Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đánh Cắp Khát Khao Em

Gabrielle Brooks biết rằng tìm được một người chồng hoàn hảo là việc không dễ dàng. Thậm chí với sự thật rằng cha nàng đã nhờ tới sự giúp đỡ của người đàn ông đầy ảnh hưởng - James Malory, người mà - cùng với vợ mình Georgina, sẽ bảo trợ cho nàng trong lần đầu ra mắt, vào lúc mùa vũ hội đã trôi qua được nửa đường rồi, nhưng hầu như những người đàn ông thích hợp đã bị “săn bắt” bởi những quý cô có ý định kết hôn khác. Và nếu mọi người biết rằng Gabrielle là con gái của một tên cướp biển, nàng có thể sẽ phải ngay lập tức đóng gói đồ đạc và trở về nhà mà vẫn là một bà cô không chồng. Mặc kệ những trở ngại đó, Gabrielle đã tìm được một người đàn ông có tiềm năng: thuyền trưởng người Mỹ Drew Anderson. Nhưng Drew lại không có quan điểm rõ ràng việc kết hôn và cả những tên cướp biển. Khi Gabrielle bất ngờ phải quay lại Caribbean, nàng quyết định chứng minh chính xác mình có bao nhiêu phần cướp biển bằng cách ăn trộm thuyền của Drew và bắt giữ anh. Lindsey đã thêm một ít những pha hành động kịch tính và phiêu lưu vào cuộc bắt cóc mới nhất này, cùng với sự hài hước dí dỏm nhưng cũng thật quyến rũ gợi cảm – đặc trưng của Malory series… *** Johanna Lindsey, tên thật là Johanna Helen Howard, sinh ngày 10 tháng 3 năm 1952 tại Đức, nhưng lại là một trong những nhà văn nổi tiếng ở Mỹ. Bà được mệnh danh là một trong những tác giả thành công nhất trên thế giới về tiểu thuyết lịch sử lãng mạn. Các tác phẩm của bà thường xuyên lọt vào danh sách bán chạy nhất do New York Times bình chọn.   Lindsey xuất bản cuốn sách đầu tay vào năm 1977, với tựa đề Captive Bride, và ngay lập tức đưa tên tuổi của bà đến với các độc giả yêu văn học. Đó chính là độc lực để bà tiếp tục cho ra đời rất nhiều cuốn tiểu thuyết ăn khách khác.   Tính đến năm 2006, những tác phẩm của bà đã bán được trên năm mươi tám triệu ấn bản và dịch ra mười hai ngôn ngữ trên toàn thế giới.   Bằng lối kể chuyện hài hước song cũng không kém phần lãng mạn và bất ngờ, Johanna đã không hề khiến người đọc thất vọng với những câu chuyện của mình. Bà đã gắn kết những con người với hoàn cảnh và số phận hoàn toàn khác biệt, tưởng chừng như không bao giờ có thể ở bên nhau, và cho hộ một kết thúc viên mãn.   Không chỉ có vậy, giọng văn tinh tế và vô cùng đặc trưng của Johanna cũng là điều luôn hấp dẫn độc giả. Mỗi nhân vật của bà luôn được khắc họa với cá tính nổi bật. Ngoài ra, chính sự kiên cường của họ trong tình yêu cũng góp phần tạo ra nét đặc sắc cho ngòi bút của bà.   Mời độc giả đọc các tác phẩm của Johanna Lindsey đã và sẽ được Bách Việt xuất bản: Ma lực tình yêu (2012), Nàng công chúa lưu lạc (2012), Gã cướp biển quý tộc (2012), Em là của anh (2012), Hãy nói yêu em (2013), Người thừa kế (2015), The devil who tamed her, A rogue of my own, Let love find you. *** Nàng đã được dặn là phải trốn, và trốn kỹ như thế. Đó cũng là suy nghĩ đầu tiên của Gabrielle Brooks ngay sau khi tiếng ồn đã kéo nàng lên boong tàu. Dù vậy, không phải thuyền trưởng là người đã đưa ra lệnh đó với nàng. Anh ta không có gì ngoại trừ sự ngạo mạn cái mà làm anh có thể mất đang trong chuyến hành trình thuận buồm xuôi gió. Anh thậm chí còn cười vào việc đó và dứ dứ nắm đấm vào cờ Jolly Roger bay trên cột buồm chính của con tàu đang tấn công (Jolly Roger – là thuật ngữ hay tên dành cho cờ của cướp biển), điều mà có thể trông thấy rõ ràng bây giờ bằng mắt thường. Sự nồng nhiệt của anh ta – mà nàng dám nói là sự vui sướng chăng? – chắc chắn giúp cho tâm trí nàng dịu bớt. Cho đến khi vị thuyền phó boong kéo nàng sang một bên và bảo nàng trốn đi. Không giống như thuyền trưởng, Avery Dobs dường như không háo hức cho lắm với cuộc chạm trán sắp tới. Da anh trắng bệch như những cánh buồm phụ đang được cuốn lên nhanh chóng bởi toàn bộ thủy thủ trên tàu, anh cũng chẳng nhẹ nhàng khi xô nàng về phía những bậc thang.  “Sử dụng những chiếc thùng rỗng đựng thức ăn trong khoang. Có rất nhiều ở đó. Với bất kỳ may mắn nào, bọn cướp biển sẽ không mở nhiều hơn một hay hai, và thấy chúng trống không, chúng sẽ rời đi nhanh chóng. Tôi đã báo cho người hầu của cô trốn đi ngay rồi. Bây giờ đi đi! Và dù cô nghe thấy bất cứ điều gì thì cũng không được rời khỏi khoang tàu cho đến khi người nào cô quen giọng đến chỗ cô”. Anh không nói gì cho đến khi anh đến chỗ nàng. Sự hoảng sợ của anh đang lan dần nhưng sự thô lỗ của anh mới đáng ngạc nhiên. Cánh tay nàng hầu như chắc chắn bị thâm nơi mà anh đã nắm chặt. Đó quả thật là sự thay đổi từ cách đối xử lịch sự của anh với nàng kể từ khi cuộc hành trình bắt đầu. Anh gần như đã tán tỉnh nàng, hay trông có vẻ như thế, dù cho nó không phải vậy. Anh mới đầu 30 tuổi, còn nàng thì mới rời trường học. Đó chỉ là cách cư xử tôn trọng, giọng nói lịch sự của anh, và sự chú ý quá mức mà anh dành cho nàng trong suốt 3 tuần kể từ khi họ rời London, điều đó đã gây ấn tượng vời nàng rằng anh thích nàng nhiều hơn những gì anh nên. Anh đã truyền sự sợ hãi của mình tới nàng, mặc dù, nàng vẫn chạy hướng về phía lòng thuyền. Thật dễ dàng tìm được những chiếc thùng đựng thức ăn mà Avery đã bảo, gần như tất cả đã rỗng, khi giờ đây, họ đã gần đến điểm dừng chân ở Caribbean. Thêm vài ngày nữa, và họ sẽ đến cảng của St. George ởGrenada, chỗ ở cuối cùng của cha nàng mà người ta biết, và nàng có thể bắt đầu tìm kiếm ông. Nathan Brooks không phải là người đàn ông mà nàng biết rõ, mặc dù tất cả những ký ức của nàng về ông quá đỗi đẹp đẽ, nhưng giờ đây ông là tất cả những gì mà nàng có kể từ khi mẹ nàng mất. Trong khi nàng chưa từng một lần nghi ngờ rằng ông yêu bà, ông không bao giờ ở lại gia đình với nàng trong thời gian dài. Một tháng, có thể là vài tháng, và, một năm, ông đã ở lại toàn bộ mùa hè, nhưng sau đó vài năm trôi qua mà ông không trở về thăm. Nathan là thuyền trưởng của chiếc tàu buôn của chính ông với nhiều lợi nhuận buôn bán trên các tuyến đường vùng Tây Ấn. Ông gửi tiền cùng những món quà xa xỉ về nhưng lại hiếm khi tự mình về nhà.  Ông đã cố gắng dời gia đình đến gần nơi ông làm việc, nhưng Carla, mẹ của Gabrielle, thậm chí không thèm cân nhắc đến nó. Nước Anh đã trở thành quê hương của bà trong suốt cuộc đời. Gia đình bà không ở đó, nhưng tất cả những người bạn của bà cũng như những thứ mà bà quý trọng thì có, và bà cũng sẽ không bao giờ tán thành những chuyến đi biển của Nathan với bất cứ giá nào. Buôn bán. Bà luôn nói từ đó với vẻ ghê tởm. Bà đã có đủ dòng máu quý tộc từ tổ tiên mình, thậm chí khi bà buồn chán vì bản thân bà không mang tước hiệu gì, thì bà vẫn coi thường bất kỳ thương nhân nào, thậm chí cả chồng mình. Thật đáng kinh ngạc khi họ đã kết hôn. Họ hoàn toàn trông chẳng thích gì người kia khi họ ở gần nhau. Và Gabrielle sẽ không đời nào đề cập đến chuyện vắng mặt lâu dài của ông đã làm cho Carla… Thôi được, nàng thậm chí không thể để bản thân mình nghĩ đến từ đó chứ đừng nói tới chuyện thốt ra nó. Nàng quá xấu hổ bởi kết luận của mình. Nhưng Albert Swift đã từng là một vị khách thường