Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Người Thừa Thứ 14

Thời gian mười bốn ngày đã trôi qua quá nửa, những câu chuyện cũng ngày một đặc sắc. Sự trùng hợp kì lạ giữa những câu chuyện từ đâu mà có? Là "đạo văn" hay ẩn giấu một bí mật gì? Cậu bé lao ra từ nghĩa địa hoang vắng bị một vụ tai nạn xóa sạch mọi kí ức. Không biết chữ, không có cảm giác đau, sức khỏe phi thường, sở thích ăn thịt sống... cậu ta rốt cục là người hay ma quỷ? Trò chơi tử thần vẫn tiếp tục, điều gì đang đợi những "người chơi"? "Người tổ chức" sẽ tung thêm những "chiêu" gì mới? Mục đích của kẻ đó là gì? Bí ẩn nào sắp được hé lộ? Nếu ai đó trước khi đọc hết bộ sách này mà suy luận ra “người tổ chức” là ai và phân tích được nguyên nhân, thì chắc chắn chỉ số IQ phải trên 150. Hãy nhớ rằng, kể từ khi lật mở trang sách đầu tiên, bạn đã rơi vào vòng xoáy của chính trò chơi này. *** Tác giả Ninh Hàng Nhất tên thật là Ninh Hàng, là nhà văn chuyên viết tiểu thuyết trinh thám kinh dị. Anh bắt đầu nghiệp viết từ năm 1999, tới nay đã là một tay bút chuyên nghiệp kiêm biên kịch phim. Tác phẩm của anh được đăng trên nhiều các tạp chí, trang mạng lớn của Trung Quốc, còn được dịch và đăng trên các tạp chí ngoại văn. Một số tác phẩm tiêu biểu có thể kể đến “Tiếng đêm”, “Hẹn với thần chết”, “Chuyến đi sống còn”, “Lời nguyền ngày tận thế”. Ninh Hàng Nhất được đánh giá là cây đại thụ trong làng tiểu thuyết trinh thám mới, là “Alfred Hitchcock” của Trung Quốc. Bộ tiểu thuyết trinh thám 1/14 Trò chơi tử thần gồm có 5 tập hiện đã được xuất bản xong tại Việt Nam, đã được khá nhiều độc giả Việt đón nhận, được đánh giá là bộ tiểu thuyết trinh thám xen lẫn kinh dị gây tiếng vang lớn. Trò chơi cấm là một trong những cuốn series trinh thám mới nhất của tác giả này được xuất bản tại Việt Nam.   Bộ 1/14 gồm có: Trò Chơi Tử Thần Khách Trọ Và Xác Sống Lời Cảnh Báo Người Thừa Thứ 14 14 Ngày Kinh Hoàng *** P hía sau anh, một bóng đen đáng sợ đang từ từ đến gần. Mọi sự chú ý của anh lúc này đều đổ dồn vào xấp giấy kia, anh không mảy may phát hiện thấy gì. Bóng đen đó càng lúc càng áp sát, chỉ đến khi đổ bóng lên sàn nhà trước mặt, anh mới giật mình, quay ngoắt đầu lại. Là Sa Gia. Cô đang cúi người đứng ngay phía sau Nam Thiên, trợn trừng hai mắt, nhìn anh chằm chằm. Nam Thiên sợ đến mức lưng toát mồ hôi lạnh. Anh nuốt nước bọt, hỏi, “Sao cô vào đây?” “Tôi cũng muốn hỏi anh thế.” Sa Gia nói. Đúng rồi, mình đang ở trong phòng Từ Văn - bấy giờ Nam Thiên mới ý thức được. Anh liếc nhìn xác Từ Văn cạnh bên. May là một góc của chiếc chăn đơn đã che kín khuôn mặt xác chết. Anh định thần, quay sang dối diện Sa Gia, hỏi, “Vừa rồi cô làm gì đằng sau tôi vậy?” “Cửa phòng này không khóa. Tôi vào, thấy anh quay lưng lại phía mình, ngồi xổm dưới sàn nhà xem xét gì đó. Vì tò mò, tôi đã rón rén tới phía sau, định ngó xem anh đang nhìn gì.” “Sao cô lại vào phòng Từ Văn?” Sa Gia đứng dậy, cố tránh nhìn vào cái xác của Từ Văn, “Tôi đâu muốn vào đây. Thực ra tôi qua bên phòng tìm anh, thấy anh không có đó, mới nghĩ có thể anh ở bên này.” “Cô tìm tôi có việc gì?” Sa Gia thoáng trầm ngâm rồi mới nói, “Tôi sợ, định tìm anh nói chuyện một lát. Tôi muốn anh... ở cùng với tôi.” Nam Thiên suy xét, trước đó anh cảm thấy hình như Sa Gia rất có thiện cảm với mình. Thế nhưng, anh vẫn nghi hoặc. “Cô tin tôi vậy sao? Cô không sợ tôi chính là hắn - ‘người tổ chức’?” Sa Gia mím môi, im lặng hồi lâu, “Nói thật, tôi không tài nào đoán ra ai là hắn. Tôi thấy không ai giống, nhưng có lúc lại thấy ai cũng giống.” Cô ngẩng đầu, nhìn thẳng Nam Thiên, “Kể cả anh, tôi cũng không dám khẳng định. Vậy nhưng... anh có là hắn, thì tôi cũng biết rồi.” Nam Thiên sững sờ nhìn Sa Gia, “Vì sao?” Sa Gia nhìn Nam Thiên với ánh mắt dịu dàng, tình cảm, “Bị mời tới đây và tham gia trò chơi sống còn này, mỗi ngày tôi đều sống trong nghi kị sợ hãi. Tôi cảm thấy, đại đa số những người ở đây chỉ lo nghĩ cho sự an toàn và lợi ích của bản thân, với người khác lại có ý phòng bị và thù địch. Chỉ anh là khiến tôi cảm thấy có đôi phần ấm áp, ở cạnh anh tôi thậm chí còn thấy an toàn. Trực giác mách bảo tôi, anh là người đáng tin tưởng và trông cậy.” Nam Thiên nhớ lại, lúc mới tới nơi tách biệt này, mười bốn người họ chuẩn bị ngồi vào mười bốn chiếc ghế ở đại sảnh, biểu hiện của Sa Gia rõ ràng là có phần lo lắng bất an. Khi đó, trong anh đã có một thôi thúc được bảo vệ người con gái này, nên đã kéo tay cô, bảo cô ngồi ở ghế của mình. Có lẽ chính hành động nhỏ này đã khiến cô cảm động? Dẫu thế nào thì ở nơi đặc biệt này, giành được sự tin tưởng của ai đó đều là chuyện rất đáng mừng. Nam Thiên cảm kích nhìn Sa Gia, “Cảm ơn cô đã tin tôi.” “Hi vọng anh cũng có thể tin tưởng tôi.” Sa Gia nhìn thẳng vào mắt Nam Thiên nói, “Ở đây, tôi không hi vọng tất cả mọi người đều đối xử chân tình với mình, chỉ cần chúng ta tin tưởng nhau là tôi mãn nguyện rồi.” Nam Thiên có thể cảm nhận thấy sự chân thành từ câu nói của Sa Gia. Anh cũng như Sa Gia, không cách gì đoán biết được người trước mặt mình có phải là “người tổ chức” hay không. Nhưng, anh tình nguyện đánh cược, kết đồng minh với cô gái dịu dàng đáng yêu này hẳn sẽ an toàn và đáng tin hơn là với Hoang Mộc Chu mưu sâu kế hiểm hay Chris thần bí khó đoán. Ít nhất, anh có thể nhận ra tình cảm của Sa Gia đối với mình, là chân thành và không hại anh. Nghĩ tới đây, Nam Thiên nói, “Được, hi vọng chúng ta có thể hợp tác, đối đãi thật lòng thật dạ, cùng nhau tìm ra hắn. Sáu ngày sau, chúng ta cần phải sống để rời khỏi nơi này!” “Ừm!” Sa Gia lộ vẻ tán thành. Đã chọn tin tưởng Sa Gia, Nam Thiên quyết định nói cho cô nghe phát hiện và phân tích về hoàn cảnh hiện giờ của mình. Anh nói, “Cô có biết vì sao tôi đến phòng của Từ Văn không?” Sa Gia bất giác liếc mắt nhìn xác Từ Văn, rùng mình, “Tôi đoán, anh muốn xem qua xác Từ Văn, xem liệu có phát hiện thêm gì không.” “Không phải, tôi vào đây không phải để xem xét thi thể anh ấy, mà là để xem xét căn phòng này.” Sa Gia trừng lớn mắt, “Phòng anh ấy có gì đặc biệt à?” “Hôm qua (chính xác là ngày trước nữa, Nam Thiên không nhận ra giờ đã quá 0 giờ), và cũng chính là ngày Thiên Thu kể chuyện. Tôi tới phòng này tìm anh ấy. Tôi dự định nói chuyện với từng người theo số thứ tự, hi vọng thăm dò được một số thông tin, hay tìm ra gợi ý gì đó.” “Anh định chủ động tấn công, tìm ra hắn thông qua cách tiếp xúc với mọi người?” Sa Gia hỏi. “Đúng vậy. Tôi nghĩ mình không thể ngồi yên chờ chết. Tôi buộc phải thử tìm ra cách vạch mặt hắn trong mấy ngày còn lại!” “Đúng, ta không thể thụ động chờ chết.” Sa Gia tán thành nói, ngẫm nghĩ một hồi, cô lại lộ vẻ lo lắng, “Thế nhưng nếu làm vậy, liệu anh có thu hút sự chú ý của hắn, khiến bản thân rơi vào nguy hiểm không?” “Tôi nghĩ chắc không đâu.” “Tại sao?” “Vì tôi vẫn chưa kể chuyện.” Sa Gia sững lại, “Là ý gì?” “Cô thử nghĩ xem, hắn hao tổn tâm sức ‘mời’ chúng ta đến đây, chính bởi muốn mười bốn người chúng ta ‘chơi’ trò này cùng nhau, như vậy trò chơi hắn thiết kế mới thành công! Nếu hắn giết ai đó, trước khi anh ta kể câu chuyện của mình chỉ vì vài hành động của người này đã khiến hắn tức giận, trò chơi này sẽ không còn hoàn chỉnh với hắn nữa. Tôi đoán, với kẻ cố chấp như hắn, thích sự kích thích và thách thức kiểu dạng này, đây nhất định không phải kết quả mà hắn muốn. Thế nên, tôi có thể lợi dụng điểm này để tiến hành điều tra!” Nam Thiên nhấn mạnh, “Và giờ xem ra, tôi là người thích hợp làm chuyện này nhất rồi.” “Tại sao?” “Vì tôi là người thứ mười bốn, người kể chuyện cuối cùng.” Sa Gia khẽ há miệng. “Nói tiếp chuyện ban nãy, hôm qua lúc tôi tới tìm Từ Văn, quả thực anh ấy đã cho tôi biết một vài thông tin cực kì quan trọng. Anh ấy nói, phòng anh ấy có ma quỷ quấy nhiễu.” “Cái gì, trong phòng này... có ma quỷ quấy nhiễu ư?”, Sa Gia lộ vẻ kinh hãi, cô ôm chặt cánh tay, rùng mình một cái, “Thật không?” Nam Thiên lắc đầu nói, “Tôi nghĩ, chuyện ma quỷ quấy nhiễu là do ảo giác của anh ấy. Nhưng trong căn phòng này nhất định đã xảy ra chuyện gì đó khác thường! Anh ấy nói, thỉnh thoảng vào buổi tối anh ấy nhìn thấy một bóng người đen thui xuất hiện trong phòng, đôi