Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

14 Ngày Kinh Hoàng

"Trờ chơi tử thần" cuối cùng cũng đến hồi kết. Một phụ nữ ăn trộm trong siêu thị, bị nhân viên cửa hàng tóm được. Ông chủ thương tình giữ cô ta ở lại làm việc, nhưng dần phát hiện cô có nhiều điều khó hiểu. Một ngôi nhà ẩn trong rừng sâu, một đứa "con gái" bí ẩn... Ông chủ tìm cách tiếp cận mới biết cô cất giấu một bí mật kinh hoàng. Một nhà phê bình ẩm thực tiếng tăm tình cơ được thường thức một món ăn bí mật mà ông đã nếm từ hàng chục năm trước. Để tìm ra sự thật về món ăn này, ông bắt đầu bí mật điều tra và đã phát hiện ra một sự thật ghê rợn... Người kể câu chuyện trong buổi tối thứ mười ba là Chris. Cậu ta nói câu chuyện của mình là câu chuyện đặc biệt, cần sự tương tác của mọi người. Hơn nữa, dựa vào biểu hiện của mọi người trong quá trình tham gia, cậu ta có thể đoán được ai là "người tổ chức". Câu chuyện của cậu ta liệu có "công hiệu" như những gì mình nói? Nam Thiên – người cuối cùng sẽ kể câu chuyện như thế nào? Liệu có điều gì khiến tất cả mọi người đều phải bất ngờ? Ai sẽ là người chiến thắng trong trò chơi này? Thân phận thật sự của "người tổ chức" có được phá giải? Tất cả sẽ được giải đáp vào buổi tối thứ mười bốn. *** 14 ngày kinh hoàng – Ninh Hàng Nhất : cái kết đặc sắc Người tổ chức cuối cùng cũng lộ diện sau 14 ngày kinh hoàng. Ninh Hàng Nhất đã rất thành công khi thổi một luồng gió mới vào thể loại trinh thám cổ điển. Sau 4 tập truyện trinh thám gồm 1 câu chuyện chính dẫn dắt nhân vật và 14 câu chuyện nhỏ, tập 5 của cuốn tiểu thuyết 1/14 này mang tên 14 ngày kinh hoàng cuối cùng cũng đã phần nào làm hài lòng ngay cả những độc giả khó tính nhất. Câu chuyện của Nam Thiên Tạm thời bỏ qua 2 câu chuyện nhỏ như 11 câu chuyện trước đó. Câu chuyện của Sa Gia và Chris, suy cho cùng cũng chỉ làm cho bữa điểm tâm của câu chuyện cuối cùng của Nam Thiên thêm đặc sắc mà thôi. Bởi vì suy cho cùng, sau câu chuyện của Nam Thiên, người tổ chức sẽ lộ diện. Vậy hắn là ai? Sau khi kể xong câu chuyện của mình, Nam Thiên đã dùng một thủ thuật nhỏ, và qua đó biết được chân tướng của người tổ chức. Tất cả đều bàng hoàng Nhưng với Ninh Hàng Nhất, như vậy là chưa đủ để thách thức những người có chỉ số IQ trên 150. Ông liên tục tạo ra bất ngờ này đến bất ngờ khác. Và cuối cùng thì mọi việc mới vỡ lẽ. 14 người, cuối cùng chỉ có 2 người chết. Người tổ chức ra đầu thú với cảnh sát. Mọi chuyện đã kết thúc như vậy. Nhưng phần Vĩ thanh lại mở ra một câu chuyện mới, đứng đằng sau giật dây Người tổ chức, lại là một Mr Robot với thương hiệu “Kẻ nhắc tuồng”. Hy vọng trong tương lai sẽ xuất hiện thêm một tiểu thuyết 1/14 kế tiếp, và nhân vật kẻ nhắc tuồng này lại tiếp tục con đường của mình. Đối với hắn, Trò chơi tử thần mà hắn vạch ra xuyên suốt 14 ngày kinh hoàng này chính là một trò chơi, không hơn không kém. Đỉnh cao của trinh thám cổ điển Nhắc tới trinh thám cổ điển là nhắc tới những tiểu thuyết trinh thám mà tại đó, không dựa vào pháp y, không dựa vào dấu vân tay, nhóm máu, dấu chân…để điều tra ra chân tướng hung thủ. Hầu hết truyện trinh thám cổ điển đều phải dựa vào suy luận và sự thông minh của thám tử để tìm ra chân tướng. Ngày nay với sự hiện đại của công nghệ, đặc biệt là ứng dụng trong việc tìm ra thời gian tử vong, dựa vào dấu chân để tra ra chiều cao hung thủ…và nhiều thứ khác nữa, việc phá án đã đơn giản đi rất nhiều. Bởi vậy, để tạo ra một tiểu thuyết trinh thám cổ điển, nơi chỉ số IQ và suy luận logic lên ngôi, thì bối cảnh mà các tác giả tiểu thuyết trinh thám thường chọn là thời trung đại, hoặc các khu vực khép kín. 10 người da đen nhỏ của Agatha Christine cũng lấy bối cảnh là đảo hoang. Tokyo Hoàng đạo án thì là một vụ án của 40 năm về trước. Các bối cảnh trong truyện trinh thám Kindaichi cũng tập trung cho những địa điểm biệt lập với thế giới bên ngoài. Và Ninh Hàng Nhất cũng không ngoại lệ khi tạo ra một buồng giam 14 người trong 14 ngày, bắt họ tham gia trò chơi tử thần này. Sau khi cái kết được tiết lộ, những fan hâm mộ trung thành của truyện trinh thám cổ điển sẽ phần nào thỏa mãn, đặc biệt là lý giải logic được những “hạt sạn” trong tập 4 (Người thừa thứ 14-đã được reviewsach.net giới thiệu cách đây ít lâu). Những điểm cộng và điểm trừ của tập truyện 14 câu chuyện nhỏ được gắn kết lại xuyên suốt một câu chuyện lớn. Đó chính là tài năng của người kể chuyện. Trong 14 câu chuyện đó, có chuyện hay, có chuyện dở. Có kinh dị, có trinh thám, có bí ẩn, có hư cấu, có giả tưởng. Là một nổi lẩu thập cẩm gia vị đầy đủ, những kiến thức từ kinh tế, xã hội, tôn giáo, tri thức nhân loại cũng được tác giả vận dụng và khéo léo kết hợp hết sức tài tình. Nếu tách riêng 14 câu chuyện riêng lẻ ra, chắc hẳn không nhận được nhiều sự quan tâm lớn đến vậy. Điểm trừ là 14 câu chuyện quá dài, giống như Nghìn lẻ một đêm. Giọng văn trầm ổn, không tạo ra sự đáng sợ, hồi hộp và cuốn hút mặc dù một số đoạn có gắn mác kinh dị. Có lẽ ngay từ đầu, tác giả nên chọn 7 câu chuyện, làm thành tiểu thuyết 1/7 thì hơn. Để tình tiết trôi nhanh hơn, làm cho độc giả nghẹt thở, chỉ có vậy mới xứng danh là một cuốn tiểu thuyết trinh thám hàng đầu.  Nhưng nếu ít người như vậy thì Người tổ chức sẽ nhanh chóng bị nhận diện. Thông điệp từ tác giả thông qua cuốn tiểu thuyết Không phải ngẫu nhiên mà Trò chơi tử thần được ngẫu nhiên xuất hiện. Nhân quả thường đến muộn, làm nhiều người tưởng rằng không có báo ứng. Thông qua cuốn tiểu thuyết, người đọc ngoài được trổ tài phá án, còn biết cách để sống lương thiện hơn. Sẽ không có 14 ngày kinh hoàng của những tiểu thuyết gia lừng danh nếu như ngày đó, không có một cuốn tiểu thuyết trinh thám đỉnh cao bị đạo văn. Mở rộng ra trong cuộc sống, kiếm tiền chân chính vẫn là an toàn nhất cho chính mình, cho lương tâm thanh thản và an nhàn. Một cách khách quan nhất, nếu bạn là một fan hâm mộ truyện trinh thám không dễ đầu hàng trước những câu hỏi logic hack não, thì tiểu thuyết 1/14 nói chung và 14 ngày kinh hoàng nói riêng vẫn là một câu chuyện đáng giá. *** Tác giả Ninh Hàng Nhất tên thật là Ninh Hàng, là nhà văn chuyên viết tiểu thuyết trinh thám kinh dị. Anh bắt đầu nghiệp viết từ năm 1999, tới nay đã là một tay bút chuyên nghiệp kiêm biên kịch phim. Tác phẩm của anh được đăng trên nhiều các tạp chí, trang mạng lớn của Trung Quốc, còn được dịch và đăng trên các tạp chí ngoại văn. Một số tác phẩm tiêu biểu có thể kể đến “Tiếng đêm”, “Hẹn với thần chết”, “Chuyến đi sống còn”, “Lời nguyền ngày tận thế”. Ninh Hàng Nhất được đánh giá là cây đại thụ trong làng tiểu thuyết trinh thám mới, là “Alfred Hitchcock” của Trung Quốc. Bộ tiểu thuyết trinh thám 1/14 Trò chơi tử thần gồm có 5 tập hiện đã được xuất bản xong tại Việt Nam, đã được khá nhiều độc giả Việt đón nhận, được đánh giá là bộ tiểu thuyết trinh thám xen lẫn kinh dị gây tiếng vang lớn. Trò chơi cấm là một trong những cuốn series trinh thám mới nhất của tác giả này được xuất bản tại Việt Nam.   Bộ 1/14 gồm có: Trò Chơi Tử Thần Khách Trọ Và Xác Sống Lời Cảnh Báo Người Thừa Thứ 14 14 Ngày Kinh Hoàng *** "T hông qua sự kiện vừa rồi, tôi gần như đã biết ‘người tổ chức’ là ai.” Câu nói này khiến mọi người sửng sốt. Mười một nhà văn đều trợn tròn mắt nhìn về phía thiếu niên thiên tài Chris. Sao cơ? Nam Thiên thấy vô cùng kinh ngạc. Những lời của Chris là thật sao? Hôm nay, là ngày thứ mười mọi người bị nhốt ở đây, câu đố đã được giải rồi sao? Rõ ràng tất cả đều nghĩ như thế thật. Ám Hỏa vội hỏi, “Là ai?” Chris vẫn giữ nguyên vẻ bí hiểm vốn có của mình, nhưng lần này cậu ta không cười, vẻ mặt rất nghiêm túc nói, “Đại để là trong lòng tôi đã rõ nhưng chưa có chứng cứ. Nếu giờ nói ra, e rằng người đó sẽ không thừa nhận.” Cậu ta dừng lại một chút rồi tiếp, “Vì vậy, tôi nghĩ ra một cách...” Chris không nói tiếp, có thể vì cậu ta chưa nghĩ xong “cách” đó là gì, cũng có thể vì không muốn cho “người tổ chức” còn đang ẩn mình trong đám đông biết được kế hoạch. Vẻ mặt cậu ta vô cùng nghiêm túc, chưa bao giờ thấy cậu ta tỏ ra như vậy. Mọi người cũng không tiện hỏi nữa. Một lúc sau Bắc Đẩu mới lên tiếng, “Chúng ta nên cho điểm câu chuyện Quay về của Hoang Mộc Chu tiên sinh không nhỉ?” Lake lẩm bẩm, “Nếu anh ấy đã phạm luật thì việc cho điểm chẳng còn ý nghĩa gì nữa...” Anh ta nói rất nhỏ, nhưng vẫn bị Hoang Mộc Chu thính tai nghe thấy. Nhà văn lớn giận dữ nói, “Tôi không muốn tranh luận với mọi người về vấn đề tôi có phạm luật hay không! Hãy để cho ‘người tổ chức’đáng chết ấy phán xét! Dù thế nào thì câu chuyện mà tôi vất