Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Robin Hood Chúa Trộm Oai Hùng

Alexandre Dumas - một tên tuổi rất thân thuộc với bạn đọc Việt Nam qua các tiểu thuyết : Bá tước Môngto Crixto , Hai mươi nǎm sau, Ba người lính ngự lâm  Robin Hood - Chúa trộm oai hùng, diễn ra trong hoàn cảnh lịch sử nước Pháp vào những nǎm 1160.  Với ngòi bút linh hoạt và sức tưởng tượng hết sức phong phú, Alexandre Dumas đã hấp dẫn người đọc qua những tình tiết hết sức bất ngờ, hồi hộp, hấp dẫn, lý thú, pha chút châm biếm khi miêu tả nhân vật chính - người anh hùng Robin Hood.  *** Dưới triều đại vua Henry đệ nhị, vào năm Gia-tô kỷ nguyên 1162: một buổi chiều, hai khách du hành, quần áo vấy bẩn vì đường trường, vẻ mặt tiều tuỵ vì mệt mỏi, đi qua những lối nhỏ của khu rừng Sherwood, trong lãnh địa bá tước Nottingham. Không khí giá lạnh; cây cối mới bắt đầu trổ lá xanh phớt tháng Ba, rung nhẹ trong làn gió bấc cuối cùng của mùa đông, một lớp sương mù ảm đạm tràn lan khắp vùng trong lúc những tia nắng tà tắt lịm trong những đám mây đỏ tím ở chân trời. Chẳng bao lâu bầu trời mù mịt tối tăm, những cơn gió lạnh lướt qua khu rừng, báo trước một đêm dông tố. Người tuổi tác hơn trong hai khách du hành trùm kín mình trong chiếc áo choàng, nói: — Này Ritson, gió thổi dữ lắm, mi có sợ rằng ta sẽ gặp bão trước khi tới nơi không? Chúng ta có thực đi đúng đường không? Ritson đáp: — Thưa các hạ, chúng ta đang tiến thẳng tới đích: nếu tôi không nhớ sai, thì một tiếng nữa chúng ta sẽ gõ cổng nhà người gác rừng. Hai người khách lạ im lặng bước đi trong ba khắc đồng hồ. Người mà bạn đồng hành xưng là các hạ bồn chồn lớn tiếng hỏi: — Chúng ta sắp tới nơi chứ? — Thưa các hạ, mười phút nữa thôi. — Được, nhưng cái người gác rừng mà mi gọi là Head đó có đáng để ta tin cậy không? — Hoàn toàn đáng tin, thưa các hạ, Head, anh rể tôi, là người thô lỗ, thực thà, ngay thẳng; anh ta sẽ kính cẩn lắng nghe cái câu chuyện kỳ lạ do Đức Ông bày đặt ra, anh ta sẽ tin ngay; anh ta chẳng biết thế nào là nói dối, cũng chẳng biết ngay cả ngờ vực là gì nữa. Kìa, thưa các hạ, - Ritson ngừng khen ngợi người gác rừng vui vẻ kêu lên, - xin hãy trông phía dưới kia làn ánh sáng phản chiếu nhuộm màu cây cối, nó tỏa ra từ căn nhà của Gilbert Head đấy! Hồi còn trẻ, mỗi buổi chiều khi chúng tôi đi săn mệt mỏi trở về, biết bao lần tôi đã sung sướng vui chào vì tinh tú này của gia đình! Ritson đứng im lặng mơ màng, mắt đăm đăm cảm động nhìn làn ánh sáng chập chờn, nhắc nhở y những kỷ niệm dĩ vãng. Nhà quí tộc chẳng để ý gì đến nỗi xúc động của tên đầy tớ, cất tiếng hỏi: — Thằng bé ngủ à? Ritson, vẻ mặt tức thời trở lại hoàn toàn hờ hững, trả lời: — Dạ, thưa các hạ, nó ngủ say lắm. Tôi thực không hiểu sao Đức Ông lại phải nhọc lòng giữ gìn mạng sống của một đứa bé có hại cho quyền lợi của ngài đến thế. Nếu ngài muốn dứt bỏ hẳn thằng bé đó đi, thì tại sao ngài lại không đâm cho nó một nhát dao vào tim? Tôi xin tuân lệnh ngài, xin ngài cứ nói đi. Để thưởng tôi, xin ngài hãy hứa viết tên tôi vào tờ di chúc của ngài, và thế là thằng bé ngủ khì kia sẽ chẳng bao giờ thức dậy nữa. — Mi im đi, - nhà quí tộc bỗng nhiên nói tiếp, - ta không thích cái chết của thằng bé vô tội này. Ta có thể sợ sau này sẽ có ngày bị tiết lộ ra, nhưng ta thà phải lo âu về nỗi sợ hãi đó còn hơn là phải ăn năn cắn rứt vì tội ác. Vả chăng, ta có lý do để hy vọng và ngay cả tin tưởng rằng tấm màn bí mật bao trùm lên sự ra đời của đứa bé này sẽ chẳng bao giờ bị vén lên cả. Nếu như có sự xảy ra khác thế, thì đó chỉ có thể là công trình của mi thôi, Ritson ạ; ta đoán chắc với mi rằng suốt đời ta lúc nào cũng nghiêm ngặt canh chừng các hành vi, cử động của mi. Dù được nuôi nấng như một gã quê mùa, thằng bé này sẽ không phải chịu cảnh tầm thường của thân phận mình, trong thân phận này nó sẽ tự tạo cho mình một hạnh phúc hợp với các sở thích và thói quen của nó, và nó sẽ chẳng bao giờ phải tiếc cái tên họ và tài sản mà nay nó bị mất đi mà không hề biết. — Mong sao các hạ được toại nguyện! - Ritson lạnh lùng đáp; - nhưng thực ra thì mạng sống của một đứa bé oắt như thế này chẳng đáng để ta phải nhọc nhằn đi từ Huntingdonshire đến Nottinghamshire. Cuối cùng hai khách du hành đặt chân xuống đất trước một ngôi nhà xinh đẹp giống như một cái tổ chim ẩn náu trong đám rừng rậm. — Anh ơi! Anh Head ơi! - Ritson kêu to bằng một giọng vui vẻ, sang sảng, - anh ơi! Mở cửa mau lên; mưa dữ quá, đứng đây tôi trông thấy ánh lửa cháy hồng trong lò sưởi của anh. Mở cửa ra, có người bà con xin được tiếp đãi đây. Bầy chó sủa vang ở phía trong nhà, người gác rừng thận trọng thoạt tiên đáp: — Ai gõ đó? — Một người bạn. — Bạn nào? — Roland Ritson, em anh đây. Mở cửa ra, anh Gilbert. — Cậu đấy à, có phải Roland Ritson, ở Mansfeld không? — Phải, phải, chính em đây, em của chị Marguerite. Nào, anh mở ra chứ? - Ritson bồn chồn nói thêm; - anh em mình sẽ trò chuyện ở bàn ăn. Sau cùng cửa mở ra, hai người khách bước vào. Gilbert Head thân mật bắt tay em rể, rồi lễ phép chào nhà quí tộc: — Thưa ngài kỵ sĩ, tôi rất hân hạnh được tiếp đón ngài. Xin ngài thứ lỗi cho: vừa đây tôi đã thất lễ, để cho cửa đóng giữa ngài và gia đình tôi. Chỗ này hẻo lánh, lại thêm bọn đạo tặc lảng vảng trong rừng, bắt buộc tôi phải thận trọng, bởi vì muốn thoát khỏi hiểm nghèo mà chỉ có dũng cảm và sức mạnh thôi thì không đủ. Thưa quí khách, ngài hãy nhận cho lời tạ lỗi của tôi, và hãy xem nhà tôi đây như nhà của ngài vậy. Mời ngài đến ngồi bên lò sưởi cho khô quần áo, tôi bảo người đi chăm lo cho ngựa của ngài. Lincoln ơi! - Gilbert mở hé cửa phòng bên nói to, - hãy dắt ngựa của quí ngài đây đến nhà kho, vì chuồng nhỏ quá không đủ chỗ tiếp nhận, đừng để chúng thiếu gì cả nhé: bỏ cỏ khô cho đầy máng, chất rơm cho thật nhiều vào. Một gã quê bận y phục kiểm lâm tức thì xuất hiện, bước qua phòng, rồi đi ra ngoài chẳng hề tò mò đưa mắt nhìn các người mới tới; sau đó một phụ nữ xinh đẹp, trạc ba mươi tuổi, đến đưa tay và trán cho Ritson hôn. — Chi Marguerite! Chị thân yêu! - Ritson kêu to, vừa vuốt ve vừa trông ngắm người chị với một niềm thán phục hồn nhiên pha lẫn kinh ngạc; - chị chẳng có chi thay đổi cả, vẫn vầng trán thanh khiết, vẫn cặp mắt sáng chói, môi và má vẫn tươi hồng như độ nào anh Gilbert theo tán tỉnh vậy. — Đó là vì chị sung sướng đấy, - Marguerite đưa mắt dịu dàng nhìn chồng đáp lời. — Em có thể nói: chúng tôi sung sướng, em Maggie ạ, - người gác rừng trung thực nói thêm. - Nhờ em vui tính, nên nhà ta chưa hề có dỗi hờn, cãi lộn. Nhưng về chuyện đó nói thế là đủ rồi, ta phải nghĩ đến khách chứ… Nào! Cậu em, hãy cởi áo choàng ra, còn ngài kỵ sĩ, xin hãy giữ hết nước mưa đầm đìa trên y phục giống như giũ hạt sương mai đọng trên lá cây. Rồi chúng ta dùng bữa tối. Lẹ lên, em Maggie, bỏ vào lò một hai bó củi, bày lên bàn những món ăn ngon, trải