khi còn nghe thấy cả những âm thanh kì lạ, và tất cả những điều này đều giống với các tình tiết anh ấy kể trong Mối nghi ngờ bóng ma!” Sa Gia bị dọa sợ đến mức mặt mày trắng bệch, hãi hùng tột độ. Nam Thiên tiếp tục nói, “Nghe anh ấy nói vậy, tôi nhận ra căn phòng này có vấn đề nên tôi nghĩ ra chủ ý là đổi phòng của tôi và anh ấy cho nhau. Nhưng Từ Văn lại từ chối. Có lẽ anh ấy không thật sự tin tôi.” Nam Thiên thở dài. Sa Gia nói, “Tôi nhớ anh bảo... trước lúc chết, Từ Văn đã sang phòng anh tìm anh, nhưng anh ấy tìm anh có việc gì?” Nam Thiên thoáng nghĩ, “Đúng rồi! Lúc sang gõ cửa phòng tôi, anh ấy vô cùng khiếp sợ, còn nói mấy lời gì đó rất khó hiểu. Anh ấy nói, buổi tối tôi đã qua phòng tìm và ngủ cùng anh ấy, chính là ở đây.” Sau vài giây hồi tưởng, Nam Thiên tiếp tục, “Từ Văn bảo tôi ngủ trên giường, còn anh ấy nằm bên dưới. Lúc nửa đêm, Từ Văn thấy dưới gầm giường có một đôi mắt đang nhìn mình chằm chằm. Anh ấy sợ điếng người, bò dậy thì phát hiện ra tôi không còn ở trên giường, mới hoảng hốt tới tìm tôi...” Nam Thiên nhìn Sa Gia, “Cô biết không? Tôi hoàn toàn bị những điều anh ấy nói làm cho hồ đồ! Bởi vốn dĩ tôi không đi tìm anh ấy, đừng nói là ngủ chung phòng. Tôi chỉ có thể cho là anh ấy gặp ác mộng. Sau đó, tôi quyết định qua phòng anh ấy xem thử thì chẳng phát hiện thấy gì. Lúc quay lại phòng mình, tôi phát hiện anh ấy đã chết ở phòng tôi! Tiếp đến Hạ Hầu Thân xuất hiện ở cửa phòng. Rồi mấy phút sau, mấy người bọn cô, Long Mã, Bạch Kình, và Hoang Mộc Chu lần theo tiếng động chạy tới. Mọi chuyện là vậy! Sa Gia sợ sệt co người lại, “Trước khi chết, Từ Văn đã xảy ra vài điều kì lạ, quả thực là...” “Quả thực quá lạ lùng, đúng không?” Nam Thiên nói, “Nghĩ mà xem, anh ấy gặp ác mộng, rồi đến tìm tôi, tiếp đó tôi sang phòng anh ấy, bảo anh ấy ở lại phòng tôi và trong mấy phút ngắn ngủi, hung thủ đã xuất hiện như bóng ma, giết chết anh ấy rồi biến mất, quay trở lại phòng mình. Tất cả những chuyện này đúng như vở kịch được sắp xếp bố trí vô cùng khéo léo! Nếu cô tin tôi không phải hung thủ giết Từ Văn thì mức độ li kì của vụ án này quả đúng là phải khiến người ta thán phục!” Nam Thiên bắt đầu trở nên kích động nói, “Như thể hung thủ biết Từ Văn sẽ gặp ác mộng, rồi qua tìm tôi. Đồng thời còn đoán được tôi sẽ ra khỏi phòng mình! Nếu không, sao hắn biết sẽ chỉ có mình Từ Văn trong phòng tôi? Và điểm mấu chốt, nếu mục đích của hắn là giết Từ Văn, vậy tại sao không ra tay trong phòng Từ Văn mà phải dẫn dụ anh ấy sang phòng tôi rồi mới hạ thủ?” Sa Gia ngẫm nghĩ, “Có lẽ, hắn muốn vu oan giá họa cho anh. Hoặc...” Thấy Sa Gia ngừng lại không nói tiếp, Nam Thiên hỏi, “Hoặc sao...?” Sa Gia do dự nói, “Mục tiêu hắn muốn giết liệu có phải là anh chăng?” Nam Thiên chợt thấy rùng mình, “Ý cô là, do sai sót ngẫu nhiên, hắn đã giết nhầm người?” Nói xong, anh lập tức lắc đầu, “Không, tôi không cảm thấy thế. Một kẻ cẩn thận như hắn sao có thể phạm phải kiểu sai lầm như vậy? Hơn nữa, tôi cũng không cho rằng Từ Văn gặp ác mộng, mà là một sự trùng hợp. Bên trong chuyện này nhất định có uẩn khúc.” Sa Gia đột nhiên thốt ra một câu đáng kinh ngạc, “Sao anh biết tên hung thủ này chắc chắn là hắn - ‘người tổ chức’?” Nam Thiên ngây ra, “Ý gì chứ? Không phải hắn, những người còn lại có động cơ gì mà đi giết người?” Sa Gia đáp, “Động cơ thì đương nhiên là có rồi, bớt một người, bớt một kẻ cạnh tranh rồi.” Nam Thiên hít vào một hơi lạnh. Điều trước kia anh hoàn toàn chưa nghĩ đến. Anh bất giác thấy khâm phục cách thức tư duy vượt ra khỏi lề thói thông thường của Sa Gia. Đúng thực là... khả năng này cũng có thể có. Vậy nhưng, anh nghi ngờ hỏi, “Nếu vậy, sao hung thủ lại muốn giết tôi?” Sa Gia nhíu mày phân tích, “Có hai khả năng. Một là, hắn muốn thủ tiêu người có thể uy hiếp hắn giành được chiến thắng; Hai là, dựa trên tiền đề hung thủ không phải là ‘người tổ chức’, cho nên người hắn ta muốn giết chính là kẻ hắn ta tưởng là ‘người tổ chức’!” Nam Thiên vô cùng kinh ngạc, “Ý cô là, tên hung thủ cho rằng... tôi là ‘người tổ chức’?!” “Tôi chỉ đoán thôi.” Sa Gia nói, “Nhưng anh thử nghĩ mà xem, chỉ còn lại sáu ngày nữa. Trước khi trò chơi sống chết này kết thúc, người nghĩ đến cách chủ động tấn công chắc chắn không chỉ mỗi mình anh.” Nam Thiên bất ngờ nhận ra phân tích của Sa Gia đúng là một nhắc nhở vô cùng quan trọng. Anh ngạc nhiên nói, “Tôi chủ động tấn công, chỉ vì muốn âm thầm điều tra mà thôi. Lẽ nào cách thức chủ động tấn công của một người nào đó là giết chết người họ nghi ngờ? Nếu đúng như vậy thì thật đáng sợ!” “Đúng thế, địch thủ của chúng ta không còn chỉ là mỗi ‘người tổ chức’ nữa.” Sa Gia lo lắng nói. Trong môi trường bị giam nhốt, con người thường nghi ngờ, sát hại lẫn nhau... Tình tiết này sao lại khiến người ta thấy quen vậy. Sa Gia thấy Nam Thiên rơi vào trầm tư, hỏi, “Anh đang nghĩ gì?” Nam Thiên ngẩn ra nhìn Sa Gia, “Tôi nghĩ, sao tình huống chúng ta trải nghiệm hiện giờ lại giống câu chuyện Cuộc tấn công của căn bệnh lạ của Uất Trì Thành đã kể đến vậy?” Sa Gia lặng đi, “Ý anh là...” Nam Thiên nhíu chặt mày, “Nghĩ kĩ lại, lúc Uất Trì Thành chết, chúng ta đã kiểm tra thi thể, rút ra kết luận về thời gian tử vong, nhưng đã bỏ qua một vấn đề quan trọng, cái xác đó có chắc chắn là của Uất Trì Thành không? Liệu rằng, hung thủ có lợi dụng điểm mù về mặt tâm lý của chúng ta, khi phát hiện thi thể thấy trong phòng Uất Trì Thành thì nhất định là của Uất Trì Thành, mà dẫn chúng ta đi sai hướng không?” Sa Gia há hốc miệng, mày nhíu chặt lại. Tiếp đó Nam Thiên lại nói, “Sau đấy cũng không ai vào lại phòng Uất Trì Thành. Mãi đến sau khi Long Mã kể xong Dự luật xác sống, chúng ta mới nghĩ đến việc vào căn phòng đó xem xét lại. Nhưng lúc này, xác anh ấy đã biến mất một cách bí hiểm. Sa Gia! Cô không cho rằng trong chuyện này ẩn chứa bí mật sao?” Sắc mặt Sa Gia lại trắng bệch, “Anh nghi ngờ... Uất Trì Thành... thực ra vẫn chưa chết? Thi thể chúng ta nhìn thấy... là giả mạo?” “Không loại trừ khả năng này.” Nam Thiên nghiêm mặt nói, “Nếu đúng vậy, thì ‘người tổ chức’ chính là Uất Trì Thành, người ’chết’ đầu tiên mà tất cả chúng ta hoàn toàn chưa nghĩ tới!” “Còn anh ta ẩn mình trong bóng tối, trong căn phòng bí mật mà cô nhắc tới lúc trước, âm thầm ra ngoài hoạt động đồng thời thao túng trò chơi này...” Sa Gia bất ngờ kêu lên đầy sửng sốt, “A! Chúng ta đã tìm ra đáp án rồi?!” Nam Thiên chậm rãi lắc đầu, “Đừng có kết luận bậy bạ, chúng ta không có chứng cứ để chứng minh cho suy đoán này. Hơn nữa, tình hình hiện giờ lại vô cùng phức tạp. Còn một số chuyện càng khó giải thích hơn nữa.” “Là chuyện gì cơ?” Nam Thiên cẩn thận nhặt xấp giấy dưới đất mà trước đó anh đã tìm thấy ở chỗ chân giường của Từ Văn lên, đưa cho Sa Gia, “Vừa nãy vào phòng này xem xét, tôi phát hiện thấy thứ này ở dưới gầm giường, cô xem đi.” Sa Gia đón nhận, “Bản nháp kiểu này thì trong phòng tôi cũng có.” “Đúng, trong phòng ai trong số chúng ta cũng đều có. Cô xem qua nội dung đi.” Sa Gia lật xem từng trang. Đến trang thứ sáu, cô đột nhiên trợn trừng mắt, bưng chặt miệng, đương nhiên Nam Thiên biết là bởi tại sao, vì trên trang đó ghi: Ý tưởng mới ngày 28 tháng Tư ’Khách đến từ phần mộ’. “Trời ạ, chuyện này là thế nào?” Sa Gia sững sờ hỏi, “Đây không phải câu chuyện Bạch Kình kể à? Sao bản thảo ghi ý tưởng mới của câu chuyện này lại ở trong phòng Từ Văn?” “Hơn thế, tôi còn có thể cho cô biết, đây chính là bút tích của Từ Văn.” Nam Thiên nói, “Sáng hôm qua tôi đến tìm anh ấy thì đã nhìn thấy xấp giấy này. Lúc đó tôi không lật xem phía dưới, mới đọc được dàn ý câu chuyện Mối nghi ngờ bóng ma. Tôi còn khen chữ Từ Văn đẹp. Và anh ấy cũng bảo tôi, anh ấy là người bảo thủ, khi sáng tác luôn luôn dùng giấy bút. Điều đó giúp tôi chứng minh, nội dung xấp giấy này do anh ấy chính tay viết ra.