xuyên ở căn nhà riêng hai tầng vùng ngoại ô của họ ở Brighton trong vài năm trước, và Carla đã cư xử như một cô nữ sinh trẻ tuổi bất cứ khi nào ông ta ở trong thị trấn. Khi ông ta không còn đến nữa và họ nghe người ta đồn rằng ông ta đang ve vãn một nữ thừa kế ở London, mẹ của Gabrielle đã trải qua một sự thay đổi đáng kể. Chỉ qua một đêm, bà biến thành một người đàn bà đau khổ ghét cả thế giới và những thứ trong nó, và khóc vì một người đàn ông thậm chí chưa từng là của bà. Liệu ông ta đã khiến cho Carla hứa hẹn những gì, hay Carla có định li dị chồng hay không, không ai biết, nhưng trái tim bà như đã tan vỡ khi Albert chuyển sự quan tâm của mình sang một người đàn bà khác. Bà đã có đủ tất cả những biểu hiện của một người phụ nữ bị phản bội. Khi bà bị ốm vào đầu mùa xuân và tình trạng xấu hơn, bà chẳng nỗ lực chút nào để vượt qua nó, lờ đi lời khuyên của bác sỹ và chẳng ăn uống gì mấy. Bản thân Gabrielle rất đau lòng. khi nàng phải nhìn thấy sự suy sụp của mẹ. Nàng có thể không tán thành sự ám ảnh của mẹ với Albert, hay là sự miễn cưỡng trong việc cố gắng duy trì cuộc hôn nhân của bà, nhưng nàng vẫn yêu quý mẹ mình sâu sắc và làm tất cả mọi thứ mà nàng nghĩ ra để vực tinh thần bà dậy. Nàng lấp đầy căn phòng của mẹ với những bông hoa mà nàng đã sục tìm trong khu xóm, đọc cho mẹ nàng nghe, thậm chí khăng khăng bắt người quản gia của họ, Margery, dành ra một lượng thời gian đáng kể trong ngày của bà để thăm mẹ cùng nàng, vì bà là người phụ nữ thích tán gẫu và thường xuyên khá hóm hỉnh trong những lời bình luận của mình. Margery đã ở với họ vài năm vào thời điểm đó. Bà khoảng trung niên với mái tóc màu đỏ sáng, cặp mắt xanh đầy sức sống, có đầy tàn nhang, bà ta cứng đầu, thẳng thắn và trên tất cả là bà không bị dọa nạt bởi bất kỳ người quý tộc nào. Nhưng bà cũng là một người phụ nữ biết quan tâm săn sóc, và coi gia đình Brooks như thể họ là gia đình của bà. Gabrielle nghĩ rằng nàng đã dồn hết mọi nỗ lực của mình vào làm những việc giúp ý chí sống của mẹ nàng quay lại. Mẹ nàng đã ăn trở lại và ngừng việc đề cập đến Albert. Vì vậy Gabrielle đã bị suy sụp khi mẹ nàng ra đi vào lúc nửa đêm. “Chết vì buồn bã” là kết luận cá nhân của nàng, bởi vì mẹ nàng đang phục hồi lại sức khỏe sau trận ốm, nhưng nàng sẽ chẳng bao giờ đề cập điều đó với cha. Nhưng cái chết của mẹ đã làm cho Gabrielle cảm thấy hoàn toàn cô đơn. Mặc dù nàng được để lại khá nhiều tiền, vì Carla sống khá sung túc nhờ vào khoản thừa kế của gia đình, Gabrielle lại chẳng được động vào số tiền đó cho đến khi nàng trưởng thành lúc 21 tuổi, đó quả là một thời gian dài. Cha nàng vẫn gửi tiền đều đặn, và vẫn còn một khoản tiền tiết kiệm có thể trang trải trong một khoảng thời gian, nhưng nàng chỉ vừa mới 18 tuổi. Nàng cũng bị thay đổi người giám hộ tài sản. Cố vấn pháp luật của Carla, William Bates, đã đề cập đến điều đó lúc đọc chúc thư. Chìm trong đau khổ, nàng thậm chí chẳng để tâm đến, nhưng khi biết được cái tên đó, nàng đã bị khiếp sợ. Gã đó là một kẻ tán gái và ai cũng biết chuyện đó. Những tin đồn kể rằng hắn đã tán tỉnh tất cả những cô hầu gái dưới mái nhà hắn, và thậm chí hắn còn véo mông Gabrielle một lần tại một bữa tiệc vườn, khi nàng chỉ mới mười lăm tuổi! Người giám hộ tài sản, đặc biệt là hắn sẽ chẳng phải làm gì đặc biệt cả. Cha nàng vẫn còn sống. Nàng chỉ là cần phải tìm ra ông, vì vậy nàng lên đường để thực hiện điều đó. Nàng đã chế ngự được một chút sợ hãi ban đầu việc ngồi trên tàu đi nửa vòng trái đất bỏ lại đằng sau mọi