Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cái Tôi Và Cái Nó (Sigmund Freud)

Cái Tôi Và Cái Nó là một tác phẩm đặc biệt, ở đây Freud đã trình bày một bản tổng hợp các giả thuyết được ông đề xuất vào những năm 1920 - đặc biệt là trong cuốn “Au delà du principe du plaisir”. Ông bắt đầu bằng việc chứng minh rằng mô hình phân chia bộ máy tâm trí thành vô thức, tiền ý thức và ý thức - được biết đến với tên gọi “định khu thứ nhất” (chia định khu bộ máy tâm trí) - không đủ để hiểu sự vận hành của bộ máy tâm trí, và cần phải mở rộng hơn. Xuất phát từ sự kháng cự rằng cái “tôi” của chủ thể đối kháng với khả năng đưa các ký ức bị dồn nén trở lại với ý thức, Freud đưa ra cách phân chia bộ máy tâm trí mới thành cái tôi, cái đó và cái siêu tôi, mô hình được biết đến với tên gọi là “định khu thứ hai”. Hai mô hình này không loại trừ nhau, ngược lại, chúng bổ sung cho nhau bởi chúng mô tả các hiện tượng tâm trí dưới nhiều góc độ khác nhau.

Trong quan niệm của Freud về bộ máy tâm trí, khái niệm sự xung đột giữ một vị trí cũng quan trọng như vị trí ông dành cho khái niệm Vô thức (và nhất là cho sự dồn nén) hay khái niệm tính dục. Nó là nguyên nhân chính gây ra những nguồn đau khổ của con người. Chúng ta gặp điều này ngay từ những bài viết đầu tiên với các khái niệm “sự kiểm duyệt”, “sự kháng cự”. Sự xung đột này tồn tại cả giữa các sức mạnh khuấy đảo trong bộ máy tâm trí lẫn giữa các cấp khác nhau, những cấp tổ chức bộ máy tâm trí. Chúng ta thấy nó (xung đột) ở mọi nơi: giữa cái ý thức và cái vô thức, giữa nguyên tắc khoái cảm và nguyên tắc thực tế, giữa ham muốn và điều cấm, giữa thực tế bên trong và thế giới bên ngoài, và cuối cùng là giữa cái Tôi, cái Siêu-Tôi và cái Nó giống như những gì tiểu luận này sẽ trình bày.

Tác giả Sigmund Freud là một nhà phân tâm học người Áo được biết tới nhiều nhất bởi đóng góp vào sự phát triển của cả lý thuyết và thực hành các kỹ thuật phân tích tâm lý. Freud đồng thời được xem là cha đẻ của phân tâm học - môn khoa học nghiên cứu về phần vô thức của con người, khiến cho nhiều người nghi ngờ tính hiệu quả của việc chữa bệnh tâm thần theo cách truyền thống. Tới ngày hôm nay, cuộc tranh luận về lý thuyết phân tâm học vẫn chưa ngã ngũ, có rất nhiều người ủng hộ nhưng cũng không ít những kẻ phản đối kịch liệt. Được xem như một môn khoa học chính thống của thế kỷ 19, phân tâm học trước hết đi tìm hiểu những hành vi điên loạn, thoạt đầu các nhà phân tâm học sẽ hỏi về những giấc mơ của bệnh nhân và sau cùng là các cơ chế tâm lý xây dựng từ lúc bé cho tới lúc trưởng thành. Được đào tạo như một nhà khoa học, Freud trở thành bác sĩ vào năm 1882, ông quan tâm tới thôi miên và phát triển các ý tưởng đột phá trong chữa trị tâm thần từ khoảng 1890. Vào năm 1933, các tác phẩm của ông bị đốt hết dưới chính quyền Nazi, và Freud phải rời bỏ Áo tới London vào năm 1938, nơi ông mất ngay sau đó một năm.***