“ “Trời ơi...”, Sa Gia hãi hùng nói, “Từ Văn bị giết trước khi Bạch Kình kể chuyện. Bạch Kình có thể dễ dàng mang câu chuyện này ra kể mà chẳng ngại ngùng gì. Lẽ nào người giết Từ Văn là Bạch Kình? Còn mục đích của cậu ta là giành đoạt được câu chuyện này?” Nam Thiên nhíu chặt mày, “Tôi cũng đã nghĩ qua khả năng này, nhưng có hai điểm có phần không hợp logic. Thứ nhất, Từ Văn là người kể chuyện vào tối thứ hai, đã kể xong câu chuyện của mình rồi, tại sao anh ta còn sáng tác một câu chuyện mới? Đồng thời tại sao bản thảo ghi chép câu chuyện này lại bị Bạch Kình phát hiện ra?” Ngừng lại một lát, như để cho Sa Gia có thời gian nghiền ngẫm, Nam Thiên tiếp tục nói, “Điểm không hợp logic thứ hai là, nếu Bạch Kình lén lấy được ý tưởng câu chuyện của Từ Văn, đồng thời vì chuyện này mà giết anh ấy, vậy sao còn để xấp giấy này lại trong phòng? Cần biết đây là bằng chứng chí mạng! Có sơ suất hơn đi nữa, không thể ngay điều này cậu ta cũng bỏ qua chứ nhỉ?” “Đúng vậy, điều này rất không hợp lẽ thường...” Sa Gia vùi đầu ngẫm nghĩ, “Lẽ nào, có người cố tình giá họa cho Bạch Kình, đồng thời tạo chứng cứ vi phạm giả cho cậu ấy?” “Vấn đề là, làm cách nào lại làm được chuyện này?” Nam Thiên lúng túng nói, “Cứ coi như ai đó có khả năng bắt chước bút tích của Từ Văn, nhưng người đó sao có thể viết ra được những nội dung này trước khi Bạch Kình kể chuyện?” Hai người cùng im lặng, đắm chìm trong dòng suy nghĩ. Độ chừng một phút sau, Nam Thiên nhìn thấy người Sa Gia hơi run rẩy, mắt trừng to sợ hãi, liền vội vàng hỏi, “Sao thế?” “Anh... có nghe thấy âm thanh gì không?” Sa Gia xích lại gần Nam Thiên, mặt lộ vẻ kinh hoàng, ngó trái nhìn phải. “Âm thanh gì?” Nam Thiên vừa tập trung suy nghĩ, không nghe thấy gì. “Hình như tôi nghe thấy trong phòng này có tiếng nói thì thầm... như thể ai đó đang nói chuyện.” Sa Gia sợ hãi ôm chặt lấy Nam Thiên. “Tiếng nói thì thầm? Trong phòng này hiện chỉ có hai người chúng ta mà!?” Nam Thiên cảnh giác nhìn ngó xung quanh, thần kinh căng ra. Hai người họ nín thở, ngay cả hít thở mạnh cũng không dám. Trong phòng dường như có thể nghe thấy nhịp tim đập gấp gáp của bọn họ. Nhưng đã mấy phút trôi qua mà vẫn không nghe thấy âm thanh kì lạ nào. Nam Thiên hỏi Sa Gia, “Vừa nãy có thật là cô nghe thấy tiếng người đang nói chuyện không? Không nghe nhầm chứ?” Sa Gia có phần không chắc chắn, “Tôi... chắc không nghe nhầm đâu, không thể xuất hiện ảo thính một cách kì lạ như vậy chứ nhỉ?” Ngẩn ra mấy giây, lòng Nam Thiên đột nhiên giật thột, Từ Văn nói, lúc ở trong căn phòng này, thỉnh thoảng anh ấy cũng nghe thấy một vài tiếng động kì lạ. Lẽ nào, thứ vừa nãy Sa Gia nghe thấy chính là tiếng động ma quỷ gây ra? Sa Gia rõ ràng cũng đã nghĩ tới điểm này, cô nhào vào lòng Nam Thiên, ôm chặt anh, người run lẩy bẩy. Điều mình chờ đợi đã lâu và rất muốn tìm ra, là sự kì lạ trong phòng Từ Văn, cuối cùng đã xuất hiện rồi? Nam Thiên căng thẳng suy nghĩ. Vậy nhưng, sao âm thanh này chỉ xuất hiện chốc lát, rồi im bặt? Lẽ nào, Nam Thiên bất ngờ nhớ đến một khả năng, âm thanh này là do ma quỷ tạo ra, bởi phát hiện thấy trong phòng lúc này có hai người, nên mới bỗng dưng nín thinh? Nghĩ đến đây, Nam Thiên bóp chặt vai Sa Gia, gấp gáp hỏi, “Sa Gia, vừa rồi cô có nghe rõ tiếng nói đó không, là nói về cái gì...” Câu này còn chưa nói hết, trong đại sảnh ngoài phòng, bỗng nhiên vang lên một giọng nói đáng sợ đã lâu ngày không thấy, đó chính là giọng nói của hắn - “người tổ chức”. Giọng nói được xử lý qua bởi thiết bị biến đổi giọng nói, phát ra từ bốn thùng loa đặt ở trần phòng: “Các vị, xin lỗi đã đánh thức mọi người khỏi giấc ngủ. Sở dĩ lúc này tôi làm phiền các vị là bởi hiện giờ, chứng cứ ‘phạm quy’ mới đã được hai người trong số chúng ta phát hiện ra. Hai người họ, hiện đang ở trong căn phòng của Từ Văn, người kể chuyện số 2. Nếu có hứng thú, các vị đến phòng này xem qua trước khi bọn họ rời đi. Được rồi, tôi chỉ nhắc một câu như vậy thôi, tạm biệt.” Lạy Chúa, Nam Thiên kinh ngạc tột cùng. Anh và Sa Gia trợn tròn mắt, căng thẳng nhìn nhau - Chuyện này là thế nào? Nhất cử nhất động của chúng ta đều nằm trong tầm mắt của hắn sao? “Chúng ta... làm thế nào bây giờ?” Sa Gia bất lực nhìn Nam Thiên, “Bọn họ chắc chắn sẽ nhanh chóng đến đây. Ta cứ ở đây... đợi à?” Nam Thiên cố gắng bình ổn tâm trạng, để khiến mình bình tĩnh lại, “Ừ, chúng ta không làm việc gì trái lương tâm, không cần phải trốn tránh.” Nam Thiên bước lên trước hai bước, dứt khoát mở cửa phòng, chào đón những người sắp đến với tâm trạng và tư thế tự nhiên thoải mái. Nửa phút sau, người đầu tiên vội vàng tới trước cửa phòng, chính là Long Mã. Trong tất cả mọi người, ông ta hiện giờ gần như là người quan tâm nhất đến việc ai là thủ phạm. Thấy Nam Thiên và Sa Gia ở trong phòng Từ Văn, ông ta ngạc nhiên nói, “Là hai người sao?” Nam Thiên và Sa Gia không tiếp lời. Họ đứng giữa phòng, nhìn mọi người, từng người từng người xuất hiện trước mặt mình, nhìn những ánh mắt nghi hoặc. Mấy phút sau, mọi người gần như đã tập trung đông đủ. Hoang Mộc Chu tới trước mặt Nam Thiên và Sa Gia, ngẩng đầu, dùng ánh mắt dò xét đánh giá họ. Ông ta lại nheo mắt nhìn thi thể Từ Văn nằm dưới sàn nhà, hỏi, “Hai người sao lại ở đây?” Nam Thiên quyết định nói thật, “Vốn dĩ tôi định lặng lẽ đến phòng Từ Văn một mình, xem xét căn phòng của anh ấy. Sa Gia qua phòng tôi tìm tôi, phát hiện tôi không có đấy, đoán tôi ở đây nên đã qua đây tìm được tôi.” Hoang Mộc Chu nheo mắt nói, “Xem xét căn phòng này? Sao? Phòng Từ Văn có gì không ổn ư?” “Tôi nghi vậy.” Nam Thiên bình tĩnh trả lời. “Vậy anh đã phát hiện thấy gì?” Nam Thiên đưa xấp giấy đang cầm trong tay ra, “Đây là thứ tôi tìm thấy dưới gầm giường Từ Văn ban nãy, anh xem qua đi.” Hoang Mộc Chu cầm lấy xấp giấy, những người khác cũng xúm lại xung quanh. Hoang Mộc Chu thấy trên trang đầu tiên đề bản tóm tắt nội dung Mối nghi ngờ bóng ma liền hỏi, “Đây là gì? Dàn ý câu chuyện của Từ Văn sao?” “Đúng. Anh cứ đọc tiếp đi.” Nam Thiên nói. Hoang Mộc Chu lật giở mấy trang sau, giở đến bản tóm tắt của câu chuyện Khách đến từ phần mộ, ông ta cùng những người bên cạnh đến trợn to mắt. “Ý tưởng mới ngày 28 tháng Tư Khách đến từ phần mộ...”, Thiên Thu kinh ngạc há hốc miệng, đồng thời nhìn về phía Bạch Kình, người kể câu chuyện này, “chuyện này là thế nào? Đây chẳng phải là câu chuyện cậu mới kể mấy tiếng trước (ngày 29 tháng Tư) sao? Sao lại trở thành câu chuyện được Từ Văn cấu tứ vào ngày 28 tháng Tư?” Bạch Kình lúc này trợn mắt líu lưỡi, toát mồ hôi lạnh, cậu ta thẫn thờ nhìn chằm chằm vào bản thảo trên tay Hoang Mộc Chu, như thể bị kinh động đến mức không thể thốt thành lời. Hồi lâu sau, cậu ta tức tối lồng lộn gào lên, “Đây là... vu cáo hãm hại và đổ tội oan! Câu chuyện này, một trăm phần trăm là do tôi nghĩ ra!” Mọi người đều không nói gì. Sự thật bày ra trước mắt, tất cả mọi người đều không dám khẳng định Bạch Kình lúc này liệu có đang cố gắng giảo biện cho mình hay không. Bạch Kình cảm giác rõ ràng thấy sự hoài nghi của mọi người đối với mình. Cậu ta hoàn toàn đánh mất khả năng phán đoán sắc bén, quay người hầm hầm nhìn Chris nói, “Chris! Lúc trước cậu cố tình gây khó dễ, gượng ép ám chỉ câu chuyện của tôi là sao chép, khiến mọi người nảy sinh nghi ngờ vô căn cứ về tôi. Giờ, còn làm ra cái loại ‘chứng cứ’ này nữa! Muốn vu oan giá họa cho tôi, đúng không!?” Mời các bạn đón đọc Người Thừa Thứ 14 của tác giả Ninh Hàng Nhất.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Án Mạng Trên Sân Golf
