúng nở rộ, cho chúng lấy mùa hoa của mình làm cho thế giới bên trong của con người đẹp thêm, cao thượng hơn.” Ông phải bộc bạch tâm sự mình như thế, ông phải lớn tiếng bảo vệ phong cách lãng mạn trong văn học như thế là để tự vệ, để chống trả sức mạnh của trào lưu thời thượng “hiện thực xã hội chủ nghĩa” muốn áp đặt phong cách của nó như là một phong cách duy nhất cho nền văn học xô-viết. Paustovsky không rời con đường riêng mà ông đã chọn. Ông cho rằng nó hoàn toàn không có gì trái ngược với con đường chung của các nhà văn của bất kỳ nước nào, bất kỳ thời đại nào, là hướng tới và vẫy gọi mọi người cùng nhau hướng tới Cái Đẹp.3 Từ lâu Paustovsky đã có ý định viết một cuốn sách về nghề văn. Không phải một cuốn sách dạy viết văn, không phải thế, ông không có ý định dạy bảo ai, mà là một cuốn khảo cứu nghiêm túc nói về lao động đặc thù của những người cầm bút và vai trò của họ trong đời sống tinh thần của cộng đồng nhân loại. Trong bài “Thơ Của Văn Xuôi” đăng trong tạp chí “Ngọn Cờ” (Znamya) số ra tháng 9 năm 1953, ông viết rằng ý sáng tác một cuốn sách về nghề văn đã nảy ra trong ông ngay từ trước Thế chiến thứ hai. Ông đã bắt đầu, nhưng chiến tranh đã ngăn trở ông hoàn thành nó. Trong một thời gian hơn mười năm Paustovsky dạy nhiều khóa học văn xuôi tại Học viện văn học Gorky. Nhiều vấn đề có liên quan tới nghề văn và tâm lý sáng tác đã được đề cập. Vì các bài giảng của thầy, cũng như những lời phát biểu của trò, đều không được ghi lại, Paustovsky lấy làm tiếc, mới nảy ra ý tập hợp những tư liệu phong phú đó, bằng hình thức này hay hình thức khác, miễn sao chúng trở thành có ích cho những người viết văn, nhất là cho những người viết văn trẻ, và cho cả những ai yêu thích văn học. Mùa thu năm 1955, tại tỉnh Dubunty, một tỉnh nhỏ nằm bên bờ vịnh Riga, Paustovsky hoàn thành cuốn sách mà ông thai nghén từ lâu. “Bông Hồng Vàng” ra mắt bạn đọc lần đầu trong tạp chí “Tháng Mười”(Oktiabr). Trong bản dịch này, giống như trong nhiều bản dịch ở các nước khác mà tôi được biết (“Bông Hồng Vàng” đã được dịch ra nhiều thứ tiếng), tôi bỏ qua hai chương “Ngôn Ngữ Kim Cương” và “Những Cuốn Từ Điển”. Tác giả dành hai chương này cho việc nghiên cứu những nét độc đáo của tiếng Nga liên quan tới sự thể hiện văn học, xem xét nhiều mặt ngữ nghĩa, các gốc từ, âm hưởng, tiết tấu… của văn ngôn tiếng Nga. Tôi rất tiếc những chương này, nhưng tôi nghĩ không có cách nào truyền đạt cái đẹp thuần khiết của từ ngữ thuộc một ngôn ngữ này bằng những phương tiện không tương thích của một ngôn ngữ khác. Nói chung, trong khi dịch cuốn sách, cảm giác đuối sức là cảm giác tôi thường gặp. Thậm chí ở một vài đoạn tôi cảm thấy hoàn toàn bất lực. Ai cũng biết rằng dịch nếu không phải là phản thì cũng là một cái gì mất mát so với nguyên bản. Trong “Bông Hồng Vàng”, sự mất mát đó không phải