Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tội Ác Ở Orcival

Một buổi sáng mùa hè ở Orcival, người ta phát hiện thi thể biến dạng của nữ bá tước Trémorel bên bờ sông Sein. Cách đó không xa lâu đài của nạn nhân bị xới tung, còn ngài bá tước thì biệt vô âm tín. Chính quyền địa phương đã lập tức vào cuộc và tìm ra bằng chứng kết tội một gia nhân cố ý giết người để cướp của. Nghi phạm một mực kêu oan nhưng lại không thể chứng minh mình vô tội. Vụ án tưởng chừng như khép lại thì sự xuất hiện của Lecoq - một nhân viên an ninh Sở Cảnh sát Paris và lá thư tuyệt mệnh của một cô gái trẻ đã làm thay đổi kết quả điều tra. Những bí mật về cái chết của vị nữ bá tước xinh đẹp dần được hé lộ. Liệu có âm mưu gì khủng khiếp đằng sau hay không? Quá khứ tội lỗi nào đang được ẩn náu đằng sau tội ác ở Orcival? *** Tội ác ở Orcival là sự kết hợp giữa một cốt truyện đầy yếu tố bất ngờ và một câu đố hay. Ngay từ đầu truyện, tác giả đã đưa ra một lời đố với độc giả: Một nữ Bá tước xinh đẹp bị sát hại, cách đó không xa lâu đài của cô bị xới tung, mọi nghi vấn đều hướng về một người gia nhân được tình nghi là giết chủ để cướp đoạt tài sản. Tám chương đầu tiên của truyện tập trung vào điều tra dấu vết hiện trường. Sau đó các chương còn lại tập trung cho việc đi giải mã “câu đố” mà Gabodiau đã đưa ra ở đầu truyện. Tội ác ở Orcival được viết theo lối truyện lồng truyện, khi có đến 2 cốt truyện, người đọc không gặp khó khăn trong việc tìm ra cốt truyện của Gaboriau. Tuy nhiên, với các nút xoắn khéo léo, cùng với nghiệp vụ pháp y, pháp chứng, chúng ta sẽ không thể rời mắt được khỏi những trang đầu tiên. Có thể tóm gọn truyện được chia làm 3 phần: Phần đầu của tác phẩm phá án suy luận thuần túy nhường ngôi cho nghiệp vụ truy tìm dấu vết hiện trường, phần giữa là việc tác giả đi lí giải nguyên nhân dẫn đến tội ác và phần cuối cùng giống như báo cáo điều tra, thậm chí có cả một báo cáo pháp y ngắn gọn. Quan điểm bốn “người khôn ngoan’ được cẩn thận dệt vào phần đầu tiên của câu chuyện, cho nó chiều sâu và đa dạng. Toàn bộ điều này là rất đáng tin cậy, đặc biệt là cho một sản phẩm của những năm 1860 giật gân. Việc đưa ra một vụ án giết người với nhiều những nút thắt kết hợp với các kiến thức điều tra ở thế kỉ thứ XIX sẽ khiến người đọc ngỡ ngàng. Thì ra không chỉ ở hiện đại mà việc điều tra hiện trường, tìm dấu vết ở thời đó cũng đã rất phát triển. Điểm nổi bật của Tội ác ở Orcival chính là sự cân bằng giữa hai cốt truyện. Vụ án của nữ Bá tước diễn ra vào mùa hè, vào ban ngày, ở vùng ngoại ô thượng lưu xinh đẹp; và Lecoq nằm trong khu ổ chuột, vào mùa đông, vào ban đêm. Cả hai bối cánh này đều liên quan đến việc điều tra một hiện trường vụ án, và có mối quan hệ tới những người liên quan. Nhưng dù ở câu chuyện nào đi chăng nữa thì cách mô tả dấu vết và tái tạo hoạt động tội phạm tại hiện trường rất rõ ràng. Bên cạnh tài suy luận của Lecoq thì phần lớn việc điều tra phá án đều dựa trên khoa học và các dấu vết tìm được ở hiện trường. Lecoq trong tác phẩm này giống như một “cỗ máy biến hình” và nổi bật lên với câu nói “Nếu tôi sai tôi không phải là Lecoq”. *** Người review: Trần Mạnh Hiệp - Nguồn: Hội thích truyện trinh thám Ngay từ Hồ sơ 113, Gaboriau đã cho thấy mình là một tác giả trinh thám tài ba hàng đầu, và Tội ác ở Orcival càng khẳng định điều đó chắc chắn hơn. Khác vs sự mở đầu chậm rãi của Hồ sơ 113, tác phẩm tiếp theo của Gaboriau có tiết tấu nhanh ngay từ nhứng trang đầu tiên, với án mạng kinh hoàng xảy ra. Trong các tác phẩm trinh thám cổ điển , ít khi các vụ án mạng kinh hoàng được miêu tả rõ ràng, nhưng vụ án ở Orcival lại đc miêu tả chi tiết vs những nhát rìu phá huỷ mọi thứ, những dấu máu chảy dọc cầu thang, vs dấu tay máu in trên cánh cửa. Tất cả nhanh chóng cuốn hút người đọc vào điều bí