Một bức thư kêu cứu kéo thám tử Hercule Poirot tới Pháp. Nhưng anh đến quá trễ. Khách hàng của anh đã chết. Cái xác bị đâm dã man giờ nằm sấp mặt trong một cái hố nông trong sân golf đang xây. Nhưng vì sao người chết lại mặc một chiếc áo choàng quá khổ? Và bức thư tình ngọt ngào trong túi áo khoác viết cho ai? Trước khi Poirot kịp trả lời những nghi vấn này thì vụ án bị lật ngược khi cái xác thứ hai được phát hiện, cách thức giết người y như lần đầu. *** Review Phong: Vị thám tử nhỏ bé người Bỉ Hercule Poirot nhận được một bức thư cầu cứu từ ông triệu phú Renauld đang sinh sống tại Pháp, ông ta đề cập đến việc mình đang giữ một bí mật và có người muốn mưu sát ông để bí mật đó mãi mãi được giữ im lặng. Nhưng khi Poirot cùng người bạn đồng hành là đại úy Hastings đến ngôi biệt thự nơi Renauld đang sinh sống thì hay tin ông ta đã bị đâm chết sáng hôm đó. Cảnh sát điều tra tìm thấy một bức thư tình đề tên người gửi là Bella trong túi áo khoác của Renauld, cùng một mẩu ngân phiếu có tên Duveen trong phòng làm việc của ông ta. Khi Poirot lên đường đi Paris để tìm những thông tin liên quan đến vụ án thì lúc về ông được Hastings cho hay lại có thêm một cái xác bị đâm tại khuôn viên trong biệt thự của ông Renauld. Khác với lần trước, nạn nhân thứ hai này là một người hoàn toàn xa lạ mà không ai nhận diện được người này là ai. Cuộc điều tra càng kịch tính hơn với màn đấu trí giữa Hercule Poirot - người quan tâm đến bản chất vụ án để tìm ra lời giải thích cuối cùng, và ông thám tử người Pháp Girauld - người quan tâm đến những bằng chứng hữu hình để tìm ra thủ phạm. Cuốn này là một bằng chứng rõ ràng cho nhận định: “Tiểu thuyết cổ điển thường dài dòng, chậm rãi và khiến người đọc mệt mỏi, nhưng vượt qua được giai đoạn đó rồi thì phần còn lại sẽ rất hay”. Mạch truyện khá từ từ, nhưng tác giả vẫn rất công bằng khi gieo rắc những chi tiết tưởng chừng nhỏ khiến người đọc không chú ý đến nhưng lại liên quan mật thiết đến vụ án. Thông thường, phần phá án trong các truyện của Agatha diễn ra ở 20 - 30 trang cuối, nhưng cuốn này lại khá đặc biệt: Đến trang 230, bạn có thể thấy toàn bộ vụ án đã được giải quyết rất thuyết phục rồi, nhưng khoảng 40 trang cuối những diễn biến mới liên tục được đưa vào và khiến kết quả quay ngoắt 360 độ, chắc chắn sẽ khiến bạn ngạc nhiên và thầm thán phục tài năng tạo twist của nữ hoàng truyện trinh thám. Khi bạn tưởng như mình đã nắm mọi thứ trong tay, thì Agatha tuyên bố: “Cưng nghĩ cưng bắt bài được motif truyện của chị? Còn khuya!” Điều mình không thích nhất trong truyện là dàn nhân vật có phần mờ nhạt và chưa tạo được điểm nhấn riêng. Và mình không thể ưa nổi thủ phạm của vụ này: quyết đoán, nhanh nhẹn và hơn hết là quá ác. “Án mạng trên sông Nile” có kiểu thủ phạm với tính cách tương tự như cuốn này nhưng mình lại thích thủ phạm trong truyện đó hơn nhiều. Đây là một cuốn không hề dễ đọc dành cho các bạn mới đọc truyện của Agatha, vì như mình đã nói, diễn biến phần lớn truyện tiến triển khá chậm, nhưng vẫn là một cuốn hay và đáng đọc, các fan của Agatha thì chắc chắn không thể bỏ qua. Nếu đây là cuốn đầu tiên của Agatha mà mình đọc thì mình thấy nó rất hay, nhưng do đã đọc được một số truyện của bà rồi nên tất nhiên không tránh khỏi có sự so sánh giữa các cuốn với nhau. Về độ hay mình nghĩ nó ngang ngửa với “Chuỗi án mạng ABC”, nhưng vì một số lý do mà mình lại có cảm tình với “Chuỗi án mạng ABC” hơn, vì lẽ đó mà mình chỉ có thể chấm “Án mạng trên sân golf” 3 sao trên obook thôi, nhưng nhìn chung vẫn cảm thấy hài lòng với khoảng thời gian 2 ngày đọc nó. Đánh giá: 3,5/5 *** Agatha Christie sinh năm 1890 tại Torquay, Anh. Cha bà tên là Frederick Miller, nên tên khai sinh của bà là Agatha Miller. Hồi còn nhỏ, Agatha không được tới trường mà chỉ được gia đình thuê gia sư về dạy dỗ tại nhà.    Là một đứa trẻ nhút nhát, khó có thể diễn tả chính xác ý kiến của mình, ban đầu bà tìm đến âm nhạc như một cách giải tỏa tâm sự và sau này là viết sách. Năm 1914, bà kết hôn với Archie Christie, một phi công chiến đấu. Trong khi đức lang quân bận rộn chiến đấu ngoài chiến trường thì bà làm y tá trong bệnh viện. Chính trong thời kỳ này, ý tưởng viết tiểu thuyết trinh thám đã nảy sinh trong tâm trí bà. Chỉ một năm sau bà đã hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Những bí ẩn vùng Styles, nhưng phải tới 5 năm sau nó mới được xuất bản (1920). Agatha Christie được mọi người tôn vinh là Nữ hoàng truyện trinh thám. Trong suốt cuộc đời mình, bà đã sáng tác 66 tiểu thuyết, rất nhiều truyện ngắn, kịch và hàng loạt tiểu thuyết tình cảm lãng mạn với bút danh là Mary Westmacott. Vở kịch Chiếc bẫy chuột của bà có lẽ là vở kịch trinh thám hay nhất thế giới. Một số tác phẩm của bà đã được chuyển thể thành phim, nổi bật là bộ phim Murder on the Orient Express (Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông) đã đoạt giải thưởng Hàn lâm năm 1974. Tác phẩm của bà được dịch ra hơn 100 thứ tiếng.    Trong suốt cuộc đời mình, nữ nhà văn Agatha Christie luôn căm ghét bạo lực và máu. Bà thường thú nhận rằng không biết gì về những công cụ giết người thông thường. Thậm chí bà cũng chưa từng một lần tiếp xúc với một kẻ giết người. *** Có một giai thoại kể rằng, một nhà văn trẻ quyết tâm làm cho câu chuyện của mình thật độc đáo nhằm thu hút sự chú ý của ngay cả những biên tập viên hờ hững nhất, đã mở đầu bằng câu: “Kệ thây! nữ công tước thốt lên.” Thật lạ đời, câu chuyện của tôi cũng bắt đầu gần đúng như thế. Chỉ có điều cô nàng thốt lên cái câu ấy chẳng phải nữ công tước. Đó là một ngày đầu tháng Sáu. Tôi vừa giải quyết xong vài việc ở Paris và bắt chuyến tàu sớm trở về London, nơi tôi vẫn đang sống cùng người bạn lâu năm là cựu thám tử người Bỉ – Hercule Poirot. Hôm ấy chuyến tàu tốc hành Calais trống vắng khác thường, cả khoang tàu này chỉ có tôi và một người nữa. Do rời khách sạn tương đối vội vã nên lúc tàu khởi hành, tôi còn bận kiểm tra mớ đồ đạc xem có quên gì không. Cho tới lúc đó, tôi gần như không để ý tới người đồng hành, nhưng bây giờ thì tôi buộc phải nhận ra sự có mặt của cô ta. Bởi vì cô ta vừa nhảy dựng lên khỏi ghế, hạ cửa sổ xuống, thò đầu ra ngoài rồi lập tức lại thụt vào và kêu lên: “Kệ thây!” Là tuýp người cổ điển nên với tôi, phụ nữ là phải thùy mị. Tôi chẳng ưa nổi những cô gái hiện đại loạn thần kinh cứ nhảy nhót suốt từ sáng đến tối, hút thuốc như ống bễ, còn nói năng thì đến cả mấy bà hàng cá ở Billingsgate cũng phải đỏ mặt. Tôi khẽ cau mày ngước lên. Trước mắt tôi là gương mặt vừa xinh xắn vừa xấc xược của một cô gái đội chiếc mũ đỏ ngang tàng, với những lọn tóc đen dày che khuất hai tai. Tôi đoán chừng cô ta chỉ mới hơn mười bảy tuổi, nhưng mặt thì đầy phấn còn môi thì đỏ chót. Cô gái đón nhận cái nhìn của tôi chẳng chút thẹn thùng, lại còn nhăn mặt tình tứ. “Cưng ơi, tụi mình làm quý ngài đây choáng rồi!” cô ta vờ như đang nói với một người khác. “Tôi xin lỗi vì cách ăn nói của mình. Chẳng đoan trang gì cả, nhưng… thật tình… tôi có lý do mà. Ngài có biết rằng tôi vừa lạc mất người em gái duy nhất của mình không?” “Vậy sao?” tôi nhã nhặn đáp. “Bất hạnh thật.” “Ông ấy mỉa mai cơ đấy!” cô nàng nhấm nhẳng. “Ông ấy mỉa mai, cả tôi lẫn em tôi. Mà thế thì thật bất công bởi vì ông ấy thậm chí còn chưa gặp con bé!” Tôi toan cất tiếng nhưng cô gái chặn ngay: “Đừng nói nữa! Chẳng ai thương tôi cả! Tôi sẽ ra vườn mà mổ sâu thôi! Hu hu. Đời tôi thế là tiêu rồi!” Nói đoạn cô ta núp luôn sau tờ báo biếm họa tiếng Pháp khổ lớn. Mấy phút sau, tôi thấy ánh mắt len lén nhìn mình qua tờ báo, khiến tôi chẳng thể nhịn cười. Và thế là cô gái lập tức đặt tờ báo xuống, bật cười giòn tan. “Tôi biết ngài không ngốc như vẻ bề ngoài mà!” Tiếng cười của cô nàng dễ lây tới nỗi tôi liền bị cuốn theo, dù chẳng bận tâm lắm tới từ ngốc. “Đấy! Giờ chúng ta là bạn rồi nhé!” cô gái ranh mãnh tuyên bố. “Hãy nói là ông rất tiếc vì chuyện em gái tôi đi…” “Tôi quả rất buồn lòng!” “Thế mới ngoan chứ!” “Để tôi nói nốt đã. Tôi đang định thêm rằng, dù rất buồn lòng, tôi sẵn sàng chịu đựng sự vắng mặt của cô đấy.” Tôi khẽ cúi đầu. Nhưng cái cô nàng kỳ quặc nhất trên đời ấy nổi giận và lắc đầu lia lịa. “Thôi ngay đi. Tôi thích cái trò ‘chê bai cao quý’ hơn đấy. Ôi trời, trông mặt ông kìa! Tỏ đúng cái thái độ ‘Không thuộc tầng lớp chúng ta’. Và chuyện đó thì ông đúng đấy - nhưng, xin nhắc ông rằng, ngày nay thì cũng khó mà nói được lắm. Không phải ai cũng phân biệt được một cô ả với một nữ bá tước đâu. Đấy, chắc tôi lại làm ông choáng nữa! Chắc người ta vừa mới khai quật được ông ở một chốn xa xôi hẻo lánh nào đấy, chắc chắn thế. Tôi thì chẳng để ý chuyện đó. Loại các ông có nhiều thêm một tí thì chúng tôi vẫn chịu được. Tôi chỉ không ưa nổi mấy gã thô bỉ bẩn thỉu thôi. Cái tính đó khiến tôi phát điên.” Cô lắc đầu quầy quậy. “Lúc phát điên thì cô sẽ thế nào?” tôi mỉm cười hỏi. “Một con quỷ nhỏ điển hình! Không quan tâm mình nói gì, hay làm gì! Có lần suýt nữa tôi đã xử luôn một gã. Vâng, thật đấy. Gã cũng đáng bị thế lắm.” Mời các bạn đón đọc Án Mạng Trên Sân Golf của tác giả Agatha Christie.