vả nghĩ ra cũng không thể không có điểm!” “Tôi tán thành!” Hạ Hầu Thân nói, “Vấn đề phạm luật sẽ do ‘người tổ chức’ quyết định, còn chúng ta phải cho điểm câu chuyện của mỗi người.” Bắc Đẩu đứng dậy chuẩn bị đi về phía tủ. Trước giờ cậu ta luôn phụ trách việc lấy giấy bút. Nhưng lần này Goth gọi với cậu ta lại, nói, “Lần nào cũng là cậu lấy, để tôi thay.” Bắc Đẩu ngây người, “vâng” một tiếng rồi ngồi xuống. Goth đi về phía tủ, mang ra một nắm bút và tập giấy rồi chia cho mọi người. Trừ Hoang Mộc Chu, mười một người khác đều viết một con số lên giấy. Goth lại thu giấy về, đưa cho Nam Thiên và Long Mã tính điểm bình quân. Quay về của Hoang Mộc Chu cuối cùng được 9,1 điểm, cũng coi là cao, song không vượt qua được con số 9,2 điểm cho câu chuyện Bí mật của Do Nông mà Bắc Đẩu kể. Hoang Mộc Chu “hừ” một tiếng, rõ ràng việc một nhà văn lớn, một tiền bối trên văn đàn như ông ta lại thua một cậu nhóc chẳng có tên tuổi quả là rất mất thể diện. Ông ta không giấu được vẻ khó chịu và bất mãn của mình, nhưng không thể nói được gì, nên lặng lẽ đứng dậy đi về phía căn phòng của mình trên gác. Hoang Mộc Chu là nhân vật chính của buổi tối thứ mười, ông ta rời khỏi thì những người khác cũng chẳng còn có lý do gì để ở lại căn phòng lớn, nên mọi người cũng lần lượt trở về phòng mình. Sa Gia và Nam Thiên đi sau cùng. Sa Gia tỏ ra lo lắng, Nam Thiên hỏi, “Cô sao vậy?” “Ngày mai đến lượt tôi kể rồi.” Sa Gia nói với vẻ bất an, “Câu chuyện tôi nghĩ ra có điểm giống với câu chuyện của Hoang Mộc Chu, bây giờ rõ ràng là không dùng được nữa rồi. Tôi còn chưa đầy một ngày để nghĩ ra câu chuyện mới...” “Không sao đâu, mười mấy tiếng chắc cũng nghĩ ra câu chuyện mới thôi.” Nam Thiên an ủi. “Nhưng, đã có mười câu chuyện được kể rồi.” Sa Gia vẫn nói với vẻ lo lắng, “Đã có nhiều chủ đề được dùng đến, tôi thấy rất khó để nghĩ ra cái gì mà kể...” Đúng vậy, Nam Thiên rất hiểu. Luật của trò chơi này là: chuyện kể sau tuyệt đối không được giống câu chuyện kể trước từ cấu tứ cho đến tình tiết, đó là thách thức rất lớn cho những người kể sau. Ý tưởng sáng tạo không là vô hạn, càng về cuối đề tài càng hạn hẹp. Nhìn dáng vẻ lo lắng, sầu muộn của Sa Gia, Nam Thiên rất muốn giúp cô. Anh suy nghĩ một lúc rồi nói, “Tôi có một kinh nghiệm xây dựng cốt truyện có thể chia sẻ với cô.” “Thật à, mau nói cho tôi biết đi!” Sa Gia vội vã nói. Nam Thiên nói, “Những lúc không tìm được cảm hứng để sáng tác, tôi thường tìm cách soi lại bản thân. Mỗi chúng ta, khẳng định là đều trải qua một số chuyện để lại ấn tượng sâu sắc, tất nhiên, những sự việc đó chỉ là những mảnh vụn trong cuộc sống, không thể nào tạo thành một câu chuyện hoàn chỉnh. Nhưng chúng ta có thể cải biên, thêm thắt chi tiết, từ đó có thể tạo ra một câu chuyện rất hay.” “Lấy cơ sở là những trải nghiệm của bản thân...” Sa Gia ngẫm nghĩ về những điều Nam Thiên nói, “Trước nay tôi chưa thử bao giờ.” “Vậy cô hãy thử đi!” Nam Thiên nói, “Điểm hay của cách này là, vì câu chuyện có xuất phát điểm từ những trải nghiệm của bản thân cho nên rất dễ tìm thấy cảm giác, hơn nữa, câu chuyện được xây dựng nên thường cho cảm giác chân thực hơn nhiều so với sự hư cấu thuần túy.” “Được, tôi sẽ thử.” Sa Gia gật đầu nói, “Cảm ơn anh, Nam Thiên!” “Không có gì. Hi vọng là cô sẽ nghĩ ra một câu chuyện hay.” Nam Thiên nói với vẻ chân thành, anh nhìn đồng hồ điện tử trên cổ tay, “Không còn sớm nữa, hãy nghỉ ngơi đi, đóng chặt cửa vào, chú ý an toàn nhé!” “Vâng, anh cũng thế nhé.” Sa Gia đỏ mặt nói. Họ trở về phòng của mình, khóa cửa lại. Nam Thiên thấy mệt rã rời, lên giường mấy phút sau đã ngủ say. Sáng hôm sau, mọi người lại lấy đồ ăn từ trong tủ ở căn phòng lớn tầng một làm đồ ăn sáng. Trước lúc mọi người tản ra, Long Mã ho một tiếng, nói, “Ồ, có chuyện này, tôi không thể không nói với các vị.” Mọi người nhìn về phía ông ta. Thiên Thu hỏi, “Chuyện gì?” “Là thế này”, Long Mã nói, “sau khi tôi nghe câu chuyện Quay về của Hoang Mộc Chu tiên sinh kể tối qua, tôi bỗng thấy được gợi ý.” Hoang Mộc Chu nhướng mày, chăm chú nhìn Long Mã. Long Mã nói tiếp, “Trong câu chuyện đó, cậu bé Hạ Thanh có rất nhiều điểm giống với ma quỷ1. Điều đó khiến tôi bất giác nghĩ tới hiện thực trước mắt, mười bốn người chúng ta, mà thực ra là mười ba nhà văn bị ‘người tổ chức’ giấu mặt ‘mời’ đến, liệu cũng có những điểm giống nhau nào đó không?” 1 Xem Quay về do Hoang Mộc Chu kể trong Người thừa thứ 14. Câu nói này của Long Mã khiến mọi người đều ngây ra. Lát sau, Bắc Đẩu nói, “Tôi nhớ, vào ngày đầu tiên, ‘người tổ chức’ đã nói, hắn lựa chọn chúng ta vì trong mắt hắn, chúng ta là mười bốn nhà văn viết truyện trinh thám kinh dị ưu tú nhất.” “Đúng thế, có vẻ cậu còn thấy vui vì cũng được dính một tí vào trong đó.” Thiên Thu châm biếm. Bắc Đẩu gãi đầu, tỏ ra ngượng ngùng. Long Mã nhíu mày, lắc đầu, nói, “Người ấy nói như vậy, nhưng lúc đó chúng ta cũng không nghiên cứu kĩ vấn đề này, bây giờ nghĩ lại thì thấy, đó có thể là một cái cớ.” “Anh cho rằng chuyện không đơn giản như vậy, và trong đó còn có nguyên nhân sâu xa hơn?” Goth hỏi. “Đúng thế.” Long Mã nói, “Hơn nữa, tôi cho rằng, tìm ra điểm giống nhau sẽ là mấu chốt vạch rõ thân phận của ‘người tổ chức’.” “Anh dựa vào đâu mà cho là như vậy?” Long Mã phân tích, “Thực ra, tôi đã thấy ngay cách nói ấy có phần khiên cưỡng. Khách quan mà nói, mười bốn người chúng ta được ‘mời’ đến đây là những nhà văn viết truyện trinh thám kinh dị ưu tú nhất nước, thông qua thực lực của những người đã kể chuyện có thể chứng minh rõ điều này. Nhưng e rằng, không thể nói ngoài chúng ta thì không thể tìm ra người khác nữa. Trong số bạn bè của tôi, nhiều tác giả rất có thực lực, tại sao họ lại không trong số này? Những người tham gia trò chơi này, tại sao chỉ là mười bốn? Con số 14 liệu có phải ẩn chứa một hàm nghĩa đặc biệt nào không?” Những lời của Long Mã không khỏi khiến mọi người suy nghĩ. Một lát sau, Ám Hỏa nói, “Đúng vậy, vẫn còn có những nhà văn viết trinh thám kinh dị đỉnh hơn nữa, tại sao lại chỉ có chúng ta được ‘mời’ đến? E là có điều gì đó thật.” “Nói vậy vẫn có rất nhiều điểm nghi vấn.” Hạ Hầu Thân phân tích, “Thực ra, ngay từ đầu tôi cũng thấy ngạc nhiên.” Anh ta nhìn về phía thiên tài trẻ tuổi, “Chris cũng trong số đó. Nghĩ mà xem, cậu ấy là Hoa kiều sống ở nước ngoài thế mà cũng bị cuốn vào sự kiện này. Nhà văn viết trinh thám kinh dị xuất sắc là người Hoa trên thế giới này lại càng nhiều, và như vậy càng không có lý do để chọn mười bốn người chúng ta tới đây.” “Khả năng của ‘người tổ chức’ có hạn, không thể có được bản lĩnh thông thiên để có thể bắt tất cả những người như vậy trên thế giới về đây.” Lake nói. “Vậy Chris đã được đưa đến đây như thế nào?” Hạ Hầu Thân hỏi. “Anh quên rồi à?” Lake nhắc, “Chris nói, cách mà cậu ấy đến đây không giống chúng ta. Cậu ấy không phải bị làm cho mê man rồi mới đưa đến, mà trong trạng thái tỉnh táo.” “Đúng vậy.” Lúc này Hạ Hầu Thân mới nhớ ra, ông ta nhìn Chris, “Bây giờ cậu vẫn không định nói cho chúng tôi biết rốt cuộc cậu đến đây như thế nào à?” “Tôi đã nói rồi, đó là chuyện của tôi, bây giờ không thể nói được.” Chris bình thản nói, “Hình như chúng ta đã chuyển chủ đề câu chuyện rồi, nên quay lại vấn đề đang nói trước đó đi: rốt cuộc chúng ta có điểm gì giống nhau? Tôi cũng rất hứng thú với điều này.” “Chúng ta có thể nghĩ từ nhiều góc độ.” Long Mã nói, “Mười bốn người chúng ta đều có thể có những điểm giao nhau.” Hạ Hầu Thân nghĩ một chút, nói, “Tôi sống ở thành phố S, còn mọi người?” “Anh muốn xem xem chúng ta có phải là người cùng thành phố không?” Long Mã đã hiểu ra, “Tôi cũng là người thành phố S và sống ở thành phố S.” “Còn có ai sống ở thành phố S nữa không?” Hạ Hầu Thân hỏi. “Tôi.” Nam Thiên nói. Goth cũng giơ tay, ý nói anh ta cũng như vậy. “Chỉ có bốn chúng tôi ở nơi này?” Hạ Hầu Thân thống kê, “Tôi, Long Mã, Goth và Nam Thiên. Thế còn mọi người?” Ông ta hỏi những người khác. Mọi người lần lượt nói về nơi ở của mình, ngoài Chris và Thiên Thu ra, còn lại cơ bản ở những thành phố không xa thành phố S là mấy. Chris dường như đã nghĩ ra manh mối, “Đối tượng mà ‘người tổ chức’ ‘mời’ đến có lẽ trung tâm là thành phố S!” “Điều này không thể coi là phát hiện lớn gì.” Bạch Kình cười méo mó, “S là thành phố lớn, các thành phố xung quanh cơ bản cũng là những khu vực phát triển. Các tác giả viết trinh thám kinh dị của nước ta vốn dĩ rất nhiều người tập trung tại khu vực này, huống chi Chris sống ở Mỹ, Thiên Thu ở thành phố B cách đây rất xa. À, phải rồi, lại còn cả Uất Trì Thành và Từ Văn đã