Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cái Chết Từ Trên Trời - James H. Chase

Truyện hình sự với khá nhiều án mạng, hung thủ là một ông trùm xã hội đen. Nhân vật chính diện là cảnh sát Conrad, lần này không phải là một anh hùng hào hoa đẹp trai với các cô nàng vây quanh, cũng không phải là một tay thám tử cừ khôi bách trận bách thắng. Nữ chính là nạn nhân, được nam chính bảo vệ nhưng không yêu nam chính. Vì không phải nam chính bách trận bách thắng nên kết thúc là không bảo vệ được nữ chính. Nàng chết. Hung thủ không bị bắt. Và kẻ chiến thắng là một tên sát thủ cừ khôi. *** Tiếng chuông điện thoại réo gắt vào lúc Janey Conrad đang bước vội xuống cầu thang. Cô mặc chiếc áo dạ hội vừa may màu xanh da trời, kiểu mới nhất. Tiếng chuông khiến cô dừng phắt lại, nét mặt đang hân hoan vụt trở nên cau có, thay đổi thật đột ngột như khi ta bấm vào một nút điện. Cô cất giọng lạnh lùng và bình tĩnh thường có vào lúc nổi giận. — Paul, chớ có trả lời! Chồng cô từ phòng khách bước ra. Anh khoảng ba mươi lăm tuổi, cao lớn và rắn chắc, mặc bộ smoking, tay cầm chiếc mũ dạ mềm. Lúc Janey mới quen, cô ngạc nhiên thấy anh giống kép James Stewart quá chừng và chính vì thế mà cô đồng ý lấy anh. — Nhưng anh phải trả lời, biết đâu họ cần đến anh, - anh nói với giọng dịu dàng kéo dài. Paul bước về phía điện thoại và cầm ống lên. Anh mỉm cười với vợ và giơ tay ra dấu im lặng. — Alô! — Paul đấy à? Bardin đây! Câu nói của viên thanh tra vang lên trong tai Paul và vọng ra ngoài khoảng im vắng của phòng chờ. Vừa nghe được giọng nói đó, Janey nắm chặt tay lại. Bardin tiếp: — Anh phải nhập cuộc rồi. Một cái lò sát sinh nơi biệt thự “Ngõ Cụt” của June Arnot. Xác ngập đến cổ, trong đó có cả nàng tiên kiều diễm June. Trời ơi! Một vụ sôi động! Bao lâu thì anh đến được? Conrad nhăn mặt và liếc nhìn Janey. Anh thấy bước chân cô cứng nhắc tiến về phía phòng khách. Anh nói: — Được rồi, tôi đến ngay. — Tốt. Tôi sẽ không để ai đụng chạm gì trước khi anh đến. Tôi cần anh trước khi bọn nhà báo nhao nhao đến quấy rầy. — Tôi đi ngay, - Conrad nhắc lại rồi cúp máy. — Cứt! - Janey nói nhỏ. Cô đứng trước lò sưởi quay lưng về phía anh. — Xin lỗi Janey, anh phải đi ngay. — Cứt! Cứt! - Janey nói mà không lên giọng. - Lúc nào cũng chỉ có chừng ấy chuyện thôi, với mấy thằng khốn thám tử của anh. — Nào! Janey. Thật đáng tiếc nhưng biết làm sao. Anh hứa là tối mai sẽ đưa em đi. Janey nghiêng mình về phía trước và vung tay gạt văng mớ đồ đạc, ảnh lồng khung, cả cái đồng hồ trên mặt lò sưởi. Conrad nhào vào phòng. — Janey! Đủ rồi! — Anh đi đi! - Janey vẫn một giọng trầm lặng. (Cô nhìn hình Conrad trong gương, mắt sáng lên vẻ thù ghét). - Anh cứ chơi cái trò bắt cướp đi. Không cần phải lo đến tôi nhưng đừng hy vọng thấy tôi lúc trở về. Từ nay về sau, tôi sẽ đi chơi một mình. — Này Janey, June Arnot vừa bị ám sát đấy. Anh phải đến đó ngay. Em nghe đấy, mai anh sẽ dẫn em đi đến nhà hàng Quốc Tế. Chịu không? — Chừng nào mà còn cái điện thoại chết tiệt trong phòng thì chúng ta không thể nào còn đi chung với nhau được nữa, - Janey nói giọng chua chát. - Paul, tôi cần tiền. Anh nhìn cô: — Nhưng mà, Janey... — Tôi muốn lấy tiền ngay tức khắc! Nếu anh không đưa thì tôi mang đồ đi cầm và chắc chắn không phải là thứ của tôi đâu. Conrad nhún vai. Anh lấy tờ 10 đôla đưa ra. — Được rồi, Janey. Nếu em quyết định như thế thì... Sao em không gọi điện cho Beth? Đi chơi một mình thật là ngốc. Janey cất tiền, ngước mắt nhìn anh rồi quay lưng đi. Conrad hoảng kinh khi nhận ra ánh mắt của vợ thật dửng dưng. — Anh chớ lo cho tôi. Cứ việc lo tới cái vụ giết chóc quái quỉ này đi. Một mình tôi cũng đủ rồi. Conrad định nói nhưng kịp ngừng lại. Một khi cô tỏ thái độ như thế thì khó mà nói chuyện phải trái được. Anh bình tĩnh hỏi: — Em đi đâu, tiện đường xe anh... — Ồ! Đi cho khuất mắt, - Janey chận lại và bước ra phía cửa sổ. Conrad mím chặt môi, bước ra ngoài phòng chờ, đẩy cửa lớn và đi nhanh về phía xe. Trong lúc lướt mình ngồi vào sau tay lái, anh cảm thấy một mối lo âu đến nghẹn lời. Anh không chịu chấp nhận dẫu biết rằng giữa anh và Janey đang nảy sinh rạn nứt. Hai người lấy nhau bao lâu rồi? Anh nhíu mày và ấn vào nút phát động xe. Gần ba năm thôi. Năm thứ nhất thật êm đẹp. Nhưng vào lúc đó anh chưa phải là điều tra viên chính thức của phòng Biện lý. Anh làm việc theo giờ giấc và tối nào cũng có thể đi chơi với Janey được. Khi anh được lên chức, cô đã rất hân hoan. Chỉ một sớm một chiều, lương anh tăng gấp đôi và hai vợ chồng rời căn hộ ba gian ở đường Wentworth để dọn đến căn nhà xinh xắn bungalow ở đất Hayland trong một khu sang trọng. Nhưng rồi Janey không còn hài lòng khi nhận thấy anh có thể bị gọi đi bất cứ sớm tối. Cô nói: — Anh là điều tra viên chính thức mà cứ hùng hục làm như một tên cớm hạng bét. — Nhưng anh là thám tử, thám tử đặc biệt cho biện lý cục khi xảy ra vụ việc quan trọng, lẽ tất nhiên anh phải có mặt, - Conrad kiên nhẫn giải thích với vợ như thế. Lúc đầu thì Paul không cho những lời cằn nhằn ấy là quan trọng vì mấy cú điện thoại bất ngờ làm hỏng cuộc vui buổi tối, nếu cô giận thì cũng là tự nhiên thôi. Tuy thông cảm nhưng Conrad vẫn mong cô vợ biết điều hơn. Nhưng Janey không chịu. Các vụ cằn nhằn ấy chuyển dần qua cãi vã lớn tiếng làm anh đâm ngán. Nhưng đây là lần đầu tiên Janey đòi anh đưa tiền để đi chơi tối một mình. Hơn bao giờ hết, Conrad lo ngại về tình hình mới xuất hiện này, Janey nom ngon mắt quá, đi chơi một mình không được. Conrad biết tính vợ mình dễ nhẹ dạ sinh chuyện. Có nhiều lúc vô ý, cô thốt những lời lẽ khiến anh biết trước kia cô đã từng qua những thời kỳ sống buông thả. Anh đã quyết không coi quá khứ của cô là quan trọng nhưng bây giờ khi nhớ lại những lời vợ kể vanh vách những cuộc vui, tên một vài người bạn cũ mà cô vung ra trong những lúc tức giận, anh lại thấy hơi khó chịu và cứ tự hỏi không biết cô có lại tìm thú đi hoang nữa không. Janey chỉ mới 24 tuổi, luôn luôn đòi hỏi, mà anh thì cái việc chăn gối chỉ ở mức trung bình. Với đôi mắt lá răm, mái tóc vàng óng, làn da nõn nà, chiếc mũi thon dài, Janey có thể quyến rũ bất cứ gã đàn ông nào. — Thật cứt! - Conrad thở dài lặp lại lời của vợ mà không hay biết. Và anh mở máy. *** Ba năm nay, June Arnot là một ngôi sao màn bạc lừng danh và tiếng đồn cô ta là người giàu nhất Hollywood. Cô cho xây một tòa nhà lộng lẫy trên ngọn đồi, cách thành phố Pacific vài cây số và cách Hollywood khoảng mười lăm cây số. Đây là một dinh thự sang trọng, kiêu sa mà June Arnot với tính hài hước sẵn có, đặt tên nó là “Ngõ Cụt”. Conrad dừng xe trước ngôi nhà nhỏ của người gác cổng có dây nho chằng chịt. Khách đến thăm phải ghi tên ở đây trước khi bước trên một lối đi dài cả cây số mới tới biệt thự. Bóng hình to bè của thanh tra Sam Bardin thuộc đội hình sự vụt hiện lên giữa bóng tối. Thấy Conrad, ông nói: — À, ông tá! Chẳng cần phải nôn nóng như thế. Cả đời anh chỉ có mỗi việc này mà thôi. Conrad mỉm cười: — Tôi đang định đi chơi với bà xã. Rồi đây cả tuần nhà tôi biến thành địa ngục cho mà xem. McCann có ở đây không? — Rủi quá, anh ta đi San Francisco rồi, mai mới về. Chuyện lộn xộn lắm, may mà có anh, Paul ạ. Chúng tôi cần một tay thiện nghệ mới mong giải quyết được vụ này. — Ta bắt đầu ngay đi. Anh kể xem anh biết những gì. Rồi sau đó, ta đi liếc sơ qua một chút. Bardin lấy khăn tay thấm mồ hôi trên khuôn mặt to tướng đỏ bầm và hất chiếc mũ ra sau. Ông ta to con, nặng nề, lớn hơn Conrad 11 tuổi nghĩa là khoảng 45. — Lúc 8 giờ rưỡi, chúng tôi nhận được một cú điện thoại của Harrison Hedor, ông bạn của