Con Mèo Giữa Đám Bồ Câu
Ngôi trường nữ học danh giá nhất nước Anh xảy ra liên tiếp nhiều vụ án mạng. Với nhiều học sinh xuất thân từ hoàng tộc và gia đình giàu có, liệu nhà trường có liên quan đếm âm mưu nào lớn hơn? Giữa những nữ sinh và giáo viên nữ hiền lành, kẻ sát thủ giấu mặt như con mèo rơi vào giữa đàn bồ câu. *** Review Phong: Trước khi lên đường ra nước ngoài nhằm tránh khỏi cuộc cách mạng của phe nổi dậy, vị Quốc vương của Ramat là Ali Yusuf đã tin tưởng giao số đá quý trị giá bảy trăm năm mươi ngàn bảng cho viên phi công riêng là Bob Rawlinson. Sau khi cân nhắc, Bob đã tìm đến chị gái Sutcliffe của anh đang nghỉ dưỡng tại một khách sạn của Ramat. Nhưng khi đến nơi thì người chị gái đã đi ra ngoài, không có thời gian chờ đợi vì cuộc cách mạng có thể diễn ra bất cứ lúc nào, bằng cách nào đó Bob đã đưa được số đá quý vào hành lý trong phòng người chị kèm theo một lời nhắn. Sau này, con gái của Sutcliffe là Jennifer được nhận vào học tại Meadowbank, trường nữ sinh danh giá nhất của nước Anh, cùng nhập học với cô bé còn có cái tên đáng chú ý: Công nương Shaista, em họ của Quốc vương Ali Yusuf. Cũng kể từ đây, liên tiếp những vụ giết người với đối tượng hướng đến là các cô giáo trong trường đã khiến danh tiếng của Meadowbank gần như hoàn toàn sụp đổ chỉ sau vài tuần bắt đầu kì học mới. Cuốn thứ 7 của tác giả Agatha Christie mà mình đọc. So với những cuốn rất hay của bà mình đọc gần đây thì cuốn này chỉ dừng ở mức đọc được, bà viết cuốn này khi đã 69 tuổi nên mình thấy thế là được rồi. Vụ án không hấp dẫn, có nhiều hơn một cái chết nhưng tình tiết rất bình thường chứ không nhanh và hấp dẫn như những cuốn mình đọc trước đây như “Ngôi nhà quái dị”, “Án mạng trên sông Nile” hay “Tận cùng là cái chết”. Phần phá án của Hercule Poirot có lẽ là phần mình thấy thú vị duy nhất trong truyện. Mình thích truyện kết thúc ở chương 24 hơn, đúng với phong cách những điều bất ngờ dồn dập đến ở khoảng 20 trang cuối của bà. Chương 25 giúp giải quyết toàn bộ vấn đề còn lại được đưa ra, mình đọc thấy hơi dài dòng và cũng không hứng thú lắm nhưng mình tôn trọng toàn bộ dụng ý mà bà đưa ra trong truyện. Cuốn này thực sự là một thảm họa về khâu biên tập, xứng đáng là cuốn sách đáng xấu hổ nhất của Trẻ mà mình hiện có. Trẻ là một NXB lớn, nắm bản quyền các tác phẩm của Agatha Christie nhưng tại sao họ có thể phát hành một cuốn sách đầy lỗi thế này thì mình không biết, những cuốn trước cuốn nào không ít thì nhiều cũng có lỗi, nhưng dày đặc thế này thì mình mới thấy lần đầu. Mình có kiểm tra lại lời nói đầu, thì đúng là họ cam kết đem đến những bản dịch tốt, hình thức đẹp chứ không nói gì đến việc biên tập kĩ lưỡng. Khi mình đề cập vấn đề này với admin fanpage NXB Trẻ thì nhận được phản hồi như hình dưới. Vậy hóa ra mỗi lần tái bản NXB chỉ in lại chứ không hề rà soát lỗi biên tập, trong khi việc này đã phải làm kĩ ngay khi phát hành. Không nói ra thì không chịu được vì sách của tác giả mình yêu thích lại không được quan tâm biên tập cho đúng mực, mà nói ra rồi lại thấy ức hơn vì giờ phải đọc lại toàn bộ sách, ghi chú lỗi lại với hy vọng ở lần tái bản sau, cuốn sách này sẽ được chăm chút tốt hơn. Tương lai nào cho những đứa con tinh thần của Agatha Christie khi được xuất bản tại Việt Nam … *** Review Lucy:   Tại Ramat sắp có cuộc bạo động và quốc vương nước này được sắp xếp tẩu thoát ra nước ngoài. Ông đưa cho bạn thân đồng thời là phi công một chiếc túi chứa đầy kim cương dặn dò tìm cách đưa số kim cương này thoát ra khỏi Ramat. Bởi quốc vương nhận thấy cuộc tẩu thoát lành ít dữ nhiều và ông không muốn kẻ thù nhặt lấy nó từ xác của mình. Chàng phi công đã lén nhét vào hành lí của cô cháu gái Jennifer vì cô sắp về Anh để đi học. Đúng như dự đoán. Máy bay bị gài bom phát nổ, quốc vương và phi công lao vào núi rồi chết. Số kim cương cùng cô cháu gái đến trường Meadowbank một ngôi trường nữ sinh danh giá nhất nước Anh. Tại đây xảy ra hàng loạt vụ bắt cóc, giết người nhằm mục đích chiếm đoạt số kim cương mà Jennifer vẫn không hay biết mình đang giữ. Chương mở đầu khá là rối vì giới thiệu một loạt nhân vật giáo viên, công nhân viên, học sinh, phụ huynh. Các nhân vật nối tiếp nhau xuất hiện khiến người đọc không nắm bắt kịp. Chương mở đầu không cung cấp manh mối gì nhiều chủ yếu dùng để phô chất riêng của tác giả. Nhưng cũng đừng lo vì chương sau đó sẽ tóm tắt lại các nhân vật chính và vai trò chủ chốt. Có nhiều tình tiết khá là dài dòng như chuyện cô Bulstrode dự định nghĩ hưu lặp lại suốt, đọc ngán luôn.Nhân vật ấn tượng nhất cũng là cô Bulstrode, một người hiệu trưởng thực sự có bản lĩnh và luôn ghét từ "tẻ nhạt" Mình chấm tác phẩm này 6/10 điểm. Cảm thấy bình thường, không quá thất vọng nhưng cũng không được như kỳ vọng *** Agatha Christie sinh năm 1890 tại Torquay, Anh. Cha bà tên là Frederick Miller, nên tên khai sinh của bà là Agatha Miller. Hồi còn nhỏ, Agatha không được tới trường mà chỉ được gia đình thuê gia sư về dạy dỗ tại nhà.    Là một đứa trẻ nhút nhát, khó có thể diễn tả chính xác ý kiến của mình, ban đầu bà tìm đến âm nhạc như một cách giải tỏa tâm sự và sau này là viết sách. Năm 1914, bà kết hôn với Archie Christie, một phi công chiến đấu. Trong khi đức lang quân bận rộn chiến đấu ngoài chiến trường thì bà làm y tá trong bệnh viện. Chính trong thời kỳ này, ý tưởng viết tiểu thuyết trinh thám đã nảy sinh trong tâm trí bà. Chỉ một năm sau bà đã hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Những bí ẩn vùng Styles, nhưng phải tới 5 năm sau nó mới được xuất bản (1920). Agatha Christie được mọi người tôn vinh là Nữ hoàng truyện trinh thám. Trong suốt cuộc đời mình, bà đã sáng tác 66 tiểu thuyết, rất nhiều truyện ngắn, kịch và hàng loạt tiểu thuyết tình cảm lãng mạn với bút danh là Mary Westmacott. Vở kịch Chiếc bẫy chuột của bà có lẽ là vở kịch trinh thám hay nhất thế giới. Một số tác phẩm của bà đã được chuyển thể thành phim, nổi bật là bộ phim Murder on the Orient Express (Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông) đã đoạt giải thưởng Hàn lâm năm 1974. Tác phẩm của bà được dịch ra hơn 100 thứ tiếng.    Trong suốt cuộc đời mình, nữ nhà văn Agatha Christie luôn căm ghét bạo lực và máu. Bà thường thú nhận rằng không biết gì về những công cụ giết người thông thường. Thậm chí bà cũng chưa từng một lần tiếp xúc với một kẻ giết người. *** Hôm ấy là ngày khai giảng kì học hè ở trường Meadowbank. Ánh chiều tà đổ xuống con đường lát sỏi rộng thênh trước tòa học xá. Cửa trước rộng mở vui đón khách, và ngay ở cửa, tương xứng một cách đáng ngưỡng mộ theo đúng tỉ lệ kiến trúc thời Georgia của tòa nhà là cô giáo Vansittart, tóc gọn gàng, áo khoác và váy được cắt may không chê vào đâu được. Một số bậc phụ huynh không biết rõ đã nhầm bà với bà Bulstrode, mà đâu hay bà Bulstrode có lệ rút lui vào cấm cung, ở đấy chỉ số ít bậc phụ huynh chọn lọc được hưởng đặc quyền mới được đón tiếp. Đứng cạnh cô Vansittart, đang điều hành ở một mức độ hơi khác là bà Chadwick, với vẻ tự tin, hiểu biết, và ở Meadowbank này bà đóng một vai trò lớn đến độ thật khó tưởng tượng trường Meadowbank lại không có bà. Chưa bao giờ ngôi trường này thiếu vắng bà. Bà Bulstrode và bà Chadwick đã cùng nhau khởi lập Meadowbank. Bà Chadwick đeo kính không gọng, đầu hơi cúi, ăn mặc không mấy cầu kỳ, giọng nói hòa nhã, và tình cờ thay lại là một nhà toán học xuất sắc. Những lời chào đón ân cần của cô Vansittart ân cần vang khắp tòa nhà. “Bà có khỏe không, thưa bà Arnold? Ồ, Lydia, chuyến đi tàu Hellenic của em có vui không? Thật là một cơ hội tuyệt vời! Em có chụp được nhiều ảnh đẹp không? “Vâng, thưa bà Garnett, bà Bulstrode đã nhận được thư của bà về Lớp Nghệ thuật, tất cả đã được thu xếp rồi. “Bà khỏe không, thưa bà Bird?