chết nữa, có lẽ họ cũng là người ở gần thành phố S?” Xem ra, ở cùng một khu vực không thể trở thành điểm chung rồi. Đám đông lại chìm trong suy nghĩ, một lát sau, Ám Hỏa lên tiếng, “Trước đây, chúng ta có từng viết về cùng một đề tài không?” “Không thể có.” Chris phủ định quả quyết, “Tôi đã đọc sách của nhiều người trong chúng ta, đề tài, nội dung đều rất khác nhau. Huống chi nếu cả mười bốn người cùng viết về một đề tài thì truyền thông sẽ phải lên tiếng và chúng ta làm sao mà không biết?” “Vậy thì... Liệu chúng ta có từng xuất hiện trong cùng một hoàn cảnh không?” Sa Gia thăm dò, “Ví dụ như họp báo hoặc trong buổi họp các nhà văn.” “Mấy năm trước hầu như tôi đều ở Mỹ.” Chris tiếp tục phủ định khả năng này. Không khí trong căn phòng lớn lại lắng xuống, hầu như mọi người không tìm được khả năng gì nữa. Nam Thiên nhíu chặt mày, ra sức nghĩ, thế rồi trong đầu lóe lên một ý nghĩ, không kịp cân nhắc, anh nói luôn, “Liệu có phải mười bốn chúng ta đều quen một ai đó không?” Mọi người lại ngây ra. Long Mã nói, “Ý anh là, bản thân mười bốn chúng ta có thể không có điểm giao nhau, nhưng chúng ta cùng quen một người, nên đã gián tiếp khiến mười bốn người chúng ta có mối liên hệ?” “Phải, đúng là ý đó.” Nam Thiên nói. “Sao anh lại nghĩ vậy?” Hạ Hầu Thân hỏi. “Không biết, đột nhiên nảy ra ý nghĩ đó.” Nam Thiên nói. “Khả năng này đúng là rất có thể...” Lake chau mày, nói với vẻ suy nghĩ, “Nhưng, làm thế nào để kiểm chứng điều này? Bạn bè, đồng nghiệp của mỗi người chưa kể bạn trên mạng, cũng phải mấy trăm người? Không lẽ chúng ta viết hết tên của họ ra rồi đối chiếu từng người một xem có cùng quen không? Như vậy sẽ rất khó khăn.” “Đúng thế.” Bạch Kình nói, “Hơn nữa, còn có một vấn đề, đó là ‘người tổ chức’ ở lẫn trong chúng ta sẽ không phối hợp làm việc đó, thêm nữa là Uất Trì Thành và Từ Văn đã chết thì sao mà biết được. Cho nên, chúng ta không thể đưa ra kết luận được.” Nghe Bạch Kình nói vậy, mọi người có vẻ ỉu xìu. Lúc đó Sa Gia nhìn Nam Thiên, hỏi, “Nam Thiên, anh thấy thế nào?” Nam Thiên trầm ngâm giây lát rồi nói, “Tôi có cảm giác, người mà chúng ta cùng quen đó đã khiến cho mười bốn chúng ta làm cùng một việc trong cùng một thời gian, và chúng ta không biết rằng đã từng làm cùng một việc.” “Ồ...” Thiên Thu bỗng nhiên khẽ thốt lên, sắc mặt lập tức trắng nhợt, Ám Hỏa đứng bên hỏi, “Cô sao thế? Nghĩ ra chuyện gì à?” “Không... không phải.” Thiên Thu cúi đầu, nói, “Tôi chỉ... bỗng thấy sợ trước những lời của Nam Thiên, cảm thấy ớn lạnh.” Hoang Mộc Chu nheo mắt, nói, “Lời của cậu ấy đáng sợ ư? Nếu trong lòng cô không có điều gì ám muội thì sao phải sợ?” Thiên Thu lấy lại tinh thần, hai tay khoanh trước ngực, nói với vẻ coi thường, “Trong lòng tôi thì có điều gì mà ám muội? Đó chỉ là thói quen của những nhà văn viết trinh thám kinh dị, liên tưởng tới một số sự việc đáng sợ và giàu kịch tính mà thôi.” Căn phòng lắng xuống một lúc. Hạ Hầu Thân thở dài, “Xem chừng, tất cả chỉ là suy đoán, không thể rút ra kết luận được.” “Không hẳn, nếu đúng như lời Nam Thiên, thì ít ra chúng ta cũng có hướng để suy nghĩ.” Long Mã nói, “Vẫn còn bốn ngày nữa, biết đâu một trong số chúng ta sẽ nghĩ ra được điều gì.” Nhắc đến vấn đề thời gian, Sa Gia lộ rõ vẻ lo lắng. Cô đứng dậy, nói, “Tối nay đến lượt tôi kể chuyện rồi, tôi phải về phòng chuẩn bị đây.” Nói xong cô rời căn phòng lớn và đi lên gác. Những người khác cũng lần lượt rời khỏi đó. Nam Thiên đứng nguyên tại chỗ, nhíu mày nhăn trán suy nghĩ về gợi ý mà mình vừa mới đưa ra. Anh không hiểu tại sao đầu óc mình bỗng dưng lại lóe ra ý nghĩ ấy, không lẽ tiềm thức đang nhắc anh có một việc nào đó mà anh đã từng làm trong quá khứ có mối liên quan đến sự kiện này? Nhưng, những việc anh trải qua quá nhiều, rốt cuộc là sự việc gì, anh vắt óc cũng không sao nghĩ ra. 7 giờ tối, một lần nữa mọi người lại tập trung ở căn phòng lớn, mỗi người một chiếc ghế da và xếp thành một vòng tròn. Trò chơi của buổi tối hôm nay đã bắt đầu. Sa Gia là nhân vật chính của tối nay. Nam Thiên ngồi cạnh cô, khẽ hỏi, “Đã nghĩ xong câu chuyện chưa?” “Rồi.” Sa Gia gật đầu, khẽ nói, “May mà có anh gợi ý.” “Cô dùng những điều mà chính bản thân đã trải qua thật à...” “Nghe xong rồi hãy nói.” Má Sa Gia thoáng đỏ, “Tóm lại là một câu chuyện đặc sắc khác thường, hơn tất cả những tác phẩm của tôi trước đây.” Hạ Hầu Thân ngồi đối diện nhìn đồng hồ, nói, “Hai người đừng thì thầm nữa, đến giờ rồi đấy!” “Vâng.” Sa Gia quay mặt về phía đám đông, cao giọng, “Tôi bắt đầu kể. Tên của câu chuyện này là Quái thai.” Mời các bạn đón đọc 14 Ngày Kinh Hoàng của tác giả Ninh Hàng Nhất.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bí Ẩn Vụ Song Sinh - Erle Stanley Gardner
Theo GUINNESS, quyển sách ghi các kỷ lực thế giới, Erle Stanley Gardner được ghi nhận là tác giả sách bán chạy nhất của mọi thời đại. - Erle Stanley Gardner có trên 150 tác phẩm trinh thám tin cậy, đáng giá và hợp thời đại. - Erle Stanley Gardner, người đã tạo nên nhân vặt truyền kỳ luật sư Perry Mason, cô thư ký tinh ý Della Street, và viên thám tử tài ba Paul Drake. - Erle Stanley Gardner, tác giả duy nhất có sách bán chạy hơn cả bốn tác giả nổi tiếng khác cộng lại gồm: Agathe Chistie, Harold Robbins, Barbara Cartland và Louis L’amour *** Một số tác phẩm đã được xuất bản tại Việt Nam:   1. Móng vuốt bọc nhung (Đôi tất nhung) [Perry Mason #1 - The Case of the Velvet Claws] (1933) 2. Cháu gái người mộng du [Perry Mason #8 - The Case of the Sleepwalker's Niece] (1936) 3. Vị giám mục nói lắp [Perry Mason #9 - The Case of the Stuttering Bishop] (1936) 4. Kẻ hùn vốn [Perry Mason #17 - The Case of the Silent Partner] (1940) 5. Con vịt chết chìm (Mười tám năm sau) [Perry Mason #20 - The Case of the Drowning Duck (Le Canard Qui Se Noie)] (1942) 6. Cô gái có vết bầm trên mặt [Perry Mason #25 - The Case of the Black-Eyed Blonde (La Blonde au Coquard)] (1944) 7. Lá thư buộc tội [Perry Mason # 44 - The Case of the Runaway Corpse] (1954) 8. Viên đạn thứ hai [Perry Mason #45 - The Case of the Restless Redhead] (1954) 9. Con mồi táo bạo [Perry Mason #54 - The Case of the Daring Decoy] (1957) 10. Kẻ mạo danh [Perry Mason #64 - The Case of the Spurious Spinster] (1961) 11. Người đàn bà đáng ngờ [Perry Mason #69 - The Case of the Mischievous Doll] (1963) 12. Vụ Án Hoa Hậu Áo Tắm [Perry Mason #78 - The Case of the Queenly Contestant] 13. Kẻ Giết Người Đội Lốt [Perry Mason #40 - The Case of the Grinning Gorilla] (1952) 14. Tiếng Chó Tru Trong Đêm [Perry Mason #04 - The Case of the Howling Dog] (1934) 15. Người Được Minh Oan [Perry Mason #27 - The Case of the Half-Wakened Wife] (1945) 16. Người Đàn Bà Đáng Sợ [Perry Mason #53 - The Case of the Lucky Loser] (1958) 17. Bí Ẩn Vụ Song Sinh [Perry Mason #62 - The Case of the Duplicate Daughter] (1960) *** Muriell từ phòng ăn nhẹ nhàng bước qua nhà bếp, đưa tay giữ lại cánh cửa lửng chắn ngang giữa hai phòng, để tránh gây tiếng động vì sợ làm thức giấc bà mẹ kế là Nancy Gilman và cô em gái Glamis, con riêng của bà, họ thường ngủ trễ đến tận trưa mới dậy. Sáng nay, bố của Muriell cảm thấy đói hơn mọi khi nên muốn cô làm thêm một đĩa trứng và một miếng xúc xích nữa. Đây là một điều bất thường và Muriell nghĩ rằng thể nào bố cô cũng bảo thôi nếu cô tạo điều kiện để ông nghĩ lại, thành thử cô hơi chần chừ. Nhưng rồi thấy nét mặt quả quyết của bố và ông lại có vẻ hơi nôn nóng vì chờ đợi, cô bèn bước sang nhà bếp trong khi bố cô chăm chú đọc tờ báo buổi sáng, Muriell hiểu rất rõ bố mình, cô mỉm cười nhớ đến sự cố gắng ăn uống kiêng khem của ông vì sợ lên cân, nhưng có lẽ bữa ăn sáng nay là để bù lại bữa tối qua quá sơ sài? Cả hai bố con sống trong một căn biệt thự ba tầng to lớn kiểu cổ và đã được trang hoàng theo kiểu mới kể từ sau khi mẹ Muriell chết. Muriell sinh ra tại đây, cô biết tất cả mọi ngóc ngách và rất quyến luyến với nó. Đã có những lần Muriell cảm thấy ít nhiều xót xa khi căn phòng cũ của mẹ mình đã bị Nancy chiếm chỗ, nhưng những ý nghĩ ấy thường chỉ xẩy ra khi không có mặt Nancy ở nhà mà thôi. Nancy là một người đàn bà rất có tâm hồn và nhiều sáng kiến cũng như có những nét đặc thù trong cung cách nhìn đời và sự vật. Điều đó làm cho bà ta trở thành một con người đặc biệt và dễ mến. Không một ai có thể bực mình khi đối diện với bà ấy. Muriell đã cố tình chần chừ cho đến khi thấy bố có vẻ nôn nóng, cô mới vội vào bếp làm tiếp. Miếng xúc xích lấy trong tủ lạnh ra còn đóng băng nên phải chờ lâu thêm một chút. Sau đó cô đập trứng vào chảo và bớt lửa vì cô