Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tôi Đi Đây

“Tôi đi đây” là sự kết hợp của nhiều thể loại tiểu thuyết: hình sự với những pha giết người, bắt cóc; kinh dị với xác chết hồi sinh; phiêu lưu với chuyến hành trình kỳ quái lên Bắc cực và thể loại tiểu thuyết tâm lý với những kẻ luôn trốn chạy khỏi gia đình, công việc…   “Tôi đi đây” là lời chào từ biệt của một thể kỷ không có khả năng nhận biết được nó đang đi về đâu và thậm chí còn quên hỏi mình đi đâu. Đây là một cuốn tiểu thuyết hiện thực phản ảnh chúng ta đang mất khả năng nhìn nhận thực tế như thế nào và cuộc sống tuột khỏi chúng ta ra sao…” (Pierre Lepape – Le monde) để dẫn tới một kết luận rằng con người không thể nào trở nên nghiêm túc được khi lao vào những thói tự do quá trớn. *** Jean Echenoz, sinh năm 1947 , tại Orange. Jean Echenoz là một nhà văn người Pháp.   Các tác phẩm: - Ravel, 2006  - Au piano, 2003  - Jérôme Lindon, 2001  - Je m'en vais, 1999, Prix Goncourt 1999  - Un an, 1997  - Les grandes blondes, 1995  - Nous trois, 1992  - Lac, 1989  - L'occupation des sols, 1988  - L'équipée malaise, 1987  - Cherokee, 1983, Prix Médicis 1983  - Le méridien de Greenwich, 1979 *** Tôi đi đây là lời chào từ biệt của nhân vật Ferrer trong tác phẩm, đó cũng là lời chào thoái lui của dịch giả bất lực nhìn theo bản dịch bất thành! Tôi đi đây phải chăng cũng là lời chào thoái thác trách nhiệm của NXB Hội Nhà văn, sự quay lưng của độc giả Việt Nam với nền văn học Pháp? Ngày nay, chúng ta không còn ngạc nhiên trước một bản dịch có vấn đề nữa. Phần lớn những bản dịch ẩu được ký tên bởi những dịch giả trẻ, thiếu kinh nghiệm hoặc những người làm trái nghề (dịch giả tay ngang). Nhưng chúng ta cũng có thể tìm thấy những bản dịch tương tự mà tác giả của nó là những dịch giả có tiếng, có nhiều kinh nghiệm. Đặc biệt đó là những bản dịch các tác phẩm lớn của thế giới. Bản Việt ngữ Tôi đi đây của Phạm Văn Ba dịch từ tiểu thuyết Je m'en vais của Jean Echenoz, tác phẩm đoạt giải Goncourt năm 1999, là một thí dụ tiêu biểu. Dịch giả Phạm Văn Ba sinh năm 1959. Tức là vào thời điểm bản dịch này được hoàn tất (2002), ông không còn trẻ nữa. Phạm Văn Ba đã từng du học ở Pháp, điều này cho ta giả thiết rằng ông không phải không biết tiếng Pháp và văn hóa Pháp. Việc ông đã từng đoạt Giải thưởng văn học dịch với bản dịch Les Yeux baissés (Đôi mắt nhìn xuống) của Tahar Ben Jelloun chứng tỏ ông là một dịch giả có tầm cỡ. Mà thông thường thì dịch giả tầm cỡ thường dịch các tác phẩm tầm cỡ. Có lẽ vì thế mà ông đã chọn dịch Je m'en vais của Jean Echenoz. Thế nhưng, tôi thật sự ngỡ ngàng khi đọc so sánh bản gốc và bản Việt ngữ của dịch giả này. Bản dịch này đầy rẫy những lỗi và lỗi. Những lỗi dịch này không phải do vô tình hay hữu ý mà do trình độ tiếng Pháp và văn hóa Pháp của người dịch chưa đúng tầm để dịch một tác phẩm văn học, để dịch một giải Goncourt lại càng không. Trước một bản dịch như vậy, tôi không thể làm gì khác là liệt kê ra đây những lỗi dịch tệ hại nhất khiến bạn đọc nào chỉ biết chút ít tiếng Pháp thôi cũng phải giật mình…   Mời các bạn đón đọc Tôi Đi Đây của tác giả Jean Echenoz.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nhà Mùa Hè - Jude Deveraux
Ba năm sau Maine Ellie để Jessie và con trai cô ở Bangor còn cô lái xe một mình dọc bờ biển. Jessie không hỏi cô nhiều, nhưng cô biết anh muốn biết tại sao cô bị thôi thúc phải quay lại nơi cô đã trải qua dịp cuối tuần nhiều năm trước. “Có một số thứ em phải làm,” cô nói với anh. Vì việc đó mà cô lái xe tới đây, cô thầm nghĩ, nhưng cô không muốn nói rõ ra. Cô hôn chào tạm biệt cả hai rồi lái xe đến thị trấn nơi cuộc đời cô đã thay đổi đáng kể. Cô đã ở thị trấn này được ba giờ và vẫn chưa tìm ra ngôi nhà kiểu Vicotria của Madame Zoya. Cô hỏi người bồi bàn, cô gái nói mình đã lớn lên ở đây, nhưng cô gái chỉ cười khi nghe chuyện có một bà thầy bói hành nghề ở đây. “Ý cô là một người đọc chỉ tay,” cô gái nói. ... *** Jude Deveraux là một tác giả người Mỹ nổi tiếng với những chuyện tình lãng mạn lịch sử của cô. Tính đến năm 2016, hơn 40 tiểu thuyết của cô đã có mặt trong danh sách Best seller của New York Times. Mời các bạn đón đọc Nhà Mùa Hè của tác giả Jude Deveraux.