ẩn của vụ án, ko có những sự trì hoãn, những phút giây bình đạm chậm chạp hay xuất hiện trong các tác phẩm cổ điển. Có lẽ với những độc giả trung thành của truyện trinh thám, cùng vs 1 chút óc phán đoán, sẽ nhanh chóng nhận ra hung thủ thực sự là ai. Nhưng cũng như Hồ sơ 113, tài hoa của Gaboriau ko nằm ở chỗ che dấu hung thủ. Cái hay của các tác phẩm của ông nằm ở sự thật được che dấu đằng sau vụ án. Những bí mật ở trong quá khứ. Lần giở theo từng trang sách, độc giả sẽ trải qua những cảm xúc từ chán ghét, tới khinh bỉ và rồi ngạc nhiên vì những nhân vật mà Gaboriau tạo ra. Những góc khuất của con người: sự ganh ghét ti tiện , sự ngưỡng mộ và tình yêu mù quáng, sự tuyệt vọng hoá thành thù hận... Mọi nhân vật trong Tội ác ở Orcival đều được xây dựng một cách khéo léo, để lại ấn tượng cho người đọc. Đương nhiên, ko thể ko nhắc đến thám tử chính - ngài Lecoq. Một lần nữa, vị thám tử tài năng lại tái xuất. Hình tượng Lecoq hiện diện một cách rõ ràng hơn trong tác phẩm này. Một Lecoq khác biệt khi đứng cạnh Sherlock Holmes, Poirot, hay Drury Lane. Vị thám tử người Pháp vẫn có tài năng suy luận tài tình, khả năng quan sát thấu đáo, tính tỉ mẩn như những đồng nghiệp của mình. Nhưng ông cũng hiện lên với 1 chút láu cá, 1 chút châm biếm hơn những vị kia. Ông có những thói xấu khá tầm thường - như ông tự nhận - là cờ bạc và phụ nữ. Ông cũng có những điểm yếu , nhưng phút lơ đễnh trong lập luận: như điểm yếu về sự vô tội của anh chàng giúp việc . Tội ác ở Orcival vẫn còn một chút yếu ở kết truyện. Khi sự thật đã đc sáng tỏ, người đọc có lẽ sẽ trông chờ thêm một chút bất ngờ, hay một nút thắt để tạo thêm kịch tính - ở điểm này đáng tiếc là Gaboriau chưa làm đc. Câu chuyện kết thúc một cách viên mãn, một kết thúc có thể làm hài lòng độc giả, nhưng chưa phải là một kết thúc có thể khiến người đọc sau khi gấp sách lại phải thở ngắn than dài vì ấn tượng. Chút tiếc nuối cho một tác phẩm tuyệt vời . *** Review của Binh Boog về sách Tội Ác Ở Orcival   Thám tử Lecoq (Pháp) không chỉ vui mừng khi giơ cao chiếc cúp vô địch FiFa World cup 2018 mà còn ghi bàn một cách đẹp mắt và ngoạn mục ở Orcival - nơi diễn ra một tội ác ghê sợ. Ở vùng đồng quê yên ả Orcival vào một ngày đẹp trời. Xác một vị bá tước phu nhân xinh đẹp nhất vùng được phát hiện Trên thi thể nạn nhân phát hiện thấy dấu vết bị bầm dập, kèm thêm hơn hai chục vết dao đâm. Cách đó không xa, tại lâu đài của nữ bá tước, người ta phát hiện thấy dấu hiệu đồ đạc bị lục lọi, đổ vỡ bừa bãi ở trong phòng ngài bá tước. Theo nhận định ban đầu của chính quyền địa phương thì đây là một vụ cướp của, giết người, và có khả năng chồng của bà bá tước cũng bị giết hại. Xác của ngài bá tước thì vẫn chưa được tìm thấy nhưng mọi bằng chứng kết tội thì lại hướng về một gia nhân trong nhà. Liệu mọi việc có đúng như vậy hay đằng sau đó còn ẩn náu một tội ác nào khác? Với độ dày 539 trang Tội ác ở Orcival không hề gây buồn ngủ, trái lại còn đem lại một sự lôi cuốn, hấp dẫn khiến bạn không thể dừng lại được. Hình ảnh của thanh tra Lecoq chính là nguồn cảm hứng để Conan Doyle xây dựng nên nhân vật huyền thoại Sherlock Holmes nên ta thấy rất nhiều nét quen thuộc. Ở trong tác phẩm này hình ảnh thanh tra Leqoq được xây dựng một cách rất rõ nét: thông minh, tỷ mỉ, cẩn trọng, rất giỏi hoá trang, khả năng quan sát nhạy bén, khả năng phán đoán, nhận biết tình hình, khả năng phân công, sắp xếp công việc. Và không thể phủ nhận rằng thanh tra Lacoq là một anh chàng điển trai, có sự thu hút hấp dẫn đối với chị em phụ nữ. Có thể đọc đến 1/2 tác phẩm bạn sẽ nhận biết được phần nào về toàn bộ bức tranh của vụ án, nhận biết được hung thủ nhưng đừng vội mừng. Vì đi đến tận gốc rễ để tìm ra nguyên nhân của tội ác sẽ là điều khiến bạn bất ngờ và sửng sốt. Câu chuyện xảy ra để lại rất