lên giường những tấm khăn trắng nhất; lẹ lên, em. Trong khi người thiếu phụ mau mắn làm theo lời chồng, Ritson hất áo choàng xuống phía sau, để lộ ra một đứa bé xinh đẹp bọc trong một chiếc áo lông xanh. Đứa bé mới mười lăm tháng, khuôn mặt tròn trăn, đỏ tươi, báo trước một sức khỏe hoàn toàn và một thể chất tráng kiện. Khi Ritson đã cẩn thận vuốt thẳng những nếp nhàu trên mũ của đứa bé, y đặt cái đầu nhỏ xinh của nó xuống dưới một tia ánh sáng, làm nổi bật lên tất cả vẻ đẹp, rồi nhẹ nhàng gọi chị. Marguerite chạy mau đến. — Chị Maggie, - Ritson nói, - em có một món quà tặng chị, để chị khỏi trách em là trở về với hai bàn tay trống không sau tám năm trời vắng mặt… Nào, chị hãy nhìn xem cái em đem tới cho chị đây. — Lạy thánh bà Marie! - Người thiếu phụ chắp tay lại kêu lên, - lạy thánh bà Marie, một thằng bé! Nhưng mà, cậu Roland, có phải chú thiên thần xinh đẹp này là của cậu không? Anh Gilbert, anh Gilbert, hãy lại đây mà xem một thằng bé đáng yêu quá.. — Một thằng bé! Một thằng bé trong tay Ritson à! - Không phấn khởi như vợ, Gilbert đưa mắt nghiêm khắc nhìn về phía em vợ, trầm giọng nói. - Này cậu, từ khi hết làm lính cậu đã thành người nuôi con nít ư? Sao mà kỳ cục vậy, chạy rông khắp đồng quê với đứa bé bọc trong tấm áo choàng! Thế là nghĩa lý gì kia chứ? Tại sao cậu lại đến đây? Thằng bé này là thế nào? Cậu hãy nói đi, hãy nói thực, tôi muốn biết tất cả mọi chuyện. — Thằng bé này không thuộc về tôi, anh Gilbert ạ; nó mồ côi, vị quí tộc đây mới là người bảo hộ nó. Đức Ông quen biết gia đình chú thiên thần này, ngài sẽ nói anh biết vì sao, chúng tôi tới đây. Này chị Maggie, trong lúc chờ đợi, xin chị hãy nhận cho cái của báu này, nó trĩu nặng trên cánh tay em từ hai ngày… tức là hai giờ. Em chán cái vai trò vú em này lắm rồi. Marguerite hăm hở giật lấy thằng bé đang ngủ, đem vào phòng mình, đặt lên giường, hôn tới tấp lên tay và cổ, bọc ấm trong tấm áo choàng đẹp mặc trong dịp lễ, rồi trở lại chỗ khách ngồi. Bữa ăn tối trôi qua vui vẻ; lúc cuối bữa, nhà quí tộc nói với người gác rừng: — Bà nhà rất khả ái, tỏ ra quan tâm tới thằng bé này, vì vậy tôi quyết định đưa ra với ông một đề nghị dính dáng với hạnh phúc tương lai của ông. Nhưng trước hết, xin cho phép tôi được trình bày ông rõ một số chi tiết đặc biệt về gia đình, sự sinh ra và thân phận hiện nay của đứa trẻ mồ côi khốn khổ mà tôi là người bảo hộ độc nhất. Cha nó là bạn đồng ngũ cũ của tôi trong thời niên thiếu, giữa nơi doanh trại; ông là bạn tốt và thân nhất của tôi. Khoảng đầu triều đại đức vua Henry đệ nhị, chúng tôi cùng đóng với nhau tại Pháp, khi thì ở Normandie, khi thì ở Aquitaine, khi thì ở Poiton; sau mấy năm cách biệt, chúng tôi gặp lại nhau trong xứ Galles. Anh bạn tôi, trước khi rời Pháp, có yêu say đắm một thiếu nữ, đã cưới rồi đem cô ta về Anh ở với gia đình mình. Chẳng may gia đình này lại thuộc một chi phái của một nhà vương giả, vốn tự hào, kiêu hãnh, đây óc thành kiến, không chịu thâu nhận người thiếu phụ đó, cô ta thì nghèo, chỉ có sự cao quí về tình cảm mà thôi. Sự sỉ nhục đó đập mạnh vào tim cô ta, cô ta chết tám ngày sau khi cho ra đời đứa bé mà tôi muốn cậy ông coi sóc; nó không còn cha nữa, vì anh bạn khốn khổ của tôi đã bị thương vong trong một trận chiến ở Normandie, nay đã mười tháng. Những ý nghĩ của bạn tôi lúc sắp chết là hướng về đứa con trai, anh ta kêu tôi đến, vội vàng cho tôi biết tên và địa chỉ của bà vú nuôi đứa bé, rồi yêu cầu tôi nhân danh tình thâm giao của chúng tôi mà nhận làm chỗ nương tựa, người bảo hộ cho đứa con côi. Tôi thề và tôi giữ lời thề, nhưng sứ mạng của tôi thực khó nhà làm trọn vẹn, thưa ông Gilbert, tôi còn là quân nhân, sống trong doanh trại hoặc ngoài chiến trường, không thể tự mình trông nom đứa bé yếu ớt này được. Về mặt khác, tôi không có bà con, bè bạn nào để có thể gửi gắm báu vật này mà không sợ cả. Tôi không còn biết khấn vái thần thánh nào nữa, thì một ý nghĩ chợt đến với tôi là nên hỏi Roland Ritson, là em vợ ông: anh ta tức thì nghĩ ngay đến ông, anh ta nói với tôi rằng, đã tám năm rồi xe duyên với một người vợ đức hạnh, đáng kính, ông vẫn chưa có được hạnh phúc làm cha, chắc chắn ông sẽ vui lòng đón nhận vào dưới mái nhà một trẻ mồ côi khốn khổ, con trai của một quân nhân dũng cảm. Nếu như Chúa ban cho đứa bé này mạng sống và sức khỏe, nó sẽ là người sống kề cận tôi trong lúc tuổi già; tôi sẽ kể lại cho nó nghe câu chuyện đau buồn và vẻ vang của đấng sinh thành ra nó; tôi sẽ dạy nó bước đi vững chắc trong cùng những nẻo đường mà chúng tôi, người cha oai dũng của nó và tôi, đã bước đi. Trong khi chờ đợi, xin ông nuôi nấng thằng bé giống như nó là con ông, mà ông sẽ chẳng phải nuôi nấng không công đâu, tôi xin đoan quyết với ông như vậy. Thưa ông Gilbert, xin ông hãy trả lời: ông có chấp nhận đề nghị của tôi không? Nhà quí tộc lo âu chờ đợi lời đáp của người gác rừng. Người gác, trước khi giao ước, đưa mắt nhìn vợ dò hỏi; nhưng bà Marguerite xinh đẹp ngoảnh đầu đi rồi, nghiêng cổ hướng về phía phòng bên, bà tươi cười lắng nghe tiếng đứa bé thở thì thào nhỏ nhẹ. Ritson, lén liếc mắt nhận xét về mặt của đôi vợ chồng, biết rằng chị mình đã sẵn lòng giữ đứa bé, mặc dầu Gilbert còn do dự, liền nói bằng giọng thuyết phục: — Tiếng cười của chú thiên thần này sẽ tạo nên niềm vui của gia đình chị, chị Maggie hiền hòa ạ. Lạy thánh Pierre! Tôi đoan chắc với chị như vậy, chị sẽ còn được nghe một thứ tiếng nữa cũng chẳng kém vui đâu, đó là tiếng những đồng ghi-nê mà Đức Ông đây hàng năm sẽ rót vào tay chị. Chà! Tôi trông thấy chị đã giàu có và luôn luôn sung sướng, dắt tay thằng bé xinh đẹp này trong các cuộc hội hè trong vùng, nó sẽ gọi chị là mẹ: nó sẽ ăn vận giống như một ông hoàng, sáng chói như vầng thái dương, còn chị thì rạng rỡ vì vui thú và kiêu hãnh. Marguerite không trả lời gì cả, nhưng nhìn Gilbert mà cười. Gilbert thì lặng lẽ, khiến cho nhà quí tộc hiểu lầm. Ông chau mày nói: — Thế nào, ông Gilbert, ông do dự sao? Đề nghị của tôi không vui lòng ông ư? — Xin lỗi ngài, đề nghị của ngài khiến tôi rất vui, chúng tôi sẽ giữ chú bé này, nếu như Maggie không thấy có chi trở ngại. Mình ơi, em nghĩ gì cứ nói ra, ý em sẽ là ý anh. — Vị quân nhân dũng cảm này có lý lắm, - thiếu phụ đáp; - ngài không thể nào nuôi nấng chú bé này được. — Thế thì sao? — Thì sao ư? Em sẽ là mẹ nó, chứ còn sao nữa. - Rồi hướng về phía nhà quí tộc, bà nói thêm: - Nếu một ngày nào đó ngài muốn lấy lại cậu con nuôi này, chúng tôi sẽ đau lòng mà trả lại ngài, nhưng chúng tôi sẽ tự an ủi dẫu rằng mất nó, vì nghĩ rằng từ đây được gần ngài, nó sẽ sung sướng hơn là ở dưới mái nhà tầm thường của một kẻ gác rừng nghèo khổ. — Lời của vợ tôi là một cam kết, - Gilbert nói tiếp, - còn về phần tôi, tôi thề coi sóc chú bé này và làm cha của nó. Thưa ngài kỵ sĩ, đây là bảo chứng cho lòng thành tín của tôi. Ông rút