biết ông không thích ăn trứng chín quá. Bỏ trứng và xúc xích vào đĩa xong, cô bưng sang phòng ăn, lấy khuỷu tay đẩy nhẹ cánh cửa phòng để tránh tiếng kêu lớn rồi lách nhẹ người đi vào. — Xong rồi bố ơi! - Cô gọi - Bố... Cô chợt ngừng lại không nói tiếp khi thấy chiếc ghế trống trơn, tờ báo đang nằm trên sàn nhà, ly cà phê vẫn còn đầy và điếu thuốc đang hút dở đặt trên đĩa gạt tàn, khói thuốc vẫn tiếp tục bay lên cao. Muriell thay đĩa thức ăn mới cho bố, rồi bỏ một lát bánh mì vào hộp nướng bánh và nhấn nút. Cô đứng chờ bố trở lại bàn ăn, cặp mắt bất chợt để ý đến mục quảng cáo trên tờ báo. Cô cúi xuống nhặt tờ báo. Đó chỉ là mục quảng cáo về các loại quần áo may sẵn. Khi công tắc của bếp nướng bánh ngắt điện và lò xo đẩy miếng bánh lên trên nắp hộp, Muriell nhíu mày thắc mắc không hiểu sao bố cô chưa trở lại bàn ăn. Cô rón rén bước xuống phòng tắm dưới nhà, cửa mở nhưng bên trong không có ai. Cô đi vòng sang các phòng khác và gọi khẽ — Bố, thức ăn nguội rồi! Cô trở lại phòng ăn, vẫn không thấy ai và chợt cảm thấy có sự bất ổn. Cô xem xét kỹ dưới nhà một lần nữa. Liệu bố cô đã đi làm rồi mà không nói cho có biết chăng...? Ông biết rõ là Muriell đang làm trứng cho ông mà? Chính ông đã bảo cô làm thêm mà? Chắc chắn không thể nào ông rời khỏi nhà mà lại không nói cho cô hay. Kể cả trường hợp nếu có điều gì thật khẩn cấp ở văn phòng thì ông cũng phải cho cô biết chứ. Nhưng hẳn là không có gì khẩn cấp vì đâu có nghe thấy chuông điện thoại reo. Trong bếp luôn có đường dây điện thoại song song, có gì thì chuông đã kêu. Như vậy hẳn có chuyện gì ở trên lầu. Có thể Nancy bị ốm chăng? Muriell bước vội lên lầu nhưng vẫn cố giữ im lặng. Cô nhẹ nhàng vặn nắm cửa phòng ngủ và đẩy nhẹ. Nancy Gilman đã thức, nhìn thấy Muriell đứng ngơ ngác nép bên cánh cửa bèn hỏi: — Có gì vậy, Muriell? — Con tìm bố - Muriell đáp. Nancy quay đầu lại nhìn bên giường trống. — Bố đã rời khỏi buồng cả tiếng đồng hồ rồi - Bà nói với giọng hơi lộ vẻ khó chịu, nhưng rồi chợt ý thức liền mỉm cười và tiếp - Có chuyện gì vậy con? Bố lại trễ ăn sáng à? — Dạ không - Muriell nói - Bố muốn ăn thêm và con đã làm xong nhưng ... con sợ nguội. Nét mặt Nancy Gilman thoáng lộ nét lo âu nhưng rồi bà kéo gối tựa sau lưng, mỉm cười, nói: — Ồ, con quá quan tâm đến bố đấy! Bà cười với nụ cười kín đáo và quay sang ngủ tiếp. Như vậy là bố Muriell không có mặt ở tất cả mọi nơi trong nhà, ngoại trừ căn phòng để đồ trên gác. Bất chợt một ý tưởng bỗng khuấy động trong đầu óc Muriell. Gần đây bố cô thường tỏ vẻ khó chịu. Hai hôm trước ông có nói với cô: “Bố dặn con một điều là nếu có bất kỳ chuyện gấp gáp nào liên quan đến công việc làm ăn của bố, thì hãy nhớ rằng bố không muốn dính dáng đến cảnh sát. Con nhớ không? Bố không muốn dính dáng đến cảnh sát.” Muriell đã nhìn bố với cặp mắt ngạc nhiên, muốn ông giải thích rõ hơn, nhưng ông chỉ trả lời một cách đại khái và cố nhấn mạnh cái ý chính của mình là không muốn dính dáng đến cảnh sát. Cô chợt lo lắng nghĩ đến những vụ tự tử, những xác chết treo cổ trên trần nhà. Cô liền chạy như bay lên thang gác. Phòng chứa đồ với những rương thùng quần áo cũ, các bàn ghế cổ. Gian phòng vẫn còn ăm ắp cái hơi hướng của một thời quá vãng. Những căn phòng dưới nhà đang hòa nhập với nhịp độ đi lên của cuộc sống văn minh hiện đại, nhưng tại đây, trong căn phòng này hầu như đón nhận toàn bộ những đồ vật dư thừa, lỗi thời của những ngày đã qua. Nó mang một không khí trầm buồn và cách biệt. Nhìn bao quát xung quanh căn phòng, Muriell cảm thấy hơi yên tâm, nhưng dù sao cô cũng đi vòng khắp hết một lượt, để ý cả đến ngoài hàng hiên sát mái. Không có một ai. Cô thấy vững dạ hơn và bước xuống cầu thang. Vừa tới chân cầu thang, Muriell gặp ngay Glamis, con riêng của mẹ kế. Glamis mặc bộ đồ ngủ mỏng dính. Mái tóc vàng xõa trên khuôn mặt với đôi mắt xanh tỏ vẻ bất bình. — Chị làm gì ầm ĩ ở trên gác vào cái giờ còn sớm như thế này? — Ồ, xin lỗi Glamis - Muriell nói - Chị... chị đang tìm kiếm... — Chị kiếm cái gì vậy? - Glamis hỏi khi thấy Muriell tỏ ra ngần ngừ. — Ồ, chị có chút việc trên ấy - Muriell nói - Chị đã cố nhẹ nhàng. — Em tưởng như có một đàn ngựa chạy trên ấy! Đúng, chạy ngay trên phòng ngủ của em. — Ồ, chị xin lỗi. Glamis bỗng nhiên cười và nói: — Chị tha lỗi cho em. Bị thức giấc nên em cáu giận vô lý. Dưới nhà có cà phê không chị? Muriell gật đầu. — Em cảm thấy khó chịu khi chưa được uống ly cà phê vào buổi sáng - cô em nói - Em sẽ xuống dưới nhà uống một ly rồi trở lên ngủ tiếp. Chị đã xong việc trên phòng để đồ chưa? — Rồi - Muriell đáp - Thôi đừng quan tâm nữa, Glamis. Chị sẽ đem cà phê lên phòng cho em. Không có đường chứ? Glamis gật đầu. — Chị xin lỗi vì đã làm em thức. Chị đang lo ăn sáng cho bố - Muriell nói. — Ở trên phòng để đồ à? - Glamis vừa hỏi vừa cười. Muriell vỗ nhẹ lên vai cô em. —Thôi về phòng đi cưng. Chị sẽ mang cà phê lên cho. — Vâng, cảm ơn chị - Glamis nói - Bạn em là Hartley Elliott đã ở lại nhà mình hồi đêm, anh ta cũng cần được ngủ. — Bạn trai em à? - Muriell hỏi. — Vâng. Anh ta ngủ ở trên phòng Hoa Hồng. Chúng em về nhà đã hơn nửa đêm, rồi ngồi nói chuyện với nhau ngoài hàng hiên. Khi anh ấy mở máy xe tính đi về thì mới biết là quên rút chìa khóa xe trong ổ nên bình điện yếu không đề máy được. Vì vậy em đã bảo anh ấy ngủ lại. — Mẹ biết không? - Muriell hỏi. — Dĩ nhiên là không. Mẹ đang ngủ ngon mà. Chị nghĩ rằng em phải đánh thức mẹ dậy để báo với mẹ là em mời khách ngủ lại nhà mình sao? Em cũng đã lớn, hai mươi tuổi rồi. Và chị nghĩ... Glamis bỗng dưng ngừng lại rồi mỉm cười nói tiếp: — Chị thấy em giống như con ma dại vào buổi sáng như thế này phải không? Muriell vỗ vai cô em. — Thôi cưng, chị sẽ mang cà phê lên. Chui vô giường đi. Trông em trần như nhộng. — Em ấy à? - Glamis hỏi lại và đưa tay vuốt bộ áo ngủ mỏng dính rồi cười và nhẹ nhàng bước về phòng trên hành lang trải thảm. Muriell xuống dưới nhà, tự trấn an rằng có lẽ vì một lý do đặc biệt nào đấy, bố cô đã phải đi ngay đến văn phòng làm việc mà không kịp cho cô biết. Chắc đó là công việc hết sức quan trọng, có thể là một cuộc hẹn mà ông đã quên. Muriell lấy lại sự vui vẻ khi cô rót cà phê vào chiếc tách lớn, bỏ vài miếng bánh mì nướng vào trà, đặt tất cả lên khay và bưng lên phòng cho Glamis. — Ồ, cảm ơn chị - Glamis nói - Chị mang cả bánh mì nướng lớn cho em nữa hà? — Đói không? — Đói muốn chết! - Glamis nói - Em cứ thức dậy là thèm ăn ngay. Nếu không kiêng khem sợ mập, có lẽ em phải xuống nhà hàng dưới phố để ăn sáng. Glamis ngồi nhỏm dậy, dụi tắt điếu thuốc trên đĩa gạt tàn, với tay lấy tách cà phê, nhìn Muriell và nói: — Chị thực là tài, chị Muriell. — Tài gì? — Chị luôn luôn giữ được điều độ. Em thấy chị lúc nào cũng trầm tĩnh và đầy nghị lực. Còn em thì như con ngố nếu sáng dậy mà không được uống cà phê. Glamis nhai mẩu bánh và uống vài ngụm cà phê. Sau đó cô vội đẩy đĩa bánh và tách cà phê sang một bên, mỉm cười vừa nói với Muriell vừa ngả đầu nằm lại trên giường. — Cảm ơn chị. Em ngủ đây. Muriell bước ra khỏi phòng, đóng nhẹ cửa và trở lại phòng ăn. Hôm nay là ngày nghỉ của người nấu bếp, còn người giúp việc dọn dẹp và rửa chén đĩa sẽ đến vào giờ muộn hơn. Một lần nữa tư tưởng bất ổn lại xuất hiện trong đầu óc Muriell khi cô nhìn thấy đĩa trứng trên bàn ăn đã nguội lạnh, tờ báo vẫn nằm bên chiếc ghế trống trơn. Thật là bất thường, bố cô đi mà không nói lấy một lời, sao bố lại có thể vô tâm như thế được. Bố biết là Muriell đang ở trong bếp mà... Bỗng cô nhìn thấy chiếc cặp táp của ông. Không bao giờ bố cô đi làm mà quên đem theo chiếc cặp táp này. Muriell biết rằng bố cô có một số giấy tờ quan trọng để trong cặp. Ông đã phải làm gấp vào đêm qua để kịp sáng nay đưa đến văn phòng. Ngay cả lúc sáng khi đang ngồi trước bàn ăn, ông cũng đã lấy tập giấy tờ ấy ra để xem xét lại và ghi chú thêm. Muriell bước tới cầm lấy chiếc cặp và mở ra. Tập giấy tờ tài liệu vẫn còn nguyên trong ấy. Muriell cầm lên rút các giấy tờ bên trong ra xem rồi bỏ trở lại trong tấm bìa cứng bọc ngoài. Bất chợt cô để ý đến hàng chữ viết tay của bố cô ghi trên đầu tấm bìa: Trong bất kỳ trường hợp khẩn cấp nào, hãy liên lạc với luật sư Perry Mason ngay lập tức. Tuyệt đối không được liên lạc với bất cứ nơi nào khác.' Dòng chữ ghi có cả chữ kí của bố cô và được viết bằng bút mực. Chỗ chữ kí hơi bị nhòe một chút có lẽ vì ông đã vội cất tập giấy vào trong cặp trước khi chờ đủ thời gian cho mực khô. Ngoài ra bên cạnh chỗ chữ viết, có ghi một số điện thoại, chắc là số điện thoại của văn phòng luật sư