nhiều những bài học, những suy nghẫm về tình bạn, tình yêu. Phụ nữ luôn là những sinh vật khó hiểu và bạn sẽ không bao giờ có thể hiểu được phụ nữ nhất là những phụ nữ càng đẹp thì càng nguy hiểm. Một lần nữa có thể thấy rằng: “Hôn nhân là mồ chôn của tình yêu?” Và bạn đừng bao giờ đặt niềm tin vào một ai, cũng đừng bao giờ sống quá tốt với người ngoài. Theo cảm nhận của Boog thì đây là một tác phẩm trinh thám giá trị, đủ sức lôi cuốn, hấp dẫn tới tận trang cuối cùng, mang lại nhiều cảm xúc, để lại nhiều suy ngẫm. Có thể bối cảnh câu chuyện diễn ra từ thời xa lắc xa lơ nhưng những gì tác phẩm mang lại không hề cũ. *** Review của Minh Tien về sách Tội Ác Ở Orcival Gấp sách lại rồi mà tôi vẫn bâng khuâng, trăn trở, không thể đọc được một cuốn sách khác như tôi vẫn thường làm. Yêu và hận gần nhau đến thế thôi sao? Có gì đau đớn hơn không khi hận thù đến từ người mà ta yêu thương, tôn thờ. Và đau đớn hơn nữa khi ta cũng đã nhen mối lửa hận trong lòng. Cuốn sách được mở đầu bằng việc , thi thể Bá tước phu nhân được phát hiện bên bờ sông êm đềm thuộc địa phận xã Orcival, ngoại thành Paris. Cảnh sát địa phương vào cuộc. Lâu đài được xới tung. Bá tước, được xác định là đã bị sát hại nhưng không tìm thấy xác. Cùng thời điểm đó, 1 cô gái ở lân cận lâu đài mất tích cùng lá thư tuyệt mệnh. Cảnh sát địa phương bắt giữ một gia nhân, anh này nhất quyết không khai báo và chứng minh sự ngoại phạm của mình... Ai là hung thủ? Có bí ẩn nào ở phía sau tội ác này?... Bên cạnh sự nhạy bén của Thám tử Lecoq, không thể không nhắc đến nhân vật cha Plantat, Thẩm phán hoà giải địa phương. Các tài liệu, chứng cứ mà ông có trong tay đã khiến cho việc điều tra giảm được rất nhiều thời gian và gỡ nút cho những các tình tiết truyện một cách hợp lý. Ông cũng là nhân vật mà tôi khá yêu thích trong tác phẩm. Cảm xúc, tình yêu, sự hi sinh của ông đều rất đáng được trân trọng. Nếu xét về mặt trinh thám, như đã khẳng định từ đầu, hung thủ vụ án sát hại Bá tước phu nhân được vạch mặt khá sớm. Nhưng, những tình tiết tiếp theo mới làm cho cuốn sách trở lên tuyệt vời. Những vụ án ẩn giấu phía sau mới là điểm thú vị của cuốn sách.Tiếp tục viết sẽ khiến bạn không còn muốn đọc sách. Do vậy, tôi chỉ thật lòng khuyên bạn hãy đọc và suy ngẫm. Chắc chắn, cuốn sách sẽ không làm bạn thất vọng. Mời các bạn đón đọc Tội Ác Ở Orcival của tác giả Émile Gaboriau.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nhân Chứng Đã Chết - Harlan Coben
Vợ chưa cưới KATHY mất tích bí ẩn, sự nghiệp mới chớm nở tưởng như bị đe dọa, nhưng bằng cách nào đó, ngôi sao bóng bầu dục sinh viên CHRISTIAN STEELE vẫn nhẹ nhàng vượt qua được áp lực của dư luận. Mặc dù vậy, khi bức ảnh khỏa thân của KATHY bất ngờ xuất hiện trên một tạp chí khiêu dâm, mọi diễn biến đã đảo lộn đến chóng mặt. Quá nhiều kẻ tình nghi, quá nhiều động cơ, và quá nhiều bí ẩn. Với những lập luận chặt chẽ và hiểu biết sâu sắc của mình về thế giới thể thao Mỹ, HARLAN COBEN đã cùng nhân vật chính của mình, thám tử kiêm nhà đại diện thể thao MYRON, đưa người đọc qua những mặt trái của xã hội, của đời vận động viên để đến với một cái kết đầy bất ngờ và ám ảnh. *** Otto Burke, phù thủy thương thuyết, nâng tầm cuộc đấu lên một bậc. “Đi mà, Myron,” hắn thúc giục với vẻ hăng hái theo cung cách mộ đạo kiểu mới. “Tôi chắc chắn chúng ta có thể thấu hiểu nhau. Anh nhường một ít. Tôi nhường một ít. Titans là một đội. Hiểu theo nghĩa rộng hơn thì tôi muốn tất cả chúng ta là một đội. Bao gồm cả anh nữa. Hãy làm một đội đích thực đi Myron. Anh thấy sao?” Myron Bolitar chụm đầu ngón tay vào nhau. Anh đọc được ở đâu đó rằng hành động đó làm ta trông có vẻ trầm tư. Nhưng bản thân anh thì lại thấy điều đó quả là ngớ ngẩn. “Otto à, tôi nào muốn gì hơn,” anh nhắc lại cái câu vô nghĩa mà suốt từ nãy đã