Làng Thiên Nga Đen - David Mitchell
Tháng giêng năm 1982. Cậu bé Jason Taylor 13 tuổi một thi sĩ rụt rè luôn tự ti về tật nói lắp đã dự cảm về một năm u tối trong ngôi làng hẻo lánh của mình ở miền quê nước Anh. Nhưng cậu đã không tính đến những tên đầu gấu học đường, sự rạn nứt đang âm ỉ trong gia đình mình, Cuộc chiến Falklands, mối đe dọa về sự xâm lăng của những người di gan du mục và những thực thể bí ẩn vẫn được gọi là con gái. Xuyên suốt trong quãng thời gian mười ba tháng trong hố đen giữa thời thơ ấu và tuổi thanh niên của nhân vật chính, đây là một cuốn tiểu thuyết quyến rũ, châm biếm, đau đớn và sống động với chất liệu cuộc sống như chảy tràn trên từng trang sách. *** David Stephen Mitchell (sinh 12 tháng 1 năm 1969) là một tiểu thuyết gia người Anh. Ông đã viết sáu tiểu thuyết, hai trong số đó, number9dream (2001) và Cloud Atlas (2004) đã lọt vào danh sách cho giải Booker. Ông đã sống ở Ý, Nhật Bản và Ireland. Mitchell sinh ra ở Southport ở Merseyside, Anh, và lớn lên ở Malvern, Worcestershire. Ông học tại Trường trung học Hanley Castle và tại Đại học Kent, nơi ông nhận bằng văn học Anh và Mỹ theo sau là bằng cao học trong văn học so sánh. Mitchell sinh sống ở Sicily trong một năm, sau đó chuyển đến Hiroshima, Nhật Bản, nơi ông giảng dạy tiếng Anh cho sinh viên kỹ thuật trong 8 năm, trước khi trở về Anh, nơi ông có thể sống bằng các khoản thu nhập bằng nghề viết văn. Mời các bạn đón đọc Làng Thiên Nga Đen của tác giả David Mitchell.
Organ Mùa Xuân - Kazumi Yumoto
Kiriki Tomomi bước vào kỳ nghỉ xuân trước khi lên cấp 2 với nhiều khúc mắc. Bố mẹ đã ly thân do cuộc chiến triền miên với gia đình hàng xóm. Bà qua đời mới đây khiến cô bé chìm đắm vào sầu muộn và những giấc mộng lạ lùng. Ở nhà cả ngày chỉ có ông luôn lủi thủi với những việc riêng và cậu em Tetsu còn nhỏ nhưng ương bướng. Thế nên khi Tetsu bắt đầu rời khỏi nhà lang thang khắp thành phố với một sứ mệnh kỳ lạ: tìm mèo ốm, Tomomi liền đi theo bảo vệ em... Những cuộc phiêu lưu của hai đứa trẻ trong thành phố đã khiến Tomomi vụt thay đổi, cô hiểu hơn những người xung quanh, hiểu hơn chính mình. Và, cuốn sách đã như một cung đàn trong trẻo, đẫm dư vị mát lành và chơi vơi của mùa xuân, cho người đọc đắm chìm vào muôn vàn cảm xúc ngây thơ, để khi tỉnh lại sực nhận ra, lá đã xanh, hạ đã sang, và cô bé con kia đã lớn tự lúc nào. *** Kazumi Yumoto sinh năm 1959 tại Tokyo. Cô theo học khoa sáng tác tại Đại học Âm nhạc Tokyo. Trong khoảng thời gian đó, cô từng viết lời cho các vở opera, kịch nói trên sóng phát thanh và truyền hình. Cuốn tiểu thuyết đầu tiên của của Kazumi - Khu vườn mùa hạ (Natsu no niwa) xuất bản lần đầu năm 1992 đã nhanh chóng giành được thành công ở trong và ngoài nước. Tác phẩm tiếp theo của cô - Mùa thu của cây dương (Popura no Aki) cũng nhận được rất nhiều chú ý từ dư luận, được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới.   Mời các bạn đón đọc Organ Mùa Xuân của tác giả Kazumi Yumoto.