thứ nàng đã từng thân thuộc. Nàng gần như đã đổi ý hai lần. Nhưng cuối cùng, nàng cảm thấy chẳng còn sự lựa chọn nào khác. Và ít nhất thì Margery đã đồng ý đi cùng với nàng. Cuộc hành trình đã trôi qua rất suôn sẻ. Không ai thắc mắc gì về chuyến đi của nàng chỉ với người hầu. Nàng ở dưới sự bảo vệ của thuyền trưởng, sau tất cả, ít nhất là trong khoảng thời gian này, và ngụ ý nàng rằng cha nàng sẽ gặp nàng sau khi tàu cập bến chỉ là một lời nói dối nhỏ để né tránh bất kỳ sự quan tâm nào trong lúc này. Bây giờ, nghĩ về cha nàng và việc tìm kiếm ông giữ cho nàng bình tĩnh được một lúc. Chân tay nàng tê cóng, cuộn tròn trong chiếc thùng như bây giờ nàng đang làm. Nàng không gặp bất cứ rắc rối nào để đưa toàn bộ cơ thể mình vào trong chiếc thùng này. Nàng không phải người phụ nữ to lớn, cao khoảng năm foot 4 inches(1m62), và có một thân hình mảnh dẻ. Một mảng gỗ vụn đâm vào lưng nàng, mặc dù, khi nàng lục đục chui vào chiếc thùng chỉ trước khi đậy lại nắp lên trên nó, và chẳng có cách nào để với tới nó thậm chí cả khi nàng có đủ chỗ để thử.   Mời các bạn đón đọc Đánh Cắp Khát Khao Em của tác giả Johanna Lindsey.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ngày 210 - Natsume Soseki
"Ngày 210" được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1096 tại Nhật Bản. Một cuốn sách nhỏ, dày chưa đến 100 trang, nhưng lại chứa đựng trong đó sức nặng ghê gớm. Tiểu thuyết thể nghiệm một lối kể chuyện qua hình thức đối đáp kéo dài giữa hai chàng thanh niên khác nhau về tính cách là Kei và Roku khi họ cố sức leo lên đỉnh Aso đang rền rĩ như muốn bùng nổ phun trào dung nham. Và họ phải đối mặt với ngày 210, theo âm lịch là ngày bão tố. Những trường đoạn đối đáp của họ không chỉ thể hiện không khí căng thẳng khốc liệt của thiên nhiên vào ngày núi lửa và bão tố hoành hành mà còn cho thấy những xung đột xã hội gay gắt âm u. Hành trình leo núi đầy ám ảnh của họ liệu có thành không, tác giả để mở cho trí tưởng tượng của người đọc. Tiểu thuyết còn là một phối hợp thú vị giữa thể nhật ký văn chương rất Nhật có truyền thống lâu đời và thể tự truyện pha hư cấu của phương Tây. Tác phẩm dựa trên một hành trình thật sự của Soseki đến Kyushu năm 1899 cùng với người bạn thân là Yamakawa Shinjiro. Hai người gặp bão tố ngày 210 khi thực hiện cuộc leo lên đỉnh Aso. Núi lửa phun trào, văn hóa cũ suy tàn, bão tố ập về… Và những người trẻ tuổi vẫn đi lên với những bước chân đầy trầm tư, khát vọng. Soseki vốn được xem là “một con tắc kè hoa” trong văn hóa, tức là luôn luôn biến đổi chứ không bao giờ chịu đóng khung mình trong những hình thức lặp lại. Người mới đọc Soseki hẳn sẽ có chút ngỡ ngàng nếu biết rằng một Gối đầu lên cỏ mong manh đẹp đẽ như hư ảo, và một Tôi là con mèo sắc sảo, hài hước, giễu nhại lại đều do một Soseki tạo nên. Ngày 210 có lẽ là cuốn sách thể hiện sự đổi mới quyết liệt nhất trong suốt thời gian sáng tác của Soseki. Với lối viết thể nghiệm mới, khi sáng tác cả một tiểu thuyết chỉ bằng những trường đoạn đối thoại dài liên tục, Soseki không những tạo được sự mới mẻ, mà còn đề cập được rất nhiều vấn đề sâu sắc về con người, thời cuộc của xã hội Nhật Bản lúc bấy giờ. Kết thúc cuốn sách, người đọc không hề biết rằng Kei và Roku rốt cuộc có tiếp tục đi đến đỉnh của ngọn núi lửa Aso ấy không. Chỉ có một cõi bụi mù thẫm sương mở ra trước mắt. Ấy cũng là một cái kết rộng mở như dư âm đọng lại trong những bài thơ haiku rất ngắn trong văn học Nhật. Mời các bạn đón đọc Ngày 210 của tác giả Natsume Soseki.