Sigmund Freud là một trong những công trình nổi tiếng và được phổ biến rộng rãi nhất của vị bác sĩ thần kinh người Áo gốc Do Thái. Mang tính dẫn nhập về phân tâm học, một học thuyết gây nhiều tranh cãi ngay từ thời điểm ra đời (cuối thế kỷ XIX), cuốn sách tập hợp 28 bài giảng của Freud, bao gồm những tri thức và cách tiếp cận căn bản của phân tâm học xung quanh các vấn đề vô thức, những giấc mơ, và các trạng thái bệnh lý thần kinh của con người. Qua công trình này, Freud củng cố và xác lập một phương pháp độc đáo trong nghiên cứu và trị liệu bệnh loạn thần kinh mà ông sáng tạo nên: trị bệnh thông qua thăm dò cõi vô thức của con người.

Trong thời gian học y khoa, ông tỏ rất rõ quan tâm của mình đến sinh lý y khoa và sớm có những công trình nghiên cứu về sinh lý rất quan trọng, mặc dù ông còn rất trẻ. Năm 1876, ông được nhận làm sinh viên nghiên cứu ở viện sinh lý nổi tiếng của Ernst Brücke, ở đó ông tiếp tục nghiên cứu các vấn đề về sinh lý thần kinh. Tìm mua: Cái Tôi Và Cái Nó TiKi Lazada Shopee

Năm 1881, ông mới học xong đại học, và được công nhận là bác sĩ y khoa. Nhưng bản thân Freud, ông chưa bao giờ cho mình là thầy thuốc thực hành, và trong giai đoạn này, Freud luôn tìm kiếm cho mình một hướng đi sâu hơn về sinh lý học y khoa, và ông vẫn tiếp tục công việc của mình tại viện sinh lý cho đến khi ông đính hôn.

Năm 1882, Freud gặp và yêu, rồi đính hôn với Martha Bernay, một cô gái nhỏ bé, thông minh, xuất thân từ một gia đình có truyền thống trí thức và văn hóa Do Thái. Điều kiện làm việc tại viện sinh lý không cho phép Freud có thể lo lắng cho cả một gia đình dù đó là một gia đình nhỏ. Nếu muốn cưới vợ, ông phải có thu nhập thêm, vì vậy ông quyết định bỏ việc tại viện sinh lý, và đến làm việc tại bệnh viện đa khoa Wien.

Freud, cũng như những nhà thần kinh học khác, đã tìm đến bệnh viện của Charcot. Chính tài năng, tri thức cùng uy tín của Charcot đã mang lại nhiệt tình cho Freud. Trong một lá thư ông gửi cho Martha - người vợ chưa cưới của mình, ông viết: "Không có người nào từng tác động nhiều đến anh như vậy". Ông đã dịch các bài viết của Charcot sang tiếng Đức. Và chính Charcot đã làm Freud quan tâm đặc biệt đến bệnh học tâm lý. Ông cũng treo bức tranh khắc của André Brouillet "Bài học lâm sàng của bác sĩ Charcot" tại phòng khám của mình ở số 19 phố Berggasse, người con trai đầu lòng chào đời năm 1889 cũng được ông đặt tên là Jean Martin để tôn vinh người thầy của mình. Trong suốt cuộc đời làm việc về sau, Freud vẫn hay trích dẫn câu nói của Charcot: "Lý thuyết thì tốt, nhưng không ngăn được thực tiễn tồn tại", để chỉ trích thái độ chỉ biết chấp nhận những kiến thức thu được mà không hề phê phán.

Freud đã được trao Giải Goethe năm 1930.