là ít. Khi bản dịch hoàn tất, tôi mới hiểu rằng trong việc làm này của tôi chính tác giả đã giúp tôi rất nhiều. Bởi vì mỗi lần đọc đi đọc lại một đoạn văn khó, một hình ảnh đẹp được miêu tả một cách khác thường, cần phải tìm cách để truyền đạt cho tốt nhất, tôi lại phát hiện trong lòng mình một niềm vui, niềm vui này đã giúp tôi vượt qua những khó khăn. Bởi vì trong khi dịch “Bông Hồng Vàng”, tôi hiểu thêm được rất nhiều cái lao động nặng nhọc nhưng cao quý và vi tế tuyệt đẹp của nghề văn (nếu có thể coi nó là một nghề). Tôi sẽ sung sướng nếu qua bản dịch này những ý nghĩ tốt lành của tác giả tới được với bạn đọc. Bởi vì, sau hết, tôi rất yêu Paustovsky. VŨ THƯ HIÊN Mời các bạn đón đọc Bông Hồng Vàng của tác giả K. G. Paustovsky.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Quan Hệ Nguy Hiểm - Khiêu Dược Hỏa Diệm
Khiêu Dược Hỏa Diễm là cái tên tương đối lạ, không có sức thu hút như Cố Mạn, Tiên Chanh, Diệp Lạc Vô Tâm hay Đường thất công tử. Tuy nhiên, sau khi đọc xong cuốn Quan hệ nguy hiểm, Hoa Ban quyết định phải ra sức săn lùng các tác phẩm khác của tác giả này. Nói làm sao nhỉ? Một tác phẩm đồ sộ về nội dung, hình thức, lối viết và từ ngữ. Ngay từ  chương 1 của câu chuyện, người đọc đã không cách này dứt ra được. Bối cảnh diễn ra chủ yếu ở 3 nước Trung Quốc, Miến Điện và Thái Lan. Đây là một câu chuyện nồng nặc mùi súng đạn, tình dục, bạo lực… thể loại bao gồm có tình cảm, trinh thám, hình sự, …người viết đã xây dựng tỉ mỉ và chân thực bộ mặc xấu xa của thế giới ngầm vùng Tam giác vàng. Bắt đầu từ khi cô bác sĩ trẻ Đặng Sơ Vũ bị bắt làm con tin trong một vụ khủng bố ở Thái Lan rồi may mắn rơi vào tay Tam ca Lục Tử Mạc của nhóm buôn bán ma túy Kim Gia. Con người này tự nhận mình bị bất lực, chỉ muốn dùng cô làm vật chơi đùa. Ấn tượng ban đầu của cô về anh ta chính là giọng nói trầm ấm, còn cảm nhận ban đầu của người đọc là có linh cảm anh ấy là người tốt. Bởi vì theo cách kể của tác giả, Tử Mạc đã cố ý cứu Sơ Vũ trở thành trò tiêu khiển dung tục của đám đàn ông và còn tạo cơ hội để cô được giải cứu. Tuy nhiên, tác giả cũng sớm làm người đọc vỡ mộng khi cho anh ta lộ ra sự nhơ nhuốc, máu lánh, nguy hiểm chết chóc như đúng công việc anh ta làm. Lục Tử Mạc được người trong giới đánh giá là “không có nhược điểm” từ ngày gặp Sơ Vũ đã để lộ mọi sơ hở chết người cũng như hành động trái quy tắc bản thân Sau khi đọc hết truyện, Hoa Ban quyết định cho tên anh vào nhóm nam nhân vật top tem của tiểu thuyết ngôn tình. Nếu xét trong đề tài xã hội đen, tội phạm thì rõ ràng Lục Tử Mạc cuốn hút hơn cả Hàn Trạc Thần, An Dĩ Phong, Lôi Kình vân vân và ve ve ^^ Anh được miêu tả với phong cách Bad Guy trong công việc, sự can đảm và bãn lĩnh phi thường lúc nguy nan. Nếu Hàn Trạc Thần khiến người đọc ngất ngay vì uy quyền, tiền tài, bề ngoài, lòng si tình