Yêu Người Tử Tù - Gong Ji Young
Mười lăm năm trước, Yoo Jeong từ một cô bé hiền lành, chăm chỉ, ngoan ngoãn đã chịu một cú sốc lớn khiến cuộc đời cô hoàn toàn thay đổi. Sau lần tự tử thứ ba bất thành, cô trót hứa với cô Mônica, là cô ruột và cũng là một nữ tu, phải tới trại giam Seoul để gặp những người tử tù. Tại đây, cô đã gặp Yoon Soo - một kẻ giết người bị kết án tử hình. Mặc dù rất ghê tởm tội ác của anh ta, nhưng có một điều gì đó trong sâu thẳm tâm hồn người đàn ông này khiến Yoo Jeong chú ý. Cô trở lại thăm anh vào tuần tiếp theo, rồi những tuần tiếp theo nữa... Dần dà, một thứ tình cảm khác lạ đã nhen nhóm lên bên trong họ. Nó như một phép màu quyền năng giúp họ vượt qua những thương tổn, làm thay đổi con người và niềm tin của họ. Cho đến khi cả hai có thể gọi tên mối quan hệ ấy thì chợt nhận ra thời gian hạnh phúc còn lại quá ngắn ngủi... *** "Tôi đã trải qua một quãng thời gian vô cùng hạnh phúc khi tôi viết cuốn tiểu thuyết này. Nếu tôi không viết cuốn tiểu thuyết này, chắc tôi sẽ chỉ nói được câu “Tôi không biết” cũng như chẳng bao giờ tôi biết được những mặt khác của xã hội mà chúng ta đang sống. Tôi đã được gặp họ - những người biết tự kiểm điểm lại bản thân mình, những người như được tái sinh một lần nữa, những người vừa phải sống vừa phải chịu đựng những nỗi đau đớn tột cùng, những người đã sẵn sàng dang tay chấp nhận và tha thứ tội lỗi cho chính kẻ thù của mình dù không dễ dàng gì, hay những người lúc nào cũng luôn làm những việc thiện, việc tốt để giúp đỡ những người kém may mắn, cùng với họ tôi đã trải qua “Một khoảng thời gian hạnh phúc”. Tôi cũng mong rằng trong thời gian gặp tôi, họ cũng đã trải qua một khoảng thời gian hạnh phúc." Trong mùa đông lạnh giá mà ai cũng tưởng rằng vạn vật trên thế gian này đều đã chết,những nhành cây ngoài cửa sổ đang khẽ vươn ra những chồi non xanh,trên nền đất lạnh lẽo và tăm tối.Một mùa xuân mới,đang lặng lẽ về. (GONG JI-YOUNG) *** Harlem là một ví dụ điển hình cho sự tố cáo của Chúa đối với một bộ phận người giàu có đang sống và kiếm tiền ở những khu trung tâm thương mại lớn cũng như ở thành phố New York. Tất cả những tệ nạn như nhà thổ, gái mại dâm, hay những kẻ nghiện ma túy v.v... chính là sự phán xét của Chúa về một bộ phận người trong xã hội của chúng ta, là tấm gương phản chiếu những hành động xấu xa tội lỗi nhiều không đếm xuể, là sự giả dối đã được làm cho bóng bẩy để hợp với giá trị và phong cách của Park Avenue. - Thomas Merton - *** Tôi muốn bắt đầu kể câu chuyện ấy ngay bây giờ. Đó là câu chuyện về một kẻ giết người. Hoặc cũng có thể gọi là câu chuyện kể về một gia đình không có gì khác ngoài sự đau khổ, một gia đình mà trong cuộc sống thường nhật chỉ toàn nghe thấy những tiếng chửi rủa, tiếng roi gậy hay tiếng kêu thét. Đó cũng là câu chuyện về một con người luôn cho rằng mình là kẻ bất hạnh nhất trên thế gian này, câu chuyện đó - câu chuyện của chính tôi. Ngày đó, có hai người phụ nữ và một cô gái trẻ đã bị chết. Tôi từng tin rằng người phụ nữ đó - bà ta đáng chết lắm vì có cho bà ta sống thì cũng chẳng được giá trị gì. Loại người đó mà có nhiều tiền trong tay thì cũng chẳng khác gì một loài sâu bọ được bọc trong một tấm lụa mịn mềm. Trong cái thế giới vô tình và bất bình đẳng này, nếu cho tôi được dùng số tiền ấy vào những việc tốt đáng làm khác thì tôi nghĩ chắc sẽ hợp lý hơn rất nhiều. Nhưng... tôi cũng muốn kể ra đây một cô gái khác. Đó là một cô gái mà bản thân chẳng có lấy một thứ gì đáng giá trên thế gian này. Cô gái ấy đã sống cả cuộc đời vì người khác, nhưng cô ấy lại đang chết dần chết mòn. Giá như lúc đó tôi có trong tay ba triệu won thì tôi đã có thể cứu sống được cô ấy. Nhưng lúc đó tôi lấy đâu ra được ba triệu won cơ chứ, mà cô ấy thì cứ từng ngày từng giờ cận kề với cái chết. Nếu trên đời này có Chúa, thực ra tôi cũng không biết là trên đời này có Chúa thật hay không vì từ trước đến giờ tôi đã sống mà không hề biết đến sự tồn tại của Chúa, nhưng nếu trên đời này có Chúa thật thì tôi nghĩ chắc Ngài sẽ hiểu cho hành động của tôi. Cũng như sẽ bảo rằng hành động của tôi là chính đáng. ... Mời các bạn đón đọc Yêu Người Tử Tù của tác giả Gong Ji Young.