cô Arnot. Ông có hẹn làm việc với cô ta tối nay. Khi đến nơi, ông thấy cánh cổng sắt mở ra. Lạ đấy vì thường thường là cửa khóa kỹ. Ông bước vào nhà người gác cửa, thấy hắn lạnh tanh với một viên đạn bắn vào đầu. Ông bốc điện thoại ở đấy gọi vào nhà nhưng không thấy ai trả lời. Tôi đoán là ông ta đã hoảng lên. Nhưng ông nói với chúng tôi là không dám vào sâu trong nhà và vội gọi chúng tôi. — Bây giờ ông ta ở đâu? — Đang ngồi trong xe tìm cách lại hồn bằng whisky, - Bardin toét miệng cười. - Tôi không có thì giờ hỏi kỹ ông ta nên bảo ngồi yên đó. Tôi đi xem xét. Năm người giúp việc đều bị hạ sát bằng một viên đạn. Tôi tưởng cô Arnot ở đâu đó vì có hẹn nhưng cô ta không có mặt trong nhà. - Ông rút bao thuốc mời Conrad và lấy cho mình một điếu - Tôi thấy cô nơi hồ tắm. (Ông nhăn mặt) - Có kẻ nào đấy tò mò mổ bụng cô ta coi chơi và cắt béng cái đầu không biết dùng để làm gì. Conrad gừ gừ: — Đó là hành động của một kẻ mất trí. Bây giờ thì sao? — Nhân viên đang làm việc trong nhà và nơi hồ tắm. Nếu có gì tìm được thì họ sẽ tìm ra. Anh có muốn đi một vòng ngó qua không? — Có chứ! Anh chàng y sĩ có thể cho ta biết giờ chính xác không? — Lão đang lo vụ đó. Tôi đã dặn lão chớ xê dịch cái xác chết trước khi anh đến. Chắc lão sẽ cho ta biết ngay. Bây giờ ta vào nhà người gác. Conrad theo ông ta vào một căn nhà nhỏ có cái bàn, cái ghế, cái divan đệm và bàn điện thoại. Trên bàn có quyển sổ ghi chép người đến thăm đang được mở ra. Người gác mặc đồng phục xanh ôliu, giày bốt đánh vécni, nằm gập mình trên bàn, đầu loang trong một vũng máu đỏ bầm. Hắn bị bắn đúng giữa mặt. Conrad nhìn vào quyển sổ. Bardin nhạo: — Không chắc có ghi tên sát nhân trong đó. Với lại người gác biết mặt hắn nên mới mở cổng. Conrad nhìn trang giấy còn trắng một nửa: «15 giờ. Ông Jack Belling, đường Lennox số 3 Có hẹn. Cô Rita Strange, 14 Crown Court. Có hẹn. 19 giờ. Cô Frances Coleman. 145 đường Glendale.…» — Anh nghĩ sao? - Conrad hỏi. - Cô gái Coleman này có mặt ở đây sát với giờ xảy ra vụ tàn sát. Bardin nhún vai: — Chẳng biết. Lúc nào có thì giờ chúng ta sẽ dò hỏi. Nếu cô ta dính dấp gì đến vụ này thì đã xé ngay tờ giấy cho mất tang tích rồi. — Đúng vậy, trừ phi cô ta quên. Bardin phác một cử chỉ sốt ruột. — Được rồi, ta đi. Anh còn cả đống việc phải làm. Lên xe thôi. Đến khúc quanh thứ hai thì chậm lại. Người làm vườn bị giết ở đó. Conrad lái xe trên con đường viền những cây cọ khổng lồ và những cây nhỏ nở hoa. Khoảng 300 mét, Bardin báo trước: — Ngay chỗ quanh. Họ dừng bên một chiếc xe đậu sát đường. Bác sĩ Holmès và hai người nội trú mặc áo blu trắng cùng một cặp cảnh sát viên, vẻ mặt chán nản đang tụ tập trước xe, lưng quay phía đèn pha. Conrad và Bardin tấp vào nhóm, vây quanh một ông già Tàu mặt mày nhăn nheo nằm ngửa, các ngón tay màu vàng trông như các vuốt, co quắp người vì hấp hối. Phía trước chiếc áo blu xanh nhuộm một màu đỏ. Bác sĩ lên tiếng: — Chào Conrad. Anh đến xem trò tàn sát đấy à? — Chỉ thăm sơ qua thôi, - Conrad nói. - Lão chết bao lâu rồi? — Khoảng một tiếng rưỡi, không hơn. — Nghĩa là sau 7 giờ? — Gần gần như thế. — Cùng một vũ khí như với người gác? — Có thể. Tất cả đều bị giết bởi một khẩu 45. - Ông bác sĩ nhìn Bardin - Tôi thấy như là một công trình của một tay nhà nghề, ông thanh tra ạ. Tay đó thạo việc lắm. Bắn một phát là đủ rồi. Bardin thốt ra tiếng càu nhàu: — Như thế thì chẳng biết gì nhiều. Khẩu 45 mà bắn thì không ai thoát dù người bắn là dân nhà nghề hay tay mơ. — Ta lên nhà đi, - Coniad nói. Chiếc xe chở họ tới biệt thự sau ba phút. Đèn đã bật sáng khắp các phòng. Hai người cảnh sát gác cửa vào. Conrad và Bardin bước lên các bậc thềm vào khách sảnh nhỏ rồi bước xuống vào giữa nhà đến một sân trong lát gạch hoa. Các gian phòng quây ba mặt sân. Thanh tra O'Brien người cao nhưng gầy, mắt sắc, mặt đầy tàn nhang, từ phòng khách bước ra. Ông ta gật nhẹ đầu với Conrad, Bardin hỏi: — Anh tìm được gì không? — Chỉ có đầu đạn thôi, chẳng có dấu tay nào. Hình như kẻ sát nhân xộc vào giết hết rồi ra ngay không chạm vào vật gì cả. Conrad đến chân cầu thang ngước mắt nhìn lên. Ở các bậc cấp trên cao là xác một cô xẩm Trung Hoa. Cô mặc một áo ngắn trong nhà màu vàng, quần lụa có ren, màu xanh sẫm. Một vệt đỏ gớm ghiếc giữa hai bả vai. Bardin nói: — Hình như cô ta đang chạy trốn thì bị phơ. Anh muốn lại gần xem không? Conrad lắc đầu. Bardin nói tiếp: — Tang vật số 3 ở phòng khách. Ông dẫn Conrad vào một gian phòng bề thế, có bàn ghế, trường kỷ bọc da, đủ sức chứa từ ba mươi đến bốn mươi người. Gần cánh cửa ra vườn, người quản gia của June Arnot ngồi dưới đất, gập mình, lưng dựa vào thảm lót tường. Ông ta cũng bị một phát vào đầu. Bardin hỏi: — Anh muốn xem ở nhà bếp không? Còn hai người nữa ở đấy. Một đầu bếp Trung Hoa và một Philippines. Họ định chạy ra cửa nhưng không kịp. — Thôi đủ rồi, - Conrad nói. - Nếu có gì phải tìm thì nhân viên của anh sẽ thấy. — Ý kiến thâm thúy đấy. Ok! Ta xuống hồ tắm. Ông bước ra ngoài hành lang rộng. Trăng tròn đã lên tuôn làn sáng lạnh gắt xuống biển. Khu vườn thơm ngát hương hoa, một đài phun nước bóng loáng đằng xa tạo nên khung cảnh thần tiên. — Cô ta ưa thích ánh sáng và màu sắc phải không, - Bardin vừa nói vừa tiến về phía hồ tắm. - Nhưng cũng chẳng tới đâu. Kết quả cuộc đời phải nói là thê thảm: Đầu bị cắt, bụng bị phanh. *** Phía cầu nhảy cao 12 mét có mặt bác sĩ Holmès, hai người nội trú, một thợ ảnh và bốn cảnh sát viên. Họ đang nhìn về phía giữa hồ. Nước ở đó nhuộm màu đỏ tím, còn lại là một màu xanh tuyền. Khi Conrad và Bardin bước tới chỗ lát gạch xanh vây quanh hồ tắm, Bardin nói: — Tôi nhìn thấy một lần rồi và không muốn thấy lần thứ hai nữa. Họ họp với đám người kia dưới cầu nhảy. Bardin vung tay tiếp tục chỉ: — Trông kìa! Paul nhìn tấm thân trần truồng, bị cắt đầu, nổi bập bềnh. Bụng anh như thắt lại trước cảnh man rợ ấy. Anh quay mặt đi, hỏi: — Cái đầu ở đâu? — Tôi để nguyên chỗ đã tìm thấy. Trên bàn phòng mắc áo mũ. Anh muốn nhìn qua không? — Thôi cảm ơn. Có chắc là June Arnot không? — Chắc. Conrad quay sang bác sĩ Holmès. — Được rồi, ông thầy, tôi thấy đủ rồi. Ông bắt đầu công việc được đấy. Ông gửi bản sao báo cáo cho tôi chứ? Bác sĩ Holmès gật đầu. Bardin nói: — Này các bạn, móc cô ta lên. Chú ý nhẹ tay một chút. Ba người cảnh sát ngán ngẩm bước tới. Một người giơ cây sào tìm cách móc cái xác nổi. Conrad nói: — Trong lúc chờ đợi, ta đi nói chuyện với Fedor. Anh cho người gọi ông ta tới đây. Mọi người đi về phía ngôi nhà cùng với Conrad. Bardin hỏi: — Này, anh nghĩ thế nào? — Có vẻ như tay đó là khách quen nhà này. Đầu tiên là do người gác để hắn vào. Sau nữa hắn hạ sát tất cả gia nhân vì sợ bị nhận diện. — Trừ phi đó là một tên điên nổi cơn. — Nếu thế thì người gác không cho hắn vào. — Cũng có thể thế, tùy theo kẻ kia nói với người gác gì đó. Khi họ vào nhà, hai người cảnh sát vừa bước qua ngưỡng cửa, khiêng một cái cáng có phủ chăn lên xác người. Một anh cớm nói: — Hết rồi, sếp. Dọn sạch trơn. Bardin gừ gừ bước lên bậc cấp rồi xuống sân. — Theo anh thì Fedor không can gì vào đấy phải không? - Conrad ngồi xuống ghế hỏi. — Hắn không thuộc típ người làm nổi việc này. Cho dù đúng là hắn thì cũng phải có một cớ thật lạ. Vì cô ta là khách hàng duy nhất đã đem lại cho hắn một gia tài kha khá. — Một phụ nữ như cô ta tất phải có cả đống kẻ thù, - Conrad duỗi dài chân ra nói. - Kẻ nào làm cái cú này chắc phải nóng mũi lắm. — Hình như cô ta có liên hệ với khá nhiều kẻ không tốt, - Bardin đưa ra nhận xét. - Theo người ta nói, cô ta dính dấp với đủ thứ chuyện bê bối. Anh có nghe người