một chiếc bao tay ở thắt lưng ra, ném lên mặt bàn. Nhà quí tộc cũng ném một chiếc bao tay lên bàn, trả lời: — Thành tín đáp lại thành tín, bao tay đền lại bao tay. Bây giờ cần phải thỏa thuận về khoản tiền ăn ở của thằng bé. Nào, ông hãy cầm lấy số tiền này; hàng năm ông sẽ nhận được bằng ngần ấy. Rút từ phía dưới tấm áo ngắn ra một túi da nhỏ đựng đầy tiền vàng, nhà quí tộc cố gắng đặt túi đó vào tay người gác rừng. Nhưng ông ta từ chối không nhận. — Xin ngài hãy giữ lại số vàng này; bánh mì và những cái vuốt ve của Marguerite thì không bán đâu. Một lát lâu sau cái túi da nhỏ từ tay Gilbert được đưa trả lại nhà quí tộc. Cuối cùng người ta điều đình rồi đồng ý, theo đề nghị của Marguerite, là số tiền ăn ở được trả hàng năm cho đứa bé sẽ được để vào một nơi chắc chắn, để rồi sẽ trao lại cho nó khi đến tuổi trưởng thành. Sự việc đã được dàn xếp vừa lòng tất cả, mọi người chia tay nhau, đi ngủ. Rạng sáng hôm sau, Gilbert trở dậy, thèm thuồng ngắm những con ngựa của khách; Lincoln đang bận chải ngựa. Gilbert nói với người đầy tớ: — Con vật đẹp ơi là đẹp! Chẳng ai tin là chúng vừa mới rong ruổi suốt hai ngày trời, vì chúng tỏ ra còn mạnh mẽ lắm. Lạy Chúa! Chỉ có các ông hoàng mới được cưỡi những con tuấn mã như thế này, hẳn là chúng phải đáng giá cả khối bạc to sụ như hai con ngựa của ta. Nhưng mà ta đã quên khuấy mất chúng, những bạn đồng hành khốn khổ này! Máng cỏ của chúng chắc là trống không. Thế rồi Gilbert bước vào chuồng ngựa. Chuồng vắng tanh vắng ngắt. — Sao thế này, chúng không còn ở đây. Ôi! Lincoln ơi, mày đã dắt ngựa ra đồng cho ăn cỏ phải không? — Thưa ông chủ, không. — Thực lạ lùng quá, - Gilbert nói lẩm bẩm; rồi xúc động vì một dự cảm thầm kín, ông chạy xông vào phòng của Ritson. Ritson không có mặt tại đây. Nhưng có lẽ cậu ta đã đi đánh thức ngài quí tộc, Gilbert bụng bảo dạ như vậy trong khi bước sang phòng của vị kỵ sĩ. Phòng này vắng tanh. Marguerite bế thằng bé mồ côi xuất hiện. Gilbert , kêu lên: — Mình ơi, ngựa của ta biến mất rồi! — Làm sao lại có thể thế được! … — Họ đã cưỡi ngựa của ta đi, mà bỏ ngựa họ lại cho chúng ta. — Nhưng vì sao họ lại bỏ ta mà ra đi như vậy kia chứ? — Hãy đoán xem, Maggie ạ, anh chẳng biết gì cả về chuyện này. — Có lẽ họ muốn giấu không cho ai biết họ đi hướng nào. — Thế thì có lẽ họ đã làm điều chi xấu xa phải tự trách mình chăng? — Họ không muốn cho ta biết trước họ lấy ngựa ta thế cho ngựa mệt lử của họ. — Không phải thế đâu: không ai cho là ngựa của họ đã đi tám ngày, vì sáng nay chúng còn tỏ ra lanh lẹ, mạnh mẽ lắm. — Kỳ lạ quá! Thôi đừng nghĩ đến nữa! Nào, hãy ngắm xem thằng bé xinh đẹp biết bao, đang cười kia kìa. Hãy hôn nó đi. — Rất có thể là vị quí tộc không quen biết đó vì muốn đền ơn ta nên đã đổi hai con ngựa đáng giá của ông ta lấy hai con ngựa già khọm của mình. — Có lẽ thế; vì sợ mình từ chối, ông ta đã ra đi trong lúc mình còn ngủ. — Ừ! Nếu quả là như vậy, tôi xin hết lòng cảm tạ ông ta; nhưng tôi chẳng hài lòng về cậu Ritson chút nào, cậu ta phải chào mình mới phải. — Ồ! Thế ra anh không biết, từ khi cô Annette, em gái khốn khổ của anh, vợ chưa cưới của cậu ta, chết đi, Ritson xa lánh vùng này hay sao? Cái cảnh hạnh phúc của vợ chồng mình sẽ gợi lại nỗi khổ của cậu ta. Gilbert thở dài thườn thượt đáp: — Em nói đúng. Annette đáng thương! Marguerite nói tiếp: — Trong vụ này phiền nhất là chúng ta không có cả họ tên, lẫn địa chỉ của vị bảo hộ thằng bé đó. Nếu nó bệnh, thì ta biết báo cho ai? Còn nó nữa, chúng ta sẽ gọi làm sao đây? — Hãy chọn tên cho nó, Marguerite ạ. — Anh hãy tự mình chọn lấy đi, Gilbert; nó là con trai, thì việc này là thuộc phần anh. — Ừ! Nếu em thích, chúng ta sẽ cho nó tên của người anh mà anh đã rất yêu mến; anh không thể nghĩ đến Annette mà không tưởng nhớ đến anh Robin bất hạnh. — Được rồi, thế là nó được đặt tên, và đây là thằng Robin dễ thương của chúng mình! Marguerite vừa nói to vừa phủ đầy những nụ hôn lên mặt đứa bé, nó cười với bà ta như thể bà Marguerite hiền hòa kia là mẹ sinh ra nó. Như vậy là đứa trẻ mồ côi ấy được đặt tên là Robin Head. Sau này, không hiểu vì sao, tiếng Head được đổi thành Hood, và đứa bé xa lạ này lừng lẫy tiếng tăm dưới cái tên Robin Hood. Một thứ tiền tệ xưa của nước Anh. Mời các bạn đón đọc Robin Hood Chúa Trộm Oai Hùng của tác giả Alexandre Dumas & Cao Xuân Hạo (dịch) & Trần Hoàng Ly (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Con Dao Kì Ảo (Vật Chất Tối của Ngài #2)
Con dao kì ảo là phần hai của một câu chuyện gồm ba tập, khởi đầu bằng cuốn Bắc Cực Quang. Tập này di chuyển giữa ba vũ trụ: vũ trụ của Bắc Cực Quang, giống như vũ trụ của chúng ta nhưng lại khác biệt ở nhiều mặt; vũ trụ mà chúng ta biết; và một vũ trụ thứ ba, cũng khác biệt với vũ trụ của chúng ta ở nhiều mặt khác. *** “Ví như giấc mơ tuyệt vời nhất, luôn đầy thuyết phục và cũng rất phức tạp, ngập tràn những ngạc nhiên, lo sợ và thích thú. Sức sáng tạo của Pullman dành cho nhân vật, cốt truyện và logic khiến người ta phải ghen tị với chất xám của ông.” - Telegraph “Những mạch truyện viễn tưởng, kinh dị và sự điên rồ khủng khiếp hoà lẫn với tài năng hiếm có đầy mê hoặc.” - The Times “Pullman là bậc thầy trong việc kết hợp tạo hình nhân vật hoàn hảo và xây dựng cốt truyện mạch lạc, duy trì một nhịp độ nhanh khi tạo các cảnh chồng nối lên nhau với áp lực khó cưỡng. Viên ngọc lấp lánh này sẽ khiến độc giả thuộc mọi lứa tuổi phải ngóng đợi hồi tiếp theo về những cuộc phiêu lưu của Lyra.” - Publishers Weekly “Một câu chuyện viễn tưởng đầy kinh ngạc, một bộ trinh thám nảy lửa và một sự phản ánh đáng suy ngẫm về tình trạng của loài người. Đây là một cuốn sách có thể được thưởng thức ở nhiều cấp độ.” - Guardian *** VẬT CHẤT TỐI CỦA NGÀI (His Dark Materials), cũng giống như Chúa tể của những chiếc nhẫn - tải eBook, Biên niên sử Narnia - tải eBook và Harry Potter - tải eBook, là một trong những bộ truyện giả tưởng Anh ngữ dành cho trẻ em đã được đánh giá cao của thời đại. Hai tập sau của truyện lần lượt là Kỳ Ảo Đao hay Thanh Gươm Huyền Bí (The Subtle Knife) và Hổ Phách Kính (The Amber Spyglass). Ánh Sáng Phương Bắc đã được hãng phim Hollywood New Line Cinema chuyển thể thành phim "The Golden Compass", đã khởi chiếu vào ngày 5 tháng 12 năm 2007 tại Anh (7 tháng 12 tại Mỹ và 26 tháng 12 tại Úc). Phim là sản phẩm có kinh phí cao nhất của hãng này kể từ phim Chúa tể của những chiếc nhẫn. Ánh Sáng Phương Bắc miêu tả một vũ trụ giả tưởng, nơi mà có phù thủy bay, chiến binh gấu Bắc cực, linh hồn của con người trong dạng thú và một chế độ tăng lữ độc tài. Nhân vật chính của truyện là một bé gái mồ côi 11 tuổi tên Lyra Belacqua. Cô bé được nuôi nấng bởi một khoa học gia, Ngài Asriel. Ngài Asriel bị giáo hội bỏ tù vì nghiên cứu Bụi, một vật chất tối được cho là ẩn chứa đầy tội lỗi. Người bạn thân của Lyra là Roger bị