Xuân Yến - An Ni Bảo Bối
Cuốn sách dường như nằm trong khoảng chín muồi trên con đường viết lách của An Ni Bảo Bối. Càng đọc, người ta càng thấy một nỗi day dứt không yên trong lòng tác giả. Đọc sách cũng như soi lại mình, mỗi người đều phải gánh lấy gánh nặng riêng. Một phụ nữ tha hương đang hoài niệm trong thế giới thực. Một cô gái trẻ hình thành trong tưởng tượng hư ảo. Hai người xa lạ, sinh sống ở những không gian thời gian tách biệt, không hề hay biết đến sự tồn tại của nhau, đã luân phiên bước qua cuốn sách này, để đến cuối cùng, tương phùng tương ngộ nhờ ngòi bút của một người đàn bà viết. Sau lưng họ là tiếng mưa chạm xuống biển khơi. Là cây cầu cổ xưa đã tiêu tan cùng phong hoa thời đại cũ. Là cả những người đàn ông không nên yêu nhưng đã án ngữ ở một chỗ vĩnh hằng trong tâm hồn họ. Họ đẩy lại hết, băng mình vào những chuyến đi xa. Mỗi điểm đến mới là một cánh cửa dẫn họ lại gần với nội tâm, với sự nhận biết bản thân, với nguồn cội khai sinh… Đi và soi lại mình trong thế giới, cũng soi cả thế giới bằng tâm hồn mình. Những chuyến di chuyển vật chất của họ, bởi vậy cũng chính là cuộc du hành của tâm tưởng. Những năm gần đây An Ni Bảo Bối sáng tác đã thưa đi, nhưng tinh thần về viết và đi của cô vẫn quán xuyến như nhất trong từng tác phẩm. Vẫn những mối tình và trắc trở của cuộc sống thành đô. Những đàn ông đàn bà cô đơn và khao khát. Những dục vọng phải đánh đổi và trả giá. Những linh hồn vừa tỉnh táo vừa đa cảm. Cùng những bất an không nơi xoa dịu. Đi để tìm kiếm. Viết để chiêm nghiệm. Trang sách để sẻ chia, không kêu gọi, nổi loạn, nhưng vẫn thẳm sâu, nhẹ nhàng, đằm thắm… Xuân yến. Có lẽ, sau những hành trình tìm kiếm và lãng quên, một bữa tiệc mùa xuân là cần thiết, hầu thanh tẩy những bụi bặm tổn thương, đặt tình yêu vào tay con người trong hình dáng tinh khôi và nguyên sơ nhất. *** Ngòi bút của An Ni bên ngoài thì mềm mại như nước chảy nhưng không hề khoan nhượng, không bỏ qua bất cứ ngóc ngách sâu kín nào của tâm tư, từng chút từng chút bóc trần  chân tướng, lạnh lùng phơi bày sự tồn tại chân thực của con người, đời sống và các mối quan hệ. An Ni chưa bao giờ tỏ ra khoan nhượng hay chùn tay dù những phân tích, bóc tách, lột trần của cô ẩn sâu dưới những lời văn mượt mà thẳm sâu, không hề phô trương, lặng lẽ chảy trôi mà có sức thẩm thấu, gột rửa bền bỉ, đồng thời cũng trong trẻo, sắc lạnh và đau đớn vì nhìn thấu, giống như ý nghĩa chữ “Lẫm” mà nhân vật Tín Đức xăm trên gáy. An Ni cũng không ngại ngần phơi bày những khía cạnh khuất lấp đằng sau sự ra đời của một tác phẩm, quá trình sáng tác đầy đau đớn song cũng đầy khoái cảm của nhà văn. Tác giả quyết liệt phủ nhận những danh xưng hào nhoáng mà người đời gán cho nghề viết và cách nhìn nhận mang tính bề nổi về nó. Với cô, viết là một hành vi đầy tính cá nhân, đồng thời cũng là một hành vi mang tính nhận thức của bản thân người viết “về mối quan hệ giữa con người với bản thân và với ngoại giới trên cơ sở thể nghiệm tình cảm và hành động.” Với ý nghĩa này, bản thân độc giả và chính nhân vật chẳng phải cũng là tác giả của chính cuộc đời mình hay sao?! An Ni Bảo Bối sáng tác đã mười năm. Xuân yến dường như nằm trong khoảng chín muồi trên con đường viết lách của cô, vì thế càng đọc càng thấy một