được nhai đi nhai lại không biết bao nhiêu lần. “Thật đấy. Nhưng chúng tôi đã nhường hết mức rồi. Giờ đến lượt anh.” Otto gật đầu lia lịa, như thể hắn vừa nghe thấy một quan điểm triết học kỳ quái khiến ngay cả Socrates cũng phải hổ thẹn. Hắn nghiêng đầu, hướng nụ cười thớ lợ về phía huấn luyện viên đội bóng. “Larry, anh thấy sao?” Bắt lấy tín hiệu gợi ý, Larry Hanson vội gõ nắm tay lông lá to như con chuột nhảy lên chiếc bàn hội nghị. “Quỷ tha ma bắt cậu đi, Bolitar!” gã hét lên. “Nghe thấy không, Bolitar? Cậu có hiểu tôi đang nói gì với cậu không? Quỷ tha ma bắt cậu đi.” “Quỷ tha ma bắt,” Myron gật đầu nhắc lại. “Hiểu rồi.” “Cậu giở trò láu cá với tôi đấy hử? Trả lời tôi xem nào, bố khỉ! Láu tôm láu cá hử?” Myron nhìn gã, “Răng anh giắt hạt anh túc kìa.” “Mẹ kiếp đồ láu cá.” Larry Hanson trợn mắt. Gã liếc mắt về phía sếp rồi quay lại nhìn Myron. “Việc này không hợp với cậu đâu, Bolitar. Mà cậu biết mẹ nó rồi còn gì.” Myron làm thinh. Thực chất, Larry Hanson cũng có phần đúng. Myron không thích hợp. Anh mới làm đại diện thể thao hai năm nay. Phần lớn khách hàng của anh là những trường hợp còn non - những kẻ may mắn đạt đủ tiêu chuẩn và chạm mức tối thiểu của liên đoàn. Và bóng bầu dục chưa bao giờ là món tủ của anh. Anh chỉ có ba cầu thủ chơi ở giải bóng bầu dục nhà nghề Mỹ NPL, trong đó chỉ có một cầu thủ chính thức. Giờ Myron ngồi đối diện bậc tuổi trẻ tài cao - Otto Burke, ba mốt tuổi, người trẻ nhất sở hữu một đội bóng thuộc NFL, và Larry Hanson, một huyền thoại bóng bầu dục nay đã là giám đốc điều hành, đàm phán một hợp đồng mà dù chỉ do một tay non nớt như anh đảm nhận nhưng lại là bản hợp đồng khởi nghiệp bự nhất lịch sử NFL. Phải, anh - Myron Bolitar - đã giành được ‘Hàng nóng’, Christian Steele. Tiền vệ hai lần giành cúp Heisman*. Ba lần lọt vào thẳng bảng xếp hạng của hãng tin AP và UPI với tư cách quán quân. Nếu thế chưa đủ thì cậu nhóc này còn là chàng trai trong mộng của các cô gái. Một sinh viên ưu tú, sáng sủa, ăn nói lưu loát, lịch sự và là người da trắng (hầy, nếu điều này quan trọng). Trên hết, cậu ta thuộc về Myron. “Đề nghị được đưa ra rồi đấy, thưa các quý ông,” Myron nói tiếp. “Chúng tôi nghĩ thế là quá công bằng rồi.” Otto Burke lắc đầu. “Thật vãi cả phân!” Larry Hanson hét lên. “Cậu ngu bỏ mẹ, Bolitar ạ. Cậu sẽ làm sự nghiệp của thằng nhóc đi tong mất.” Myron dang tay ra. “Sao mọi người không cùng ôm nhau một cái cho nó tình cảm nhỉ?” Larry định buông thêm một câu chửi thề, nhưng Otto đã giơ tay lên ngăn lại. Hồi Larry còn thi đấu, những cú đòn chặn của Dick Butkus và Ray Nitzchke không thể cản bước gã. Giờ chỉ một cái khoát tay cũng có thể làm kẻ tốt nghiệp Harvard nặng ngót bảy mươi cân này ngậm miệng. Otto Burke nhoài người ra. Hắn vẫn chưa tắt nụ cười, chưa thôi khua khoắng tay, chưa thôi trao đổi ánh mắt - như một bộ phim quảng cáo sống động về Năng lực Cá nhân của diễn giả Anthony Robbins vậy. Làm người khác bối rối phát điên. Otto nhỏ thó, một gã đàn ông hom hem với những ngón tay bé nhất mà Myron từng thấy. Hắn có mái tóc dài sẫm màu kiểu dân Rock xõa xuống vai. Mặt hắn trông non tơ với chòm râu dê ngớ ngẩn nom như được phác họa bằng bút chì. Hắn hút một điếu thuốc dài ngoẵng, hay có lẽ nằm trên mấy ngón tay bé xíu của hắn nên nó thành ra vậy. “Nào, Myron,” Otto nói, “ta hãy nói chuyện có lý có tình, được chứ?” “Có lý có tình. Mời.” “Tuyệt, Myron, thế sẽ có ích đấy. Sự thật Christian Steele là kẻ vô danh, một tay ất ơ chưa được kiểm chứng. Cậu ta còn chưa từng được khoác đồng phục chuyên nghiệp. Biết đâu cậu ta lại là quả bom xịt của thế kỷ cũng nên.” Larry khịt mũi. “Cậu nên biết chút ít về điều này, Bolitar à, về những cầu thủ chẳng làm được trò trống gì. Những kẻ thất bại.” ... Mời các bạn đón đọc Nhân Chứng Đã Chết của tác giả Harlan Coben.