Qui Cố Hương - Jiro Osaragi
“Nghĩ đến con cái tự nhiên lòng mình thanh sạch. Đó là diễm phúc của kẻ làm cha mẹ đó, cô biết không!” [Jiro Osaragi, Qui Cố Hương. Bản dịch Bùi Ngọc Lâm, Saigon 1973] Đọc Jiro Osaragi thấy cái không khí Âu châu của Kazuo Ishiguro phả khắp. Đây là tác gia tôi ít đọc, hình như chỉ biết có Hành Trình (The Journey), và nay làHomecoming. Nước Nhật của Osaragi là nước Nhật hậu chiến, nước Nhật thất trận. Thay vì nhìn đất nước dưới nhãn quan của người trong cuộc tham luyến và tội tình, của người cố gắng níu giữ vàng son đã mất như Y. Kawabata, Osaragi đặt mình là kẻ bàng quan. Ông cho nhân vật của mình đào thoát ra hải ngoại rồi quay về nhìn cố hương. Để thấy rằng những ngôi đền trên đỉnh núi vẫn đáng ngưỡng vọng, những cội anh đào sân chùa vẫn đáng chiêm bái, những vườn đá vườn sỏi vườn rêu vẫn đẹp đẽ, nhưng là cái đẹp của nghèo. Bởi nghèo nên buộc phải làm đẹp theo cách ấy. Gian nhà hoang chỉ có một vò rượu chơ vơ, là vì nghèo. Minimalism hóa ra là con đẻ của sự hoang tàn, túng thiếu. Nó đẹp một cách đau xót. Tình phụ tử, tình yêu trong văn Osaragi cũng được cảm bằng mắt người-ngoài-cuộc. Tỉnh táo, điềm tĩnh. Cha rất sung sướng khi con đã đến, nhưng lẽ ra con không nên làm thế, con không nên gặp một hồn ma, con đã đủ can đảm để lớn lên, thì con có thừa can đảm để xa cha. Em là người đàn bà khác thường, nhưng em đã gây ra cho tôi bao nhiêu oan khiên, vậy xin phép em, mai tôi đi sớm, tôi rửa hận bằng cách từ chối tình yêu của em. Tuyệt vời! Khi được hỏi mình có những tật xấu gì, Đức Dalai Lama nói, tôi còn tham luyến, chẳng hạn tôi không rời được cái đồng hồ đeo tay này. Còn bám chấp vào một cái gì, là còn phiền não. Đọc Osaragi để học cách yêu thương mà không nhất thiết phải dính chặt vào đối tượng yêu thương. *** Jiro Osaragi (4/10/1897 – 30/4/1973) tên thật là Haruhiko Nojiri. Ông sinh ra tại Yokahama, Nhật Bản. Sau khi tốt nghiệp từ Đại học Hoàng gia Tokyo, ông được nhận vào giảng dạy tại trường nữ sinh Kamakura (ngày nay là trường trung học Kamakura Jogakuin) nằm tại Kamakura, tỉnh Kanagawa. Nhờ các kỹ năng ngôn ngữ của mình, năm 1922, ông được tuyển dụng vào Bộ Ngoại giao. Nhưng sau trận động đất Great Kanto năm 1923, ông mất việc và quyết định trở thành nhà văn. Năm 1924, ông xuất bản quyển tiểu thuyết lịch sử đầu tiên Hayabusa no Genji. Các tiểu thuyết của ông phổ biến với bối cảnh lịch sử như Kurama Tengu (1924 – 1959), Teru Hi Kumoru Hi (“Sunny Days Cloudy Days”, 1926 – 1927), và Ako Roshi (“Loyal Retainers of Ako”, 1927 – 1928) đã được phát hành trên báo và tạp chí mang lại cho ông một lượng lớn những người ủng hộ. Nhiều truyện sau này được chuyển thể thành phim ảnh. Mời các bạn đón đọc Qui Cố Hương của tác giả Jiro Osaragi.