bắt cóc bởi tổ chức Những Kẻ Nuốt Chửng (The Gobblers) và cô bé quyết định lên đường giải cứu bạn mình. Một người phụ nữ quyền lực tên Marisa Coulter đã đề nghị giúp Lyra. Trước khi đi, hiệu trưởng trường Jordan tặng cho cô bé Chân La Bàn (Alethiometer), một dụng cụ thần kỳ chỉ đến sự thật. Tuy nhiên, khi Lyra phát hiện ra bà Coulter là người xấu, cô bé chạy trốn, thoát khỏi sự truy đuổi và được một nhóm người Gypsy cưu mang. Họ tiết lộ Ngài Asriel và bà Coulter chính là cha mẹ ruột của cô bé. Lyra cùng họ vượt biển tiến về Bắc Cực, theo chỉ dẫn của Chân La Bàn. Trên đường, họ bị tấn công và Lyra bị bắt về Bolvangar, nơi giam giữ những đứa trẻ bị bắt cóc. Lyra dùng chiếc Chân La Bàn và trí thông minh của mình vượt ngục cùng những đứa trẻ khác. Chúng được phi hành gia Lee Scoresby, nữ hoàng ma thuật Serafina Pekkala và chiến binh gấu Iorek Byrnison cứu thoát. Sau đó, Lyra đi cứu Lord Asriel. Ông vừa thành công trong việc khám phá ra nguyên lý của Bụi và cầu nối với một vũ trụ song song. Truyện kết thúc khi linh thú của Roger bị té xuống vực, làm cậu bé chết theo. Lyra và Lord Asriel bước qua thế giới mới. *** VẬT CHẤT TỐI CỦA NGÀI (Philip Pullman) là series Fantasy kinh điển và đồ sộ đã nhận được nhiều giải thưởng danh giá, trong đó có Huân chương Carnegie!! Tác phẩm kể về chuyến phiêu lưu giữa các thế giới song song của Lyra Belacqua và Will Parry – hai đứa trẻ tầm thường có số phận trói buộc với nhau bởi những thế lực vượt xa thế giới của chính mình. Chúng sẽ gặp các phù thuỷ và gấu mặc giáp, thiên thần sa ngã cùng loài quỷ ăn linh hồn. Và cuối cùng, số phận của tất cả những người đang sống - và những người đã chết - sẽ phụ thuộc vào chúng... *** Thương hiệu sách trẻ của Nhà xuất bản Kim Đồng vừa ra mắt bộ tiểu thuyết Fantasy kinh điển "Vật chất tối của ngài" của tác giả Philip Pullman. Tác phẩm này đã 2 lần được chuyển thể thành phim và nhận được nhiều giải thưởng danh giá, trong đó có huân chương văn học Carnegie. "Vật chất tối của ngài" gồm 3 tập: Tập 1 - Bắc Cực Quang (còn được biết đến với cái tên La Bàn Vàng khi xuất bản tại thị trường Bắc Mỹ), Tập 2 - Con Dao Kì Ảo và Tập 3 - Ống Nhòm Hổ Phách, được phát hành từ năm 1995 đến 2000. Tác phẩm đã hai lần được chuyển thể thành phim và nhận được nhiều giải thưởng  Tác phẩm đã được dịch sang gần 30 ngôn ngữ tại hơn 100 quốc gia, danh tiếng sánh ngang với Harry Potter, Biên Niên Sử Narnia, Chúa Tể Những Chiếc Nhẫn, Trò Chơi Vương Quyền. "Vật chất tối của ngài" có tên gọi được gợi cảm hứng từ tác phẩm Paradise Lost (Thiên đường đã mất) của John Milton, kể về chuyến phiêu lưu giữa các thế giới song song của Lyra Belacqua và Will Parry - hai đứa trẻ tầm thường có số phận trói buộc với nhau bởi những thế lực vượt xa thế giới của chính mình. Tác phẩm mở đầu tại một thế giới viễn tưởng có nhiều điểm tương đồng với thế giới thực mà chúng ta đang sống Thế giới này không chỉ có sự phát triển của khoa học, vật lí, thiên văn học, mà còn có sự tồn tại của các phù thủy, gấu mặc áo giáp, quỷ ăn linh hồn và những thế lực đen tối khác. Ở đây, con người cùng tồn tại bên cạnh một phần linh hồn của mình dưới dạng thú (daemons – linh thú). Nhân vật chính là Lyra Belacqua, cô bé đang sống cuộc đời nửa hoang dã giữa các học giả của Học viện Jordan, Oxford mà không biết rõ về thân phận thật của mình. Cùng với linh thú Pantalaimon, phần lớn thời gian Lyra lang thang khám phá mọi ngõ ngách trong lãnh thổ Học viện cũng như Oxford, kết bạn với những đứa trẻ phụ bếp, trẻ con du mục, và sáng tạo ra những chuyến phiêu lưu của riêng chúng... Tại thời điểm ấy, có điều gì đó kì lạ và bí ẩn vẫn đang diễn ra tại vùng đất Phương Bắc. Nhiều nhà thám hiểm từng lên đường tìm kiếm sự thật, và nhiều người không bao giờ trở lại. Cùng lúc đó những vụ bắt cóc trẻ em do những kẻ háu ăn gây ra liên tiếp xảy đến, trong đó nạn nhân có cả người bạn thân thiết của Lyra. Số phận được định sẵn đã cuốn Lyra vào một hành trình đầy hiểm nguy lên Phương Bắc băng giá để tìm người bạn bị bắt cóc, trải qua những thử thách không thể đo đếm nổi, trước khi dẫn cô đến với một người bạn đồng hành đặc biệt - Will Parry… Với những giá trị về vật lí học, triết học và thần học được gửi gắm, Vật Chất Tối Của Ngài được đánh giá là một trong những loạt truyện kì ảo có giá trị nhất cuối thế kỉ 20. Năm 2007, "Vật chất tối của ngài" có Tập 1 được chuyển thể thành phim điện ảnh với tên gọi LA BÀN VÀNG. Toàn bộ series sách sẽ trở lại màn ảnh nhỏ vào cuối năm 2019, trong series phim truyền hình do HBO và BBC sản xuất, với sự tham gia của dàn diễn viên nổi tiếng: Dafne Keen, James McAvoy, Ruth Wilson, Lin-Manuel Miranda, Clarke Peters, Lucian Msamati... Trọn bộ 3 tập sách "Vật chất tối của ngài": Bắc Cực Quang, Con Dao Kì Ảo, Ống Nhòm Hổ Phách đã được dịch và phát hành tại Việt Nam dưới cả hai hình thức: Bán lẻ & Limied Boxset, qua bản dịch của dịch giả Trang Rose. Sách có diện mạo được làm mới hoàn toàn so với phiên bản gốc, mang đậm màu sắc Fantasy. Sách có diện mạo được làm mới hoàn toàn so với phiên bản gốc, mang đậm màu sắc Fantasy. Philip Pullman sinh ra tại Norwich vào năm 1946, là một nhà văn nổi danh thế giới. Các tiểu thuyết của ông đã giành được mọi giải thưởng lớn dành cho truyện thiếu nhi cũng như cho thanh thiếu niên, và hiện cũng nằm trong danh sách những cuốn sách bán chạy nhất dành cho người lớn. Bộ 3 "Vật chất tối của ngài" đã đứng thứ ba trong cuộc thi “Big Read” của đài BBC năm 2003 để tìm ra cuốn sách được yêu thích nhất trên toàn Anh quốc. Vào năm 2005, ông được trao tặng Giải Tưởng niệm Astrid Lindgren - giải thưởng lớn nhất thế giới cho văn học thiếu nhi. *** ill kéo tay mẹ và nói: “Đi nào, đi nào mẹ…” Nhưng mẹ cậu lại chần chừ. Bà vẫn sợ. Will đưa mắt rà soát khắp con phố nhỏ nhuộm ánh trời chiều, dọc theo những hiên nhà nằm sau các khu vườn nhỏ xíu và hàng rào cây hoàng dương, trong lúc mặt trời chiếu rọi rực rỡ lên một bên cửa sổ và để bên còn lại ngập chìm trong bóng tối. Không còn nhiều thời gian nữa. Lúc này mọi người hẳn đang dùng bữa, chẳng bao lâu nữa những đứa trẻ khác sẽ tới, nhìn ngó, bình luận và nhận ra. Đợi chờ là rất nguy hiểm, nhưng như thường lệ, tất cả những gì cậu bé có thể làm chỉ là thuyết phục mẹ mình. “Mẹ, cùng vào gặp bà Cooper đi,” cậu nói. “Xem này, chúng ta gần tới nơi rồi.” “Bà Cooper à?” Bà ngờ vực hỏi. Nhưng cậu bé đã rung chuông cửa. Cậu phải đặt cái túi xuống để làm việc đó vì tay còn lại vẫn đang nắm lấy tay mẹ. Đáng lẽ cậu đã rất bực bội nếu bị phát hiện rằng mười hai tuổi rồi mà vẫn còn nắm tay mẹ, nhưng cậu biết chuyện gì sẽ xảy ra với bà nếu không làm vậy. Cánh cửa mở ra, đứng đó là bóng dáng lưng còng già cỗi của vị giáo viên piano, với mùi nước oải hương phảng phất mà cậu bé vẫn còn nhớ. “Ai đó? Có phải William không?” Bà già hỏi. “Hơn một năm rồi ta chưa