Nhân Chứng Câm - Agatha Christie
Cách đây không lâu Agatha Christie, nữ nhà văn Anh nổi tiếng, chuyên viết truyện trinh thám, đã qua đời, hưởng thọ trên chín mươi tuổi. Truyện đầu tay của bà xuất hiện năm 1920. Suốt trên sáu mươi năm cầm bút, bà đã viết hàng mấy trăm truyện về tiểu thuyết trinh thám. Nhiều nước trên thế giới đã dịch in tuyển tập của bà, hoặc dựng thành phim. Agatha Christie khác với một số khá đông các nhà văn viết truyện trinh thám phương Tây. Bà không lạm dụng những sự việc rắc rối bí ẩn hoặc bất ngờ để làm chốt dẫn truyện. Bà chú ý đi sâu vào tâm lý con người. Nhân vật các truyện của bà bao giờ cũng được đặt vào những tình huống tâm lý xã hội phức tạp. Câu chuyện phát triển theo sự diễn biến của tâm cảnh các nhân vật và được giải quyết qua cách nhìn nhận thấu đáo cơ sở tâm lý xã hội của những hành động phạm pháp. Ngôn từ các nhân vật trong các truyện của bà rất phong phú thể hiện được tính cách nguồn gốc xã hội của họ, từ giới thượng lưu đến bọn lưu manh đao búa, đồng thời vẫn giữ vẻ độc đáo, gọn gàng, chính xác của tiếng Anh hiện đại. Do đó, như nhà nữ phê bình người Mỹ Ruth Penison đã viết: "Những truyện của Agatha Christie đã phác họa cho các thế hệ mai sau một bức tranh sinh động và chính xác về xã hội nước Anh hiện tại mà bà am hiểu rất tường tận." *** Ngày 1 tháng 5, tiểu thư Arundell từ trần sau một cơn đau ngắn ngủi. Cái chết của tiểu thư không gây ra bất kỳ một chút kinh ngạc nào ở cái thị trấn thôn dã Market Basing nhỏ nhoi này, nơi tiểu thư đã sống từ năm mười sáu tuổi. Thực ra cô gái già này đã quá tuổi bảy mươi, và ai cũng biết là sức khỏe của bà khá mỏng manh. Mười tám tháng trước, bà đã bị một cơn đau gan giống hệt cơn vừa mới rước bà đi. Nếu cái chết của tiểu thư Arundell không làm ai ngạc nhiên thì tờ di chúc của bà lại không phải như vậy. Những ý nguyện cuối cùng của nữ chủ nhân biệt thự Littlegreen đã gây ra ở những người thân của bà biết bao cảm xúc rất khác biệt: kinh ngạc, vui mừng, chê bai, giận dữ và thất vọng. Trong nhiều tuần, thậm chí nhiều tháng ở Market Basing người ta không nói đến chuyện gì khác cả. Mỗi người phát biểu một cách, từ ông John, bác hàng khô, nhà bảo vệ quyền gia đình đến bà Lampri, cô hàng thuốc lá, ai cũng lặp đi lặp lại cả ngày rằng: "Chắc có gì ám muội đây! Các vị cứ nhớ lấy lời tôi!". Chuyện tiểu thư Arundell viết tờ di chúc này, ngày 21 tháng 4 nghĩa là chỉ ít ngày trước khi chết, cũng đủ để khuấy động tâm trí người ta lên rồi. Hơn nữa, nếu ta biết rằng những người thân cận nhất của Emily Arundell đã đến Littlegreen nghỉ lễ Phục sinh thì sẽ dễ dàng hiểu rằng những giả thuyết tai tiếng nhất đã được phát ra, đem đến cho cuộc sống buồn tẻ của cư dân Market Basing một trò giải khuây thú vị. Người ta ngờ rằng bà Wilhelmina Lawson, tùy nữ của tiểu thư Emily Arundell đã biết nhiều về vụ rắc rối này mà không định nói ra. Tuy thế bà Lawson vẫn khẳng định là mình không biết gì hơn những người khác, và còn tỏ ra sững sờ khi đọc tờ di chúc. Nhiều người nghi ngờ tính thành thực của bà ta. Dù sao thì cũng có một người duy nhất biết đích xác bí mật này: Đó là người chết. Theo thói quen, tiểu thư Arundell chỉ hỏi ý kiến bản thân mình để soạn thảo những ý nguyện cuối cùng của mình và bà cũng tránh bộc lộ cho công chứng viên của bà biết những lý do đã buộc bà đổi ý vào giờ chót. Sự giữ kín này của tiểu thư Arundell là điểm nổi bật về tính cách của bà. Là sản phẩm điển hình của thời Nữ hoàng Victoria, bà có những ưu điểm cũng như những khuyết điểm của thời đại. Bề ngoài kiêu kỳ trong bà ẩn giấu một trái tim vàng. Lời nói của bà ngấn gọn, nhưng hành vi của bà biểu lộ một tâm hồn nhân hậu. Và trong thâm tâm bà bảo tồn nhiều điều tế nhị. Các tùy nữ không tồn tại được lâu ở Littlegreen: tiểu thư Arundell vừa hành hạ họ không thương tiếc, vừa đối đãi rộng lượng với họ. Hơn nữa còn bày tỏ công khai là bà hết sức tôn sùng gia đình dòng họ mình. Thứ Sáu trước ngày Chủ nhật Lễ Phục sinh, Emily Arundell ngồi ở tiền sảnh nhà mình và ra chỉ thị cho bà Lawson. Thời con gái, Emily Arundell rất xinh đẹp. Hiện nay cô gái già này vẫn giữ được dáng dấp thanh nhã, cũng còn rất năng động. Nước da bà khá vàng, cho ta biết bà vẫn phải thực hiện chế độ ăn kiêng. Tiểu thư Arundell nói với bà tùy nữ: - Này u! U đã thu xếp cho họ chỗ nghỉ ở đâu rồi? - Quả là con tin... con hy vọng đã xếp sắp ổn rồi... Bác sĩ Tanios và phu nhân ở phòng gỗ sồi, Theresa ở phòng sơn xanh, còn cậu Charles ở phòng ngày xưa dành cho trẻ con... Tiểu thư Arundell ngắt lời bà ta: - Tốt hơn cho Theresa ở phòng trẻ con, còn phòng xanh để cho Charles. - Vâng, vâng... con xin lỗi... con tưởng phòng trẻ con là thích hợp hơn với... - Theresa ở đó sẽ rất tốt. Tiểu thư Arundell thuộc thế hệ coi phụ nữ là thứ yếu. Trong mắt bà, nam giới là bộ phận quan trọng trong xã hội. - Con tiếc rằng các con nhỏ của bà Tanios không đến. - Bà Lawson nói thì thào, giọng buồn buồn. Bà rất yêu trẻ nhưng lại tỏ ra kém khả năng cai quản chúng. - Bốn vị khách là vừa đủ cho chúng ta rồi. - Tiểu thư Arundell vặc lại, bà rất nuông chiều các cháu bà, còn họ chẳng chịu nghe lời bà chút nào. U Lawson thở dài nói: - Bella Tanios là một người mẹ hiền từ. - Phải, Bella, rất tốt. - Tiểu thư Arundell chấp nhận. ... Mời các bạn đón đọc Nhân Chứng Câm của tác giả Agatha Christie.