ta đồn đại cô ta là bạn gái của Jack Maurer không? Conrad sững người chú ý. — Không, bạn gái là thế nào? Bardin mỉm cười: — Tôi nghĩ là anh nghe thì chú ý ngay. Tôi không có bằng cớ nhưng tiếng đồn thì nhiều. Cô ta không khoe nhưng người ta nói hai người là nhân tình nhân bánh của nhau. — Tôi muốn biết rõ chuyện này. Loại hành động như thế này đúng là gu của Maurer rồi. Hắn đủ sức tàn ác để xuống tay. Anh còn nhớ cú tàn sát hai năm trước đây không? Bảy người sắp hàng sát chân tường và thế là liên thanh bắn tằng tằng. — Chuyện đó không có gì chắc là của Maurer, - Bardin thận trọng nói. — Thế còn ai nữa? Bọn đó lấn quyền ông trùm, vậy là ông trùm xơi tái là có lý thôi. — Ông cảnh sát trưởng không tin. Ông ta nghĩ rằng đó là băng Jacobi đem trút tội cho Maurer. — Ông ta biết tôi nghĩ gì về cái luận cứ tồi tệ ấy rồi. Đúng là của Maurer và vụ này thì cũng có thể là của lão nữa... — Anh gầm gừ Maurer dữ quá, - Bardin nhún vai nói. - Chắc anh khoái thấy lão chui vô hộp lắm. — Không phải bị còng số 8 mà thôi đâu, - Conrad nói với vẻ hung dữ bất chợt. - Tôi muốn thấy lão lên ghế điện kia! Thằng chó chết ấy sống lâu quá rồi! Một cảnh sát viên bước vào sân. — Fedor đến rồi, sếp. Conrad và Bardin cùng đứng lên. Harrison Fedor, ông bầu của June Arnot đi tưng tưng bước vào sân. Đó là một con người mảnh dẻ, có cái nhìn sắc và trầm lặng, miệng như cái bẫy chuột chù và má hõm. Ông ta chộp lấy bàn tay Conrad lắc mạnh. — Ngọn gió lành nào đưa ông đến đấy? June có mạnh khỏe không? — Ngược lại thế kia, - Conrad bình thản trả lời - Cô ta bị giết rồi, cả đám gia nhân. — Trời! - Fedor nuốt nước miếng, mặt xịu xuống rồi gượng đến ngồi nơi chiếc ghế mây và nói tiếp. - Ông bảo cô ta chết rồi à? — Còn hơn là chết nữa! — Lạy Chúa! - Fedor giở nón ra và luồn các ngón tay vào mớ tóc lưa thưa. - Chết à? Khó tin quá! Ông ta nhìn sững Bardin rồi nhìn Paul. Cả hai không nhúc nhích, chờ đợi. — Lại bị giết! Yên lặng một chút, Fedor nói tiếp: — Chuyện chi lạ! Không biết tôi nên khóc hay nên cười đây? — Thế nghĩa là gì? - Bardin lầu bầu, mặt mày bất mãn. Fedor nhếch mép cười. — Ông không hiểu vì ông không làm việc với cô ta trong 5 năm như tôi. - Ông ta đứng lên, lấy ngón tay chỉ vào Bardin. - Tôi mà khóc được thì cứ treo cổ tôi lên. Có thể là tôi mất nồi cơm nhưng đỡ được gánh nặng. Con điếm ấy làm tôi đến mụ người. Có tôi thì không có nó, nó làm tôi nhức nhối vô cùng. Các ông không thể biết tôi phải chịu đựng như thế nào với con đĩ ấy. — Có ai đấy đã cắt đầu cô ta, - Conrad thong thả nói. - Rồi như chưa hả giận, hắn lại còn mổ bụng moi phèo ruột ra. Ông có biết ai có thể làm như thế không? — Cắt đầu! Trời ơi! Để làm gì vậy? — Cũng với lý do như mổ bụng: Kẻ đó thù hận cô ta. Ông có biết ai tức giận đến mức tàn ác như thế không? Fedor vụt ngoảnh mặt đi. — Không, tôi không biết. Trời! Báo chí biết chưa? — Không, họ chưa biết chừng nào mà tôi chưa tìm được gì chắc chắn để tiến hành công việc, - Bardin càu nhàu nói. - Này, nếu ông có biết ai có lý do làm như thế thì nên khai ra với chúng tôi. Hồ sơ sếp gọn nhanh chừng nào thì tốt chừng ấy cho mọi người, kể cả ông đấy. Fedor lưỡng lự rồi nhún vai: — Ông nói có lý. Ralph Jordan là thằng bồ hiện nay của cô ta. Tuy nhiên gần đây họ lại gấu ó nhau dữ dội. Cuộn phim hắn quay với June là cuốn cuối cùng. Hãng điện ảnh Thái Bình Dương phải xé hợp đồng với hắn. Họ chịu không nổi hắn nữa. — Tại sao vậy? - Conrad đốt thuốc hỏi. — Hắn phi cần sa sáu tháng nay rồi. Một khi hắn phê thì không gì ngăn hắn quậy. — Sao thế? — Hắn nổi điên - Fedor rút khăn tay thấm mồ hôi mặt. - Khoảng hơn tuần nay, hắn nổi lửa đốt sạch một phim trường. Và tuần qua, khi Laird tổ chức dạ hội nơi hồ tắm của ông ta, hắn làm trò nho nhỏ khiến Laird phải mất sạch tiền để dập tắt chuyện này. Jordan kiếm đâu ra được một chai axít đem rẩy vào áo tắm của các cô, thế là cả hơn ba mươi minh tinh nổi danh cứ tô hô như nhộng. Ban đầu chúng tôi còn khoái cười chí tử và được dịp rửa mắt nhưng sau thấy rằng cái chất lơ mơ đó không chỉ làm cháy áo tắm mà còn làm phỏng da nữa. Năm cô nàng phải vào bệnh viện, tình trạng thật thê thảm. Sáng hôm sau Laird xé hợp đồng với hắn. Conrad và Bardin nhìn nhau. Bardin gợi ý: — Tôi nghĩ là ta phải gặp ông bạn thích đùa dai ấy mới được. — Nhưng xin ông đừng nói tôi khai ra, - Fedor nằn nì. - Tôi đã khốn khổ về mấy chuyện ấy lắm rồi. — Ngoài Jordan, ông còn thấy ai có thể làm vụ này không? - Conrad hỏi. Fedor lắc đầu. — Không, phần lớn bạn hữu của June chẳng tốt đẹp gì nhưng chơi cái mảng này thì còn rét lắm. — Có phải là cô ta và Jack Maurer ngủ với nhau không? Fedor vội cúi mặt nhìn hai bàn tay. — Tôi không biết chuyện này. Conrad nhìn Bardin. — Thật kỳ diệu phải không? Hễ nghe đến tên Maurer là ai cũng nín khe. Hình như thằng cha đó không có trên cõi đời này. — Xin ông chớ phiền, - Fedor vụt chen vào. - Nếu biết chuyện gì thì tôi nói ngay, về Maurer thì tôi chỉ đọc trên báo chí thôi. — Cứ ca cái điệu ấy mãi, - Conrad chán nản nói. - Lúc nào gặp may, không biết chừng tôi sẽ tìm được một tay gồng mình không sợ Maurer lắm và biết được một chút gì đó. Nhưng có cái chán là chẳng biết khi nào. — Chớ nóng. Ông ta nói không biết thì hẳn là không biết thôi. - Bardin nói. Thanh tra O’Brien bước xuống sân. — Sếp, tôi có chuyện muốn nói. Bardin nắm tay ông ta đi vào phòng khách. Paul nói với Fedor: — Ông cứ ở đấy đi, - rồi anh theo hai người kia. — O’Brien tìm được súng lục rồi, - Bardin nói, nét mặt u ám của ông lúc này có dáng hân hoan. Ông giơ lên một khẩu súng 45 tự động. - Xem này! Conrad quan sát khẩu súng. Trên báng có khắc hai chữ viết tắt R.J, anh hỏi O’Brien: — Anh tìm ra ở đâu vậy? — Giữa bụi cây, cách cổng sắt khoảng 30 mét. Cá với anh trăm bạc là đúng rồi. Hết đạn, mới tác xạ không lâu và là một khẩu 45. — Tốt hơn là nên đi kiểm chứng, Sam ạ. Bardin gật đầu đưa khẩu súng cho O’Brien. — Mang về sở và đối chiếu với các đầu đạn anh vừa tìm được. - Rồi ông quay sang Conrad. - Chuyện trẻ con phải không? Có vẻ dễ dàng quá mà. Jordan chắc phải có chuyện nói với cánh ta. Đi chứ? *** Theo Fedor thì Ralph Jordan có một căn hộ trong chung cư ở đường Roosevelt. Hắn ta ở đấy không lâu sau khi June Arnot tống hắn ra khỏi biệt thự ở Hollywood và dù hắn còn giữ ngôi nhà sang trọng ở Beverley Hills nhưng hiếm khi hắn sống ở đó. Conrad ghé xe đậu vào một góc tối. Anh chú ý đến một chiếc Cadillac đen chui nửa thân trong nhà để xe. — Lái xe bạt mạng thật! Anh bước tới có Bardin theo sau. Cánh trái của chiếc Cadillac đâm vào vách làm vỡ miếng đèn pha nát vụn. Bardin mở cửa xe nhìn vào tấm thẻ đồng. — Đúng rồi. Xe của Jordan. Hắn sắp chết một cửa tứ rồi. — Ít ra là ta cũng biết chắc hắn đang có ở nhà, - Conrad nói. Rồi anh bước vào cửa, đẩy cánh cửa xoay, theo sát là Bardin. Một nhân viên to mập, hồng hào trắng trẻo, đôi tay nhỏ, trắng đặt trên chiếc bàn tiếp khách, ngước mắt kênh kiệu nhìn. — Ông cần gì? Bardin chồm tới trước, nhíu mày, nói oang oang. Khi muốn gây khó dễ thì ông cũng đủ sức để trả đũa. Tiếng ông rít lên: — Thanh tra Bardin. Cảnh sát thành phố. Jordan có ở đấy không? Hai bàn tay nhỏ nhúc nhích. — Chắc ông muốn hỏi về Ralph Jordan? Vâng, ông ta có ở đấy. Các ông muốn gặp? — Hắn về nhà lúc nào? — Sau 8 giờ một chút. — Lúc đó hắn có bình thường không? — Tôi không lưu ý. — Hắn ra đi khi nào? — Khoảng sau 6 giờ. — Hắn ở trên lầu chót phải không? — Thưa phải. — Được rồi. Chúng tôi lên đó. Anh muốn giữ sức khỏe thì chớ mó vào điện thoại. Tôi đến thăm bất ngờ đấy. Trên đó có ai ở cùng với hắn không? — Tôi không biết. Bardin đi