gặp cháu. Có chuyện gì vậy, cháu yêu?” “Cháu muốn vào trong, xin bà, cả mẹ cháu nữa,” cậu nói vẻ kiên quyết. Bà Cooper nhìn người đàn bà đầu tóc rối bời, mép nhếch lên thành một nụ cười ngờ nghệch, rồi sang thằng bé với ánh nhìn chòng chọc đầy bất hạnh, đôi môi mím chặt, hàm dô ra. Rồi bà thấy rằng bà Parry, mẹ của Will, chỉ trang điểm duy nhất một bên mắt mà bản thân không hề nhận ra. Cả Will cũng không để ý thấy. Có chuyện gì đó không ổn. “Thôi được rồi…” Bà nói rồi bước tránh sang một bên để nhường chỗ trong hành lang hẹp. Will rà soát con đường trước khi đóng cửa lại. Bà Cooper nhận thấy bà Parry đang giữ chặt lấy tay con trai mình, còn cậu bé thì ân cần dẫn mẹ vào phòng khách nơi chiếc piano được đặt (hẳn nhiên đó là phòng duy nhất cậu biết). Bà cũng nhận thấy quần áo của bà Parry hơi có mùi mốc, như thể chúng đã ở trong máy giặt quá lâu rồi mới được sấy; và nét tương đồng giữa hai người khi họ ngồi trên sofa, để cho nắng chiều rọi lên toàn bộ gương mặt: hai gò má rộng, đôi mắt to tròn, hàng lông mày đen thẳng băng. “Sao vậy William?” Bà già hỏi. “Có chuyện gì thế?” “Mẹ cháu cần một chỗ ở tạm trong vài ngày,” cậu đáp. “Ngay lúc này thì việc chăm sóc mẹ ở nhà là quá khó khăn. Ý cháu không phải là mẹ cháu bị ốm. Mẹ cháu chỉ có chút lẫn lộn, bối rối và hơi lo lắng tí thôi. Không khó để chăm sóc mẹ cháu đâu ạ. Mẹ chỉ cần có ai đó đối xử tử tế với mình và cháu nghĩ bà có thể làm việc đó khá dễ dàng, có lẽ vậy.” Người đàn bà đang nhìn con mình nhưng chẳng có vẻ gì là hiểu chuyện, bà Cooper nhận thấy một vết bầm trên má bà. Will không hề rời mắt khỏi bà Cooper, trông cậu bé thật tuyệt vọng. “Mẹ cháu sẽ không gây tốn kém đâu ạ,” cậu nói tiếp. “Cháu có mang vài gói thức ăn đủ cho mấy ngày, cháu nghĩ vậy. Bà cũng có thể ăn cùng nữa. Mẹ cháu không ngại phải chia sẻ đâu ạ.” “Nhưng… Ta không biết liệu mình có nên… Chẳng phải bà ấy cần một bác sĩ sao?” “Không! Mẹ cháu đâu có bệnh.” “Nhưng chắc hẳn phải có người nào đó có thể… Ý ta là, không có hàng xóm hay ai đó trong gia đình…” “Chúng cháu không có họ hàng nào cả. Chỉ có hai người bọn cháu thôi. Còn hàng xóm thì quá bận rộn.” “Vậy còn dịch vụ xã hội thì sao? Ta không có ý ngăn cháu, cưng ạ, nhưng…” “Không! Không. Mẹ cháu chỉ cần một chút trợ giúp thôi. Cháu không thể hỗ trợ mẹ trong một thời gian nhưng sẽ không lâu đâu ạ. Cháu sắp… Cháu có việc cần làm. Nhưng cháu sẽ sớm trở lại để đưa mẹ về nhà, cháu hứa đấy. Bà sẽ không phải làm lâu đâu ạ.” Sự tin tưởng trong ánh mắt khi người mẹ nhìn đứa con trai của mình, sự trìu mến và an lòng khi thằng bé quay lại mỉm cười với bà khiến bà Cooper không nỡ từ chối. “Chà,” bà nói trong lúc quay sang phía bà Parry, “chỉ một vài ngày thì sẽ không có vấn đề gì. Cô có thể sử dụng phòng của con gái ta, nó đang ở Australia, nó sẽ không cần cái phòng nữa đâu.” “Cảm ơn bà,” Will nói rồi đứng bật dậy như thể đang vội phải đi ngay. “Nhưng cháu định sẽ ở đâu?” Bà Cooper hỏi. “Cháu sẽ đến ở với một người bạn,” cậu đáp. “Cháu sẽ gọi điện thường xuyên nhất có thể. Cháu có số của bà rồi. Sẽ ổn thôi ạ.” Mẹ cậu bé đang nhìn cậu đầy kinh ngạc. Cậu cúi xuống vụng về hôn bà. “Mẹ đừng lo,” cậu nói. “Bà Cooper sẽ chăm sóc mẹ tốt hơn con, thật đấy. Ngày mai con sẽ gọi điện nói chuyện với mẹ nhé.” Mời các bạn đón đọc Con Dao Kì Ảo (Vật Chất Tối của Ngài #2) của tác giả Philip Pullman & Trang Rose (dịch).
Bắc Cực Quang (Vật Chất Tối của Ngài #1)
Bắc Cực Quang là phần đầu của một câu chuyện gồm ba tập. Bối cảnh của tập đầu tiên được đặt trong một vũ trụ giống như của chúng ta, nhưng lại khác biệt về rất nhiều mặt. Tập thứ hai, Con dao kì ảo, di chuyển giữa ba vũ trụ: vũ trụ của Bắc Cực Quang; vũ trụ mà chúng ta biết; và một vũ trụ thứ ba, cũng rất khác biệt với vũ trụ của chúng ta về nhiều mặt. Tập cuối cùng của bộ ba cuốn, Ống nhòm hổ phách, di chuyển giữa vài vũ trụ khác nhau. *** “Ví như giấc mơ tuyệt vời nhất, luôn đầy thuyết phục và cũng rất phức tạp, ngập tràn những ngạc nhiên, lo sợ và thích thú. Sức sáng tạo của Pullman dành cho nhân vật, cốt truyện và logic khiến người ta phải ghen tị với chất xám của ông.” - Telegraph “Những mạch truyện viễn tưởng, kinh dị và sự điên rồ khủng khiếp hoà lẫn với tài năng hiếm có đầy mê hoặc.” - The Times “Pullman là bậc thầy trong việc kết hợp tạo hình nhân vật hoàn hảo và xây dựng cốt truyện mạch lạc, duy trì một nhịp độ nhanh khi tạo các cảnh chồng nối lên nhau với áp lực khó cưỡng. Viên ngọc lấp lánh này sẽ khiến độc giả thuộc mọi lứa tuổi phải ngóng đợi hồi tiếp theo về những cuộc phiêu lưu của Lyra.” - Publishers Weekly “Một câu chuyện viễn tưởng đầy kinh ngạc, một bộ trinh thám nảy lửa và một sự phản ánh đáng suy ngẫm về tình trạng của loài người. Đây là một cuốn sách có thể được thưởng thức ở nhiều cấp độ.” - Guardian *** VẬT CHẤT TỐI CỦA NGÀI (His Dark Materials), cũng giống như Chúa tể của những chiếc nhẫn - tải eBook, Biên niên sử Narnia - tải eBook và Harry Potter - tải eBook, là một trong những bộ truyện giả tưởng Anh ngữ dành cho trẻ em đã được đánh giá cao của thời đại. Hai tập sau của truyện lần lượt là Kỳ Ảo Đao hay Thanh Gươm Huyền Bí (The Subtle Knife) và Hổ Phách Kính (The Amber Spyglass). Ánh Sáng Phương Bắc đã được hãng phim Hollywood New Line Cinema chuyển thể thành phim "The Golden Compass", đã khởi chiếu vào ngày 5 tháng 12 năm 2007 tại Anh (7 tháng 12 tại Mỹ và 26 tháng 12 tại Úc). Phim là sản phẩm có kinh phí cao nhất của hãng này kể từ phim Chúa tể của những chiếc nhẫn. Ánh Sáng Phương Bắc miêu tả một vũ trụ giả tưởng, nơi mà có phù thủy bay, chiến binh gấu Bắc cực, linh hồn của con người trong dạng thú và một chế độ tăng lữ độc tài. Nhân vật chính của truyện là một bé gái mồ côi 11 tuổi tên Lyra Belacqua. Cô bé được nuôi nấng bởi một khoa học gia, Ngài Asriel. Ngài Asriel bị giáo hội bỏ tù vì nghiên cứu Bụi, một vật chất tối được cho là ẩn chứa đầy tội lỗi. Người bạn thân của Lyra là Roger bị bắt cóc bởi tổ chức Những Kẻ Nuốt Chửng (The Gobblers) và cô bé quyết định lên đường giải cứu bạn mình. Một người phụ nữ quyền lực tên Marisa Coulter đã đề nghị giúp Lyra. Trước khi đi, hiệu trưởng trường Jordan tặng cho cô bé Chân La Bàn (Alethiometer), một dụng cụ thần kỳ chỉ đến sự thật. Tuy nhiên, khi Lyra phát hiện ra bà Coulter là người xấu, cô bé chạy trốn, thoát khỏi sự truy đuổi và được một nhóm người Gypsy cưu mang. Họ tiết lộ Ngài Asriel và bà Coulter chính là cha mẹ ruột của cô bé. Lyra cùng họ vượt biển tiến về Bắc Cực, theo chỉ dẫn của Chân La Bàn. Trên đường, họ bị tấn công và Lyra bị bắt về Bolvangar, nơi giam giữ những đứa trẻ bị bắt cóc. Lyra dùng chiếc Chân La Bàn và trí thông minh của mình vượt ngục cùng những đứa trẻ khác. Chúng được phi hành gia Lee Scoresby, nữ hoàng ma thuật Serafina Pekkala và chiến binh gấu Iorek Byrnison cứu thoát. Sau đó, Lyra đi cứu Lord Asriel. Ông vừa thành công trong việc khám phá ra nguyên lý của Bụi và cầu nối với một vũ trụ song song. Truyện kết thúc khi linh thú của Roger bị té xuống vực, làm cậu bé chết theo. Lyra và Lord Asriel bước qua thế giới mới. *** VẬT CHẤT TỐI CỦA NGÀI (Philip Pullman) là series Fantasy kinh điển và đồ sộ đã nhận được nhiều giải thưởng danh giá, trong đó có Huân chương Carnegie!! Tác phẩm kể về chuyến phiêu lưu giữa các thế giới song song của Lyra Belacqua và Will Parry – hai đứa trẻ tầm thường có số phận trói buộc với nhau bởi những thế lực vượt xa thế giới của chính mình. Chúng sẽ gặp các phù thuỷ và gấu mặc giáp, thiên thần sa ngã cùng loài quỷ ăn linh hồn. Và cuối cùng, số phận của tất cả những người đang sống - và những người đã chết - sẽ phụ thuộc vào chúng... *** Lyra và linh thú của cô bé bước qua khu Đại sảnh đang tối dần, cẩn thận nép vào phía khuất với căn bếp. Ba chiếc bàn lớn chạy dọc theo chiều dài Đại sảnh đã được xếp ngay ngắn, các bộ đồ bằng bạc và thủy tinh phản chiếu chút ánh sáng le lói, còn những bộ trường kỉ đã được kéo ra sẵn sàng đón khách. Chân dung các vị Hiệu trưởng cũ được treo cao trong bóng tối lờ mờ chạy dọc các bức tường. Lyra tiến tới bục rồi quay lại nhìn cánh cửa bếp đang mở. Khi không thấy ai, cô bé liền bước lên đứng cạnh bàn trên. Các chỗ ngồi được bày biện đồ bằng vàng chứ không phải bạc, mười bốn chiếc ghế không phải trường kỉ bằng gỗ sồi mà là ghế bằng gỗ gụ bọc đệm nhung. Lyra dừng lại bên cạnh chiếc ghế của Hiệu trưởng và dùng móng tay khẽ búng chiếc li lớn nhất. Âm thanh lảnh lót vang khắp Đại sảnh. “Cậu lại nghịch linh tinh rồi,” linh thú của cô bé thì thào. “Cư xử đúng mực đi nào.” Linh thú của cô có tên Pantalaimon, hiện giờ nó đang trong hình dạng một con bướm đêm có màu nâu thẫm hòa lẫn với bóng tối trong Đại sảnh. “Trong bếp ồn lắm, họ không nghe được đâu,” Lyra thì thầm lại. “Ông Quản lí thì còn lâu mới vào trước tiếng chuông đầu tiên. Đừng có loạn lên thế.” Nói vậy nhưng cô vẫn đặt bàn tay lên chiếc cốc pha lê đang rung. Pantalaimon dập dờn bay về phía trước rồi luồn qua cánh cửa hé mở của Phòng nghỉ ở đầu bên kia bục cao. Một lúc sau nó xuất hiện trở lại. “Không có ai trong đó đâu,” Pantalaimon thì thầm. “Nhưng chúng ta phải khẩn trương lên.” Vừa cúi thấp người sau chiếc bàn trên, Lyra vừa lao đi, qua cánh cửa vào Phòng nghỉ, rồi đứng lên nhìn xung quanh. Ánh sáng duy nhất trong phòng tới từ lò sưởi. Cô bé thấy đám củi cháy rực khẽ sụp xuống, tung lên ống khói một dải tia lửa lấp lánh. Cô đã sống phần lớn thời gian trong Học viện, nhưng chưa từng thấy bên trong Phòng nghỉ: chỉ có các Học giả và khách khứa của họ được phép vào, phụ nữ thì không bao giờ. Thậm chí những người hầu gái cũng không dọn dẹp trong này. Đó là việc của riêng Quản gia. Pantalaimon đậu xuống vai Lyra. “Hài lòng chưa? Đi được rồi chứ?” Nó khẽ nói. “Đừng có ngốc thế! Tớ muốn ngắm xung quanh chút đã!” Đó là một căn phòng lớn, với chiếc bàn trái xoan bằng gỗ hồng sắc bóng loáng bày đủ loại bình rượu, cốc chén, cùng cái máy nghiền thuốc bằng bạc với một giá để tẩu thuốc. Trên tủ buffet cạnh đó là một lò hâm nhỏ và giỏ đựng quả anh túc. “Trông cũng tươm tất đấy chứ, phải không Pan?” Lyra thì thào. Cô bé ngồi xuống một trong những chiếc ghế bành da màu xanh lá. Cái ghế sâu đến mức Lyra thấy mình gần như đang nằm ra, nhưng cô liền ngồi thẳng dậy và gấp chân lại để ngắm những bức chân dung trên tường. Chắc lại thêm mấy ông Học giả già nữa đây: khoác áo choàng, để râu, mặt u sầu, họ nhìn ra khỏi khung tranh với vẻ phản đối đầy nghiêm nghị. “Cậu nghĩ họ nói về chuyện gì?” Lyra hỏi; hoặc bắt đầu hỏi, vì trước khi kịp nói hết câu, cô bé nghe thấy có tiếng nói bên ngoài cửa. “Ra sau ghế - nhanh!” Pantalaimon khẽ kêu lên. Chỉ trong một tích tắc, Lyra đã lao ra khỏi ghế bành và núp phía sau nó. Đó không phải là chỗ tốt nhất để trốn: cô bé đã chọn cái ghế ở ngay giữa phòng, và trừ khi cô giữ yên lặng tuyệt đối… Cánh cửa bật mở khiến ánh sáng trong phòng thay đổi: một trong những người bước vào cầm theo đèn và đặt nó lên trên tủ buffet. Lyra có thể nhìn thấy chân ông ta trong ống quần màu xanh thẩm và đôi giày đen bóng loáng. Đó là một người phục vụ. Đột nhiên một giọng nói trầm vang lên: “Ngài Asriel đã tới chưa?” Đó là Hiệu trưởng. Trong lúc nín thở, Lyra nhìn thấy linh thú của người phục vụ (một chú chó, giống như hầu hết linh thú của những người phục vụ khác) rảo bước vào và lặng lẽ ngồi xuống bên chân ông. Sau đó đôi chân của Hiệu trưởng cũng hiện ra, trong đôi giày đen xù xì ông vẫn hay mang. “Chưa ạ, thưa Hiệu trưởng,” Quản gia nói. “Cũng chưa có tin gì từ Cảng hàng không ạ.” “Ta đoán khi tới ông ấy sẽ đói. Anh dẫn ông ấy vào thẳng Đại sảnh nhé?” “Đã rõ, thưa Hiệu trưởng.” “Anh cũng đã chắt sẵn chút rượu Tokay đặc biệt cho ông ấy rồi chứ?” “Vâng, thưa Hiệu trưởng. Rượu năm 1898, như ngài đã lệnh. Tôi nhớ là Ngài ấy rất thích loại đó.” “Tốt. Giờ thì anh đi được rồi.” “Ngài có cần đèn không, thưa Hiệu trưởng?” “Có, cứ để nó lại. Đến bữa tối anh vào khơi bấc được chứ?” Người Quản gia khẽ cúi chào rồi quay đi, linh thú của ông ngoan ngoãn chạy theo sau. Từ chỗ không-hẳn-là-chỗ-trốn của mình, Lyra quan sát ông Hiệu trưởng bước tới bên tủ quần áo lớn bằng gỗ sồi trong góc phòng, gỡ áo choàng dài của mình ra khỏi mắc, rồi vất vả kéo nó lên người. Hiệu trưởng vốn là một người khỏe mạnh, nhưng giờ khi đã quá bảy mươi tuổi, những cử động của ông trở nên khó nhọc và chậm chạp. Linh thú của Hiệu trưởng mang hình dạng một con quạ. Ngay khi ông vừa khoác xong áo, nó liền nhảy xuống khỏi tủ và đậu lên vị trí quen thuộc trên vai phải của ông. Lyra có thể cảm thấy lông của Pantalaimon dựng đứng lên vì lo lắng, dù nó không phát ra tiếng động nào. Bản thân cô bé thì thấy hào hứng một cách dễ chịu. Vị khách mà Hiệu trưởng nhắc tới, Ngài Asriel, là bác của cô, một người đàn ông mà cô bé vừa kính trọng vừa rất e sợ. Nghe nói ông có tham gia vào chính trị cấp cao, thám hiểm bí mật, chiến tranh viễn xứ, và cô bé không bao giờ biết được khi nào ông sẽ xuất hiện. Ngài Asriel rất dữ tợn: ông mà bắt được Lyra ở đây thì cô bé sẽ bị trừng trị nghiêm khắc, nhưng cô có thể chịu đựng được điều đó. Tuy nhiên, điều cô thấy tiếp đó đã thay đổi tất cả. Ông Hiệu trưởng lấy từ trong túi ra một mảnh giấy gấp và đặt nó lên bàn. Ông nhấc nút chiếc bình đựng một loại rượu vàng óng ả ra, mở gói giấy và đổ một dải bột trắng vào bình trước khi vo tròn tờ giấy lại rồi vứt vào lửa. Sau đó ông lấy một cây bút chì ra khỏi túi, ngoáy rượu cho tới khi bột tan và đóng nút lại. Linh thú của ông khẽ kêu lên. Hiệu trưởng nhỏ giọng đáp lại rồi nhìn xung quanh bằng đôi mắt đục sụp mí trước khi bước ra khỏi cánh cửa mà ông đã vào. Mời các bạn đón đọc Bắc Cực Quang (Vật Chất Tối của Ngài #1) của tác giả Philip Pullman & Trang Rose (dịch).