Tên Trộm Xác Người - James Bradley
Tên Trộm Xác Người là tác phẩm thứ ba của nhà văn người Úc James Bradley, sinh năm 1967. Ông được nhật báo Sydney Morning Herald hai lần phong tặng danh hiệu là một trong “Những tiểu thuyết gia trẻ người Úc tài ba nhất”. Hiện ông sinh sống ở Sydney. Câu chuyện kể về Gabriel Swift, một sinh viên y khoa ngành phẫu thuật. Anh tới London vào năm 1826 để theo học với Edwin Poll, một bác sĩ phẫu thuật lớn. Từ những giao dịch mua bán tử thi, Swift dần lún sâu vào con đường tội lỗi do sự dụ dỗ của Lucan, kẻ nhiều quyền lực nhất trong số những tên đào trộm xác chết của thành phố và cũng là tên trùm cai quản hoạt động này. Bị bác sĩ Poll đuổi học, Gabriel bị cuốn vào thế giới ngầm tàn ác và bí ẩn của thủ đô London thời kỳ Georgian, trở thành một tội phạm. Dù sao, sự cứu rỗi đã đến với Swift ở phần cuối sách. Quyển tiểu thuyết dựa một phần vào sự kiện có thật về hai tên giết người hàng loạt Burke và Hare hồi đầu thế kỷ 19 ở Anh và các hoạt động mua bán xác người của các bệnh viện hay trung tâm phẫu thuật lúc bấy giờ. Truyện không phân theo chương nên khó theo dõi nếu bạn đọc không đọc liền một mạch. Rất cảm ơn sự ủng hộ của các bạn. Sài Gòn, tháng 4/2015 ★★★ “Chúng ta chào đời cùng người chết Thấy chăng, họ quay về, và mang chúng ta theo.” — T.S. Eliot, Four Quartets ★★★ “Nhiều tháng sau khi bạn đã khép lại trang sách cuối, những câu chữ của James Bradley vẫn còn đọng trong tâm trí bạn: Đẹp, hấp dẫn và không thể nào quên.”  — Markus Zukas, tác giả quyển The Book Thief “Một thiên tiểu thuyết lãng mạn kinh dị đầy chất cổ điển.”  — Daily Telegraph “Một quyển truyện kinh dị trần trụi, khơi gợi suy tư… Khi bạo liệt, khi đầy triết lý, quyển truyện này đầy ắp không khí.”  — Big Issue ★★★ London, 1826-1827 Họ nằm trong những cái bao tời như nằm trong tử cung của mẹ; gối chạm cằm, đầu ép xuống, như thể chết chỉ đơn giản là quay về với nhục thể mà từ đó chúng ta sinh ra, và đây là sự thụ thai lần thứ hai. Một sợi thừng sau gối giữ họ trong tư thế đó, một sợi khác cột đôi tay họ, rồi miệng bao khép lại bên trên họ và được cột ràng lần nữa, toàn thể trông như một gói đồ nén chặt, đã được ngụy trang một cách dễ dàng, vì nếu bị người bên ngoài nhìn thấy, một thứ hàng hóa như thế sẽ thu hút cả một đám đông. Thế rồi một con dao cắt phăng sợi thừng cột bao, và người này nhấc lên, người nọ kéo, chúng tôi lôi những thứ bên trong bao ra, đặt họ duỗi dài lên mặt bàn, trần truồng và giá lạnh, như một con bê hoặc một em bé chuồi ra khỏi lòng của mẹ, sợi dây và cái bao được giữ lại, vì một lát sau chúng tôi sẽ dùng lại chúng, để thu dọn những mảnh xác bị cắt rời. Chúng tôi cùng giữ chặt họ, kéo thẳng thi thể họ ra lần nữa. Dù tứ chi của họ không mềm quặt mà cũng không cứng lại, bất chấp sự giá lạnh vẫn còn nấn ná bên trong, tình trạng cứng đờ của họ đã bị phá vỡ bên cạnh nấm mồ khi họ bị bẻ gập lại và cột ràng để nhét vào bao. Lúc này, họ duỗi ra dưới bàn tay nắm giữ của chúng tôi, di chuyển với sự dễ uốn nắn lạ lùng của một thân hình nằm giữa cái chết và tình trạng thối rữa. Đấy là một công việc ghê tởm, thế nhưng sự ghê tởm không nằm ở việc đứng gần người chết mà ở sự thân mật nó đòi hỏi từ chúng tôi, sự cận kề với xác thịt và vật chất của thi thể họ. Khi họ đã được uốn nắn xong, nằm tái nhợt và trần truồng trên