nỗi day dứt không yên trỗi dậy trong lòng, càng đọc càng thấy như một mạch nước ngầm âm ỉ rỉ mãi thấm mãi… *** Nhận định "Cuối cùng thì vẫn ở lại. Chẳng đi đâu cả. Không thể dễ dàng vứt bỏ mọi thứ. Bởi không đảm đương nổi những hệ lụy, không đủ dũng cảm và sự trơ lỳ cảm xúc để thực hiện. Tiểu thuyết cũng chỉ là tiểu thuyết. Tiểu thuyết không thể là đời thường. Và đọc An Ni Bảo Bối, có chăng để thỏa những chuyến đi mộng tưởng, những cuộc tình hư ảo đau thương? Nếu ai từng nuôi trong lòng một thú đau thương, một khoái cảm thường trực với sự cô độc và lìa bỏ, sẽ dễ dàng đồng cảm với những trang viết này." (Lê Ngọc Phương) Mời các bạn đón đọc Xuân Yến của tác giả An Ni Bảo Bối.
Vùng Trời Mơ Ước - Elia Kazan
Elia Kazan nguyên là Elia Kazanjoglous, người Hy Lạp, sinh năm 1909 tại Istambul Thổ Nhĩ Kỳ (Turquise) cùng cha mẹ di dân sang Hoa Kỳ năm 1913 theo học và tốt nghiệp ở Hoa Kỳ. Ông khởi đầu sự nghiệp năm 1932; đóng những vai không quan trọng trong các vở kịch và nhạc kịch, rồi đến năm 1940, trở thành tài tử điện ảnh, và đến năm 1943 nổi danh trong vai chính của cuốn phim The Skin Of Our Teeth. Từ đó ông từ giã nghiệp diễn viên, để viết truyện phim, làm đạo diễn và viết văn. Sau sự thành công rực rỡ của cuốn phim The Skin Of Our Teeth do chính ông đạo diễn kiêm diễn viên chính, ông lần lượt đạo diễn các cuốn phim sau đây: — A Streetcar Named Desire 1951 — Death of a Dalesman 1954 — East of Eden 1955 — Man on a Tightrope 1953 — On the Waterfront 1954 — Baby Doll 1956 — A Face in the Crowd 1957 — Tea and Symphathy 1957 — JB 1959 v..v.. Hai cuốn phim của ông được giải thưởng điện ảnh của Hàn Lâm Viện Điện Ảnh Hoa Kỳ, là các cuốn Agreemenh và On the Waterfron. Sau khi đã thành một cao thủ điện ảnh Hoa Kỳ trong thập niên 50. Được giới điện ảnh đặt cho những biệt danh thân yêu và tỏ ý thần phục: Big Daddy, Baby Doll, Gadge, Pasha, ông nhảy vào địa hạt văn chương năm 1961 với cuốn America America được quay thành phim, do chính ông đạo diễn và trở thành một cuốn sách bán chạy nhất liên tiếp nhiều năm. Tác phẩm văn chương thứ hai của ông cũng là tác phẩm bán chạy nhất và cũng được quay thành phim do chính ông đạo diễn là cuốn The Arrangement. Tác phẩm thứ ba của ông là cuốn The Assassins. Xuất bản cuối năm 1972, đang thành cuốn sách được mệnh danh là tác phẩm văn chương gây nhiều sôi nổi nhất hiện nay ở Mỹ. Cả ba tác phẩm văn chương của Elia Kazan đều được dịch sang Việt Ngữ, với các tựa đề: — Vùng Trời Mơ Ước ( America America) — Trở Lại Thiên Đường ( Arrangement) — Những Kẻ Sát Nhân (The Assassin) Người dịch: Nguyễn Hữu Đông Giới phê bình văn chương Tây Phương đã phải thêm một phen kinh ngạc vì ba tác phẩm văn chương của Elia Kazan, mỗi cuốn đặt thành một vấn đề đặc biệt của xã hội: vấn đề dân di cư thiểu số ở Mỹ, vấn đề mất tin tưởng và lý tưởng trong xã hội Hoa Kỳ, và cuối cùng gần gũi nhất là vấn đề để xung đột giữa thế hệ trẻ và già. Tự thuật của ông, Elia Kazan: Một Đời Người, được xuất bản năm 1988. Kazan qua đời tại nhà riêng ở Manhattan ngày 28/09/2003 thọ 94 tuổi. *** Từ rất xa, người ta có thể nhìn thấy ngọn núi Aergius hiện ra thật đẹp, thật cân đối, với đỉnh núi và những sườn núi phủ tuyết. Người ta có thể nghe được tiếng hát của hai người đàn