Lính Trơn - Khoa Học Lạ Kỳ Về Loài Người Trong Chiến Tranh
Từ Chiến tranh thế giới thứ hai đến nay, chúng ta đã luôn chứng kiến một quân đội Hoa Kỳ hùng mạnh, tinh nhuệ và uy hiếp bậc nhất hoàn cầu. Chúng ta thấy bom nguyên tử, tên lửa hành trình, hàng không mẫu hạm, máy bay trực thăng, xe tăng tối tân hay những đơn vị đặc nhiệm SEAL sát thủ…. Nhưng có lẽ hiếm khi người ta có thể có cái nhìn vào đằng sau cỗ máy chiến tranh đó như trong cuốn sách này. Bên dưới tấm màn sắt của khoa học quân sự chính là những thứ khoa học kỹ thuật rất nhân bản, rất đời thường, với trung tâm là “lính trơn”. Tác giả Mary Roach sẽ dẫn chúng ta trải qua một hành trình khám phá và trải nghiệm thực sự lạ kỳ về hậu cần chiến tranh, từ cách người ta lo cái ăn cái mặc cho binh lính, cho đến cách giúp các quân nhân đối phó với “Tào Tháo đuổi” trong khi làm nhiệm vụ, hay những nỗ lực của các bác sĩ quân y trong việc phục hồi khả năng “yêu” của thương binh, hay cách họ “hỏi chuyện” những tử sĩ để cải thiện an toàn cho những người sống… Chiến tranh vẫn gắn liền với sự tàn khốc và cái chết, nhưng nó cũng có thể rất đời thường, đầy ắp hơi thở của sự sống cùng những vấn đề dở khóc dở cười vô cùng sinh động, dưới góc nhìn của một người Mỹ. “Một cái nhìn vui vẻ, đầy ắp thông tin vào sau bức màn khoa học quân sự.” – Washington Post “Roach là một nhà báo điều tra ngoan cường và rất thích nhằn những thứ khó nhằn Lính trơn thuộc hàng đầu trong các tác phẩm của Roach.” – USA Today *** VÀO ĐỀ Pháo bắn gà nòng dài 18m, đủ điều kiện để được xếp vào loại vũ khí của pháo binh. Dù một con gà nặng gần 2kg bắn đi với tốc độ lên tới 644 km/h, là một vật thể phóng có tính sát thương, pháo bắn gà được chế tạo không phải để giết chóc. Ngược lại, nó được thiết kế với mục đích thử nghiệm các biện pháp bảo vệ sinh mạng con người. Xác gà được bắn vào các máy bay trống hoặc được xếp sẵn “tổ bay mô phỏng” để kiểm tra khả năng chịu sự tác động của máy bay, trước thứ được Không lực Mỹ và ngành công nghiệp hàng không, với cách gọi phô trương “nam tính” đặc trưng, gọi là “chim đâm”. Những con gà được sử dụng thay cho ngỗng, hải âu, vịt trời hay chim chóc vốn va chạm với các máy bay quân sự khoảng 3.000 vụ mỗi năm, với mức thiệt hại từ 50 triệu tới 80 triệu đô la Mỹ và cứ vài năm lại cướp đi sinh mạng của tổ bay. Lấy gà “đại diện” cho tất cả các loài chim là một lựa chọn lạ lùng vì chúng không biết bay. Chúng cũng không đâm vào máy bay theo tư thế của vịt trời hay ngỗng - cánh dang rộng, chân duỗi thẳng. Chúng đâm vào máy bay theo đúng kiểu đồ thực phẩm bị ném. Thêm nữa, gà nhà thường có khối lượng riêng lớn hơn mấy loại chim trời thường bay hay bơi ở các vùng đất ngập nước. Với khối lượng riêng là 0,92g/cm3, loài Gallus gallus domesticus (gà nhà) lớn hơn 33% so với hải âu hay ngỗng Canada. Nhưng dù sao thì gà cũng là “vật liệu” được Bộ Quốc phòng Mỹ cho phép sử dụng trong hoạt động thử nghiệm kiểm tra độ bền của kính buồng lái máy bay phản lực. Gà không những dễ dàng kiếm được và chuẩn hóa, chúng còn được coi là một kiểu tình huống tồi tệ nhất trên lý thuyết. Thực tế lại không như vậy. Một con chim nhỏ, chắc gọn như chim sáo, có thể đâm xuyên qua kính buồng lái như một viên đạn, và điều đó xảy ra thường xuyên đến mức một số người thấy cần phải đưa ra một loại thuật ngữ hàng không nào đó (“hiện tượng đạn bọc lông vũ”). Bạn sẽ nghĩ: “Có khi không cho lũ chim bén mảng đến gần đường băng thì dễ hơn?” Tuy nhiên, chim là loài thích nghi cao. Chúng sẽ nhanh chóng tự điều chỉnh để quen dần với bất kỳ âm thanh mô phỏng kẻ săn mồi hay cảnh báo nào, thậm chí là âm thanh của những vụ nổ nhỏ mà bạn tạo ra, chỉ bằng cách “kêu to hơn”* và tiếp tục sống như bình thường. Hãy tham gia với Malcolm Kelley và Đội nghiên cứu/ quản lý nguy cơ chim đâm vào máy bay (BASH) trong Không lực Mỹ. Kelley và cộng sự của mình sử dụng phương pháp tiếp cận xuyên ngành. Kỹ thuật xây dựng kết hợp với sinh học. Điểu học kết hợp với xác suất thống kê. Chúng ta hãy phân tích vấn đề bằng cách bắt đầu với kền kền, họ nói. Dù số vụ đâm máy bay của lũ chim ăn thịt nặng ký này chỉ chiếm khoảng 1%, nhưng lại gây ra 40% thiệt hại trong tổng thiệt hại do chim đâm gây ra. Kelley và nhóm của mình đã gắn các máy phát sóng vào tám con kền kền, theo dõi đường bay và thói quen di chuyển của chúng, kết hợp với các dữ liệu khác để tạo ra một Mô hình Tránh chim (BAM) cho phép những người điều khiển không lưu có thể lên lịch bay tránh những thời điểm và khu vực có nguy cơ cao. Chỉ một nghiên cứu đơn giản “hiểu thêm về chim kền kền”, theo Kelley, đã tiết kiệm được cho Không lực Mỹ 5 triệu đô la mỗi năm cũng như cứu mạng sống của nhiều phi công (và cả chim kền kền nữa). Chắt lọc dữ liệu, Kelley phát hiện ra rằng khi dải tần số âm thanh động cơ máy bay chồng lấn dải tần số âm thanh mà một loài chim nào đó phát ra khi gặp nguy hiểm thì xác suất chim đâm sẽ thấp hơn. Anh đã viết trong một bài báo năm 1998, “Liệu có phải chúng ta đang nói chuyện với lũ chim mà không hề hay biết không?” Liệu có cách nào tạo ra một giải pháp dựa trên cơ chế này không? Anh đã biết có một vấn đề là cả máy bay và chim đều cất cánh ngược gió. Và bởi vậy chim thường không thể nhận ra máy bay đang lao tới từ phía sau. Chính Kelley đã nảy ra ý tưởng thêm một tín hiệu có nghĩa vào dải sóng radar của máy bay, một thứ tín hiệu có thể cảnh báo nguy hiểm cho lũ chim sớm hơn để chúng kịp phản ứng và bay ra khỏi đường bay của máy bay. Câu chuyện dạng này đã khiến tôi hứng thú với khoa học quân sự - những trận chiến thầm lặng, ít người biết, với những kẻ thù ít được chú ý: sự kiệt sức, sốc, vi khuẩn, cơn hoảng loạn, những con vịt. Thật ngạc nhiên, đôi khi những thứ làm thay đổi cục diện trận chiến xuất hiện khi những chuyến bay chở các ý tưởng dị thường* va chạm với nguồn kinh phí nghiên cứu lớn gần như bất tận. Mọi người thường nghĩ rằng khoa học quân sự là nghiên cứu về chiến lược và vũ khí - đánh nhau, thả bom, tiến quân. Tất cả những thứ đó tôi nhường những người viết hồi ký và nghiên cứu lịch sử quân sự. Tôi hứng thú hơn với những điều sẽ không có ai đưa lên phim ảnh - những thứ không phải để giết chóc mà là để cứu mạng binh lính. Dù là những người được cứu cũng chỉ để tiếp tục chiến đấu và lấy mạng người khác. Hãy tạm bỏ qua điều này. Cuốn sách này xin dành để tri ân những nhà khoa học, bác sĩ phẫu thuật, đã xông lên cùng những đoàn quân chiến đấu, vạt áo phòng thí nghiệm bay phấp phới, để chế tạo những cỗ xe tăng an toàn hơn, chiến đấu với loài ruồi nhặng hay cố gắng hiểu rõ hơn lũ kền kền. Pháo bắn gà gần như là tất cả những gì tôi sẽ nói về súng đạn trong cuốn sách này. Nếu như bạn muốn đọc về khoa học kỹ thuật khí tài quân sự, đây sẽ không phải là quyển sách bạn mong ngóng. Đây cũng không phải là truyện 30 phút sau nửa đêm*. Tôi có thảo luận với lính đặc nhiệm - cả lính SEAL Hải quân và Rangers Lục quân - tuy nhiên không phải về việc chiến đấu chống lại quân nổi dậy. Chủ đề của chúng tôi là chiến đấu chống lại cái nóng cực điểm, tiếng ồn chói tai và bụng dạ trở chứng không đúng lúc. Sau lưng mỗi tướng tá hay một người được Huân chương danh dự, có hàng trăm nhà khoa học quân sự, những người mà bạn sẽ không bao giờ nghe danh. Tác phẩm này của tôi chỉ viết về một phần nhỏ của 1% những gì vẫn đang diễn ra. Tôi cũng đã bỏ qua rất nhiều lĩnh vực vốn đầy những nỗ lực đáng trân trọng. Chẳng hạn, không có một chương nào trong quyển sách này nói về các biện pháp đối phó với hậu sang chấn tâm lý (PTSD), không phải vì PTSD không xứng đáng được nói đến mà do đã có quá nhiều tác phẩm viết về nó, trong đó lại có quá nhiều tác phẩm viết tuyệt hay. Những quyển sách và bài viết ấy đã chiếu rọi ánh đèn sân khấu vào đúng chỗ. Còn tôi, về chuyên môn hay tính cách, không phải là một người rọi đèn sân khấu. Tôi chỉ là một kẻ vô tự lự với chiếc đèn pin, đang mò mẫm trong các ngóc ngách và xó xỉnh, không biết đích xác mình cần tìm thứ gì nhưng lại luôn nhận ra ngay khi tìm thấy nó. Dũng cảm không phải luôn là cầm súng, cầm cờ, hay thậm chí là khênh cáng nơi trận địa. Người dũng cảm là bác sĩ không quân của Hải quân Angus Rupert, bay trong tình trạng bịt mắt và lộn ngược đầu để kiểm nghiệm bộ đồ rung cho phép phi công có thể bay nhờ cảm giác khi họ bị mù tạm thời hoặc rối loạn phương hướng. Hoặc như Thiếu tá Hải quân Charles “Swede” Momsen, nghiêm chào những người quan sát khi ông được nhấn chìm xuống dòng Potomac để kiểm nghiệm hệ thống hỗ trợ thở thoát hiểm đầu tiên cho tàu ngầm, hoặc như Đại úy Herschel Flowers, làm việc tại Phòng Nghiên cứu Y khoa Lục quân, tự tiêm nọc độc rắn hổ mang vào cơ thể của mình để kiểm nghiệm khả năng tạo sức đề kháng. Có những lúc, sự dũng cảm chỉ đơn thuần là ý chí dám nghĩ khác biệt với những người xung quanh bạn. Trong một môi trường kỷ luật cao như quân đội, đó là điều dũng cảm hơn nhiều so với những gì bạn tưởng tượng. Dũng cảm là hành động của người lính quân y William Baer trong Thế chiến I, đã cứu được nhiều mạng sống và giúp nhiều người giữ được chân tay khi sử dụng dòi để làm sạch vết thương. Đó là hành động của bác sĩ Herman Muller, tình nguyện tiêm máu từ các tử thi vào cơ thể để kiểm nghiệm độ an toàn của kỹ thuật truyền máu từ tử sĩ cho các thương binh, một kỹ thuật đã được thực hiện trên chiến trường trong cuộc chiến giữa Tây Ban Nha và Mỹ. Các anh hùng không phải lúc nào cũng cần lập được chiến công chói lọi. Đôi khi, những thành tựu nhỏ cùng với những trái tim lớn đã thay đổi cả diễn trình lịch sử. Cũng có khi, một con gà có thể cứu mạng được một con người. Mời các bạn đón đọc Lính Trơn - Khoa Học Lạ Kỳ Về Loài Người Trong Chiến Tranh của tác giả Mary Roach & Nguyễn An Thái (dịch).