thì Lục Tử Mạc là hình mẫu của người đàn ông không thể đốn ngã, hành động siêu phàm và bình tĩnh ngay lúc cận kề cái chết. Hầu hết câu chuyện anh không mấy khi thảnh thơi làm ông hoàng trong địa vị thứ 3 của Kim Gia mà là lăn lộn trong cuộc chiến ma túy và sinh tử. Cả tình huống ngặc nghèo nhất cũng không khiến anh khiếp sợ. Người đọc sẽ yêu mến nhân vật dù cho anh thường là kẻ bị chỉa súng vào đầu, bị săn lùng, tả tơi hay thương tích trầm trọng. Chỉ như thể mới thấy được bản năng sinh tồn và lòng dũng cảm của con người này. Phong cách viết của truyện này là theo trường phái hành động. Nhiều lúc tình hình của đôi nhân vật chính nguy cấp như ngàn cân treo sợi tóc, khiến ta phải thót tim chờ đợi. Cái hay khác là câu chuyện viết quá thực, không hề kể lể sơ sài mà còn cho thấy vốn kiến thực của người viết về chính trị, quân sự, thao lược, văn hóa các dân tộc người Thái Lan,… Nhờ vậy mà câu chuyện sống động như một bộ phim của HBO. Dường như mọi chi tiết đều có căn cứ, tính logic rõ ràng. Nhân vật không đối thoại thừa câu nào và sự tỉ mỉ trong lối tả khiến không gian truyện như hiện ra trước mắt. Đọc câu chuyện chính là khám phá xem 2 người làm cách nào để sống sót và thoát khỏi mỗi khi bị vây bắt, bị phản bội, bị hãm hại, bị cho vào tròng,… Có thể thấy rằng, con người thường quá ỷ lại vào vũ khí trong tay, vào số đông hay vào chút hiểu biết ít ỏi. Chính vì thế mà lần lượt các nhân vật bị thua thảm hại dưới tay Lục Tiểu Mạc dù anh không có lấy một tất sắt. Thật ra cái đầu của con người mới là quyết định chứ không phải tứ chi. Câu chuyện có nội dung mang tính kịch như trong điện ảnh nhưng không tạo cảm giác hoang đường mà còn rất chân thật. Nguồn: Hoa Ban - hoabanland.wordpress.com *** Ngày thứ bảy, Sơ Vũ cuối cùng cũng có thời gian dành cho bản thân sau 48 tiếng đồng hồ làm việc liên tục. Kể từ lúc đến công tác ở phòng cấp cứu bệnh viện số một Chiang Rai, Sơ Vũ đã quên mất cảm giác thong dong đi dạo phố là như thế nào. Di động của Sơ Vũ luôn ở tình trạng 24/24h mở máy. Dù cô vừa ngồi xe buýt hơn nửa tiếng đồng hồ về đến nhà, chỉ cần bệnh viện gọi điện thông báo bệnh nhân do cô phụ trách xảy ra tình hình đột xuất, Sơ Vũ sẽ lập tức quay lại, có thể lao vào cấp cứu thông đêm. Gần như không có thời gian cá nhân, phòng cấp cứu ở nước ngoài khác với trong nước. Ở đây giống như chiến trường không ngừng nghỉ. Trách nhiệm và sức ép đối với những người làm việc ở đây là không thể tưởng tượng nổi. CÓ lúc, Sơ Vũ cảm thấy cô không thể tiếp tục, dù bắt cô đi nơi mệt mỏi nhất là khoa phụ sản, cô cũng cảm thấy còn đỡ hơn phòng cấp cứu. Sơ Vũ năm nay 28 tuổi, vẫn sống độc thân. Công việc bận rộn ở nước ngoài khiến cô không có tinh thần nghĩ đến chuyện riêng tư. Tuy người nhà luôn thúc giục, nhưng ưu điểm lớn nhất của độc thân là sự tự do. Không cần nghĩ đến chuyện