Tác phẩm: Phân Tâm Học Nhập Môn Tâm Lý Đám Đông Và Phân Tích Cái Tôi Cái Tôi Và Cái Nó Văn Minh Và Những Bất Mãn Từ Nó Nguồn Gốc Của Văn Hóa Và Tôn Giáo - Vật Tổ Và Cấm Kỵ Tương Lai Của Một Ảo tưởng Bệnh Lý Học Tinh Thần Về Sinh Hoạt Đời Thường Sâu Xa Hơn Nguyên Tắc Không Đổi ... Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Sigmund Freud":Cái Tôi Và Cái NóNguồn Gốc Của Văn Hóa Và Tôn Giáo - Vật Tổ Và Cấm KỵTâm Lý Đám Đông Và Phân Tích Cái TôiTương Lai Của Một Ảo TưởngVăn Minh Và Những Bất Mãn Từ Nó

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Cái Tôi Và Cái Nó PDF của tác giả Sigmund Freud nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Tâm Lý Học - Phác Họa Chân Dung Kẻ Phạm Tội
Tâm Lý Học – Phác Họa Chân Dung Kẻ Phạm TộiTội phạm, nhất là những vụ án mạng, luôn là một chủ đề thu hút sự quan tâm của công chúng, khơi gợi sự hiếu kỳ của bất cứ ai. Một khi đã bắt đầu theo dõi vụ án, hẳn bạn không thể không quan tâm tới kết cục, đặc biệt là cách thức và động cơ của kẻ sát nhân, từ những vụ án phạm vi hẹp cho đến những vụ án làm rúng động cả thế giới.Lấy 36 vụ án CÓ THẬT kinh điển nhất trong hồ sơ tội phạm của FBI, “Tâm lý học tội phạm – phác họa chân dung kẻ phạm tội” mang đến cái nhìn toàn cảnh của các chuyên gia về chân dung tâm lý tội phạm. Trả lời cho câu hỏi: Làm thế nào phân tích được tâm lý và hành vi tội phạm, từ đó khôi phục sự thật thông qua các manh mối, từ hiện trường vụ án, thời gian, dấu tích,… để tìm ra kẻ sát nhân thực sự.Đằng sau máu và nước mắt là các câu chuyện rợn tóc gáy về tội ác, góc khuất xã hội và những màn đấu trí đầy gay cấn giữa điều tra viên và kẻ phạm tội. Trong số đó có những con quỷ ăn thịt người; những cô gái xinh đẹp nhưng xảo quyệt; và cả cách trả thù đầy man rợ của các nhà khoa học,… Một số đã sa vào lưới pháp luật ngay khi chúng vừa ra tay, nhưng cũng có những kẻ cứ vậy ngủ yên hơn hai mươi năm.Bằng giọng văn sắc bén, “Tâm lý học tội phạm – phác họa chân dung kẻ phạm tội” hứa hẹn dẫn dắt người đọc đi qua các cung bậc cảm xúc từ tò mò, ngạc nhiên đến sợ hãi, hoang mang tận cùng. Chúng ta sẽ lần tìm về quá khứ để từng bước gỡ những nút thắt chưa được giải, khiến ta “ngạt thở” đọc tới tận trang cuối cùng.Hy vọng cuốn sách sẽ giúp bạn có cái nhìn sâu sắc, rõ ràng hơn về bộ môn tâm lý học tội phạm và có thể rèn luyện thêm sự tư duy, nhạy bén.
Thay Đổi Cuộc Sống Với Nhân Số Học
Thay Đổi Cuộc Sống Với Nhân Số Học Nhân Số Học – Numerology là một môn học nghiên cứu về sự tương quan giữa những con số trong ngày sinh hay cái tên của mỗi người có liên quan đến cuộc sống của người đó, do nhà toán học Pythagoras khởi xướng từ cách đây 2.600 năm, và cho đến bây giờ vẫn có những học trò trung thành nối dài những nghiên cứu để giúp ích cho cuộc sống hiện tại.Nhân số học tin rằng, mỗi con số đều mang những định dạng sóng rung có liên quan mật thiết với một lối đi, lối sống, nghề