… Ô? Tôi nghĩ hôm nay bà Bulstrode không có thời gian để bàn bạc chuyện này. Cô Rowan ở đây, bà có muốn nói chuyện với cô ấy về vấn đề này không? “Chúng tôi đã chuyển phòng ngủ của em rồi, Pamela ạ. Em giờ ở chái nhà phía xa, cạnh cây táo… “Vâng, quả vậy, thưa bà Violet, từ đầu mùa xuân tới giờ thời tiết thật kinh khủng. Cháu bé nhất nhà bà đây phải không? Tên cháu gì nhỉ? Hector hả? Cháu có máy bay đẹp thế, Hector. “Très heureuse de vous voir, Madame. Ah, je regrette, ce ne serait pas possible, cette après-midi. Mademoiselle Bulstrode est tellement occupée.Rất vui được gặp bà, thưa bà. Ồ, tôi rất tiếc chiều nay thì không thể rồi. Bà Bulstrode rất bận. “Xin chào giáo sư. Ngài có khám phá thêm được điều gì thú vị không?” Trong căn phòng nhỏ ở tầng một, Ann Shapland, thư ký của bà Bulstrode, đang đánh máy thoăn thoắt và chính xác. Ann năm nay ba lăm tuổi, vẻ ưa nhìn, mái tóc vừa vặn như chiếc mũ sa-tanh đen đội lên đầu. Nếu muốn, cô có thể trông quyến rũ hơn, nhưng cuộc đời đã dạy cô rằng năng lực và hiệu quả thường được trả công cao hơn vẻ ngoài, lại tránh được những phiền toái bực mình. Ở thời điểm này, cô đang tập trung vào tất cả mọi công việc mà một người thư ký hiệu trưởng của một trường nữ sinh nổi tiếng cần làm. Thỉnh thoảng, khi đặt một tờ giấy vào máy chữ, cô lại nhìn ra cửa sổ và lộ rõ niềm thích thú về những vị khách mới đến. ‘Trời đất ơi!’ Ann tự nhủ, vẻ ngưỡng mộ, ‘Mình không biết ở nước Anh vẫn còn nhiều tài xế riêng đến vậy!’ Rồi cô bất giác mỉm cười, khi một chiếc xe Rolls uy nghi chạy đi và một chiếc xe Austin nhỏ xíu, cũ mèm và méo mó tiến vào. Một ông bố vẻ lo lắng từ xe bước ra, cùng cô con gái trông bình tĩnh hơn nhiều so với ông bố. Khi ông dừng lại chừng như sắp ngã đến nơi, thì cô Vansittart từ trong nhà bước ra và làm chủ tình huống. “Thiếu tá Hargreaves phải không ạ? Đây hẳn là Alison rồi? Xin mời vào trong nhà. Mong ngài vào xem phòng của Alison…” Ann nhếch mép cười rồi tiếp tục đánh máy. ‘Ôi đúng là Vansittart, người đóng thế vinh quang,’ cô tự nhủ. ‘Cô ta có thể học theo mọi mánh lới của bà Bulstrode. Quả thật, cô ta rất thuộc bài!’ Một chiếc xe Cadillac to lớn và xa hoa đến khó tin, sơn hai tông màu, đỏ mâm xôi và xanh dương, rẽ vào (hơi khó khăn do chiều dài của nó) và đỗ phía sau chiếc xe cũ của Thiếu tá Alistair Hargreaves. Tài xế bật mở cửa, một người da sẫm, bộ râu dày, mặc áo choàng aba là lượt bước ra, theo sau là một tín đồ thời trang Pari và sau đó nữa là một cô bé mỏng mảnh, da sẫm. ‘Đấy chắc hẳn là Công nương… tên là gì ấy nhỉ,’ Ann nghĩ. ‘Không thể tưởng tượng nổi cô bé ấy mặc đồng phục, nhưng mình cho rằng điều thần kỳ sẽ xuất hiện ngày mai…’ Lần này cả cô Vansittart và bà Chadwick đều xuất hiện. ‘Họ sẽ được đưa vào danh sách diện kiến,’ Ann quả quyết. Rồi cô nghĩ, cũng khá lạ, rằng người ta không thích đùa cợt về bà Bulstrode. Bà Bulstrode là Người Ai Cũng Biết. ‘Tốt hơn nên tập trung vào chuyên môn đi,’ cô tự nhủ, ‘và gõ xong mấy bức thư này không sai lỗi thì hơn.’ Ann không phải là người hay phạm lỗi lầm. Cô đủ giỏi để có quyền chọn việc như ý. Cô từng là trợ lý riêng cho tổng giám đốc một công ty dầu mỏ, thư ký riêng cho ngài Mervyn Todhunter, nổi tiếng về sự uyên bác, thói cáu bẳn và chữ viết tay khó đọc. Trong số những người thuê cô làm việc, có hai người là Chủ tịch Nội các và một vị công chức quan trọng trong cơ quan chính phủ. Nhưng nhìn chung, công việc của cô luôn là giữa đám đàn ông. Cô băn khoăn mình sẽ thế nào, như cách nói của cô, khi hoàn toàn giữa đám phụ nữ. Ờ - thì đằng nào cũng là những trải nghiệm thôi. Và dù thế nào cũng có Dennis! Dennis thủy chung từ Malaya, từ Burma, từ nhiều nơi trên thế giới trở về, và vẫn như xưa, vẫn tận tình, và hỏi cưới cô lần nữa. Dennis thân thương! Nhưng thật là tẻ nhạt lắm mới đi cưới Dennis. Trong tương lai sắp tới, cô sẽ nhớ đến thời gian được làm việc cùng nam giới. Tất cả những giáo viên ở đây - không có lấy một mống đàn ông nào cả, ngoại trừ lão làm vườn đã tám chục tuổi. Nhưng đến đây Ann bỗng ngạc nhiên. Nhìn ra cửa sổ, cô thấy một người đàn ông đang xén hàng rào ngay phía bên kia lối đi dành cho ô tô - rõ ràng là một người làm vườn nhưng mà còn lâu mới tám chục tuổi. Trẻ, tóc đen, và điển trai. Ann ngẫm ngợi, hình như người ta có nhắc đến chuyện thuê người phụ việc, nhưng người này đâu phải dân quê mùa. À thì, ngày nay người ta làm đủ thứ việc. Một số thanh niên đang cố tích góp tiền cho dự định này nọ trong tương lai, hay chỉ kiếm đủ sống qua ngày. Nhưng anh ta đang xén hàng rào theo cách rất chuyên nghiệp. Chắc hẳn anh ta là một người làm vườn thực thụ. Mời các bạn đón đọc Con Mèo Giữa Đám Bồ Câu của tác giả Agatha Christie.  
Chuyến Tàu Định Mệnh
Tình yêu và chiến tranh: một chủ đề kinh điển, bởi vì dường như trong chiến tranh, tình yêu có thể hé lộ hết chiều sâu của nó. Và với Chuyến tàu định mệnh Georges Simenon nổi bật bằng một chuyện tình trong chiến tranh chân thực hiếm có. Sự chân thực ấy, vốn dĩ gắn bó với cả cuộc đời viết văn đồ sộ của Simenon, đã hết sức tự nhiên mà chọn lấy một tông giọng đẹp và chuẩn xác để kể câu chuyện về Marcel và Anna trên chuyến tàu hỏa huyền ảo, vào thời điểm chiến sự bắt đầu bùng nổ tại châu Âu, mùa hè năm 1940. Và hơn thế nữa, không ít chi tiết thuộc tiểu sử của Simenon cũng đi vào Chuyến tàu định mệnh theo một cách tự nhiên như bản thân cuốn tiểu thuyết lớn với vẻ ngoài rất giản dị này. *** Nhà văn Georges Simenon sinh ngày 13.2.1903 mất ngày 4.9.1989. Năm 16 tuổi, Simenon là chàng phóng viên trẻ viết tin vắn cho tờ La Gazette de Liège. Mỗi ngày, ông đạp xe đến các bót cảnh sát, nhà băng, sở cứu hỏa, những cuộc thi thể thao để lấy tin cho báo. Năm 1922, ông tới Paris hoa lệ. Tiểu thuyết đầu tay Trên Chiếc Cầu Vòm Cung được xuất bản tại Liège (Bỉ) với bút danh Georges Sun. Nhưng sự thành công chưa vội đến với cây bút trẻ có hàng chục bút danh khác nhau này (Jean du Perry, Gom Gut, Christian Brull...). Mười năm miệt mài viết như người lao động khổ sai giúp ông thành thạo trong “tốc độ” sáng tác. Đây chính là thế mạnh của tác giả “bậc thầy trinh thám” sau này. “Suốt thời kỳ 1928-1931, ông chỉ viết những tác phẩm về Maigret, trung bình mỗi tháng một cuốn”, ông nổi tiếng như cồn khi tiểu thuyết trinh thám Con Chó Vàng (Le chien jaune, 1931) được xuất bản, với tên thật Georges Simenon. 11 tác phẩm in năm đó thì 10 cuốn là tiểu thuyết với nhân vật sáng tạo Thanh tra Maigret. Một đời văn với hơn 300 tác phẩm viết bằng tiếng Pháp đã được xuất bản, người ta không khỏi thán phục năng lực sáng tác bền bỉ và trí tưởng tượng phong phú của nhà văn Georges Simenon. Bậc thầy tiểu thuyết trình thám thật sự chinh phục hàng triệu người đọc tại nhiều nước trên thế giới. Hơn 80 tiểu thuyết Thanh tra Maigret không nằm trong thể loại truyện hình sự tầm thường. Giá trị văn học của tác phẩm đã được các nhà phê bình nhìn nhận. Sau ngày ông mất, Đại học Liège ở Bỉ đã thành lập Trung tâm nghiên cứu Georges Simenon và đã xuất bản các tác phẩm nghiên cứu về ông. *** Khi tôi thức giấc, lớp rèm bằng vải mộc để lọt vào phòng thứ ánh sáng vàng nhạt mà tôi vốn quen thuộc từ lâu. Những khuôn cửa sổ phòng chúng tôi, ở lầu một, không có cánh chớp. Không cửa sổ nhà nào trên phố có cánh chớp. Trên bàn đầu giường, tôi nghe thấy tiếng đồng hồ báo thức kêu tích tắc và, bên cạnh tôi, tiếng thở đều đặn của vợ tôi, to gần bằng tiếng thở của những bệnh nhân, trong một cuộc giải phẫu, trên phim ảnh. Vợ tôi lúc đó có mang được bảy tháng rưỡi. Cũng như lần mang thai Sophie trước, cái bụng vĩ đại của nàng buộc nàng phải nằm ngửa. Không nhìn đồng hồ báo thức, tôi thò một cẳng ra khỏi giường. Jeanne cựa quậy và nói ấp úng, giọng xa vắng: - Mấy giờ rồi anh? - Năm rưỡi. Cả đời tôi, tôi quen dậy sớm, nhất là sau những năm ở liệu dưỡng viện, nơi mùa hè người ta mang hàn thử biểu cho chúng tôi từ lúc sáu giờ sáng. Vợ tôi đã không còn để ý đến những gì xảy ra quanh nàng và một cánh tay nàng duỗi ra chỗ tôi vừa rời khỏi. Tôi lặng lẽ mặc quần áo, cử hành, theo thứ tự, nghi thức của mỗi buổi mai, thỉnh thoảng đưa mắt nhìn con gái, hồi đó, giường nó còn kê trong phòng chúng tôi. Tuy chúng tôi đã sắp đặt cho nó căn phòng đẹp nhất trong nhà, phía mặt tiền, thông sang phòng chúng tôi. Nó không chịu ngủ ở đó. Tôi rời phòng, tay cầm giày đi trong nhà và chỉ xỏ vào khi xuống tới chân cầu thang. Chính lúc đó tôi nghe thấy những hồi còi thứ nhất của tàu bè, gần cửa cống Uf, cách gần hai cây số. Theo quy định, các cửa cống phải mở cho sà lan qua lại ngay từ lúc mặt trời mọc và sáng nào cũng có cuộc hòa nhạc đó. Trong bếp, tôi nhóm ga, đặt ấm đun nước. Ngày mới, thêm một lần nữa, lại báo hiệu nắng ấm. Trong suốt thời kỳ này, ngày nào cũng thắm tươi rực rỡ, và hẳn tôi vẫn còn có thể, mỗi giờ, chỉ chỗ các dấu mặt trời tại những gian phòng khác nhau trong nhà. Tôi mở cửa thông ra khoảng sân đã được chúng tôi lợp mái kính để vợ tôi có thể giặt giũ bất cứ lúc nào, mưa cũng như nắng, và con gái tôi có thể chơi đùa ở đó. Giờ, tôi vẫn nhìn thấy chiếc xe của búp bê và xa hơn chút nữa là con búp bê đang nằm lăn lóc trên những phiến gạch lát hình vuông màu vàng. Tôi tránh không vào xưởng ngay vì tôi đã nhất quyết theo đúng các nguyên tắc, như cách tôi gọi thời khóa biểu của tôi hồi ấy. Một cái thời khóa biểu tự nó thiết định lấy, dần dần từng chút một, do những thói quen tạo ra hơn là do nhu cầu. Trong khi chờ nước sôi, tôi đổ đầy bắp vào cái chậu cũ men xanh, lòng gỉ sét, chẳng dùng được cho việc gì khác và tôi băng qua sân đi cho gà ăn. Chúng tôi có sáu con gà mái trắng và một con gà trống. Sương lóng lánh trên những lá rau, trên cây tử đinh hương độc nhất của chúng tôi mà những bông hoa tím, năm nay nở sớm, đã bắt đầu úa héo, và tôi vẫn nghe thấy, không chỉ tiếng còi tàu bè trên sông Meuse, mà còn cả tiếng thở hổn hển của những tàu chạy dầu cặn. Tôi tha thiết muốn tuyên bố ngay rằng tôi không phải là một người đàn ông bất hạnh, cũng không phải một người buồn rầu. Ở tuổi ba mươi hai, tôi thấy mình thẳng tiến trong mọi kế hoạch mà tôi có thể lập ra, trong mọi niềm hy vọng của tôi. Tôi có một vợ, một nhà, một đứa con gái bốn tuổi hơi dễ kích động nhưng bác sĩ Wilhems cả quyết rằng nó sẽ hết thôi. Tôi đã tự tay dựng cơ nghiệp và khách hàng của tôi mỗi ngày mỗi đông thêm, nhất là mấy tháng gần đây, dĩ nhiên. Tất cả mọi người, vì nhiều biến cố, đều muốn có máy radio. Tôi không ngừng bán máy mới, sửa chữa máy cũ và, vì chúng tôi ở cách bến tàu có vài bước, tàu bè nghỉ đêm ở đó, tôi còn có cả khách hàng trong đám thủy thủ nữa. Tôi nhớ đã nghe thấy tiếng cửa mở tại nhà hàng xóm bên trái của chúng tôi, gia đình Matray, một cặp vợ chồng già rất lặng lẽ. Lão Matray, từng làm thủ quỹ ở Pháp quốc Ngân hàng trong suốt ba lăm hay bốn mươi năm gì đó, cũng là một người dậy sớm và bắt đầu mỗi ngày bằng cách đi lại thở hít không khí trong lành nơi vườn nhà. Mọi mảnh vườn trên phố đều y như nhau, mỗi mảnh rộng bằng bề ngang căn nhà, cách nhau bằng bức tường cao đúng tầm để người ta chỉ nhìn thấy chỏm đầu hàng xóm. Từ ít lâu nay, lão Marray có thói quen rình rập tôi, vì lẽ những chiếc máy của tôi cho phép bắt các loại sóng ngắn. - Sáng nay không có tin tức gì sao, ông Féron? Buổi sáng hôm đó, tôi trở vào nhà trước khi lão kịp hỏi tôi và chế nước sôi lên cà phê. Những đồ vật quen thuộc đều ở đúng chỗ của chúng, chỗ mà Jeanne và tôi đã định hoặc cuối cùng, theo thời gian, chúng đã tự chiếm lấy. Nếu vợ tôi không có bầu thì hẳn tôi đã bắt đầu nghe thấy tiếng bước chân nàng trên lầu một bởi vì, vào lúc bình thường, nàng vẫn dậy liền sau tôi. Tuy nhiên, theo thói quen, tôi thích tự sửa soạn cho mình ly cà phê đầu tiên trước khi vô xưởng. Cứ thế chúng tôi tuân thủ một số nghi thức nhất định và tôi cho rằng chắc gia đình nào cũng vậy. Lần mang bầu thứ nhất cực nhọc, sinh nở khó khăn. Jeanne đổ tính nóng nảy của Sophie cho cái gắp sắt mà người ta đã phải dùng đến và gây tổn hại cho đầu của đứa nhỏ. Từ khi có bầu trở lại, nàng sợ lại khó đẻ và bị ám ảnh sẽ cho ra đời một đứa trẻ bất thường. Bác sĩ Wilhems, người được nàng rất tin cậy, cũng không trấn an nổi nàng, giỏi lắm thì cũng chỉ được vài tiếng đồng hồ, và buổi tối, nàng thao thức không dỗ được giấc ngủ. Rất lâu sau khi chúng tôi vào giường, tôi còn nghe thấy nàng trăn trở tìm một thế nằm thoải mái và gần như bao giờ cuối cùng nàng cũng thì thào hỏi: - Anh ngủ chưa, Marcel? - Chưa. - Em tự hỏi không biết cơ thể em có thiếu chất sắt không. Em đã đọc thấy trong một bài báo... Nàng cố ngủ nhưng thường phải quá hai giờ sáng mới chợp mắt nổi và sau đó, cũng chẳng phải hiếm khi, nàng bỗng vùng dậy thét lên. - Em lại bị ác mộng nữa, Marcel. - Kể anh nghe. - Không. Em thích đừng nghĩ đến điều đó nữa thì hơn. Khủng khiếp lắm. Em xin lỗi đã làm anh mất giấc ngủ, anh phải làm việc nhiều biết bao nhiêu... Hồi gần đây, nàng thức dậy vào khoảng bảy giờ và sau đó xuống sửa soạn bữa sáng. Ly cà phê trên tay, tôi bước vào xưởng và mở cánh cửa lắp kiếng ngó xuống sân cùng mảnh vườn. Vào lúc này đây, tôi được tận hưởng tia nắng đầu tiên của ngày, xế bên trái cửa ra vào một chút, và tôi biết chính xác lúc nào nó sẽ lần tới cái bàn thợ của tôi. Thật ra đó không phải là một cái bàn thợ đúng nghĩa mà chỉ là cái bàn lớn rất nặng, từ một tu viện thải ra, tôi đã mua nó trong cuộc phát mãi. Luôn luôn trên bàn bao giờ cũng có dăm cái máy đang sửa. Dụng cụ của tôi được xếp vào giá treo trên tường, ngay trong tầm tay tôi. Khắp xung quanh phòng, hàng đống máy chồng chất ngổn ngang trên các tủ nhiều ngăn bằng gỗ trắng mà tôi đã kê, và được dán nhãn ghi tên khách hàng. Rốt cuộc tôi cũng vặn các nút, dĩ nhiên. Trì hoãn giây phút này hầu như là một trò chơi. Tôi thường tự nhủ, trái với mọi lý lẽ: “Nếu mình chờ một chút xíu nữa, có thể sẽ là ngày hôm nay.” Ngay sau đó, ngày hôm ấy, tôi hiểu cuối cùng có chuyện gì đó đã xảy ra. Tôi chưa hề thấy không khí bị bó rọ như thế bao giờ. Dù tôi chọn tần số nào thì các chương trình phát thanh cũng chằng chịt chồng lên nhau, những tiếng nói, những tiếng rít, những câu tiếng Đức, tiếng Hòa Lan, tiếng Anh, tiếng Pháp và người ta cảm thấy trong không gian như thể có một sự dao động đầy kịch tính. - Đêm nay, các toán quân Quốc xã đã tấn công quy mô lớn vào... Chưa đến lượt nước Pháp - dù sao người ta cũng không nhắc đến nó - mà là Hòa Lan, nó vừa bị xâm chiếm. Đài tôi vừa nghe, là một đài Bỉ. Tôi kiếm Ba Lê, nhưng Ba Lê vẫn nín lặng. Vệt nắng rung rinh chập chờn trên sàn nhà xám và ở cuối vườn, sáu con gà mái trắng của chúng tôi xao xác xung quanh con gà trống mà Sophie gọi là Nestor. Tại sao đột nhiên tôi lại tự hỏi cái chuồng gà bé nhỏ của chúng tôi sẽ ra sao? Lòng tôi hầu như se lại trước số phận của nó. Tôi vặn các nút khác, tìm kiếm trong dải tần số ngắn nơi mà dường như tất cả mọi người đều nói cùng một lúc. Và thế là tôi bắt được, trong giây lát ngắn ngủi, một điệu quân nhạc mà tôi mất dấu ngay lập tức, đến nỗi tôi không thể biết điệu nhạc đó thuộc quân đội nào. Một người Anh vừa đọc một bản tin vừa nhắc đi nhắc lại mỗi câu mà tôi không hiểu, như thể hắn đọc chính tả cho một thông tín viên chép lại, và ngay sau đó tôi lạc vào một máy phát mà tôi chưa hề nghe bao giờ, một máy phát dã chiến. Máy phát đó chắc phải ở gần lắm, thuộc về một trong các trung đoàn từ hồi tháng Mười, hồi đầu của cuộc chiến kỳ quặc*, đã đóng quân trong vùng. Mời các bạn đón đọc Chuyến Tàu Định Mệnh của tác giả Georges Simenon.