bàn, chúng tôi bắt tay vào việc. Trước hết chúng tôi lật úp họ xuống, để lộ phần lưng và mông lốm đốm tím và xanh giống như những vết bầm do máu đã tụ lại suốt nhiều giờ sau khi chết. Nếu lớp thịt bắt đầu thối rữa, sẽ có những chỗ phồng dộp, mềm, nhũn nước và tái nhợt, có thể vỡ toang nếu bị chạm vào, nhưng khi đó, lớp da cũng ẩm ướt do thứ chất lỏng giống như mồ hôi rỉ ra từ chúng. Đôi khi, những người liệm xác sẽ nút kín những lỗ hậu môn, và nếu thế, những vật đó phải được lấy ra khỏi xác. Sau đó, với giẻ lau, nước và dấm, chúng tôi bắt đầu rửa ráy cho họ, đôi tay cẩn thận di chuyển qua lớp da của họ, mùi dấm lẫn vào những thứ mùi u ám hơn bám vào họ, chúng tôi tiết chế những cử động nhưng không phải không lau chùi một cách nhẹ nhàng. Khi đã làm xong phần lưng và hai cẳng chân, chúng tôi lật họ trở lại, lau từ bàn chân lên háng, từ háng lên ngực, hai cánh tay và hai bàn tay, cuối cùng tới bộ mặt. Ở đây chúng tôi làm việc cẩn trọng nhất, lau quanh những đầu xương và chỗ nhô lên với những tấm giẻ gấp gọn, quanh đôi gò má, quanh phần trũng quanh mắt. Đôi khi hai mí mắt vẫn còn hé mở, cứng đờ, đôi mắt bên dưới mờ đục và không màu sắc như mắt của những người rất già. Khi lau rửa xong xuôi, chúng tôi xuống sân lấy nước, xà bông và dao cạo. Nước lạnh, dùng cho thi thể lạnh. Thế rồi, kéo thẳng lớp da chùng, chúng tôi bắt đầu cạo; trước tiên là phần da đầu và mặt, tóc ướt được tách thành từng lọn để lộ ra phần u lên của cái sọ; sau đó là lồng ngực và hai nách; rồi cuối cùng là bộ phận sinh dục, lưỡi dao cạo soàn soạt lướt trên lớp da. Đôi khi chúng tôi cắt phạm vào họ, nhưng chẳng có chút máu nào chảy ra, vết đứt tái nhợt và trống rỗng. Tôi không thể nói do đâu chúng tôi biết rằng đây là công việc cần phải được tiến hành trong im lặng. Chỉ biết cách thức là thế, phải luôn là thế. Vào những lúc khác chúng tôi di chuyển quanh họ như thể họ không nằm đó, nói cười với nhau trong lúc lôi kéo, cắt và dọn dẹp những mảnh thịt, gạt chúng sang bên một cách ngẫu nhiên giống như gạt sang bên một cuốn sách hay cái áo khoác đang nằm ở nơi ta định ngồi xuống. Nhưng lúc này chúng tôi lặng lẽ làm việc, không nói nhiều hơn mức cần thiết. Như thể việc rửa ráy người chết này chính là một nghi lễ: giống như người ta rửa sạch những thứ nhớt nhau từ lòng mẹ trên thân hình một em bé, chúng tôi chùi sạch mùi âm ty địa ngục khỏi những xác chết bị đánh cắp đó, đưa chúng mới tinh khôi vào thế giới. Khi công việc đã hoàn tất, mấy cái bao đã được gấp lại gọn gàng, mấy cái xô đã trút sạch nước, những tấm giẻ đã được vắt và phơi, bắt đầu tới việc tính tiền. Thầy chúng tôi kỹ lưỡng nhất trong việc lưu giữ sổ sách tiền nong, và số tiền trả cho Caley và Walker phải được ghi lại: tám đồng tiền vàng cho một xác đàn ông hay phụ nữ đã trưởng thành, hay thứ chúng tôi gọi là một cái lớn; bốn đồng tiền vàng cho một đứa trẻ con, hay một cái nhỏ; một siling mỗi phân Anh cho thứ mà chúng tôi gọi là một bào thai, hay một em bé dài chưa tới một bộ Anh. Và cứ vậy, trong lúc tôi lau sàn, Robert lặng lẽ tính toán trên cuốn sổ cái, ghi lại những khoản thanh toán, kiểm lại số tiền còn tồn trong hộp đựng tiền, gương mặt giấu sau một tấm mặt nạ lặng buồn mà anh luôn khoác lên khi nghĩ rằng mình không bị ai quan sát. ... Mời các bạn đón đọc Tên Trộm Xác Người của tác giả James Bradley.