tan sở về nhà phải chăm sóc người đàn ông tứ chi mạnh khỏe nhưng chẳng làm gì, không cần nghĩ đến chuyện dọn dẹp nhà cửa, giặt giũ, rửa bát. Nếu không muốn nấu cơm thì ra ngoài ăn. Khi nào cảm thấy cô đơn thì có sách báo, đọc hết số sách ba cô thu thập cũng phải mất mấy năm. Thứ bảy này nếu không phải trong nhà dùng hết vật phẩm thiết yếu, nếu siêu thị không chỉ cách nhà cô 5 phút đi bộ, Sơ Vũ sẽ ở nhà ngủ chứ chẳng thèm chạy ra ngoài mua đồ. Về cơ bản, Sơ Vũ không có tâm trạng shopping. Thân thể mệt mỏi khiến cô chỉ thèm chiếc giường mềm mại. Sơ Vũ hận mình không mọc hai móng sắc, quét sạch đám người xếp hàng đằng trước, sau đó mọc thêm hai đôi cánh, thanh toán xong bay vụt về nhà. Xếp hàng mất 10 phút, khó khăn lắm mới đến quầy thu ngân, Sơ Vũ cố nhấc giỏ đựng hàng nặng đặt lên quầy thu ngân. Đúng lúc này, siêu thị phát ra tiếng nổ cực lớn. Cửa kính lớn đằng trước quầy thu ngân nổ tung giống như trong phim điện ảnh, vô số mảnh thủy tinh bay đến như cơn mưa băng. Sơ Vũ đứng ngây người nhìn các mảnh thủy tinh bay về phía cô giống như phim quay chậm. Tay Sơ Vũ đột nhiên truyền đến sức mạnh to lớn. Có người bảo vệ đầu cô, nhanh chóng đẩy cô xuống đất. Tất cả động tác này chỉ diễn ra trong một hai giây. "Đi!" ... Mời các bạn đón đọc Quan Hệ Nguy Hiểm của tác giả Khiêu Dược Hỏa Diệm.
Nghe Mùi Kết Thúc - Julian Barnes
Hội đồng chỉ mất đúng 31 phút để quyết định Julian Barnes sẽ là người thắng giải, với một tác phẩm được tuyên bố là viết đẹp, dễ đọc, có chất lượng cao và phản ánh được con người của thế kỉ 21. Hãy lưu ý rằng Julian Barnes viết cuốn sách này khi ông đã ở ngoài ngưỡng 60 tuổi (năm 2011). Trước đó, qua mỗi thập kỉ, nhà văn đương đại nổi tiếng người Anh này đều có tác phẩm từng lọt vào chung khảo Man Booker. Đó là "Flaubert's Parrot" năm 1984, "England, England" năm 1998 và "Arthur & George" năm 2005. Có nghĩa là liên tiếp qua 4 thập kỉ, hội đồng giám khảo của Man Booker đều đã chú ý đến Julian Barnes - tác gia từng hoạt động rất nhiều trong các tổ chức đấu tranh vì quyền con người. Đến năm 2011, họ chỉ mất đúng 31 phút để quyết định ông sẽ là người thắng giải năm nay, với một tác phẩm được tuyên bố là viết đẹp, dễ đọc,  có chất lượng cao và phản ánh được con người của thế kỉ 21. Không chỉ thành công với Man Booker, trước đó Julian Barnes từng sở hữu gần 10 giải thưởng khác, trong đó có giải  Shakespeare, giải Prix Femina Étranger hay giải David Cohen.  Nói vậy để biết rằng, "Nghe mùi kết thúc" đã được viết với tất cả kinh nghiệm và trí tuệ sâu sắc, đo bằng chiều dài của thời gian. Nó cũng là một cái nhìn ngược chiều có tính suy nghiệm về tuổi trẻ của một nhà văn thông tuệ.  "Khi bạn còn trẻ, bạn nghĩ bạn có thể đoán trước được ít nhiều những đau đớn và trống vắng tuổi tác sẽ mang lại... Nhưng tất cả những cái ấy đều là nhìn về phía trước. Điều bạn không làm nổi ấy chính là nhìn về phía trước, rồi thì tưởng tượng mình đang nhìn lại đằng sau từ cái điểm tương lai đó. Học những cảm xúc mới mà thời gian đem lại. Những nhân chứng cuộc đời bạn giảm dần, có ít thuyết chứng hơn, và thế là bớt đi tính chắc chắn việc bạn là ai hay đã từng là ai." - nhân vật chính Tony Webster tự ngẫm.  Ý tưởng của cuốn tiểu thuyết rất có thể bắt nguồn từ một câu chuyện gia đình giữa Julian Barnes và anh trai ông - một nhà triết học. Julian Barnes thừa nhận ông và anh của mình từng bất đồng ý kiến khá nhiều về những sự kiện xảy ra trong thời thơ ấu. Người anh tuyên bố những kí ức rất có thể sai lầm nếu ta không có những chứng cứ độc lập để xác minh. "Tôi thì tin hơn vào kí ức, hoặc đang tự đánh lừa bản thân mình" - Julian nói.  Có lối viết chiêm nghiệm và mở ra nhiều suy nghĩ nhưng "Nghe mùi kết thúc" lại rất dễ đọc, rất thanh lịch, tao nhã, đậm chất Anh. Nó cũng là một câu chuyện tình thời tuổi trẻ khi bản năng và lý trí nằm ở những tầng khác nhau. Ở giữa Tony Webster và Adrian là Veronica - một cô gái vô cùng thông minh, lý trí, người đã chuyển từ vị trí người yêu của Tony sang yêu Adrian.  "Nghe mùi kết thúc" thực sự là một cuộc phiêu lưu đáng giá của suy nghĩ và kí ức. Dù kí ức của mỗi người hiện đang có là ngắn hay dài.  *** “Một viên ngọc của sự hàm súc và chính xác… Nghe mùi kết thúc gói gọn chỉ trong ngần ấy trang nhiều thứ đến nỗi khi đọc xong ta thấy thỏa mãn hơn so với đọc nhiều cuốn tiểu thuyết dày gấp mấy lần như vậy.” – THE LOS ANGELES TIMES “Bi đát nhưng mạnh mẽ, Nghe mùi kết thúc dấn sâu vào những bí ẩn của ký ức chúng ta, nói thôi thúc khiến chúng ta muốn chỉnh sửa, viết lại và đôi khi xóa bỏ hoàn toàn quá khứ của chúng ta.” – VOGUE “Với sự tinh tế và khéo léo đặc trưng, Barnes chuyển trò chơi mèo-bắt-chuột này thành một câu chuyện thực sự căng thẳng và hấp dẫn.” – THE WASHINGTON POST “Ngắn gọn, đẹp… Cái câu hỏi lạnh xương sống ấy – Tôi có đúng là người mà lâu nay tôi vẫn đinh ninh là mình không? – hóa thành một câu hỏi ẩn chứa nhiều bất ngờ đến đáng ngạc nhiên. Như Barnes đã làm phơi lộ ra một cách vừa cao nhã vừa đau đớn, chúng ta thẩy đều là những người kể chuyện không đáng tin, những kẻ được cứu chuộc không phải nhờ sự chính xác của ký ức chúng ta mà nhờ chúng ta sẵn sàng đặt nghi vấn về ký ức đó.” – THE BOSTON GLOBE Tony đã già, Tony cảm nhận rõ đoạn kết cuộc đời mình. Một cuộc đời dường như ổn thỏa, tuy có thất vọng, có ly dị và nhiều mất mát – như mọi cuộc đời. Thế nhưng Tony sẽ rất bất ổn ở chính cái đoạn kết này. Julian Barnes, nhà văn danh tiếng của nước Anh, đã vô cùng lạnh lùng và tỉ mỉ - nhưng chỉ cần sử dụng rất ít trang giấy – miêu tả cái nhà tù mà con người bị giam hãm bên trong, như một điều không thể khác; nhà tù ấy ác nghiệt vì là tổng thể của hiện tại, tương lai và