Perry Mason. Liệu có phải bố cô đã viết những hàng chữ này lúc ngồi trên bàn ăn sáng không? Muriell nhìn đồng hồ. Đã chín giờ kém mười. Cô đóng cặp táp lại và bước đến bên ghế bố cô đã ngồi. Cô không thấy chiếc khăn ăn của ông. Như vậy là khi bố cô đi, ông đã cầm theo chiếc khăn ăn. Bỗng dưng ý nghĩ của sự mất chiếc khăn ăn khiến cho Muriell cảm thấy sợ hãi. Cô lật tờ báo lên, xem dưới gầm bàn, tìm khắp phòng, sau đó cô bước qua phòng khách rồi trở ra cầu thang định lên lầu và lúc này cô chợt nhớ đến xưởng làm việc. Đúng rồi! Phía sau biệt thự là một dãy nhà khá lớn, đầu dãy phía bắc là gara xe chia làm ba ngăn. Kế tiếp là một phòng dùng làm phòng tối dành cho bà Nancy rửa phim ảnh và phía cuối của dãy nhà là một xưởng riêng của ông Carter Gilman, chia làm hai phần, một làm đồ gốm và một làm đồ mộc như các hộp bằng gỗ quý để đựng đồ nữ trang, các hộp đựng đồ khâu vá và các khung ảnh trang hoàng. Muriell đẩy mạnh cửa bước ra ngoài hành lang, cô rảo chân qua sân cỏ phía sau nhà, tiến đến trước cánh cửa xưởng mộc. Cô mở mạnh cửa gọi lớn: — Bố! Cô bước vào trong và bất chợt khựng lại. Một chiếc ghế gãy nằm trên sàn, bên cạnh là một vũng màu đỏ thẫm. Mạt cưa văng tung tóe trên nền ximăng và những tờ giấy bạc rải rác khắp nơi. Các tờ giấy bạc đều là loại một trăm đôla và Muriell nhìn thấy có đến khoảng trăm tờ như vậy khắp phòng. Muriell nhìn qua bên phải chỗ cánh cửa dẫn sang phòng rửa ảnh của bà Nancy, ngay trước cánh cửa, trên sàn ximăng là chiếc khăn ăn của bố cô. Muriell bước tới mở cánh cửa phòng rửa ảnh. Mùi chua của thuốc rửa ảnh xông lên mũi. Ánh sáng từ ngoài cánh cửa rọi vào nhưng vẫn không đủ sáng. — Bố ơi! - Muriell gọi. Im lặng vẫn bao trùm căn phòng. Muriell bước qua hết phòng rửa ảnh, mở và đẩy mạnh cánh của thông sang gara. Chiếc xe thể thao và chiếc xe nhỏ vẫn nằm đúng vị trí nhưng chiếc xe lớn thì không còn ở đấy nữa. Muriell ý thức được sự kiện vắng mặt chiếc xe của bố, tim cô bỗng đánh thình thịch. Bố cô đã rời phòng ăn đi xuống gara, trong tay vẫn còn cầm nguyên chiếc khăn ăn. Phải có một biến cố nào đấy khiến ông phải đi xuống dưới nhà mà không ý thức được là trong tay mình đang cầm chiếc khăn ăn. Chắc ông đã xuống gara trước, rồi đi qua phòng rửa ảnh và mở cửa bước sang xưởng mộc. Những gì ông nhìn thấy trong xưởng hẳn đã làm ông đánh rơi chiếc khăn ăn. Như vậy chuyện gì đã xảy ra? Chiếc ghế gãy nằm trên sàn mang ý nghĩa gì? Tại sao các giấy bạc lại tung tóe trên sàn và nhất là cái vũng màu đỏ thẫm kia? Muriell liền đi đến quyết định, cô bước vội lại bàn điện thoại trong xưởng, nhấn nút liên lạc với văn phòng làm việc của Carter Gilman. Khi được văn phòng báo cho biết là ông không có ở đấy, cô bèn lật gấp các trang sách cuốn điện thoại niên giám tìm số văn phòng luật sư Perry Mason. Tiếng trả lời trên điện thoại cho biết luật sư Perry Mason chưa tới, nhưng thư ký riêng của ông ta đang có mặt. — Vâng, tôi nói chuyện với cô thư ký cũng được, - Muriell nói. Vài giây sau tiếng nói trên đầu máy vang lên. — Tôi là Della Street, thư ký riêng của luật sư Perry Mason nghe đây. Muriell nói thật nhanh: — Vâng, hiện giờ tôi thấy lo lắng quá. Bố tôi tự dưng biến mất. Tôi tìm thấy tờ giấy ghi trong cặp táp của bố tôi bảo rằng hãy gọi cho luật sư Perry Mason trong trường hợp có biến cố xảy ra và... và hẳn có điều gì rất bí mật trong vụ này. Tôi... — Xin lỗi, cô có thể cho biết tên bố cô? — Carter Gilman. Mẹ tôi đã mất. Tôi ở đây với bố tôi cùng mẹ kế và con riêng của bà ta. Chúng tôi ... — Xin vui lòng cho biết tên cô. — Muriell Gilman. — Cô có thể cho tôi số điện thoại của nhà cô không? Muriell cho biết số điện thoại. — Và địa chỉ nữa? — 6231 Đại lộ Vauxman. — À, luật sư Perry Mason vừa mới tới - Della Street nói. - Tôi sẽ gọi lại cho cô trong vòng năm phút. — Cảm ơn cô - Muriell đáp và cúp máy. ... Mời các bạn đón đọc Bí Ẩn Vụ Song Sinh của tác giả Erle Stanley Gardner.
Người Lạ Trong Gương - Sidney Sheldon.
Sách Nói Người Lạ Trong Gương   Người Lạ Trong Gương vẫn là một trong nhiều câu chuyện Betseller của nhà văn nổi tiếng Sidney Sheldon. *** Sidney Sheldon, tác giả của nhiều cuốn tiểu thuyết thuộc hàng Best-selling được người đọc Việt Nam yêu thích như "Nếu còn có ngày mai", “Âm mưu ngày tận thế”, "Thiên thần nổi giận"... Warren Cowan, một trong những cố vấn của Sheldon cho biết nhà văn từ trần vào chiều ngày 30/12 tại Bệnh viện Eisenhower ở Rancho Mirage (Mỹ) vì bệnh viêm phổi. Vợ ông, bà Alexandra, con gái Mary Sheldon đồng thời cũng là một nhà văn, đã có mặt bên cạnh Sheldon trong lúc lâm chung. Cowan xúc động nói: “Tôi đã mất một người bạn lâu năm và thân thiết nhất. Trong suốt những năm tháng được làm việc cùng Sheldon, tôi chưa bao giờ nghe thấy ai đó nói một từ không hay về ông”. Sidney Sheldon từng có thời gian làm việc tại Hollywood và là tác giả của nhiều kịch bản phim nhựa và phim truyền hình nổi tiếng. Tuy nhiên, bước sang 50 tuổi, tức là vào khoảng những năm 1967, ông lại chuyển sang viết tiểu thuyết và nổi tiếng với hàng chục tác phẩm ăn khách nhất hành tinh, được dịch sang nhiều thứ tiếng khác nhau trên toàn thế giới. Những cuốn sách của Sheldon, như “Thiên thần nổi giận”, “Phía bên kia nửa đêm”, “Nếu còn có ngày mai” đã khiến tên tuổi của nhà văn Mỹ luôn tồn tại trong lòng bạn đọc. Ông là một nhà văn có tài thực thụ. Bằng cách viết và diễn tả tình tiết câu chuyện rất ly kỳ với giọng văn hóm hỉnh nhưng đầy trí tuệ, những tác phẩm của Sheldon thường nói về những nhân vật thành đạt, nổi tiếng nhưng không có thật và thường là phụ nữ. *** Tiểu thuyết The Naked Face (1970) - Lộ mặt The Other Side of Midnight (1973) - Phía bên kia nửa đêm A Stranger in the Mirror (1976) - Người lạ trong gương Bloodline (1977) - Dòng máu Rage of Angels (1980) - Thiên thần nổi giận Master of the Game (1982) - Bậc thầy của trò chơi If Tomorrow Comes (1985) - Nếu còn có ngày mai Windmills of the Gods (1987) - Sứ giả của thần chết The Sands of Time (1988) - Cát bụi thời gian Memories of Midnight (1990) - Ký ức lúc nửa đêm The Doomsday Conspiracy (1991) - Âm mưu ngày tận thế The Stars Shine Down (1992) - Sao chiếu mệnh Nothing Lasts Forever (1994) - Không có gì là mãi mãi Morning, Noon and Night (1995) - Sáng, trưa và đêm The Best Laid Plans (1997) - Kế hoạch hoàn hảo Tell Me Your Dreams (1998) - Hãy kể giấc mơ của em The Sky is Falling (2001) - Bầu trời sụp đổ Are You Afraid of the Dark? (2004) - Bạn có sợ bóng tối? (Bóng tối kinh hoàng) Kịch Rehead (1957) Dream of Jeannie (1967). Phim The Bachelor and the Bobby Soxer Easter Parade Annie Get Your Gun, Jumbo và Anything Goes *** Năm 1919, chiến tranh thế giới lần thứ Nhất vừa kết thúc được hai năm. Detroit thuộc bang Michigan được coi là một trong những thành phố công nghiệp phát triển nhất nhì toàn cầu. Không còn lo cung cấp xe tăng, máy bay cho các đồng minh tận châu Âu xa xôi, nay các hãng xe hơi của Detroit chỉ còn tập trung sản xuất, nâng cao, hoàn thiện sản phẩm chính của mình để nhanh chóng sau đó, mỗi ngày, hàng ngàn chiếc xe được xuất xưởng, chở tới khắp thế giới, nơi người tiêu dùng khao khát nó. Ngược lại, hàng vạn lao động từ khắp nước Mỹ, khắp cả châu Âu, đổ xô đến Detroit. Ai cũng hy vọng tràn trề song không phải ai cũng toại nguyện. Paul Templarhaus và vợ là Frieda, dân Đức, cũng nằm trong số hy vọng đó. Đang học nghề tại một lò mổ ở Muchen, anh lấy vợ, lấy luôn hồi môn của vợ để di cư sang New York, để mở hàng bán thịt và để...lỗ vốn. Rời New York nhưng không rời nghề bán thịt, anh dắt vợ đến St.Louis, đến Boston và rồi đến Detroit, song ở đâu cửa hàng anh cũng lỗ hơn là lãi. Điều đó thật khó hiểu, vì ở vào thời kỳ kinh tế phát triển, nhu cầu ăn ngon, nhất là cứ bốc hơi đi? Anh khó hiểu chứ Frieda, vợ anh, thì biết thừa. Thực ra, chồng chị chỉ lo làm thơ chứ đâu chịu lo làm ăn. Ngồi trước bàn thịt mà đầu óc anh chỉ quẩn quanh với câu với chữ, với ý với tứ chứ nào đâu với miếng thăn miếng đùi và nhất là với chuyện mời chào khách bỏ tiền ra mua. Không một tờ báo hay nhà xuất bản nào chịu mua thơ của anh, ngược lại, những người máu thịt của anh thì đông vô kể nhưng không ai chịu trả tiền, vì anh luôn sẵn sàng cho họ chịu. Đến nỗi người ta đồn thổi khắp mấy con phố, lan ra cả ngoại ô, rằng, muốn không mất tiền song lại muốn có thịt ăn thì cứ việc đến cửa hiệu Paul Templarhaus. Frieda chưa từng biết tới đàn ông trước khi Paul cầu hôn cô. Mà nói là anh cầu hôn với cha cô mới đúng, và lập tức được cả cha lẫn con đồng ý, nhất là ông già lại đang lo rằng cô con gái sẽ sống