nghiệp hoặc các hành xử, tính tình… Vì vậy, nếu chúng ta hiểu những “mật mã” nằm ẩn dưới những con số này, chúng ta sẽ có thể kiểm soát cuộc sống của mình, điều chỉnh chúng theo hướng ngày càng tốt đẹp hơn.Thông điệp chính của cuốn sách: Thay Đổi Cuộc Sống Với Nhân Số Học. Khi chuyển thông điệp từ quyển sách gốc của TS. David: The Complete Book of Numerology sang Thay đổi cuộc sống với Nhân số học, Quỳnh Hương mong rằng những thông tin trong sách không chỉ đọc để giải trí hay tham khảo, mà mỗi người có thể trực tiếp hiểu về bản thân và tìm được cách phù hợp để cuộc sống của mình trở nên tích cực hơn mỗi ngày.Những điều mà Thay đổi cuộc sống với nhân số học mang lại, thực chất là những lời khuyên kêu gọi mọi người hành động, chuyển mình về hướng tích cực: Chịu giãi bày bản thân, mở lòng, biết lắng nghe người khác (điều chỉnh số 1); chịu tĩnh tâm, tập yoga, thiền (số 2); đi học một môn phù hợp (số 3); chịu xăng xái làm việc, kg lười nhác, năng giúp đỡ người khác (số 4); kết nối với mọi người xung quanh (số 5); đẩy mình về hướng tích cực và lan toả yêu thương (số 6); biết chấp nhận những bất ý không oán thán (số 7); biết bày tỏ biết ơn và yêu thương tới mọi người mọi việc (số 8); có trách nhiệm, lý tưởng, hoài bão, nhưng biết sống vừa đủ kg xa vời (số 9)…  Và trên tất cả, là luôn biết đẩy mình về hướng tích cực, không để mình u sầu, tức giận, bất thiện.Nhân số học đóng vai trò thúc đẩy con người thay đổi, hoàn thiện bản thân. Bởi với một con người bình thường, nếu không có Nhân số học vạch ra rõ bạn đang có thể gặp trục trặc hoặc bất lợi ở con số nào, thì người ta không thể có hướng và động lực để thay đổi.
Rèn Luyện Tư Duy Phản Biện
Rèn Luyện Tư Duy Phản BiệnNhư bạn có thể thấy, chìa khóa để trở thành một người có tư duy phản biện tốt chính là sự tự nhận thức. Bạn cần phải đánh giá trung thực những điều trước đây bạn nghĩ là đúng, cũng như quá trình suy nghĩ đã dẫn bạn tới những kết luận đó. Nếu bạn không có những lý lẽ hợp lý, hoặc nếu suy nghĩ của bạn bị ảnh hưởng bởi những kinh nghiệm và cảm xúc, thì lúc đó hãy cân nhắc sử dụng tư duy phản biện! Bạn cần phải nhận ra được rằng con người, kể từ khi sinh ra, rất giỏi việc đưa ra những lý do lý giải cho những suy nghĩ khiếm khuyết của mình. Nếu bạn đang có những kết luận sai lệch này thì có một sự thật là những đức tin của bạn thường mâu thuẫn với nhau và đó thường là kết quả của thiên kiến xác nhận, nhưng nếu bạn biết điều này, thì bạn đã tiến gần hơn tới sự thật rồi!Những người tư duy phản biện cũng biết rằng họ cần thu thập những ý tưởng và đức tin của mọi người. Tư duy phản biện không thể tự nhiên mà có.Những người khác có thể đưa ra những góc nhìn khác mà bạn có thể chưa bao giờ nghĩ tới, và họ có thể chỉ ra những lỗ hổng trong logic của bạn mà bạn đã hoàn toàn bỏ qua. Bạn không cần phải hoàn toàn đồng ý với ý kiến của những người khác, bởi vì điều này cũng có thể