quá khứ. Những mảnh vụn li ti của quá vãng, cộng dồn thêm bao nhiêu thời gian và sự nham hiểm của số phận, khi đuổi kịp Tony đã mang sức nặng khủng khiếp, sức nặng của kết cục. Văn chương bậc thầy thường xuyên có một sắc thái quỷ quyệt, điều này thể hiện trong cuốn tiểu thuyết này dưới dạng một lời nhắn nhủ vô thanh của tác giả: Đừng quá tự tin, vì cuộc đời này vốn dĩ rất nhiều bất ổn. “Dày đặc những ý tưởng triết lý… Cuốn sách tạo ra sự căng thẳng đích thực chẳng khác gì một loại truyện trinh thám về tâm lý con người.” – Michiko Kakutani, THE NEW YORK TIMES   Mời các bạn đón đọc Nghe Mùi Kết Thúc của tác giả Julian Barnes.
Sững Sờ và Run Rẩy - Amélie Nothomb
Một cô gái trẻ phương Tây làm việc cho một công ty của Nhật, do sự khác biệt văn hóa, nên đã chu du một vòng công sở với những công việc ít ai ngờ tới nhất. Điểm hấp dẫn đầu tiên trong cuốn sách nhỏ nhắn này: đây là một câu chuyện có thật, từng xảy ra với Amélie Nothomb. Với điểm xuất phát chân thực đó, một câu chuyện phiêu lưu hài hước đã mở ra với cả tá tình huống dở cười dở mếu. Thay vì có một vị trí ổn định trong công ty, đổi chỗ cho cái nhìn trân trọng đối với một đồng nghiệp nước ngoài, Amélie loay hoay hết chỗ nọ tới chỗ kia, thậm chí, có lúc cô thấy mình thậm chí chưa phải là con số không. Cuốn sách được trải ra giữa hai thế giới đối lập. Ước muốn trở thành một phiên dịch, song Amélie giống một kẻ vô công rồi nghề ở công ty; đổi lại cho bao công sức thi đầu vào, Amélie lượn lờ khắp các ngóc ngách như một hình ảnh lố bịch khi đi bóc lịch hoặc tranh việc phân phát thư của người đưa thư; lẽ ra phải đau khổ, vật vã lắm, nhưng Amélie lại cảm thấy nhẹ nhõm và rất đỗi bằng lòng trước những công việc vớ vẩn nhất mà cô tự xin hoặc bị giao phải làm. Sự khôi hài của hoàn cảnh và lối kể chuyện bình dị, chân thực, tao nhã đã tạo nên sự quyến rũ thú vị cho Sững sờ và run rẩy, lôi kéo độc giả trong một khám phá mới mẻ: hiện đại hóa mâu thuẫn lâu đời giữa phương Đông và phương Tây. Nó khiến người ta đón nhận những điều vô lý nhất đang dồn ép Amélie theo chiều hướng tích cực: lo lắng nhưng không sợ hãi, thất vọng nhưng không sụp đổ. Không mô tả nhiều song thế giới nhân vật trong Sững sờ và run rẩy hiển hiện thật đậm nét với phát hiện tinh tế của Amélie Nothomb, từ nét tính cách của mỗi cá nhân tới hình ảnh chung về những người trong hệ thống công sở ở Nhật. Tất tật chỉ có bốn người: ông Haneda là chủ tịch hội đồng quản trị, ông Omochi là cấp phó, sau đó là ông Saito và cô Mori. Mọi va chạm, mâu thuẫn, xung đột đều liên quan tới chừng ấy người. Nhưng họ là sức mạnh không gì phá vỡ nổi khi xếp đặt cạnh nhau và được kết nối bằng thứ keo dính đặc biệt có tên là “nguyên tắc”. Amélie bị đẩy thành bà “Nước Tiểu” trong cơ quan cũng chỉ vì cô không sao hiểu nổi hệ thống ấy, và điều này như một thứ gia vị