bám lấy mình suốt đời, thậm chí ông còn tặng thêm hồi môn, ngoài số đã định trước đó, để hai vợ chồng sớm xa chạy cao bay, nghĩa là di dân, mà với ông, càng xa càng cao thì càng tốt. Còn Frieda? Paul đâu biết vừa thấy anh cô đã yêu liền. Đã bao giờ cô được gặp nhà thơ, thậm chí một người thích làm thơ? Ngoại hình anh thì cô mê tít, bởi nó vô cùng phù hợp với người tình trong mộng mà đêm vẫn luẩn quẩn bên cô. Anh hơi gầy, mắt cận thị màu xanh nhạt, tóc thưa, nói năng e dè... nghĩa là theo cô, rất trí thức, rất nhà thơ. Vợ chồng dắt nhau sang New York cô mới dám tin thiên- tài- đẹp- trai này thực sự là của mình. Cô biết mình, nếu không bị nhìn là xấu xí thì cũng chẳng ai coi là đẹp đẽ gì, ngoài đôi mắt xanh biếc lanh lợi như vay mượn của ai đó, còn lại cô thừa hưởng toàn bộ cái xấu xí của họ hàng hang hốc nội ngoại nhà cô. Nào mũi to, trán dô, cằm bạnh...nào thân hình ục ịch...nào dáng đi lật bật...Con tim, Paul cũng như bất kể ai không mù, đều dễ dàng nhận ra những cái xấu đó, vậy sao anh vẫn cầu hôn cô? Có phải vì là nhà thơ nên anh tinh tường hơn người đời, nhìn ra được bao vẻ đẹp của cô ẩn náu bên trong cái vẻ ngoài xấu xí đó? Cô đâu biết, tuy không phải dân đào mỏ, cũng chẳng là kẻ thực dụng, song với Paul, điều hấp dẫn lớn nhất ở cô vợ có vẻ ngoài xấu xí đó chính là đống của hồi môn kia. Anh hy vọng, thậm chí tin tưởng, nhờ nó mà bằng cách này hay cách khác, anh sẽ thoát khỏi đám lòng, tiết, gân, xương nơi lò mổ, có cửa hàng riêng, có đủ tiền sinh sống và toàn tâm toàn ý với Nàng Thơ của mình. Frieda, kể từ hôm nhận được lời cầu hôn của Paul, đã tưởng tượng, đã thêu dệt ra bao mộng vàng của đêm tân hôn. Nơi họ đến nghỉ tuần trăng mật thì tuyệt rồi: ngôi nhà nhỏ ven hồ năm trong một khu thành cổ, lại ở giữa rừng, giữa đồng cỏ mênh mông. Thế rồi, cô hình dung, Paul sẽ ôm cô, miệng thì thầm lời yêu, tay lần cởi váy áo. Rồi anh sẽ hôn cô, thoạt tiên ở môi, ở cổ, rồi có thể cả ở tai, cô hy vọng thế. Sau đó, môi anh sẽ lướt dần xuống vai xuống ngực cô, ngậm thật lâu vào vú cô, rồi lướt khắp thân thể trần truồng của cô, nhẹ nhàng, mơn man, y hệt trong những cuốn sách mà cô đã vụng trộm đọc. Thế rồi anh khẩn khoản, như âu yếm, nhờ cô cởi bỏ giúp quần áo của anh. Tất nhiên cô cứ để anh nài nỉ, mãi sau mới chịu nghe. Cô đã bào giừo giúp ai việc đó mà bảo làm ngay được? Rồi cô sẽ thấy cái gì? Chả gì cả ngoài cái con vật của anh thẳng đơ và vênh vang như cán cờ Đức quốc xã. Nghe nới là đau lắm thì phải. "Nó" như thế kia cơ mà? Và anh sẽ nói gì với cô trước khi làm đau cô nhỉ? Anh khen người cô đẹp, hay giảm đơn như cánh lò mổ, "người cô nhiều thịt"? Chắc anh không đơn giản vậy đâu. Anh là nhà thơ kia mà. Chả có gì giống như cô tưởng tượng hoặc thêu dệt hoặc hình dung cả. Tối đến, ăn no xong, hai người vào phòng ngủ - cô phải tự đi vào vì không thấy anh tỏ ý muốn bế, như sách tả- và trong khi cô đang hồi hộp chờ đợi những gì tiếp theo thì anh đã lăn luôn ra chiếc giường tân hôn sau khi vội vội vàng vàng cởi bỏ quần áo. Anh nằm đó, dang chân dang tay, phô ra thân hình gày gò, bộ ngực lép kẹp và...cái của nợ kia nhỏ tí, ẽo uột ẩn sau đám lông lá, như xấu hổ. Chỉ thấy anh nhìn mình như chờ đợi, Frieda hiểu rằng mình sẽ phải tự cởi bỏ váy áo, tự leo lên giường chứ chẳng có ai sẽ hay dẫn. Cô thở dài, vừa thả váy xuống vừa tự nhủ, to nhỏ đâu quan trọng gì, với lại mình cần tình yêu của anh chứ đâu cần cái đó nhỏ hay to...Hãy chờ những gì anh sắp nói với mình đây. Anh sẽ thủ thỉ...sẽ bày tỏ. Nhưng anh chẳng hé một lời,dù to hay nhỏ. Cô vừa hồi hộp đặt mình xuống giường, còn chưa kịp nhích sát lại gần anh thì đã bị anh đẩy vai cho nằm ngửa ra để anh ngã sấp lên bụng cô, nhét cái đó vào, rồi sau vài lần nhấp nhô cô thấy anh rên khẽ, rùng mình khẽ và lăn xuống bên cô. Tất cả là vậy ư? Chả lẽ nó đã kết thúc khi cô còn tưởng nó chưa bắt đầu? Thực ra, chuyện đó với Paul chỉ là vấn đề giải quyết nhu cầu của phần "con" chứ không phải phần "người", và xưa nay anh cũng chỉ làm việc đó với đám gái điếm nhung nhúc ở Muchen. Theo thói quen, anh nhổm dậy móc ví định trả tiền thì chợt nhớ từ nay mình làm chuyện này sẽ không phải tốn một xu nào cả. Trong khi Frieda còn chưa hết ngơ ngác thì Paul đã ngáy nhè nhẹ. Anh ngủ, mặt vô tư như đứa trẻ. Cô quyết không khóc, tự nhủ, mấy ai vừa ý ở ngay lần đầu. Rồi anh sẽ khác. Rồi anh sẽ là người chồng tuyệt vời về mọi mặt chứ không riêng tình dục. Vả lại, tình dục đâu phải là quan trọng nhất với mình... Song càng ngày Frieda càng thất vọng hơn về Paul. Là vợ thì phải nghe lời chồng, cô chấp nhận, nhưng cô đâu có ngu ngốc để không thấy, dù muộn, những bài thơ của anh dở toẹt mặc anh mỗi ngày thêm lao tâm khổ tứ vì nó, và cũng vì nó mà anh sống như kẻ mộng du, đôi khi cứ như thằng ngớ ngẩn. Và quan trọng hơn nữa là vì cái ả thơ ấy mà đống hồi môn của cô cứ ngày một vơi dần. Khi hai vợ chồng chuyển tới Detroit thì Frieda không chịu đựng thêm được nữa. Sắp trắng tay rồi. Hôm đó, sau khi rà soát số hồi môn ít ỏi còn lại, cô lẳng lặng bước vào cửa hàng thịt của Paul, lẳng lặng chiếm giữ quầy thu tiền, để rồi từ đó không rời nó ra nữa. Không bán chịu, đó là biện pháp đầu tiên của cô. Paul hoảng hồn, nhưng đau chỉ có thế. Frieda tìm mọi cách quảng cáo chất lượng thịt tuyệt hảo của cửa hàng và kèm theo đó là tăng giá ở những món buộc phải tăng, và ngược lại. Bây giờ thì đã nhìn thấy đồng tiền đi vào chứ không chỉ nom thấy miếng thịt đi ra, như trước. Lãi nhỏ kéo theo lãi lớn. Việc buôn bán cứ khấm khá dần lên. Từ lúc nào chẳng biết, Frieda trở thành người ra lệnh còn Paul cứ răm rắp làm theo. Quen đi, ngày một ngày hai đã biến cô trở thành độc đoán, chuyên quyền, không chỉ ở cửa hàng thịt mà còn ở việc đầu tư tiền nong vào đâu, nên sống ở vùng nào và mùa hè này nghỉ tại đâu thì tốt nhất. Rồi cả việc chăn gối nữa. Giờ thì Paul đừng mong chỉ thoả mãn phần "con" của mình còn vợ ra sao thì mặc. Bây giờ chính Frieda là người quyết định làm chuyện đó, mặc Paul khoẻ hay yếu, có hứng hay không. Cái việc này bỗng trở nên khủng khiếp với Paul khi Frieda quyết định sẽ có con chỉ trong vòng một năm, không thể muộn hơn. Cô buộc chồng phải thực hiện bằng được việc làm tình trong những ngày có nhiều khả năng thụ thai, mặc Paul có hôm mệt đến phát ốm, mà là ốm thật chứ không phải vờ để trốn tránh. "Cho vào!", cô ra lệnh. Paul quấn cái đó của anh quanh ngón tay. "Mềm như sợi dây thế này thì cho vào đâu?". Frieda vẫn tảng lờ như điếc. Mấy tháng sau anh được tạm nghỉ vì đã hoàn thành sứ mệnh. Anh thích có con gái nhưng vợ anh thì ngược lại. Vì vậy, chẳng mấy ai quen biết họ tỏ ra ngạc nhiên khi thấy Frieda sinh con trai. Ngày lâm bồn, Frieda chịu tốn tiền để mời bằng được bà đỡ đến nhà vì không muốn sinh con tại bệnh viện. Khi đứa trẻ cất tiếng khóc, ao nấy xúm quanh đều trợn mắt ngạc nhiên khi nhìn nó. Chẳng phải nó dị dạng hay thừa gì, thiếu gì. Song, giữa hai đùi nó, cái ở đứa trẻ khác người ta gọi là chim thì ở đây, nếu tạm so sánh, phải gọi là đại bàng. Bởi nó to quá khổ. Bố nó nằm mơ cũng chẳng được như thế. Không hiểu sao Frieda lại kiêu hãnh nghĩ vậy. Tên nó là Tobias. Do Frieda đặt, tất nhiên. Paul đòi dạy bảo thằng bé. Chuyện học hành, chữ nghĩa anh giỏi hơn cô. Vả lại, dạy dỗ con trai là việc của ông bố mà. Không phản đối, song Frieda không mấy khi để hai bố con ngồi riêng với nhau. Chính là cô, vừa nuôi vừa dạy nó, bằng những món ăn vừa ngon vừa bổ, và bằng những mệnh lệnh rắn như sắt thép. Lên năm tuổi, Toby cao nhưng gầy đến thảm hại, đôi mắt xanh biếc như của mẹ, luôn có vẻ đăm chiêu. Nó vừa yêu vừa sợ mẹ, mong ngóng được mẹ ôm ấp để có thể dụi sâu đầu vào ngực mẹ. Nhưng Frieda quá ít thời gian cho việc nựng nịu con, bởi còn lo kiếm tiền nuôi cả nhà. Phần khác, cô yêu con, tất nhiên, nhưng quyết không để nó lớn lên uỷ mị, yếu đuối như bố. Vì vậy, tình mẫu tử của Frieda được thể hiẹn bằng những mệnh lệnh cứng rắn, những đòi hỏi khe khắt về kết quả của mỗi công việc mà Toby thực hiện, dù là việc học hành ở trường hay việc mẹ giao ở nhà. Cô ít khi khen con, ngược lại, phạt nhiều hơn, nhưng có lẽ thế lại tốt cho Toby, cô nghĩ. Có một linh tính nào đó mách bảo, ngay giây phút đầu tiên ôm con vào lòng, khiến cô tin chắc sau này nó sẽ nổi danh thiên hạ. Cụ thể ra sao thì cô không biết nhưng cô chắc chắn nó phải như thế, và cô còn luôn nói với con, nhắc nhở con, khiến Toby dường như lớn lên cùng với niềm tin của mẹ. Và Toby biết, một khi mẹ đã muốn là phải được.   ... Mời các bạn đón đọc Người Lạ Trong Gương của tác giả Sidney Sheldon.