thẳng đến thang máy bước vào. — Như vậy là hắn ra đi lúc 6 giờ, trở về 8 giờ, thừa đủ thì giờ để đến “Ngõ Cụt” làm điều cần làm. — Nên coi chừng hắn, - Conrad nói khi cửa thang máy khép kín. - Nếu nó cần hận thù thì nguy hiểm đấy. — Hắn không phải là tên điên đầu tiên tôi va chạm và chắc cũng không phải là tên cuối cùng. Khốn thật! Bardin ngừng lại trước cửa căn hộ. — Kìa! Cửa mở. Ông bấm chuông, đợi một lát rồi lấy chân đá cánh cửa mở toang, liếc mắt nhìn vào phòng chờ. Trước mặt là một cánh cửa khép hờ. Bardin đẩy ra, bên trong là một phòng khách lớn, đèn sáng choang. Ông rống lên làm rung cửa kính. — Ê! Có ai ở trong nhà không? Sự im lặng trả lời thật nặng nề và ngột ngạt, lạnh tanh. Hai người nhìn nhau. Bardin nói: — Ồ, anh có nghĩ là hắn nấp ở đâu đó không? — Có thể hắn ra phố rồi. — Lão dưới kia không nói mà! — Ta ghé mắt vào một tí đi. Conrad bước vào một gian phòng, gõ cánh cửa phía trái. Anh xoay tay nắm thấy một gian phòng lớn. Cũng không có ai. Họ mở cửa phòng tắm. Chưa bao giờ họ trông thấy một cảnh bài trí sang trọng đến thế nhưng họ chỉ chú ý ngay đến cái bồn tắm. Ralph Jordan nằm dài ra đó, đầu gập xuống ngực, mình mặc chiếc áo choàng màu cặn rượu vang, khoác ngoài bộ đồ ngủ xanh nhạt. Trên bờ bồn tắm và phần trước áo hắn có loang màu đỏ. Hắn nắm trong tay một lưỡi dao cạo có cán, máu loang như vệt mực trên tranh vẽ. Bardin sờ tay Jordan. — Lạnh như một khúc thịt bò bỏ tủ đá. Ông nắm tóc Jordan lôi đầu hắn lên. Gonrad nhăn mặt khi nhìn thấy vết thương mở toác ra, sâu đến tận một động mạch bị cắt tiện đứt đôi. Bardin lùi lại. — Đấy, thật đúng như tôi nói: Một vụ việc quá đơn giản. Hắn đến đằng kia giết cô gái rồi trở về nhà tự cắt cổ. Hắn có ý tứ lắm. Càng dễ cho tôi làm việc. - Ông hút thuốc phà khói vào mặt người chết. — Tôi nghĩ là bác sĩ có việc làm suốt đêm đấy. Conrad loanh quanh trong phòng tắm, anh tìm thấy một con dao cạo điện. — Lạ là sao hắn lại có dao cạo tay. Đời bây giờ phải chạy quanh mới lùng kiếm được thứ này và tôi không nghĩ là Jordan lại có nó trong nhà. — Anh chớ làm rối lên. Có lẽ hắn dùng để cắt chai chân, lưỡi dao đa dụng mà. Ông đẩy một cánh cửa và thấy một tủ áo thật đầy đủ sang trọng. Conrad đang bước qua phòng bỗng ngừng lại. — Sam, cho anh xem cái này chắc anh phởn lắm - Anh chỉ một vật dính máu nằm trên đất. Bardin bước lại gần. — Trời đất! Con dao phạng. - Ông quì xuống gần con dao lưỡi nhọn. - Cam đoan đấy là vũ khí giết người. Đủ để cắt cổ ai đó và mổ bụng như anh kéo fermeture vậy. — Bộ anh không thấy làm lạ là một gã như Jordan lại có một con dao rừng Nam Mỹ như vậy sao? Bardin ngồi chồm hổm. — Có lẽ hắn mang về làm kỷ niệm. Cam đoan là hắn có đi Nam Mỹ hay Antilles, chắc là Antilles thôi. Nhất định đúng là tang vật và dám đưa đầu cá với anh là máu dính ở đấy đúng là máu của June Arnot. Conrad lật qua lại áo quần vắt trên ghế. — Quần áo không có vết máu. Tại sao cắt đầu người khác lại không dính máu. — Ui, được rồi, - Bardin nóng nảy kêu lên. - Anh đâu có cần vặn vẹo từng li từng tí như thế. Có thể hắn mang áo khoác hay một thứ gì tương tự như vậy. Đâu có gì là quan trọng. Đối với tôi như thế là đủ rồi. Anh không chịu sao? — Tôi không biết, - Conrad nhíu mày. - Mọi sự gọn ghẽ quá nên tôi ngờ là một cuộc xếp đặt. Khẩu súng lục có chữ đầu tên Jordan, cái xe bị bẹp dúm, Jordan tự vẫn và bây giờ là vũ khí giết người được tìm thấy. Đẹp quá nên khó tin là thực. Theo tôi thì có chuyện gì đó xộc xệch trong này. — Chuyện không ăn khớp là vì anh tận tâm quá, - Bardin nhún vai trả lời. - Thôi hết chuyện rồi. Tôi tin thì Cảnh sát trưởng cũng tin. Anh cũng sẽ đồng ý như thế nếu trong đầu không bị ám ảnh bởi ý muốn đưa Maurer lên ghế điện. Phải không? Conrad trầm ngâm gãi gãi cánh mũi. — Có lẽ thế. Ok! Chắc là tôi xong việc rồi. Anh muốn tôi đưa anh về Sở không? — Tôi ở đây để gọi họ tới. Tôi muốn nhân viên lục lọi hết trong nhà này. Ngay sau khi cắt đặt xong công việc, tôi sẽ trở về “Ngõ Cụt” rồi thông báo cho báo chí. Anh về nhà à? Conrad gật đầu. — Hên thật! Không làm việc đêm, một căn nhà ấm cúng, nàng tiên bên cạnh. Sao, bà Conrad mạnh khỏe chứ? — Ồ, chắc là mạnh thôi, - Conrad trả lời mà buồn bã nhận ra rằng mình không thấy có hứng khởi. *** Conrad len qua các đường nhỏ để tránh các rạp cinema vừa vãn xuất hát. Anh lo lắng không biết Janey có thực hiện lời dọa đi chơi một mình và đã về chưa. Anh tấp xe để đốt thuốc. Khi ném que diêm qua cửa kính, anh đọc thấy tên bảng đường: Thông lộ Glendale. Mãi tới khi đến đầu đường, anh mới nhớ là cô gái có tên Frances Coleman đến thăm June Arnot lúc 7 giờ tối đã ghi địa chỉ số 145 Thông lộ Glendale. Anh vụt ghé sát lề và ngồi một lúc nhìn qua kính che gió con đường vắng và buồn. Bác sĩ Holmès đã nói June Arnot chết khoảng 7 giờ. Cô gái này có thể thấy được gì không? Anh bước xuống xe tiến đến số 145. Đây là một chung cư tồi tàn. Có vài cửa sổ còn sáng ánh đèn. Qua cánh cửa kính lối ra vào, Conrad nhìn thấy một tiền sảnh đèn mờ và một cầu thang tối thui. Đủ thứ mùi vị xông lên: Mùi tỏi phi, nước đái mèo và rác rưởi phân hủy. Anh hất ngược mũ, nhíu mày bước vào đến trước dãy hộp thư đặt sát tường. Hộp thư của cô Coleman sếp hàng thứ ba, cô ở lầu 3. Conrad lội bộ lên thang gác. Một tấm thiếp trắng ghi tên cô ghim vào cửa. Conrad định gõ cửa nhưng nhận thấy cửa mở hé. Anh gõ cửa, đợi một lúc rồi lùi lại, thủ thế. Tối hôm nay anh đã trông thấy sáu xác chết thê thảm, ghê gớm rồi. Gáy anh lạnh ngắt. Anh đốt thuốc nhưng nhận thấy tay mình không run. Anh mỉm cười, nghiêng mình tới, đẩy cửa nhìn vào bóng tối. — Có ai đấy không? Không có tiếng trả lời. Một sự yên lặng chập chờn cùng với một mùi hoa thuốc phiện California. Conrad bước tới mò mẫm tìm công tắc. Anh nín thở bật đèn và cứ tưởng nhìn thấy điều tồi tệ: nhưng thật ra không có xác chết, không có máu, không có thứ vũ khí giết người nào hết... đấy chỉ là một căn phòng nhỏ với chiếc giường sắt, tủ commos, vài cái ghế và chiếc tủ lớn. Trông thật sơ sài như chiếc giường đóng đinh của ông fakir Ấn Độ. Conrad đứng yên một lát rồi mở cửa tủ: không có gì hết. Anh gãi gáy rồi bước ra. Trên tường nơi tiền sảnh có bảng: Gác dan ở tầng hầm. “Nào có mất mát gì!” Anh nghĩ. Anh bước xuống một thang gác dơ bẩn tối om. — Có ai không? Cửa mở và ánh đèn làm anh chói mắt. Một giọng nói êm dịu, mơn trớn phát ra: — Không có phòng cho thuê đâu. Conrad nhìn vào. Một người to béo mặc áo ngắn, ngồi sau bàn. — Anh có một căn hộ trống trên lầu 3 phải không. Cô Coleman vừa dọn đi à? — Ai nói với ông thế? — Tôi vừa mới lên trên ấy. Phòng trống trơn. — Ông là ai? Conrad lên giọng: — Cảnh sát! Ông to béo nhăn mặt. — Cô ta đi vào lúc nào? - Conrad nghiêm giọng hỏi. — Tôi không biết cô ta đã dọn đi. Buổi sáng vẫn còn. Thế là may, tôi đỡ phải trục xuất cô ta vào sáng mai này. — Tại sao? — Thì cũng bấy nhiêu chuyện đó. Chưa trả tiền thuê ba tuần. — Anh biết gì về cô ta? Cô ta ở đấy từ bao giờ? — Độ một tháng nay. Hình như là một diễn viên phụ cinema. Cô ta không tìm được việc ở Hollywood. Cô thật ngoan. Tôi mà có con gái thì mong nó được như cô ta. Ăn nói mềm mỏng, người xinh, tính tình trầm lặng, thật là có giáo dục. - Ông nhún vai. - Nhưng lại không có tiền. Mấy con người khá thì lại không kiếm ra tiền. Tôi đã khuyên về quê đi nhưng cô ta không nghe. Cô ta nói rằng sáng nay trả tiền cho tôi. Chắc lại không kiếm ra chứ gì. — Chắc vậy, - Conrad nói. Anh bỗng cảm thấy mỏi mệt vô cùng. Một cô phụ diễn đang thất nghiệp lại đến thăm June Arnot thì có mục đích nào khác hơn là hỏi vay tiền. Loại cô ta chắc không qua được nhà người gác. Khó tin rằng June Arnot chịu tiếp cô ta. Anh nhìn đồng hồ, đã quá nửa đêm. — Cảm ơn. Tôi chỉ cần biết bấy nhiêu thôi. Ông to béo hỏi: — Sao? Cô ta không gặp lôi thôi gì phải không? — Không đâu. Conrad quay trở ra. Bardin đã nói rằng chính Jordan làm cú đó. Sáng mai ông sẽ nói chuyện với ông Biện lý. Giá như anh biết rõ June và Maurer có cặp bồ với nhau nhỉ! Nếu họ đã ngủ với nhau thì có nhiều khả năng Maurer đã tổ chức cuộc tàn sát, mà cũng có thể chính Maurer ra tay. “Ui, kệ mẹ Maurer!”, Conrad nghĩ trên đường vào cổng nhà. “Mình không quên hắn được lấy 5 phút. Thật cực hơn là cảnh một gã si tình trồng cây si trước nhà người yêu”. Anh mở khóa bước vào phòng chờ tối thui. Khung cảnh vắng lặng. Anh mở cửa phòng ngủ và bật đèn: Chiếc giường đôi nằm trơ vơ. Janey quả đã đi hoang chưa về.   Mời các bạn đón đọc Cái Chết Từ Trên Trời của tác giả James H. Chase.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tỉa Dần