Giả Thuyết Thứ 7 - Paul Halter
Một ngày nọ ở Luân Đôn, có hai người đàn ông tài ba danh giá quá chẳng để làm gì, đã chơi tung đồng xu để thách thức tài trí nhau. Theo đó người thắng phải gây ra một vụ án mạng kiểu gì cũng được, sao cho bản thân mình có đầy đủ chứng cứ ngoại phạm, còn các manh mối phạm tội sẽ đổ dồn vào người thua. Một âm mưu thoạt nhìn chỉ để cho vui, cuối cùng như hơi độc thổi bung ra trong không khí, xé toang lồng ngực bao nhiêu người khác, lại cũng làm ngạt thở chính mình. Bởi vì mạng người chưa và không bao giờ là thứ nên đem ra làm trò đùa cợt. Paul Halter, nhà văn trinh thám người Pháp, sở hữu gia tài gồm hơn 30 tiểu thuyết cùng các giải thưởng trong nước và quốc tế. Ông được ưu ái mệnh danh là “Bậc thầy của những căn phòng khóa kín”. Truyện của ông độc đáo vì đã xây dựng được những câu đố và âm mưu tội ác gần như không tưởng. Dùng tiểu thuyết “chuyên chở thông điệp xã hội, khám phá các vấn đề nhân đạo và triết học” cũng trở thành một điểm nhấn khó phai khi nói về Paul Halter. *** Khoảng 10 giờ tối, cảnh sát Edward Watkins đi ngang cung điện St. James như ông vẫn làm nửa tiếng một lần vào những buổi tối phải trực thế này. Nhiều năm qua, ông đã đều đặn thực hiện đúng lộ trình đó mà không gặp sự cố gì. Thi thoảng chạm trán một tay say xỉn có phần ngỗ ngược không thể bỏ qua, nhưng đám đó cũng chỉ đếm trên đầu ngón tay. Khu vực này rất yên bình, yên bình như cuộc đời cảnh sát viên của ông, khi ông đã đi mòn gót, tâm trí chỉ nghĩ về thời khắc nghỉ hưu sắp tới bên người vợ yêu quý của mình. Một cuộc đời chẳng có biến cố gì, thực vậy - cho tới đêm 31 tháng Tám năm 1938. Hai bàn tay đan chéo sau lưng, chiếc mũ cát kéo sụp xuống đầu, thứ âm thanh duy nhất ông nghe được là tiếng bước chân của chính mình trong cái khu vực đang say ngủ, chìm trong bóng đổ của những tòa nhà gớm ghiếc cao ngất bao quanh. Đêm khá lạnh và màn sương nhẹ lững lờ buông xuống phần mặt tiền đầy vẻ hăm dọa. Ông rẽ xuống phố King, đi được nửa chừng thì dừng lại ngó qua vai, như một việc rất bình thường. Đúng lúc ấy, ông nghe tiếng bước chân ở đâu kia phố King, ngay chỗ ngã tư với phố Bury. Nhưng khi vòng trở lại, ông chỉ thấy cái bóng của một kẻ qua đường, hắt lên bức tường cách đó hơn chín mét nhờ một ngọn đèn đường năm ở góc ngã tư. Cảnh sát Watkins đứng yên vài giây, miệng há hốc. Mặc dù chỉ thấy cái bóng trong một thoáng, ông cũng đủ nhận ra một điểm dị thường: Nó có cái mũi dài lạ lùng. Không phải dài hơn mức bình thường vài phân, mà dài một cách quái đản, dễ chừng bằng cả vành mũ rộng mà kẻ đó đang đội. Quỷ quái gì vậy? Một gã cải trang thành chim chăng? Edward Watkins đứng yên thêm vài giây nữa, tâm trí quay cuồng. Khi trấn tĩnh lại, ông rảo bước tới góc phố Bury và nhìn dọc xuống lối đi, vừa kịp thấy nhân vật kia sắp rẽ phải vào một hẻm ở quãng giữa phố, nơi hình như có thêm nhân vật khác đã đến từ trước. Watkins chưa xác định được nhân dạng của kẻ thứ hai, nhưng thoáng thấy thứ gì đó rất giống áo choàng. Diễn biến tiếp theo khá nhanh. Nhân vật kia, có lẽ bị đánh động bởi tiếng chân bước của viên cảnh sát, quay phắt lại đối diện với ông và, lộ rõ vè ngạc nhiên, nó vọt nhanh vào ngõ hẹp. Trong những tình huống bình thường, viên cảnh sát sẽ lập tức bám theo. Nhưng những gì ông vừa thấy - và đặc biệt là vào thời điểm đó - lạ lùng đến mức phải mất vài phút quý giá tâm trí ông mới phục hồi được. Nhưng các giác quan thì không hề phản bội ông và hình ảnh dị thường kia vẫn rõ rệt trong tâm trí: áo choàng dài đến mắt cá chân, đôi tay đeo găng, chiếc mũ rộng vành, và thay vì khuôn mặt, lại chình ình một chiếc mặt nạ trắng ởn mà ở chính giữa là cái mũi dài ít nhất cũng hơn ba mươi phân. Mặc dù chưa bao giờ nhìn thấy hình ảnh ấy bằng xương bằng thịt, nhưng ông đã xem đủ minh họa để hiểu ra: Ông vừa nhìn thấy một bác sĩ dịch hạch. Một bác sĩ dịch hạch. Đã từng có dịch hạch ở Luân Đôn. Những câu chuyện về bệnh dịch khủng khiếp vụt qua tâm trí ông: Người chết nhiều như ruồi trên đường phố, quằn quại trong đau đớn, thân thể đầy mụn mủ, mí mắt thâm đen, gương mặt teo tóp. Xác chất đống lên xe đẩy, rồi trút xuống hào sâu bên ngoài thành phố, nơi một sự hoảng loạn không tên ngự trị, nơi gần như không thể trốn chạy, và nơi người sống trong những ngôi nhà bị nhiễm bệnh chết vì đói hơn là vì dịch hạch. Viên cảnh sát xua dòng ý nghĩ hắc ám ấy đi và định thần lại. Ba trăm năm nay không còn dịch hạch ở Luân Đôn, đã có nhiều hiện pháp hiện đại để kiểm soát nó. Hơn nữa, các bác sĩ không còn lang thang trên đường phố trong bộ trang phục kỳ dị này nữa. Người ông vừa nhìn thấy hoặc là một người đi dự tiệc hoặc một dạng tội phạm nào đó đang chuẩn bị ra tay. Không, như thế thật vô nghĩa. Có nhiều cách kín đáo hơn để che giấu nhân dạng. Vậy thì là gì chứ? ... Mời các bạn đón đọc Giả Thuyết Thứ 7 (Dr. Twist #6) của tác giả Paul Halter.