Không Có Gì Mãi Mãi - Sidney Sheldon.
Sách Nói Không Có Gì Mãi Mãi   Câu chuyện là cuộc đời của 3 nữ bác sỹ trẻ cùng làm việc tại một bệnh viện lớn ở San Fancisco, và khát vọng mãnh liệt của họ... Nữ bác sĩ Paige Taylor. Cô đã thề đó là cái chết không đau đớn, nhưng khi Paige được thừa hưởng một triệu đô la từ một bệnh nhân, thẩm phán gọi đó là một vụ giết người. Bác sĩ Kat Hunter. Cô đã thề không bao giờ để cho người đàn ông nào lại quá gần mình - cho đến khi cô chấp nhận thách thức một vụ cá cược chết người. Bác sĩ Honey Taft. Để làm việc trong y khoa, cô biết mình sẽ cần một cái gì đó còn hơn cả là người giỏi nhất mà Chúa Trời đã cho cô. “Không có gì mãi mãi” chạy đua từ những quyết định sống còn của một bệnh viện lớn ở San Francisco cho đến sự nóng hổi đầy căng thẳng của một phiên tòa xét xử vụ giết người. Nó sắp đặt những tham vọng và nỗi sợ hãi của những người chữa bệnh và những kẻ giết người, lòng ti tiện và sự hào hiệp của kẻ phản bội và những người yêu nhau… Khi câu chuyện lên đến cao trào, hướng tới đỉnh điểm không thể đoán trước, Sidney Sheldon lại một lần nữa chứng minh rằng không độc giả nào có thể thắng được một bậc thầy của sự kiện bất ngờ. *** Sidney Sheldon, tác giả của nhiều cuốn tiểu thuyết thuộc hàng Best-selling được người đọc Việt Nam yêu thích như "Nếu còn có ngày mai", “Âm mưu ngày tận thế”, "Thiên thần nổi giận"... Warren Cowan, một trong những cố vấn của Sheldon cho biết nhà văn từ trần vào chiều ngày 30/12 tại Bệnh viện Eisenhower ở Rancho Mirage (Mỹ) vì bệnh viêm phổi. Vợ ông, bà Alexandra, con gái Mary Sheldon đồng thời cũng là một nhà văn, đã có mặt bên cạnh Sheldon trong lúc lâm chung. Cowan xúc động nói: “Tôi đã mất một người bạn lâu năm và thân thiết nhất. Trong suốt những năm tháng được làm việc cùng Sheldon, tôi chưa bao giờ nghe thấy ai đó nói một từ không hay về ông”. Sidney Sheldon từng có thời gian làm việc tại Hollywood và là tác giả của nhiều kịch bản phim nhựa và phim truyền hình nổi tiếng. Tuy nhiên, bước sang 50 tuổi, tức là vào khoảng những năm 1967, ông lại chuyển sang viết tiểu thuyết và nổi tiếng với hàng chục tác phẩm ăn khách nhất hành tinh, được dịch sang nhiều thứ tiếng khác nhau trên toàn thế giới. Những cuốn sách của Sheldon, như “Thiên thần nổi giận”, “Phía bên kia nửa đêm”, “Nếu còn có ngày mai” đã khiến tên tuổi của nhà văn Mỹ luôn tồn tại trong lòng bạn đọc. Ông là một nhà văn có tài thực thụ. Bằng cách viết và diễn tả tình tiết câu chuyện rất ly kỳ với giọng văn hóm hỉnh nhưng đầy trí tuệ, những tác phẩm của Sheldon thường nói về những nhân vật thành đạt, nổi tiếng nhưng không có thật và thường là phụ nữ. *** Tiểu thuyết The Naked Face (1970) - Lộ mặt The Other Side of Midnight (1973) - Phía bên kia nửa đêm A Stranger in the Mirror (1976) - Người lạ trong gương Bloodline (1977) - Dòng máu Rage of Angels (1980) - Thiên thần nổi giận Master of the Game (1982) - Bậc thầy của trò chơi If Tomorrow Comes (1985) - Nếu còn có ngày mai Windmills of the Gods (1987) - Sứ giả của thần chết The Sands of Time (1988) - Cát bụi thời gian Memories of Midnight (1990) - Ký ức lúc nửa đêm The Doomsday Conspiracy (1991) - Âm mưu ngày tận thế The Stars Shine Down (1992) - Sao chiếu mệnh Nothing Lasts Forever (1994) - Không có gì là mãi mãi Morning, Noon and Night (1995) - Sáng, trưa và đêm The Best Laid Plans (1997) - Kế hoạch hoàn hảo Tell Me Your Dreams (1998) - Hãy kể giấc mơ của em The Sky is Falling (2001) - Bầu trời sụp đổ Are You Afraid of the Dark? (2004) - Bạn có sợ bóng tối? (Bóng tối kinh hoàng) Kịch Rehead (1957) Dream of Jeannie (1967). Phim The Bachelor and the Bobby Soxer Easter Parade Annie Get Your Gun, Jumbo và Anything Goes *** SAN FRANCISCO Mùa xuân - 1995 Chưởng lý quận Carl Andrew đang cáu kỉnh: - Chuyện chết tiệt gì thế này? - ông ta nói. - Ba bác sĩ sống chung phòng và làm việc trong cùng một bệnh viện. Một người khiến cho bệnh viện suýt phải đóng cửa, người thứ hai giết bệnh nhân vì một triệu đô- la, còn người thứ ba thì lại bị giết. Andrew ngừng lại, hít một hơi rõ dài: - Mà lại rất là đàn bà! Ba con mụ bác sĩ trời đánh! Báo chí đãi đằng chúng cứ như những danh nhân. Nào Chương trình 60 phút. Nào thì phóng sự đặc biệt của Barbara Walters. Tôi không thể cầm một tờ báo hay tạp chí nào lên mà không phải nhìn ảnh hay đọc bài viết về chúng. Chẳng mấy đâu, rồi Hollywood sẽ tung ra một bộ phim biến ba con mụ này thành những nữ kiệt? Tôi sẽ chẳng ngạc nhiên nếu Chính phủ trưng mặt các ả lên tem bưu điện như Presley vậy. Ôi, lạy Chúa, thật chịu hết nổi! - Ông ta giáng một quả đấm xuống bức hình người đàn bà in trên bìa tạp chí Time. Dòng tít viết: "Bác sĩ Paige Taylor - Thiên thần từ bi hay đồ đệ của ác quỷ?" - Bác sĩ Paige Taylor, - giọng ông chưởng lý quận đầy ghê tởm. Ông ta quay sang Gus Venable, viên chánh công tố. - Tôi giao vụ này cho anh đấy, Gus. Tôi muốn kết án. Tội sát nhân. Phòng hơi ngạt. - Đừng lo, - Gus Venable trầm giọng, - cứ để nó cho tôi. Ngồi trong phòng xử án nhìn bác sĩ Paige Taylor, Gus Venable nghĩ: Cô ta lẩn tránh toà. Rồi ông ta tự cười mình. Không ai có thể lẩn tránh được toà. Cô ta dáng cao, thon thả, với đôi mắt nâu huyền nổi bật trên gương mặt nhợt nhạt. Một người quan sát thờ ơ chắc chỉ xem cô ta như một loại đàn bà quyến rũ. Người tinh ý hơn mới nhận thấy còn những điều khác. Đó là tất cả những giai đoạn khác nhau trong cuộc đời cùng tồn tại trong cô ta. Nét hớn hở vui tươi của đứa bé thêm vào vẻ băn khoăn e lệ của tuổi hoa niên và sự khôn ngoan, nỗi đau khổ của đàn bà. Có một vẻ ngây thơ nơi cô ta. Cô ta là cô gái mà một người đàn ông có thể lấy làm hãnh diện dẫn về giới thiệu với cha mẹ mình, Gus nghĩ mỉa mai, nếu cha mẹ anh ta hợp gu với những tên giết người máu lạnh. Có một nét gì xa xăm, gần như huyền bí trong mắt cô ta, một vẻ gì đó nói lên rằng bác sĩ Paige Taylor đã lùi sâu vào nội tâm, tới một thời gian khác, một nơi chốn khác, xa khỏi phòng xử án lạnh lùng, cằn cỗi, nơi cô ta đã bị đẩy vào. Phiên xử diễn ra tại Toà Công lý San Francisco tôn nghiêm, cổ kính trên phố Bryant. Nơi đặt toà án tối cao và nhà tù tiểu bang là một công trình trông đầy hăm doạ, cao bảy tầng, bằng đá vuông, xám xịt. Khách đến dự phiên toà được lùa qua một dãy hành lang kiểm soát điện tử. Trên gác, tầng ba, là phòng xử án. Trong phòng 121, nơi xét xử những vụ giết người, ghế quan toà tựa sát mặt tường chính diện, đằng sau là lá cờ nước Mỹ. Bên trái là chỗ ngồi của bồi thẩm đoàn, chính giữa đặt hai bàn được ngăn bằng lối đi, một bàn dành cho luật sư bên nguyên, bàn kia dành cho luật sư bên bị. Phòng xử án đã chật ních phóng viên và đầy ắp loại khán giả say mê dự các phiên toà xử tai nạn giao thông trên đường cao tốc và tội giết người. Trong các phiên xử tội giết người, đây là vụ hấp dẫn nhất. Chỉ riêng Gus Venable, luật sư công tố, cũng đáng để xem rồi. Ông ta to cao lừng lững, với bờm tóc xám, chòm râu dê, và cung cách lịch lãm của một điền chủ miền Nam, mặc dù ông chưa bao giờ ở miền Nam cả. Ông có vẻ mặt ngơ ngác vô tư và bộ óc của một cỗ máy tính. Nhãn hiệu của ông ta, đông cũng như hè là bộ complê trắng khoác ngoài chiếc sơ- mi cổ hồ cứng đã lỗi thời. Alan Penn, luật sư của Paige Taylor, là sự tương phản với Venable, một con người rắn chắc, năng nổ, lừng danh bới tài gỡ tội cho các thân chủ của mình. Hai luật sư này không bao giờ thiếu cơ hội để đối mặt nhau trước toà án và quan hệ của họ là sự nể trọng nhau miễn cưỡng và ngờ vực nhau hoàn toàn. Venable ngạc nhiên khi thấy Alan Penn đến gặp ông vào tuần trước khi phiên xử bắt đầu. - Hãy cảnh giác với những tay thầy cãi có tài. - Anh đang mưu tính chuyện gì thế, Alan? - Nghe đây, tôi chưa bàn với thân chủ của tôi, nhưng giả sử, chỉ giả sử thôi, tôi có thể thuyết phục cô ta nhận tội để xin giảm án và đỡ cho nhà nước một khoản án phí, thì sao? - Anh định thương lượng với tôi đấy à, Alan? - Gus Venable với tay xuống bàn giấy, lục lọi - Chẳng thấy cuốn lịch chết tiệt của tôi đâu cả. Hôm nay ngày bao nhiêu nhỉ? - Mùng 1 tháng Sáu. Sao? - Khoan nào, tôi cứ tưởng phải là Giáng sinh cơ đấy nếu không anh đã chẳng hỏi xin một món quà như vậy. - Gus… Venable nhoài người về phía trước. - Anh biết không, Alan, bình thường thì tôi có thể bị anh thuyết phục rồi đấy. Nói thật, bây giờ tôi khoái đi câu ở Alaska hơn. Nhưng câu trả lời là không. Anh biện hộ cho một tên sát nhân tàn nhẫn đã vì tiền mà giết một người bệnh bất lực. Tôi đề nghị án tử hình. - Tôi nghĩ cô ta vô tội, và tôi… - Không, anh không nghĩ thế đâu. Và không ai có thể làm cho bất cứ ai nghĩ như thế. Trường hợp rõ mười mươi rồi. Khách hàng của anh tội lỗi như Cain 1 vậy. - Chưa đâu, chừng nào bồi thẩm đoàn chưa kết tội. - Họ sẽ, - Gus để một khoảng lặng, - họ sẽ kết tội thôi. Sau khi Alan Penn ra về, Gus Venable ngồi nghĩ lại về cuộc đối thoại vừa xảy ra. Việc Penn đến gặp ông là một dấu hiệu của sự thất bại. Penn hẳn đã hiểu mình ít có cơ thắng nổi vụ này. Venable nghĩ về những chứng cớ không thể chối bỏ mà ông đang nắm cùng các nhân chứng ông sẽ gọi ra thẩm vấn và ông thấy hài lòng. Không còn nghi ngờ gì nữa, bác sĩ Paige Taylor sẽ vào phòng hơi ngạt. .. Mời các bạn đón đọc Không Có Gì Mãi Mãi của tác giả Sidney Sheldon.