dẫn tới những vấn đề liên quan đến thiên kiến, nhưng một cuộc thảo luận phản biện là một bài tập tư duy cực kỳ hiệu quả.Việc lắng nghe những ý kiến của người khác cũng có thể giúp bạn nhận ra rằng phạm vi tri thức của bạn không phải là vô hạn. Không ai có thể biết hết tất cả mọi thứ. Nhưng với việc chia sẻ và đánh giá phê bình kiến thức, chúng ta có thể mở rộng tâm trí. Nếu điều này khiến bạn cảm thấy không thoải mái, không sao cả. Trên thực tế, bước ra ngoài vùng an toàn là một điều quan trọng để mở rộng niềm tin và suy nghĩ của bạn. Tư duy phản biện không phải là chỉ biết vài thứ, và chắc chắn không phải việc xác nhận những điều bạn đã biết. Thay vào đó, nó xoay quanh việc tìm kiếm sự thật – và biến chúng trở thành thứ bạn biết.
Vĩ Đại Do Lựa Chọn
Vĩ Đại Do Lựa Chọn1/ Đôi nét về tác giả   – Jim Collins, tên đầy đủ là Jim C. Collins, III, sinh ngày 25 tháng 1 năm 1958, tại Colorado, Mỹ.    – Ông là một nhà tư vấn trong lĩnh vực kinh doanh, nhà văn, và là giảng viên chuyên ngành phát triển bền vững doanh nghiệp.    – Jim Collins cũng thường xuyên cộng tác với Harvard Business Review, Business Week, Fortune và các tạp chí hay nhật báo khác.    – Ông là tác giả hay đồng tác giả của rất nhiều quyển sách: Xây Dựng Để Trường Tồn: Các Thói Quen Thành Công Của Những Tập Đoàn Vĩ Đại Và Hàng Đầu, Từ Tốt Đến Vĩ Đại, How The Mighty Fall: And Why Some Companies Never Give In, Great By Choice…2/ Tác Phẩm Vĩ Đại Do Lựa ChọnTrong quyển sách này, Jim Collins cùng với Morten T. Hansen đi tìm câu trả lời cho câu hỏi, tại sao các công ty vĩ đại vẫn trường tồn trong những lúc hỗn loạn, khó khăn. Trải qua rất nhiều năm nghiên cứu khoa học từ những công ty lớn và các lãnh đạo hàng đầu, hai tác giả rút ra được kết luận rằng: Chúng tôi không tin cuộc sống sẽ trở nên tốt đẹp hơn hay có một phép nhiệm mầu và đoán định được tương lai, nhưng có thể nói những tác động phức tạp, toàn cầu hóa và công nghệ đang thúc đẩy thay đổi và càng dễ bị thay đổi hơn bao giờ hết. Chúng tôi cảm thấy trấn tĩnh vì chúng tôi đã hiểu hơn phải có những gì để sống sót, lèo lái và chiến thắng. Theo chúng tôi, trường tồn và tiêu vong phụ thuộc vào những hành động của chúng ta hơn là những gì mà thế giới gây cho chúng ta; và sự vĩ đại không chỉ là một cuộc chinh phục về kinh doanh, nó là cuộc chinh phục của con người.Và kết quả nghiên cứu sẽ gây bất ngờ cho nhiều nhà lãnh đạo các tổ chức đọc quyển sách này: Những nhà lãnh đạo của các công ty vĩ đại không sáng tạo hơn, không có tầm nhìn xa hơn, không có cá tính hơn, không có vận may hơn, không thích tìm kiếm rủi ro hơn, không anh hùng hơn, và không có khuynh hướng thực hiện những nước cờ lớn, táo bạo hơn. Nhưng họ đã lèo lái được công ty họ qua những lúc khó khăn để luôn trường tồn, bởi vì họ sống và làm việc theo ba yếu tố cân bằng nhau: kiên định với nguyên tắc, sáng tạo theo kinh nghiệm và biết sợ hãi một cách hữu ích.