hài hước, tạo cho cuốn tiểu thuyết góc nhìn sắc sảo mà đậm chất hài hước. *** Amélie Nothomb sinh ngày 13/8/1967 tại Kobe, Nhật Bản và chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa đất nước mặt trời mọc. Năm 1992, cô xuất bản tiểu thuyết đầu tay, Hygiène de l’assassin (Hồi ức kẻ sát nhân), cuốn sách đánh dấu thành công đầu tiên của cô. Đến nay, Amélie đã xuất bản 17 tiểu thuyết và trở thành một hiện tượng văn học không chỉ của nước Pháp. Các tác phẩm của cô được dịch ra gần 40 thứ tiếng khác nhau, trong đó Sững sờ và run rẩy ra mắt năm 1999, đánh dấu một bước ngoặt trong sự nghiệp của nữ nhà văn trẻ. Đây chính là cuốn sách thành công nhất của Amélie Nothomb, giành Giải thưởng Lớn của Viện hàn lâm Pháp cho thể loại tiểu thuyết. Tờ Le Soir nhận xét: “Amélie Nothomb là một trong những nhà văn nổi bật nhất trong thời đại cô. Với sự đều đặn của máy đếm nhịp, cây bút này cho ra đời những tiểu thuyết thường được ca ngợi bởi sự độc đáo, tính nhân văn và chất dữ dội của chúng”. *** Ông Haneda là cấp trên của ông Omochi. Ông Omochi là cấp trên của ông Saito. Ông Saito là cấp trên của cô Mori. Và cô Mori là cấp trên của tôi. Còn tôi không là cấp trên của ai hết. Hoặc có thể nói theo cách khác. Tôi làm theo lệnh của cô Mori, cô Mori làm theo lệnh của ông Saito, và cứ tiếp tục như thế, các mệnh lệnh được truyền từ trên xuống dưới qua các cấp thứ bậc với sự chính xác này. Vậy là, trong công ty Yumimoto, tôi y theo lệnh của tất cả mọi người. Ngày mùng 8 tháng Giêng năm 1990, chiếc thang máy nhả tôi lên tầng cuối cùng trong tòa nhà của công ty Yumimoto. Ô cửa sổ cuối sảnh thu hút tôi, giống như người ta bị hút về phía cửa sổ máy bay bị vỡ. Ở phía xa, rất xa là thành phố xa tới mức tôi cứ ngỡ như chưa bao giờ đặt chân tới đó. Thậm chí tôi không nghĩ tới việc phải trình diện ở lễ tân. Thực ra, lúc đó trong đầu tôi chẳng có ý nghĩ gì khác ngoài cái khoảng không hấp dẫn kia, ngoài cái khuông cửa mênh mông toàn kính kia. Cuối cùng, một giọng khàn khàn gọi tên tôi từ đằng sau. Tôi quay lại. Một người đàn ông trạc năm mươi tuổi, dáng người nhỏ thó, gầy và xấu xí, nhìn tôi vẻ khó chịu. - Sao cô đến mà không báo cho lễ tân? - ông ta hỏi tôi. Tôi chẳng biết trả lời sao nên im lặng. Tôi cúi gập người và nhận thấy là trong vòng mười phút, dù chưa nói lời nào, tôi đã gây ấn tượng không hay vào ngày đầu tiên đến nhận việc ở công ty Yumimoto. Người đàn ông nói ông ta là Saito. Ông dẫn tôi qua vô số những căn phòng rộng thênh thang và giới thiệu tôi với nhiều nhóm người có mặt trong đó, nhưng ông ta nêu tên họ tới đâu thì tôi cũng quên dần tới đó. Sau đó, ông dẫn tôi vào phòng làm việc của cấp trên của ông ta, đó là ông Omochi, dáng người đồ sộ và đáng sợ, chứng tỏ ông ta chính là phó chủ tịch. ... Mời các bạn đón đọc Sững Sờ và Run Rẩy của tác giả Amélie Nothomb.