James Hadley Chase là bút danh của tác giả người Anh – Rene Brabazon Raymond (24/12/1906 – 6/2/1985), người cũng đã viết dưới tên James L. Docherty, Ambrose Grant và Raymond Marshall. Ông được sinh ra ở Luân Đôn, là con của một đại tá người Anh phục vụ trong quân đội thuộc địa Ấn Độ, người dự định cho con trai mình có một sự nghiệp khoa học, bước đầu đã cho học tại trường học Hoàng gia, Rochester, Kent và sau đó học ở Calcutta. Ông rời gia đình ở tuổi 18 và làm nhiều công việc khác nhau, một nhà môi giới trong nhà sách, nhân viên bán sách bách khoa toàn thư của trẻ em, người bán sách sỉ trước tập trung vào sự nghiệp viết lách, đã sản xuất hơn 80 cuốn sách bí ẩn. Năm 1933, ông đã cưới Chase Sylvia Ray và có một con trai. Trong sự nghiệp sáng tác của mình, với khoảng 90 tiểu thuyết, hầu như câu chuyện nào của James Hadley Chase cũng có một nhân vật chính muốn làm giàu nhanh bằng cách phạm tội ác - lừa gạt, cướp bóc hay ăn trộm. Nhưng kế hoạch của họ luôn thất bại, phải giết người để gỡ bí, và càng bí thêm. Các tác phẩm của James H. Chase đã được xuất bản tại Việt Nam: Cái Chết Từ Trên Trời Cả Thế Gian Trong Túi Ôi Đàn Bà Cạm Bẫy Gã Hippi Trên Đường (Frank Terrell #5) Thằng Khùng Cạm Bẫy Bản Đồng Ca Chết Người (Frank Terrell #1) Tỉa Dần Hứng Trọn 12 Viên Đam Mê và Thu Hận Tệ Đến Thế Là Cùng Mười Hai Người Hoa và Một Cô Gái Buổi Hẹn Cuối Cùng Trở Về Từ Cõi Chết Không Nơi Ẩn Nấp Đồng Tiền và Cạm Bẫy Lại Thêm Một Cú Đấm Đặt Nàng Lên Tấm Thảm Hoa Cành Lan Trong Gió Bão Những Xác Chết Chiếc Áo Khoác Ghê Tởm Món Quà Bí Ẩn Âm Mưu Hoàn Hảo Cướp Sòng Bạc Cạm Bẫy Dành Cho Johnny Những Xác Chết Câm Lặng Em Không Thể Sống Cô Đơn Thà Anh Sống Cô Đơn Buổi Hẹn Cuối Cùng Mùi Vàng Phu Nhân Tỉ Phú Giêm Tình Nhân Gã Vệ Sĩ Dấu Vết Kẻ Sát Nhân Trong Bàn Tay Mafia Này Cô Em Vòng Tay Ác Quỷ Thiên Đường của Vũ Nữ Châu Dã Tràng Xe Cát .... *** - Dù thế nào em cũng phải nhìn nhận. - Tôi sảng khoái nói - Khung cảnh ấm cúng hữu tình của cái hang ổ này vẫn còn hơn rất xa bất cứ hộp đêm "Guốc Vàng" nào trên thế giới. Tôi dịu dàng rót rượu vào ly nàng, châm thêm điếu thuốc rồi vui vẻ nói tiếp: - Hãy chậm rãi nha cưng. Này, thức ăn ngon tuyệt vời, rượu đặc biệt thượng hạng, cảnh trí trần thiết màu sắc hài hòa thanh nhã và nhạc điệu réo rắt nhặt khoan có thua gì cảnh thần tiên không? - Phải, em đồng ý với những thứ kia, ngoại trừ âm nhạc - Annabelle Jackson hổn hển nói - Có phải là một tội ác hay không, khi người ta đưa Clarence Nesbitt, một nhạc sĩ tầm cỡ trường phái Jazz, vào phòng hơỉ ngạt? - Vâng, anh sẽ nghĩ lại, người ta có nên sửa đổi quan điểm về âm nhạc hay không - Tôi tỏ vẻ khiêm tốn, nhìn nàng dịu dàng đáp lại. Tôi đặt đĩa nhạc có lời tựa "Wee small hour" tập nhạc trữ tình của Frank Sinatra vào dàn máy, rồi quay lưng lại ngồi cạnh nàng trên tràng kỷ. - Thú thật, em cần phải đi về, anh à - Annabelle nài nỉ. - Ở lại đây không hơn hay sao? - Nguy hiểm anh ạ - Nàng khẽ nói, không tin tưởng. Giọng hát trầm trầm truyền cảm của bài "Mood indigo" được phát ra trung thực qua chiếc loa Hifi hiện đại đã làm Annabelle có phần hòa dịu. - Ấy, cái chỗ của anh không đảm bảo an toàn cho em là thế đấy, Al. Thú thật lần đầu tiên em quá bạo mới đến đây với anh. - Anh hiểu điều này, em yêu. - Em đã nghĩ đúng, chuyện sẽ xảy ra như thế này. - Như thế nào? - Hai chiếc giường, các tấm thảm dày ngăn tiếng động, trong khi đó không có một chiếc ghế để ngồi. Về ánh sáng, dĩ nhiên nó phải mờ mờ... - Em yêu, anh say đắm không khí hữu tình này... - Nhưng em chưa hiểu cái bên trong của nó - Đột nhiên nàng nói nhiệt tình. Ly của nàng vừa uống cạn, tôi vội vàng châm thêm thật đầy. - Lúc này Rena như thế nào? - Nàng đưa mắt ngây thơ hồn nhiên hỏi. - Chỉ biết anh không gặp lại cô ấy, thế thôi. - Anh nên sửa đổi lại. Qua những điều người ta nói với em thì anh vẫn gặp cô ả đều đều. - Cô ta thừa kế tờ nhật báo của bố và bận rộn tất bật vì công việc. Chừng như ả phát hiện được cá tính năng động nhiều quyến rũ nơi các chàng nhà báo trẻ. Annabelle đắm đuối nhìn tôi nhưng âm thầm không nói. Tôi trả lại nàng ánh mắt yêu thương thành thật nhất. Nàng khép mắt lại, từ từ thư giãn rồi thì thầm bên tai tôi những lời tin cẩn. - Em phát điên lên khi đến với anh. Nhưng thú thật em là cô gái hiếu kỳ, Al Wheeler ạ. - Về chuyện gì thế? - Về tất cả mọi chuyện liên quan tới anh. Em luôn luôn tự hỏi nó có phải là sự thật hay không. - Trời ạ, mà chuyện gì mới được? - Không quan hệ lắm đâu cưng! Nhưng em thắc mắc, thế thôi. Chiếc ly rỗng của nàng rơi vào bàn tay tôi như miếng thẻ nhôm ấn vào cái hộp nhạc. Sinatra sướt mướt "Can't we be íriens" — Chúng ta không thể là bạn của nhau. Hoan hô Frank dũng cảm, anh luôn luôn đến trám chỗ hổng hụt. Tôi dán sát vào nàng trên tràng kỷ và trao cho nàng thêm ly rượu đầy. - Anh sẽ nói em nghe - Giọng tôi xuống thấp - rằng em là cô gái bướng bỉnh... - Em ấy à? - Nàng hỏi giọng trong trẻo hồn nhiên. - Quá đẹp cũng là tai họa. Mỗi lần nhìn em thì y như rằng anh quên bẵng kỹ thuật. Thật là nguy hiểm, anh cần nhiều năm để điều chỉnh lại... - Giọng nói đó - Nàng thổ ra mơ màng - Đã làm em rung cảm! - Ô! Chỉ đơn giản thôi - Tôi khiêm nhường - Một điều hợp qua đường dây thanh quản của anh, cái mà... - Em nói về Sinatra cơ! - Nàng cắt ngang, rồi kề môi nhấp cạn ly Whisky cuối cùng. Nàng cẩn thận đặt ly xuống nền sàn rồi bất ngờ vòng tay ôm choàng lấy tôi. Đôi môi tô thắm và khêu gợi của nàng ngập ngừng chờ đợi bờ môi tôi. Tôi ghì chặt nàng vào đôi tay đùm bọc yêu thương nếu không nói là điêu luyện. Chúng tôi cuốn chặt vào nhau. Môi kề môi nồng nàn... Điện thoại reo vang inh ỏi. Nàng đẩy nhẹ tôi ra, thở hổn hển. - Al. Điện thoại! - Mặc nó! Nhầm số rồi đấy! - Tôi nói đứt quãng. - Tại sao anh biết? - Trời ạ, thử hỏi ai có đủ can đảm gọi tôi vào giờ này? Nàng đưa hai tay đẩy mạnh tôi ra. - Em muốn biết con nỡm nào gọi lại! Đến nhấc ống nghe đi! Tôi uể oải đứng lên, đến bắt ống nghe trong khi miệng làu bàu: - Cái gì hử? - Wheeler! Chúa ơi, cái giọng báo đời không ngớt hành hạ tôi, nó đang ong óng: - Tôi cần gặp anh lập tức! - Sếp ơi! - Tôi nài nỉ thiếu điều muốn lạy - Có phải sếp định đưa một đại đội cảnh sát tiến vào tòa thị chính hay sao? - Dỏng tai nghe rõ này: Ngay lập tức, nói cách khác, không được trì hưỡn! Tiếng dập máy tàn nhẫn từ phía kia đầu dây làm lùng bùng hai lỗ tai tôi. Tôi nhìn Annabelle vẻ van xin, nhưng nàng đã đứng lên, mở túi xách, tô thắm lại đôi môi. - Em biết - Nàng nói để chận trước những lời biện bạch của tôi - Chỉ có cách này mới gọi là "Tiếng cồng đã cứu đời em"!   Mời các bạn đón đọc Tỉa Dần của tác giả James Hadley Chase.