ông, bằng một ngôn ngữ lạ. Trên một sườn cao khuất nắng có một cánh đồng nước đá. Một chiếc xe và một con ngựa già đứng bên cánh đồng nước đá đỏ. Hai người đàn ông đang xẻ nước đá thành từng mảnh vừa sức mang đi. Công việc nặng nhọc, nhưng hai người còn trẻ và khỏe mạnh. Họ làm việc hăng hái vì họ làm việc cho họ. Giọng hát của họ, mặc dầu không được huấn luyện, nghe rất hòa hợp thích thú. Đó là dấu hiệu thân kết giữa một đôi bạn thiết. Stavros Topouzoglou là một thanh niên hai mươi tuổi. Nét mặt của chàng có một cái gì vừa dịu dàng vừa say sưa. Trên nét mặt đó ẩn chứa đầy những khao khát không nói lên được. Cặp mắt mầu nâu của chàng long lanh như những trái ô liu ướt nước. Làm việc cạnh chàng là Vartan Dama-dian. Anh ta hai mươi tám tuổi. Khuôn mặt của anh có những nét hoang dại, phong trần. Một chiếc mũi thật to, cong lại với một vẻ đa nghi, vừng trán thấp, mái tóc rậm tràn đầy sức sống, cặp môi thèm khát. Những nét đó và vóc dáng nặng nề như gấu rừng tạo cho anh một hình ảnh đáng nể. Hai chàng thanh niên chỉ là hai bóng dáng bé nhỏ trên cánh đồng nước đỏ. Sau lưng họ là một phong cảnh hùng vĩ. Người ta nghe được tiếng gió âm u ngự trị vùng cao nguyên này. Xưa kia, Anatolia là một quận huyện thuộc đế quốc Byzantine, với hai sắc dân Hy Lạp và Armenia chung sống. Vào năm 1381, miền đất này bị quân Thổ đánh chiếm, và từ dó hai sắc dân Hy Lạp và Armenia sống như những sắc dân thiểu số dưới quyền thống trị của quân xâm lăng Hồi Giáo. Nổi bật về phía trước, một sợi giây điện tín móc trên những chiếc cột, thô sơ càng lùi xa càng nhỏ dần, làm tăng thêm vẻ mênh mông. Phía xa, là ngọn núi Aergius. Gần đó là một số ngôi nhà nằm một phần dọc theo hai sườn dốc đối diện nhau, một phần dướt trũng hẹp giữa hai sườn dốc đó. Thị trấn mang tên Germer. Người ta có thể nhận ra một hay hai tháp chuông. Hôm nay là một ngày lễ lớn của Hồi Giáo, gọi là lễ Bayram. Vào ngày này tất cả những người Thổ dư dả đều làm thịt một con cừu và bố thí một phần cho người nghèo. Một đàn cừu đang được lùa qua đường phố hẹp. Người chăn cừu dừng lại để bán một con cừu cho một chủ nhà. Theo sau ông cả gia đình ông bận những quần áo ngày lễ đẹp nhất của họ. Rượu vừa được rót ra. Một con cừu hoảng sợ kêu lên. Nó đã biết số phận của nó. Trong lúc những cốc rượu chuyền khắp những người trong gia đình, thì người cha đang liếc lại con dao phay. Trông người ta có vẻ thành thạo với con dao này lắm, để mổ thịt, cũng như để sử dụng như một khí giới. Cả gia đình có mặt tại đây. Những người đàn bà đứng trước ngưỡng cửa, mặt được phủ kín một phần. Tất cả gia đình nhìn người cha mổ thịt con vật vừa bị giết. Một bé gái nhỏ mang đến cho người cha một cốc rượu trên một chiếc khay nhỏ. Ông ta cầm cốc rượu rồi hôn con gái yêu của ông ta một cách say sưa. Một vài người ăn mặc sang trọng cưỡi ngựa đi qua. Những người đàn bà kéo các đứa trẻ tránh ra. Phía sau những kỵ mã là một đôi ngựa kéo theo một chiếc xe. Mã phu hét lớn điều khiển đôi ngựa. Cặp ngựa quẹo theo góc đường, kéo chiếc xe theo. Đến trước thị sảng, các chức sắc dừng lại, người cưỡi ngựa, người đi xe, vài người đi bộ, tất cả đều phục sức cho ngày đại lễ. Bầu không khí có một vẻ gì đầy đe dọa. ... Mời các bạn đón đọc Vùng Trời Mơ Ước của tác giả Elia Kazan.