Vệ Sĩ Vô Hình
Thi thể các thiếu nữ được tìm thấy ở thung lũng Baztán trong tình trạng bị siết cổ, quần áo rách toạc, khuôn mặt biến dạng. Trên vùng kín của mỗi nạn nhân còn được đặt một chiếc txatxingorri  - một loại bánh ngọt đặc trưng của vùng. Ngoài ra, người ta còn phát hiện lông động vật ở trên người các nạn nhân. Ngay lập tức, mọi mối nghi ngờ đều hướng đến basajaun - còn được biết đến dưới tên gọi “quý ông trong rừng” một sinh vật có thật trong truyền thuyết. Vụ án được giao cho thanh tra Amaia Salazar, vốn là người xuất thân từ thị trấn Elizondo - một vùng thuộc thung lũng Baztán. Đó là người phụ nữ thông minh, quyết đoán, được đào tạo bởi FBI, từng chỉ huy nhiều cuộc truy tìm tung tích những kẻ giết người hàng loạt. Với năng lực của mình, cùng sự trợ giúp đắc lực của đồng đội, Amaia Salazar đặt niềm tin mạnh mẽ vào cuộc điều tra nhằm vạch mặt hung thủ. Nhưng quay trở lại nơi gắn liền với tuổi thơ của mình, nơi vẫn còn những người thân trong gia đình lại không phải là nơi khiến cô cảm thấy bình yên. Nhất là một trong hai người chị của Amaia không hề chào đón sự xuất hiện của em gái mình. Áp lực Amaia phải chịu ngày càng lớn khi mà vụ án lâm vào ngõ cụt và những ký ức ám ảnh của tuổi thơ bỗng trỗi dậy mãnh liệt khiến buộc cô buộc phải đối mặt với góc khuất của chính bản thân mình. Bởi lẽ, vụ án này có mối liên hệ chặt chẽ với quá khứ - vốn là chấn thương tâm lý sâu kín mà cô luôn muốn chạy trốn suốt nhiều năm qua - của chính thanh tra Amaia. Đam mê và sự điên cuồng hòa quyện với nhau tạo nên một tác phẩm vô cùng bí ẩn, lôi cuốn và kịch tính về văn hóa, tín ngưỡng xứ Basque. Sự huyền bí của tác phẩm thể hiện sinh động ở những chi tiết: hiện trường gây án, nữ thần Maria, tiên nữ và phù thủy… Tác phẩm đặc tả xứ sở Navarre với núi non trùng điệp, rừng sâu hun hút và sông nước mênh mang… tạo nên sự hài hòa giữa hiện đại và truyền thống, làm say lòng độc giả. *** "Vệ sĩ vô hình" là tập đầu tiên trong bộ ba tiểu thuyết hình sự về thung lũng Baztan của tác giả Dolores Redondo. Thi thể các thiếu nữ được tìm thấy ở thung lũng Baztán trong tình trạng bị siết cổ, quần áo rách toạc, khuôn mặt biến dạng. Trên vùng kín của mỗi nạn nhân còn được đặt một chiếc txatxingorri  - một loại bánh ngọt đặc trưng của vùng. Ngoài ra, người ta còn phát hiện lông động vật ở trên người các nạn nhân. Ngay lập tức, mọi mối nghi ngờ đều hướng đến basajaun, - còn được biết đến dưới tên gọi “quý ông trong rừng” một sinh vật có thật trong truyền thuyết. Vụ án được giao cho thanh tra Amaia Salazar, vốn là người xuất thân từ thị trấn Elizondo - một vùng thuộc thung lũng Baztán. Đó là người phụ nữ thông minh, quyết đoán, được đào tạo bởi FBI, từng chỉ huy nhiều cuộc truy tìm tung tích những kẻ giết người hàng loạt. Với năng lực của mình, cùng sự trợ giúp đắc lực của đồng đội, Amaia Salazar đặt niềm tin mạnh mẽ vào cuộc điều tra nhằm vạch mặt hung thủ. Nhưng quay trở lại nơi gắn liền với tuổi thơ của mình, nơi vẫn còn những người thân trong gia đình lại không phải là nơi khiến cô cảm thấy bình yên. Nhất là một trong hai người chị của Amaia không hề chào đón sự xuất hiện của em gái mình. Áp lực Amaia phải chịu ngày càng lớn khi mà vụ án lâm vào ngõ cụt và những ký ức ám ảnh của tuổi thơ bỗng trỗi dậy mãnh liệt khiến buộc cô buộc phải đối mặt với góc khuất của chính bản thân mình. Bởi lẽ, vụ án này có mối liên hệ chặt chẽ với quá khứ - vốn là chấn thương tâm lý sâu kín mà cô luôn muốn chạy trốn suốt nhiều năm qua - của chính thanh tra Amaia. Đam mê và sự điên cuồng hòa quyện với nhau tạo nên một tác phẩm vô cùng bí ẩn, lôi cuốn và kịch tính về văn hóa, tín ngưỡng xứ Basque. Sự huyền bí của tác phẩm thể hiện sinh động ở những chi tiết: hiện trường gây án, nữ thần Maria, tiên nữ và phù thủy… Tác phẩm đặc tả xứ sở Navarre với núi non trùng điệp, rừng sâu hun hút và sông nước mênh mang… tạo nên sự hài hòa giữa hiện đại và truyền thống, làm say lòng độc giả. *** Bộ Thung Lung Baztán Xứ Basque gồm có: Vệ Sĩ Vô Hình Mối Bất Hòa Truyền Kiếp Lễ Vật Kinh Hoàng *** Dolores Redondo sinh năm 1969, tại Saint-Sébastien, một tỉnh thuộc xứ Basque, Tây Ban Nha. Bà từng học chuyên ngành Luật, làm việc nhiều năm trong lĩnh vực thương mại trước khi trở thành tiểu thuyết gia. Với thành công của bộ ba tiểu thuyết hình sự đặc sắc về thung lũng Baztan, Redondo trở thành tác giả tác giả trinh thám nổi tiếng nhất suốt nhiều 5-10 năm qua tại nước này. Bà là  một trong số ít tác giả Tây Ban Nha được đề cử giải thưởng CWA International Dagger 2015. *** Ainhoa Elizasu là nạn nhân thứ hai của basajaun*, mặc dù báo chí vẫn chưa gọi hắn bằng cái tên ấy cho đến sau này, khi xuất hiện những sợi lông thú, những mẩu da và những lâu vết không thể nhận diện tìm thấy quanh các xác chết, cùng chứng cứ của một loại nghi lễ thanh tẩy rùng rợn. Quần áo nạn nhân bị xé rách, vùng kín của họ bị cạo sạch lông và hai bàn tay đặt ngửa, thi thể của các cô gái gần như trẻ con hình như bị một quyền lực độc ác, già lão như Trái đất đánh dấu. Nghĩa đen là “quý ông trong rừng”, cổ ngữ Tây Ban Nha. (Các chú thích của người dịch). Thanh tra Amaia Salazar thường theo đúng thói quen hằng ngày khi được gọi tới một hiện trường gây án lúc nửa đêm. Chị tắt báo thức buổi sáng để không làm phiền James, xếp gọn quần áo của chị và để điện thoại di động lên trên, rồi từ tốn xuống cầu thang vào bếp. Chị uống cốc cà phê sữa trong lúc mặc quần áo, để lại tin nhắn cho chồng rồi vào xe. Khi lái xe, tâm trí chị trống rỗng ngoại trừ âm thanh luôn đầy ắp trong đầu khi phải dậy từ trước rạng đông. Tàn dư của một đêm mất ngủ theo chị suốt dọc đường đến hiện trường, mặc dù từ Pamplona đến đó mất hơn một giờ chạy xe. Chị bẻ lái quá gấp và tiếng lốp xe rít lên khiến chị nhận ra mình đãng trí nhường nào. Sau đó, chị buộc mình phải chú tâm đến con đường ngoằn ngoèo dẫn lên khu rừng rậm bao quanh Elizondo. Năm phút sau, lúc đỗ xe cạnh tẩm biển của cảnh sát, chị nhận ra chiếc ô tô thể thao của bác sĩ Jorge San Martin và xe địa hình của thẩm phán Estébanez. Amaia xuống xe, chị đi vòng ra sau cốp lấy đôi ủng. Chị xỏ chân vào ủng đúng lúc phó thanh tra Jonan Etxaide và thanh tra Montes đến chỗ chị. — Không hay rồi sếp ạ, nạn nhân là một cô gái rất trẻ, - Jonan tra cứu các ghi chép, - chỉ mười hai hoặc mười ba tuổi. Mười một giờ đêm qua, bố mẹ cô bé đã báo cảnh sát khi vẫn chưa thấy con gái mình về nhà. — Hơi sớm để báo cô bé mất tích, - Amaia nhận xét. — Đúng vậy. Hình như lúc mười giờ tám phút, cô bé đã gọi vào di động cho anh trai, báo bị lỡ xe buýt ở Arizkun. — Cậu ta không nói gì cho đến mười một giờ ư? — Chị biết chuyện là thế nào rồi: “Aita và Ama* sẽ giết em mất. Anh đừng nói gì với bố mẹ nhé. Em sẽ nhờ bố mẹ của một cô bạn đưa về”. - Vì thế cậu anh trai im thin thít và tiếp tục chơi game. Đến mười một giờ, nhận ra em gái vẫn chưa về nhà và mẹ bắt đầu lo cuống lên, cậu ta mới nói cho bố mẹ. Bọn họ đến đồn cảnh sát ở Elizondo và khăng khăng rằng đã có chuyện gì đó xảy ra với con gái họ. Con bé không trả lời điện thoại di động, và họ đã gọi cho tất cả các bạn của nó. Một xe tuần tra đã tìm thấy cô bé. Cảnh sát phát hiện ra đôi giày của Ainhoa bên lề đường lúc họ đang vào chỗ rẽ. - Jonan chiếu đèn pin lên vệ đường, một đôi giày cao gót màu đen đắt tiền lấp lánh, xếp ngay ngắn ở đó. Aunaia nhìn xuống. Cha và Mẹ (tiếng Tây Ban Nha trong nguyên bản). — Trông như chúng được xếp lại như thế này. Đã có ai chạm vào chưa? - Chị hỏi. Jonan kiểm tra lại ghi chép. Hiệu quả làm việc của viên phó thanh tra trẻ tuổi là thứ trời cho trong những vụ khó nhằn kiểu này. — Chưa, đôi giày vẫn y nguyên như lúc được tìm thấy, xếp cạnh nhau và mũi giày hướng ra đường. — Gọi các nhân viên kỹ thuật hiện trường lấy vân tay và kiểm tra mặt trong, khi nào họ xong việc. Ai xếp chúng như thế này đều phải chạm vào mặt trong cũng như bên ngoài giày. Thanh tra Montes cho đến lúc này vẫn đứng lặng lẽ, chăm chú nhìn đôi giày Ý hàng hiệu của mình, bỗng ngẩng lên như tỉnh khỏi giấc ngủ sâu. — Salazar, - anh lẩm bẩm chào Amaia rồi bước tới rìa đường, không đợi chị. Amaia cau mày bối rối và quay sang Jonan. — Anh ta làm sao thế? — Tôi không biết thưa sếp, chúng tôi đi cùng xe từ Pamplona đến đây và anh ấy chưa một lần mở miệng. Tôi nghĩ có khi anh ấy đã uống một hoặc hai cốc. Amaia cũng nghĩ như vậy. Từ khi ly dị, thanh tra Montes cứ dần dần sa sút, không chỉ trong sở thích giày Ý và những chiếc cà vạt sặc sỡ. Vài tuần lễ gần đây, Montes đặc biệt phân tâm, anh ta lạnh lùng và khó hiểu, rút sâu vào thế giới bé nhỏ của riêng mình, hầu như miễn cưỡng tiếp xúc với những người xung quanh. — Cô gái đâu? — Bên bờ sông. Chị phải đi xuống con dốc này, - Jonan đáp, và chỉ tay vẻ áy náy, như thể cái xác ở dưới kia là lỗi của mình vậy. Lúc Amaia đi xuống con dốc đã mòn bên dòng sông hơn một ngàn năm tuổi, chị trông thấy ở phía xa, nhiều ngọn đèn pha và dây chăng đánh dấu khu vực cảnh sát đang làm việc. Thẩm phán Estébanez đứng một bên, đang khẽ trò chuyện với nhân viên tòa án và liếc nhìn nơi xác chết. Hai nhân viên pháp y di chuyển vòng quanh, đèn flash chớp loe lóe từ mọi góc độ và một kỹ thuật viên thuộc Viện pháp y Navarre đang quỳ cạnh xác, hình như đang lấy nhiệt độ ở gan. Amaia hài lòng thấy mọi người đều tôn trọng lối vào mà các cảnh sát đầu tiên có mặt ở hiện trường đã thiết lập. Tuy nhiên, có quá nhiều người ở đó. Là một tín đồ Công giáo đáng lẽ chị phải làm việc gì đó, nhưng gần như vô lý vì bất cứ khi nào phải xử lý một xác chết, chị đều thấy thiếu hẳn cảm giác riêng tư và mộ đạo mà chị thường trải nghiệm trong một nghĩa địa. Dường như điều này bị xúc phạm bởi sự có mặt do nghề nghiệp của những con người xa lạ và không liên quan đang lượn quanh xác chết. Nạn nhân của kẻ giết người giống như một tác phẩm nghệ thuật nằm đó, im lìm và lặng lẽ, bất chấp nỗi kinh hoàng bẩm sinh. Mời các bạn đón đọc Vệ Sĩ Vô Hình của tác giả Dolores Redondo.