Truy Lùng
Masao đau đớn khi nhận tin cả hai bố mẹ đã tử nạn sau một tai nạn máy bay. Kinh hoàng và xót xa tột độ nhưng bằng trí thông minh, sự tỉnh táo của mình, Masao kịp nhận ra phía sau đó là một âm mưu… Bản năng sinh tồn cùng với quyết tâm làm sáng rõ cái chết của cha mẹ đã giúp Masao tẩu thoát và truy tìm sự thật. Nhưng ở bất cứ đâu, Masao cũng phải đối diện với sự truy lùng ráo riết đầy nguy hiểm của người chú - kẻ chủ mưu chiếm đoạt tài sản của cha mẹ anh. Cuộc chạm trán cuối cùng đầy bất ngờ và kịch tính, Masao tưởng rằng, mọi chuyện đã chấm hết. Nó cũng kết thúc, nhưng người phải chết lại không phải Masao… *** Sidney Sheldon , là một tiểu thuyết gia người Mỹ, đoạt giải của Viện Hàn Lâm nghệ thuật Mỹ, ông còn là một kịch tác gia và một người viết kịch bản phim và chương trình truyền hình chuyên nghiệp. Sheldon sinh tại Chicago, Illinois, với tên khai sinh là Sidney Schechtel, có bố là người Do Thái gốc Đức, mẹ là gốc Nga. Phần lớn tác phẩm của ông thuộc thể loại trinh thám, hình sự, tình cảm, và đều thuộc hàng best-seller. Các tác phẩm như Rage of Angels (Thiên thần nổi giận), The Other Side of Midnight (Phía bên kia nửa đêm), If Tomorrow Comes (Nếu còn có ngày mai)... đã làm nên tên tuổi Sheldon. Với cốt truyện ly kỳ, hồi hộp, gây thích thú, những quyển sách này đã lôi kéo khá đông độc giả đến với Sheldon. Sidney Sheldon đã xuất bản 18 tiểu thuyết, bán ra đến 300 triệu bản, và là tác giả sách nổi bật nhất trong nhiều thập kỷ. Các bản dịch tác phẩm sang 71 ngôn ngữ ở 180 quốc gia giúp ông được Sách Kỷ lục Guinness công nhận là “tác giả được dịch nhiều nhất thế giới”. Ông qua đời tại bệnh viện Eisenhower ở thành phố Rancho Mirage thuộc bang California, Hoa Kỳ và thọ 89 tuổi. Ước tính tổng tài sản sau khi qua đời của Sidney Sheldon là 3 tỷ USD. Các bộ tiểu thuyết của Sidney Sheldon: The Naked Face (1970) - Lộ mặt The Other Side of Midnight (1973) - Phía bên kia nửa đêm A Stranger in the Mirror (1976) - Người lạ trong gương Bloodline (1977) - Dòng máu Rage of Angels (1980) - Thiên thần nổi giận Master of the Game (1982) - Bậc thầy của trò chơi (Tên khác: Người Đàn Bà Quỷ Quyệt) If Tomorrow Comes (1985) - Nếu còn có ngày mai Windmills of the Gods (1987) - Sứ giả của thần chết The Sands of Time (1988) - Cát bụi thời gian Memories of Midnight (1990) - Kí ức lúc nửa đêm The Doomsday Conspiracy (1991) - Âm mưu ngày tận thế The Stars Shine Down (1992) - Sao chiếu mệnh Nothing Lasts Forever (1994) - Không có gì là mãi mãi Morning, Noon and Night (1995) - Sáng, trưa và đêm The Best Laid Plans (1997) - Kế hoạch hoàn hảo Tell Me Your Dreams (1998) - Hãy kể giấc mơ của em The Sky is Falling (2001) - Bầu trời sụp đổ Are You Afraid of the Dark? (2004) - Bạn có sợ bóng tối? (Bóng tối kinh hoàng) *** Sidney Sheldon Truy Lùng   Mở đầu   - Chú ý! Phi công biết chắc rằng tất cả họ sẽ chết. Trong cơn bão giật điên cuồng, chiếc máy bay Silver Arrow Jet mười hai chỗ ngồi bị nhồi lên dội lên dội xuống như một thứ đồ chơi giữa đất trời vùng Appalache. Phi công chính và phụ lái cố ráng sức giữ mũi bay nhoi vượt thoát trận cuồng phong mãnh liệt. Chiếc Silver Arrow Jet quả là một chiếc máy bay tuyệt diệu, được thiết kế và lắp ráp hoàn hảo. Song, vào những giây phút cuối cùng, máy móc bị trục trặc. Một trong hai hành khách ngồi ở cabin sang trọng trên máy bay đứng dậy, tiến vào buồng lái và nói: - Máy móc bị trục trặc, cánh quạt quay không đủ lực đưa máy bay thoát lên cao. Thông thường, phi công đã bảo vị khách nọ quay về chỗ của ông. Nhưng điều đó không thể áp dụng vào trường hợp này. Vị khách nọ là ngài Yoneo Matsumoto, người sáng lập và chủ tịch một trong những tổ hợp công nghiệp lớn nhất thế giới. Phi công vội đáp: - Dạ thưa, kiệt lực rồi ạ. Cả ba người đàn ông hiểu rõ ý nghĩa của câu nói đó. Hết hy vọng sống sót. những ngọn núi nhấp nhô như lớp lớp tên nhọn chĩa cao chờ dịp là lao xô vào máy bay. Lực tàn sức cạn, nó khó bề thoát lên tránh hiểm họa. Máy bay bắt đầu mất độ cao và lê lết như con thú bị thương. Yoneo Matsumoto quan sát một lát các thiết bị trong buồng lái, rồi quay về bên chỗ vợ ngồi. Qua nét mặt bình thản, không để lộ chút hoảng hốt của vợ, ông biết rằng bà không hề sợ hãi. Ông âu yếm nắm tay bà. Bà mỉm cười nhìn ông chan chứa yêu thương. Yoneo Matsumoto sẵn sàng đón nhận cái chết. Ông đã sống một cuộc đời sôi động, đầy ý nghĩa, ông đã thành đạt hơn biết bao người khác. Từ hai bàn tay trắng, ông đã gây dựng nên nền công nghiệp Matsumoto, doanh nghiệp mà mọi ông chủ đều có quyền tự hào. Ông có hàng ngàn nhân viên làm việc trong cả trăm công xưởng nằm khắp thế giới. Họ tận tụy với ông và rất mực yêu mến, quý trọng ông. Tâm trí ông quay trở lại những ngày đầu, khi ông còn rất trẻ, vừa tốt nghiệp trường đại học. Ông có năng khiếu bẩm sinh về ngành điện tử và mọi cửa đều rộng mở đón chào ông. Ông đã gặp Eiko và yêu bà say đắm. Bà tiếp thêm cho ông sức mạnh của lòng can đảm và nghị lực để xây dựng nên hãng công nghiệp của chính mình. Trong năm năm đầu, ông lăn lộn suốt ngày đêm, cố kiếm miếng ăn manh áo nuôi Eiko và Massao, đứa con trai nhỏ của hai vợ chồng. Con đường Yoneo Matsumoto lựa chọn thật chông gai, gian khổ, nhưng vốn là người trọng danh dự và có tài, ông không hề nao núng chùn bước trước bất kỳ khó khăn, trở ngại nào. Đường doanh nghiệp của ông mỗi ngày một thênh thang rộng lớn rồi từ một hãng sản xuất, nó phát triển thành một tổ hợp kinh doanh hùng mạnh. Nền công nghiệp Matsumoto dần dà thu hút các hãng và chi nhánh khác, và từ một cơ sở kinh doanh non trẻ, nó trở thành một công ty khổng lồ - một triều đại công nghiệp bao trùm thế giới chuyên sản xuất các loại máy bay và máy tính điện tử, các loại máy quay phim, máy ảnh, máy thu thanh, truyền hình và hàng trăm chủng loại khác nữa. Một tiếng sét đột ngột dội lên bứt ông ra khỏi mọi suy tư. Tiếp ngay sau đó, một làn chớp sáng ngời rạch ngang bầu trời tựa hồ như vừa có một quả tên lửa khổng lồ điên cuồng lao vút vào khoảng không. Những người ngồi trên máy bay thấy rõ trong khoảnh khắc toàn bộ khung cảnh ngoài trời: quanh họ nhìn đâu cũng chỉ toàn vách núi hiểm trở. Ánh chớp tắt lặn, cảnh vật lại chìm trong bóng đen dày đặc. Yoneo Matsumoto siết chặt tay người vợ thân yêu đã cùng ông chia sẻ mọi nỗi buồn vui, đã từng cổ vũ, động viên ông vượt qua bao sóng gió cuộc đời. Lúc này đây, giữa cảnh trời đất đảo điên trong cơn giông tố cuồng phong, bà lại ở bên ông hiền hậu, dịu dàng và bình tĩnh. Chỉ dăm phút nữa, cả hai ông bà sẽ xa lìa cuộc đời này. Nhưng họ còn đứa con trai Massao, nó sẽ tiếp tục sự nghiệp của họ. Massao sẽ thừa kế để chế Matsumoto và nó sẽ vững vàng cai quản đế chế mà hai vợ chồng đã cùng chung sức tạo dựng nên. Ánh chớp khủng khiếp lại vụt loé và họ thấy rõ cảnh tượng bên ngoài như cảnh địa ngục: một đỉnh núi phủ đầy tuyết đùn lên những áng mây đen tựa chiếc vạc dầu sôi bốc khói nghi ngút và, ngay trước mặt họ, là sườn núi dựng đứng lởm chởm đá như những chiếc răng nhọn nhe ra chỉ chờ họ lao vào là phanh thây xé xác. Mấy giây sau, cả thế giới dường như bị nổ tung thành hàng ngàn tia lửa nhỏ. Sau đó, cảnh vật lại chìm vào bóng đêm chết chóc rùng rợn, gió gào rú thê lương, vang vọng khắp một vùng đất cô đơn trải dài vô tận... Mời các bạn đón đọc Truy Lùng của tác giả Sidney Sheldon.