Chúng Ta Sẽ Bên Nhau Bao Lâu - CaDe & Hạc Xanh
CaDe và Hạc Xanh là hai cây bút quen thuộc của đối với cộng đồng yêu văn học. Tuyển tập truyện ngắn "Chúng ta sẽ bên nhau bao lâu?" gồm những câu chuyện về tình yêu nhẹ nhàng, lãng mạn, như những lát cắt nhỏ của nhịp sống xô bồ giữa những trái tim yêu son trẻ đầy nhiệt huyết. Khi cầm trên tay tập truyện ngắn này, bạn sẽ thấy sự kết hợp độc đáo giữa hai cá tính khác biệt. Một nàng Ma Kết với giọng văn sắc sảo và sâu sắc, cùng một nàng Kim Ngưu với văn phong mềm mại. Hai cô gái như muốn bộc bạch cùng bạn đọc những suy tư của mình trên chặng đường yêu vốn quanh co khúc khủy. Là sự lãng mạn nên thơ của những mối tình đầu, là những mong manh dễ vỡ giữa những cảm xúc riêng chung. Là đau đấy, là đắng chát đấy, nhưng vẫn chờ mong, vẫn cần mẫn và kiên trì nuôi dưỡng tim yêu thành thật để chạm được vào đích hạnh phúc của cuộc đời mình. Cũng là vì tuổi trẻ cần yêu, nên yêu, sau bao lần vấp ngã vẫn muốn trao tim mình cho kẻ khác. Nên bất cứ lúc nào chữ "yêu" trong tuyển tập truyện cũng rung lên khe khẽ, hòa nhịp đập tim yêu son trẻ cùng độc giả. Vậy nên, giữa những yêu thương còn chưa tròn vẹn, giữa những nút thắt cho câu chuyện tình khi tuổi trẻ đang trôi qua, cũng chỉ mong chúng ta sẽ mở lòng đón nhận nhau giữa cuộc đời này bình ổn. Và khi nhắc nhớ về nhau, sẽ không quá xót xa cho câu hỏi: Chúng ta sẽ bên nhau bao lâu? *** Nếu thế giới này không có yêu thương liệu sẽ ra sao? Sẽ hoàn toàn là những khoảng trống nối tiếp nhau đi trên đường, sẽ hoàn toàn là những gương mặt lạnh, những trái tim lạnh, thờ ơ sống mãi cho đến hết cuộc đời? Nếu như thế, không biết mọi người có cảm thấy cô đơn không? Cuộc đời tuy ngắn ngủi so với vũ trụ, nhưng xét ra cũng dài đằng đẵng, cho đi yêu thương đôi khi cũng là điều hạnh phúc, không chỉ để dừng chân mỗi khi biết mỏi mệt, mà còn để lưu giữ phần tình cảm đáng quý nhất trong suốt cuộc đời. Đi đến tận cùng vạch đích mới có thể biết ai là người đồng hành kiên nhẫn, bền bỉ ở bên cạnh chúng ta cho đến phút cuối cùng. Những lần hợp tan, những người ghé qua trạm dừng chân rồi vội vàng ra đi, cũng chỉ là đóng góp vào cuốn sách cuộc đời của chúng ta thêm phần ý nghĩa. Phải cảm ơn tuổi trẻ, đã cho chúng ta yêu thương và được yêu thương, đã cho chúng ta những lần vấp ngã rồi trưởng thành, để biết trân trọng quá khứ đã đi qua … Mời các bạn đón đọc Chúng Ta Sẽ Bên Nhau Bao Lâu của hai tác giả CaDe & Hạc Xanh.