Bầy Chó Riga - Mankell Henning
“Bầy chó Riga”, cuốn sách thứ ba trong series truyện trinh thám của Henning Mankell, nhà văn trinh thám nổi tiếng Thụy Điển đã được Nhã Nam cho ra mắt bạn đọc Việt Nam. Nếu là người yêu thích truyện trinh thám, chắc chắn bạn đã biết đến Henning Mankell qua hai tác phẩm trước đây của dịch giả Cao Việt Dũng:  “Tường lửa” cuối năm 2006 và “Chậm một bước” giữa năm 2007.  Kể từ khi “Tường lửa”, tác phẩm đầu tiên của Henning Mankell - tác giả trinh thám hàng đầu Bắc Âu được Nhã Nam giới thiệu ở Việt Nam đến nay đã 4 năm, thời gian quá dài để chờ đợi một món quà quý giá. Tôi nhớ khi cho ra mắt “Tường lửa”, Nhã Nam đã thông báo cả ba tiểu thuyết hay nhất của Henning Mankell viết về thanh tra Kurt Wallander đã được Cao Việt Dũng chuyển ngữ và sẽ sớm ra mắt. Vậy mà phải mất gần 4 năm chúng ta mới tiếp tục được đón nhận thêm một luồng hơi thở mới của dòng văn trinh thám Bắc Âu... Nói như vậy để bạn thấy, tôi đã mong mỏi cuốn sách “Bầy chó Riga” này như thế nào. Thanh tra Kurt Wallander và các cộng sự phải đối mặt với một vụ án khá hóc búa: điều tra về cái chết của hai người chưa rõ tung tích trên một chiếc xuồng cứu hộ trôi dạt vào bờ biển Mossby Strand, Thụy Điển. Khi Wallander bắt đầu hướng mũi điều tra đến các nước Đông Âu thì ông nhận được thông tin từ Latvia. Thiếu tá Liepa, một quan chức cao cấp trong ngành cảnh sát của nước này được cử đến Thụy Điển để hỗ trợ công tác điều tra. Thời gian ngắn ngủi Liepa lưu lại Thụy Điển không ngờ cũng là lần gặp gỡ cuối cùng của Wallander với viên thiếu tá cận thị gầy gò nhưng để lại cho ông nhiều thiện cảm. Cái chết của Liepa do bị ám sát ngay sau khi quay về nước lại chính là nguyên nhân đưa Wallander lần đầu tiên đến với Latvia, đến với thủ đô Riga, nơi mà sau đó xảy ra rất nhiều biến cố không chỉ trong việc điều tra vụ án này mà còn cả với đời sống tình cảm của Wallander. *** Sống tại Thụy Điển thanh bình, Wallander hoàn toàn xa lạ với Latvia, nước láng giềng có chế độ chính trị đang trong giai đoạn chuyển mình mạnh mẽ của những năm 1991-1992. Như tác giả bộc bạch trong phần Tái bút: “Đối với nhà văn, tự thân việc viết ra một cuốn sách với cốt truyện diễn ra trong một bối cảnh xa lạ là rất phức tạp”... Nhưng chính điều này đã cho thấy tài năng vượt bậc của tác giả Henning Mankell. Xuyên suốt trong gần 400 trang sách, bạn sẽ rất hồi hộp và nôn nóng muốn ngay lập tức cùng nhân vật chính, thanh tra Wallander nhanh chóng đi hết hành trình của cuộc điều tra. Cuốn sách không dàn xếp những tình huống giật gân, gay cấn; không đi sâu vào miêu tả chi tiết vụ án, cũng không kể lại tỉ mỉ những tội ác gây kinh hoàng, nhưng tác giả Henning Mankell đã hoàn toàn lôi cuốn người đọc. Và đây chính là thành công nhất của một tác giả trinh thám. Khác với hai cuốn sách trước mà bạn đọc đã biết, vụ án này diễn ra chủ yếu tại Riga, thủ đô của Latvia.  Tại đây, mặc dù ngôn ngữ bất đồng, hoàn toàn không có cộng sự và không có bất cứ mối liên hệ nào để có thể dẫn đường, chỉ với sự giúp đỡ của Baiba Liepa, vợ của thiếu tá Liepa và những người khác, bằng kinh nghiệm và tài năng Wallander đã dần dần vén tấm màn bí ấn xung quanh cái chết của viên thiếu tá đáng kính và hai kẻ xấu số được phát hiện tại bờ biển Mossby Strand, nơi khởi đầu của vụ án này. Cuộc điều tra ngoài phạm vi Thụy Điển đã góp phần phơi bày thực trạng hỗn loạn của xã hội Latvia đang trong cơn chuyển mình; sự lũng đoạn, tha hóa của ngành cảnh sát khi những người nắm giữ chức vụ quan trọng của bộ máy an ninh lại bị đồng tiền thao túng hay trở thành kẻ hai mang, phục vụ cho những mục đích chính trị riêng… Diễn biến khám phá vụ án cũng đồng hành cùng diễn biến tâm lý của Wallander. Bạn sẽ được chia sẻ những suy nghĩ, cảm xúc của nhân vật trong những tình huống cân não, hay đôi khi chỉ là những suy nghĩ miên man, những độc thoại về cuộc sống và hạnh phúc, sự đối diện với cái chết, với cuộc sống nhàm chán...  Trải qua một trong những sự kiện lớn lao, nguy hiểm nhất từng xảy ra trong cuộc đời, nhưng khi vụ án được khám phá, Wallander lại không được hưởng niềm vui chiến thắng. Tại Riga, trái tim tưởng như băng giá của ông được sưởi ấm bởi Baiba Liepa, vợ góa của người đồng nghiệp Latvia - người phụ nữ ngay từ lần gặp đầu tiên đã khiến ông không thể quên. Chẳng có một “kết thúc có hậu” nào bởi cuối cùng người phụ nữ ấy, rốt cục, có lẽ cũng chỉ là giấc mơ hạnh phúc của Wallander.  Gấp lại cuốn sách tuyệt vời này, tôi không thể không đặt ra một câu hỏi cho dịch giả Cao Việt Dũng và Nhã Nam: vụ án của “Bầy chó Riga” xảy ra 6 năm trước vụ án của “Tường lửa”, nơi mà bạn đọc Việt Nam đã được làm quen với thanh tra Wallander, với nỗi buồn cô đơn nhớ nhung Baiba Liepa của nhân vật chính. Có lý do nào giải thích cho sự hoán đổi thứ tự này không nhỉ? Phải chăng đây là chủ ý của dịch giả: để cho bạn đọc trước hết được làm quen với Wallander, người lúc nào cũng cô đơn và buồn bã, sau đó chúng ta mới được biết ông đã làm quen với người phụ nữ này như thế nào...   Dù thế nào chăng nữa, chắc chắn “Bầy chó Riga” và “Tường lửa”, “Chậm một bước” sẽ là món quà quý giá giành cho các bạn yêu sách. *** Bầy chó  Riga, cuốn thứ hai trong series tiểu thuyết trinh thám về Thanh tra Kurt Wallander, là nơi viên cảnh sát Thụy Điển gặp những sự việc và con người sẽ còn ám ảnh suốt phần đời còn lại của ông. Một lần hiếm hoi ra khỏi thành phố nhỏ bé của mình để nhận lấy một nhiệm vụ không ai hay biết, không đồng sự và không có chi viện, Wallander lúng túng trong nỗ lực xoay xở tại một đất nước vùng Baltic đang trong cơn chuyển mình hỗn loạn. Chỉ có thể dựa vào khả năng suy đoán, Wallander lần mò đi tìm một bằng chứng tưởng chừng như không tồn tại nhưng lại có tầm quan trọng đặc biệt với tương lai cả một đất nước. Và trên hành trình đầy sợ hãi ấy, ông đã gặp một người kể từ nay giữ một vị trí không thể phai mờ trong đời sống tình cảm của ông: Baiba Liepa. Bộ sách về Kurt Wallander đã khiến Henning Mankell đến với độc giả của trên 30 thứ tiếng, mang lại rất nhiều giải thưởng văn học (trong đó có giải Gold Dagger, giải The Glass Key, giải Gumshoe…); nhiều cuốn đã được dựng thành phim điện ảnh và phim truyền hình tại nhiều nước.  *** “Lối viết kiệm lời, cách xây dựng nhân vật tài tình, bầu không khí sôi sục và sự gay cấn lúc nào cũng mạnh mẽ.” - The Times Literary Supplement “Một câu chuyện về giới cảnh sát đầy lôi cuốn và suy tư, không cho người đọc buông sách xuống ngay từ trang đầu tiên.” - Irish Independent “Một câu chuyện đầy ắp văn hóa địa phương… Cốt truyện đủ chất bất ngờ, Wallander, như vẫn luôn luôn vậy, làm người ta rối trí và rất mực sắc sảo.” - Los Angeles Times Book Review Mời các bạn đón đọc Bầy Chó Riga của tác giả Mankell Henning.