Cô Gái Trong Mạng Nhện
Cuốn sách Cô gái trong mạng nhện của David Lagercrantz là phần nối tiếp tam bộ khúc Cô gái có hình xăm rồng mà Stieg Larsson hoàn thành trước đó. Cô gái trong mạng nhện là phần nối dài tam bộ khúc Millennium (Cô gái có hình xăm rồng, Cô gái đùa với lửa, Cô gái chọc tổ ong bầu) mà Stieg Larsson đã hoàn thành cách đây một thập kỷ. Tác phẩm đã càn quét các bảng xếp hạng uy tín và tiêu thụ được hơn 8 triệu bản trong năm 2015. Qua ngòi bút của David Lagercrantz, Cô gái trong mạng nhện đã hoàn toàn chinh phục giới phê bình khó tính cũng như độc giả toàn cầu nhờ văn phong tuyệt vời kết hợp giữa phong cách hành động quyết liệt của trinh thám Mỹ và lối phân tích sắc sảo đến từng chi tiết của trinh thám Thụy Điển. Đây được xem như một siêu phẩm kịch tính về chuyến phiêu lưu đầy rủi ro để đi tìm sự thật, công lý và tính minh bạch; phơi bày mối quan hệ móc ngoặc bẩn thỉu giữa giới chính khách, các nhà tài phiệt, các cơ quan tình báo và các tổ chức bí mật ngoài vòng luật pháp. Kể từ sau “vụ Salander”, Lisbeth đột ngột biến mất khỏi thế giới của Mikael Blomkvist, trong khi anh vẫn tiếp tục bám trụ tòa soạn Millennium giữa cơn bão khủng hoảng tài chính và chiến dịch bôi nhọ ác ý trên mạng xã hội. Nhưng một lần nữa, số phận lại đưa đẩy họ bước vào chiến tuyến mới khi Linus Brandell – một nhà nghiên cứu trẻ tuổi đã bất ngờ đến tìm gặp Mikael và khẩn khoản nhờ anh điều tra một vụ tấn công tin tặc động trời nhằm vào nhà khoa học đầu ngành trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo, giáo sư Frans Balder.  Mikael vốn dĩ không thành thạo mảng công nghệ thông tin, cũng chẳng biết Balder là ai, và đáng lẽ anh đã bỏ qua vụ việc nếu trong câu chuyện Linus không nhắc đến một “nữ hacker lập dị”. Sự nghi hoặc của Blomkvist càng được củng cố hơn, khi ngay sau đó đích thân giáo sư Balder gọi điện thuyết phục anh đến gặp ông vì nghi ngờ có sự rò rỉ thông tin từ một dự án tuyệt mật quy tụ những bộ óc hàng đầu thế giới mà ông tham gia: Dự án Siêu Máy tính Nhân tạo. Tuy nhiên, khi đến nơi hẹn, những gì Blomkvist chứng kiến lại là một đứa trẻ có ánh nhìn vô định ngồi giữa những vòng tròn số bên cạnh thi thể lạnh cứng của vị giáo sư già...  Những bí ẩn giăng mắc, những nhân vật lẩn khuất trong tam bộ khúc Millennium đã dần bước ra từ bóng tối để tiếp tục đưa người đọc vào một câu chuyện cuốn hút ngay từ phần mở đầu và dị thường cho đến tận những dòng cuối cùng. Từ những tổ chức ngầm ở Stockhlom cho tới giới chính trị thao túng Thung lũng Silicon, một âm mưu thâm hiểm đã vượt ra ngoài biên giới Thụy Điển, bao trùm lên toàn thế giới, đe dọa phá vỡ thế cân bằng của cán cân quyền lực. Và sẽ phá vỡ mãi mãi nếu chìa khóa của sự việc không được tìm ra. Ngay từ ban đầu, David Lagercrantz đã đặt độc giả vào một không gian căng thẳng tột độ, khiến họ phải lặng đi trước khả năng vô hạn của khoa học và rùng mình trước cái bắt tay đầy toan tính máu lạnh giữa giới chóp bu với đám tội phạm quốc tế. Lôi cuốn và kịch tính, sự kết hợp giữa các ẩn số toán học và bí ẩn đằng sau những vụ án mạng đã làm nên sự hấp dẫn trí tuệ rất riêng cho Cô gái trong mạng nhện. Và đó cũng là lí do tác phẩm này được các nhà phê bình đánh giá là sự trở lại tuyệt vời của một trong những sê-ri tiểu thuyết trinh thám hay nhất thế kỉ 21. *** đôi lời gửi độc giả   Tôi rất nhớ những buổi sáng sớm, khi Stockholm chìm trong yên lặng và gia đình tôi vẫn đang say giấc. Tôi sẽ uống cà phê, ngồi vào máy tính và viết như thể nó là cứu cánh duy nhất của cuộc đời mình. Đúng vậy, không phải lúc nào cũng dễ dàng, nhưng đôi khi tôi thấy nhớ cảm giác cuồng nhiệt đến phát sốt và mấp mé bờ vực sợ hãi ấy – nỗi sợ hãi rằng mình không đủ tầm để kế tục sự nghiệp của Stieg Larsson. Mối quan ngại ấy là thứ dẫn dắt tôi, và có thể nói Lisbeth Salander là người khiến tôi sợ hãi nhất. Làm sao tôi có thể mô tả một nhân vật ấn tượng đến thế mà không làm độc giả thất vọng? Tôi còn nhớ lúc đầu mình rất hăm hở vào cuộc. Dường như tôi đã cố gắng quá mức, nên phải mất nhiều thời giờ để cắt gọt và tinh giản mọi thứ. Chủ yếu tôi phải lược bớt cảm xúc. Sự ủy mị và sướt mướt không thích hợp với Lisbeth. Cảm xúc của cô ấy chỉ nên được bóng gió đề cập thông qua câu chữ, và tôi nhận ra cô tốt nhất khi có hành động, khi cô chiến đấu Với vị thế của một kẻ dưới cơ. Chỉ cần tôi tìm được đúng tình huống, cô sẽ xuất hiện sống động. Nhưng vẫn còn một vấn đề khiến tôi phải mất một thời gian dài để tháo gỡ: Lisbeth Salander nhớ về quá khứ thế nào? Các bạn cũng biết đấy, thứ làm cho Lisbeth trở thành một nhân vật đặc biệt không chỉ là cá tính. Cũng giống như Người dơi, Siêu nhân hay bất cứ vị siêu anh hùng nào khác, Lisbeth có sự huyền bí của riêng mình, đó chính là một yếu tố quyết định làm nên sức công phá dữ dội của cô. Tôi nhận ra mình cần phải khai thác và phát triển nó. Do vậy, tôi đã quay về thời thơ ấu của Lisbeth, khi người cha tàn ác ngược đãi mẹ Lisbeth và cô thề sẽ trả thù. Tôi cũng nhận ra mình sẽ làm hỏng một phần sự huyền bí của Lisbeth nếu để cô tự nhớ ra những biến cố đó. Chúng sẽ có vẻ bạo liệt hơn nếu được nhìn từ bên ngoài, với chỉ một chút xíu bóng gió về nỗi uất hận và đau đớn của Lisbeth. Tôi cũng cảm thấy mình cần một chiếc kính lọc. Tôi nhận thấy bản thân Stieg Larsson cũng vất vả với vấn đề này: anh gần như luôn nhờ đến ông luật sư già Holger Palmgren, người giám hộ cũ của Lisbeth, để kể lại thời thơ ấu của cô. Tất nhiên đó là một mánh khóe kinh điển. Những hình tượng nhân vật có sức mê hoặc lớn trong văn chương thường được quan sát tốt nhất từ một khoảng cách nhất định. Bạn cần một bác sĩ Watson để tạo nên huyền thoại và duy trì sự bí ẩn xung quanh nó. Từ góc nhìn của nhân vật chính, đa phần mọi thứ sẽ chỉ mang tính logic và hiển nhiên, nhưng khi cùng một quá trình đó được quan sát bởi một người khác, nó sẽ giúp chúng ta hiểu ra vì sao mọi thứ lại đáng chú ý đến như vậy. Nó giúp chúng ta cảm thấy kinh ngạc. Tôi quyết định sử dụng cùng những thủ pháp như Stieg Larsson đã dùng. Tuy nhiên tôi cũng không nhượng bộ hoàn toàn. Tôi tiếp tục đào sâu vào những suy nghĩ và ký ức của Lisbeth Salander, thử thách các giới hạn. Không quá lời khi nói rằng chính quá trình đó đã giúp tôi nắm bắt được cô ấy, và một buổi tối nọ, một buổi tối tuyệt vời, sáng sủa, tôi đã khám phá bí mật lớn nhất của cô gái ấy. Sau cái ngày hôm đó, mọi thứ giống như thể được cô tự viết ra. Tôi bắt đầu hiểu tại sao Lisbeth phải tấn công một lần nữa, mạnh mẽ và không khoan nhượng. Tôi đã nhận ra câu chuyện phải tiếp tục như thế nào, và tôi đã bắt đầu nhớ tiếc nó. Tôi hi vọng các bạn sẽ thích thú câu chuyện! David Lagercrantz, Stockholm, ngày 15 tháng 5 năm 2015 *** Ra mắt độc giả từ năm 2005, bộ trường thiên tác phẩm Milennium gồm "Cô gái có hình xăm rồng", "Cô gái đùa với lửa", "Cô gái chọc tổ ong bầu" của tác giả Stieg Larsson đã tạo nên một cơn địa chấn với hơn 80 triệu bản trên toàn cầu và vẫn chưa hề có dấu hiệu hạ nhiệt. Mười năm sau, độc giả hâm mộ lại háo hức khám phá cuộc điều tra mới của cặp đôi nhà báo Mikael Blomkvist và hacker Lisbeth Salander, dưới ngòi bút của David Lagercrantz, với tựa đề "Cô gái trong mạng nhện". Tác phẩm nối dài này đã tiêu thụ được hơn 8 triệu bản trong năm 2015. Chấp bút dưới áp lực cái bóng khổng lồ của Stieg Larsson, David Lagercrantz đã hoàn toàn chinh phục giới phê bình khó tính cũng như độc giả toàn cầu bằng văn phong tuyệt vời kết hợp giữa phong cách hành động quyết liệt của trinh thám Mỹ và lối phân tích sắc sảo đến từng chi tiết của trinh thám Thụy Điển. Tại buổi giới thiệu sách, dịch giả Vũ Hoàng Anh, họa sĩ Dũng Choai, nhà văn Di Li cùng đại diện Đại sứ quán Thụy Điển tại Việt Nam đã chia sẻ những nét đặc sắc của bộ tiểu thuyết trinh thám cuốn hút này và những dấu ấn của nó trong phản ánh đời sống văn hóa, xã hội Thụy Điển với tất cả sự lôi cuốn và kịch tính, đặc biệt là sự kết hợp giữa các ẩn số toán học và bí ẩn trong "Cô gái trong mạng nhện" - lý giải vì sao tập sách xứng đáng nối dài bộ series tiểu thuyết trinh thám được đánh giá trong nhóm sách trinh thám hay nhất thế kỉ 21. David Lagercrantz sinh năm 1962 tại Thụy Điển, tốt nghiệp trường báo chí Gothenburg. Ông là cựu phóng viên điều tra của nhật báo Expressen và là người được Nhà xuất bản cũng như Hội đồng bảo vệ tài sản của Stieg Larsson chọn mặt gửi vàng để viết tiếp câu chuyện về Salander. *** Cô gái trong mạng nhện - David Lagercrantz Dịch giả Hoàng Anh người review Trà Phạm #cô_gái_trong_mạng_nhện #trinh_thám_bắc_âu Nối tiếp tam bộ khúc millennium, David Largercrantx tiếp tục mang đến phần 4: cô gái trong mạng nhện với bức tranh toàn diện hơn về cô gái kì quặc Lisbeth và câu truyện đầy hấp dẫn của bộ đôi Lisbeth và Blokvist cùng một mớ rắc rối khác xung quanh hai người. Thực ra đọc xong cũng được 1 tuần rồi, nhưng vì bận chuyện nọ chuyện kia rồi gặp đủ các vấn đề liên quan đến điện thoại và internet nên chẳng thể viết vài dòng ngay được. Nhân ngày mưa, trốn việc viết vội vài dòng vậy. Nội dung truyện khá hấp dẫn, tuy nhiên vẫn có phần hơi gượng gạo khi giới thiệu về các nhân vật, sự ngang tàng, kì quặc của Lisbeth cũng bị giảm bớt phần nào. Các phần đào sâu quá khứ và những bí ẩn xoay quanh Lisbeth cũng gượng gạo không kém. Cảm giác khi đọc là tính cách của các nhân vật không còn được "nguyên vẹn" nữa nên nếu như các phần trước đọc đến đoạn nào, vỗ đùi sung sướng "đúng là Lisbeth có khác" hay "đúng là Blomkvist có khác" thì nay cảm giác như không đúng vậy. Truyện tập trung về mảng IT, hoặc được gọi là tên khác, nhưng cơ bản là về tin học, tin tặc,.v.v. đọc thực sự như đọc tiếng ngoài hành tinh ý, không thuộc phạm trù hiểu biết của mình nên phải đọc đi đọc lại nhiều lần và có đoạn phải bỏ qua (thà toán em còn hiểu được chứ mấy cái này em chịu). Truyện cũng nói đến một loạt các vấn đề trong đời sống hằng ngày mà ta có thể bắt gặp ngoài đời thực và khiến ta nhức nhối, phải suy nghĩ, phải lo lắng cho thực tế không tốt đẹp chút nào. Nói chung truyện ổn, hơi gượng gạo nhưng nội dung vẫn đầy đủ các yếu tố hấp dẫn. *** Nửa đầu dài dòng với những giới thiệu về vô số cục, ngành, cơ quan nhà nước. Cục tình báo, cục điều tra thương nghiệp, cục gì gì gì gì và các tổ chức tội phạm. Đọc mà loạn xà ngầu. Có lẽ vì mình không nhạy trong việc nhớ các chi tiết như thế. Nửa sau nhanh hơn, có chút gay cấn, chút xíu thôi à. Xong rồi mọi chuyện được giải quyết cái rụp xong rồi hết chuyện. Mình đọc nửa đầu trong chừng 2 tháng và nửa sau trong chừng 3 ngày. Vậy là hiểu rồi nha. Mình nghĩ sẽ có vài phần tiếp theo khi tác giả đã xây dựng một nhân vật phản diện mới (và chưa chết). Nhưng truyện xuất bản từ 2015 mà đến giờ vẫn không thấy thông tin về quyển tiếp. Không muốn nhìn nhận nhưng cả Mikael Blomkvist và Lisbeth Salander đều mờ nhạt so với tầm vóc đồ sộ của các cục đoạn đầu. Họ không làm gì nhiều. Mà thật ra không ai làm gì nhiều cả. Trừ nỗ lực của tên sát thủ chính phải hành động những 3 lần. Nguyen Anh *** Boog đã đọc hết cả 3 tập trong series Cô gái có hình xăm rồng và đây là tập 4 trong series đó nhưng lại do người khác chắp bút nên Boog lần lữa mãi mới đọc. Cũng bởi nghe nói phim chuyển thể từ tập 4 này chuẩn bị ra rạp nên Boog quyết định đọc để xem phim cho dễ hiểu. Hơn nữa lại được biết quyển này do dịch giả Hoàng Anh dịch nên Boog có phần nào yên tâm. Bởi biết dịch giả Hoàng Anh qua một số tác phẩm Boog đã đọc như: Kẻ nhắc tuồng, người ru ngủ, bộ ba quyển Người đàn ông mang tên Ove, Bà ngoại tôi gửi lời xin lỗi, Britt marie đã ở đây, đọc mới nhất là Chênh Vênh thì Boog đều có cảm tình với mấy tác phẩm đó cả. Mở đầu tập này có vẻ khá chậm nhưng càng về cuối thì nó càng hấp dẫn. Một nhà khoa học đang nghiên cứu một công trình mà nhiều tổ chức muốn có bị ám sát. Đó là một công trình nghiên cứu siêu máy tính có trí tuệ nhân tạo có thể hiểu được con người. Nhưng nếu công trình này được hoàn thiện thì mọi con người sẽ bị kiểm soát, mọi thứ sẽ bị phơi bày không còn gì là bí mật. Công trình nghiên cứu này còn liên quan tới mạng lưới của nhiều các tổ chức từ Duma của Nga tới NSA của Mỹ tới cả các tổ chức tội phạm, chúng rối tung và chằng chịt như một mạng nhện. Mới đầu có vẻ mọi sự việc chẳng liên quan, dính dáng gì tới cô gái đặc biệt Lisbeth Salander. Nhưng hoá ra không phải vậy, việc nhà khoa học bị ám sát đó lại gợi mở thêm về quá khứ của Salander. Boog thấy tập này khá thú vị là Lisbeth tìm được một đứa trẻ khá giống mình, mắc chứng tự kỷ thiên tài. Không phải đứa trẻ nào tự kỷ cũng là thiên tài nhưng nếu đó là tự kỷ thiên tài thì nên quan tâm và phát huy khả năng đặc biệt đó. Điểm trừ mà Boog dành cho tập này là Lisbeth hoàn hảo quá, Lisbeth giống như kiểu anh hùng quá giỏi không mắc một sai lầm nào. Nếu như mấy tập trước cô ấy giỏi nhưng vẫn mắc sai lầm thì tập này mọi việc Lisbeth làm quá hoàn hảo, khiến cô ấy không thực tế như mấy tập trước. Ở tập này còn xuất hiện một nhân vật nữ rất đặc biệt. Đẹp, ánh mắt hút hồn khiến người khác mê mẩn và dễ dàng bị sai khiến nhưng phụ nữ đẹp là phụ nữ nguy hiểm một lần nữa lại đúng. Chết vì gái là cái chết êm ái nên các đấng mày râu cẩn thận nha, còn nếu các vị tự nguyện chết vì người đẹp thì Boog không còn gì để nói