Bọn Rợ Rình Trước Cổng: Mua Lại Có Đòn Bẩy Và Thương Vụ Đình Đám RJR Nabisco
Cuốn sách Bọn rợ rình ở cổng là câu chuyện có thật về cuộc chiến giành quyền kiểm soát công ty bánh quy và Mỹ – RJR Nabisco – nhà sản xuất bánh quy Oreo và RJ Reynolds. Nội dung chính nói về việc mua lại có đòn bẩy (LBO) của tập đoàn RJR Nabisco với nhịp độ nhanh chóng và chi tiết, bao gồm cả những cuộc hội thoại riêng cũng như trong phòng họp giữa các CEO của các công ty. Cuốn sách thể hiện lòng tham đáng kinh ngạc của các chủ ngân hàng đầu tư, nhà quản lý công ty, nhà đầu tư cổ phần tư nhân, các cổ đông… Việc mua lại diễn ra được mở đầu bằng một cuộc chiến đấu thầu giữa ban lãnh đạo (do CEO Ross Johnson dẫn đầu), KKR, công ty cổ phần tư nhân lâu đời, và một số người chơi “nhỏ hơn”. Việc mua lại có đòn bẩy thường khiến công ty bị mua lại phải gánh rất nhiều nợ, đòi hỏi các nhà quản lý phải cắt giảm chi phí (thường bao gồm cả nhân sự) – đó là lý do tại sao những điều này không được nhân viên, công chúng và giới báo chí ưa chuộng. Khoản mua lại trị giá 25 tỷ đô la này, mà cuối cùng KKR đã giành được bởi cũng không khác gì, đặc biệt vì đây là LBO lớn nhất tại thời điểm đó. Những người phản đối nỗ lực mua lại công ty của Johnson, Henry Kravis và anh họ của ông ta là George R. Roberts, là những người tiên phong trong việc mua lại có đòn bẩy (LBO). Kravis là người đầu tiên mà Johnson nói chuyện về việc thực hiện LBO và cảm thấy bị phản bội sau khi biết rằng Johnson muốn thực hiện thỏa thuận với một công ty khác, bộ phận Shearson Lehman Hutton trước đây của American Express. Ted Forstmann và công ty mua lại Forstmann Little của ông cũng đóng một vai trò quan trọng. Khi lên nắm quyền điều hành RJR Nabisco và thấy giá cổ phiếu của công ty đang trì trệ, Ross Johnson đã tìm cách để có được giá trị lớn hơn cho các cổ đông của mình và cuối cùng đã được các cố vấn ngân hàng đầu tư (của Lehman Brothers) thuyết phục rằng ông nên thực hiện một vụ mua lại có đòn bẩy. Và ngay sau khi giá thầu được công bố, các nhà thầu cho công ty đã xuất hiện. KKR đã trở thành con mồi đầu tiên của LBO. Hầu như tất cả các ngân hàng đầu tư lớn đều tham gia với tư cách là cố vấn cho thương vụ này. Một số nhân vật quan trọng trong giới tài chính xuất hiện. Bruce Wasserstein, CEO của Lazard đã tham gia, cùng với Joe Perella, Eric Gleacher, Tom Hill.   Sau khi Kravis và Johnson không thể dung hòa được sự khác biệt của họ, một cuộc chiến đấu thầu đã diễn ra mà cuối cùng Johnson sẽ thua. Tác dụng phụ đáng tiếc của việc tăng giá mua đối với các cổ đông là tạo ra mức nợ đáng lo ngại cho công ty. Cuốn sách bắt đầu chậm rãi với hơn 300 trang xây dựng bối cảnh cho các nhân vật chính và mô tả lịch sử của RJR Nabisco. Sau đó, nó đẩy nhanh tốc độ và sự kịch tính qua các cuộc hội thoại, thời gian và giọng điệu của nhân vật.   Đánh giá của chuyên gia, tổ chức uy tín về cuốn sách cùng các giải thưởng  “Một trong những cuốn sách kinh doanh tuyệt vời nhất từng được biết tới…” — Joe Nocera, New York Times “Một tác phẩm xuất sắc, tái hiện câu chuyện với quy mô ấn tượng… Lối viết hoa mỹ… bố cục chặt chẽ từ đầu đến cuối.” — Scot J. Paltrow, Los Angeles Times Book Review “Nội dung rất ấn tượng… bối cảnh đặc sắc… một tác phẩm có chất liệu điện ảnh nhưng cũng là cuốn sách được viết cực kỳ công phu.” — KeN auletta, New York Daily News “Thật khó để hình dung ra một cuốn sách hay hơn, lột tả hết bản chất của bối cảnh kinh tế những năm 1980… và cũng khó tưởng tượng ra một ai đó có tài viết lách hơn Burrough và Helyar.” — Bill BarNhart, Chicago Tribune *** Hẳn là nhiều người vẫn còn nhớ đến cuộc chiến giành quyền kiểm soát công ty bánh kẹo và thuốc lá Mỹ – RJR Nabisco – nhà sản xuất bánh quy Oreo và thuốc lá RJ Reynolds gây rúng động Phố Wall hơn 30 năm về trước. Việc sáp nhập bắt đầu với quyết định thực hiện mua lại có đòn bẩy (LBO - Leveraged Buyout) của CEO Ross Johnson và kết thúc với chiến thắng trị giá 25 tỷ đô la của công ty cổ phần tư nhân lâu đời KKR, LBO lớn nhất tại thời điểm đó. Toàn bộ những diễn biến của thương vụ đình đám này được Bryan Burrough và John Helyar tái hiện một cách hết sức chân thật trong cuốn tiểu thuyết kinh doanh kinh điển Bọn Rợ Rình Trước Cổng. Đây là cuốn sách đầu tiên cho chúng ta thấy rõ thực hư về những sự kiện gây chấn động một thời, nó đã được chuyển thể thành phim chiếu trên kênh HBO vào năm 1993 và phim tài liệu chiếu trên kênh History vào năm 2002.  Bằng sự chuyên nghiệp và thấm nhuần các chuẩn mực về tính thời sự, tính chính xác khi làm việc cho tờ Wall Street Journal, hai tác giả đã không bỏ sót bất cứ chi tiết nào dù là nhỏ nhất, bao gồm cả những cuộc hội thoại riêng cũng như những bí mật trong phòng họp giữa các CEO của các công ty. Bắt đầu chậm rãi với hơn 300 trang xây dựng bối cảnh cho các nhân vật chính và mô tả lịch sử của RJR Nabisco, sau đó đẩy nhanh tốc độ và sự kịch tính qua các cuộc hội thoại, thời gian và giọng điệu của nhân vật, cuốn sách này sẽ khiến chúng ta phải kinh ngạc vì những mánh khóe, thủ đoạn, lòng tham không đáy của các chủ ngân hàng đầu tư, nhà quản lý công ty, nhà đầu tư cổ phần tư nhân, các cổ đông…  Được New York Times Book Review đánh giá là “Một trong những bản tường thuật hay nhất, hấp dẫn nhất về những gì đã xảy ra với các công ty Mỹ và Phố Wall vào những năm 1980”, qua cuốn sách, độc giả sẽ hiểu rõ hơn về các rủi ro khi thực hiện LBO, những sai lầm có thể khiến cả doanh nghiệp lớn sụp đổ trong nháy mắt. Từ đó, rút ra kinh nghiệm cho bản thân. Không những vậy, thất bại của CEO Ross Johnson và hàng loạt nhân vật tiếng tăm trong giới kinh doanh đã trở thành những tấm gương, những bài học đắt giá về cái tâm, cái tầm của các nhà lãnh đạo trên toàn thế giới. Bài học thứ nhất: Bất kỳ thành quách kiên cố nào cũng đều có thể bị phá huỷ từ bên trong, và người dễ dàng làm điều đó nhất, ít bị đề phòng nhất chính là lãnh đạo, chỉ huy của tòa thành ấy. Việc trao quyền cho nhầm người khi không có cơ chế kiểm soát đủ hiệu quả sẽ là nguy cơ tiềm ẩn khôn lường cho doanh nghiệp. Bài học thứ hai: Quyền lực tuyệt đối sẽ dẫn đến sự sa đọa tuyệt đối. Khi người lãnh đạo có được những thứ mình muốn quá dễ dàng thì sẽ dễ bị lạc hướng, chìm vào trong những mưu toan, thủ đoạn trục lợi. Vì thế cuốn sách này sẽ bài học về quản trị nhân sự, tuyển dụng nhân tài sao cho vừa phù hợp, vừa hiệu quả, vừa bền vững. Bài học thứ ba: Thành công của một lãnh đạo không chỉ là xây dựng và phát triển một đội ngũ đủ sức đạt được những thành tích xuất sắc trong nhiệm kỳ của mình mà còn phải tạo ra những người lãnh đạo kế nhiệm đủ tầm khác. Bài học thứ tư: Văn hóa của một doanh nghiệp là cực kỳ quan trọng cho sự phát triển và trường tồn trong một doanh nghiệp. Câu chuyện về văn hóa doanh nghiệp của Reynolds là một ví dụ không thể thuyết phục hơn. Bài học thứ năm: Cần hơn nữa những ý thức và cam kết với các giá trị cốt lõi và bổ sung thường xuyên của những động lực phát triển mới cho doanh nghiệp. Bọn Rợ Rình Trước Cổng - Bài học đắt giá giành cho những nhà quản lý Đây không chỉ là cuốn sách khiến người đọc phải ngạc nhiên, tò mò với những thủ thuật tài chính, mua bán sáp nhập hiện đại và nguy hiểm, mà còn là cuốn sách những người lãnh đạo doanh nghiệp đang trăn trở về cách thức quản trị tổ chức hiệu quả nhất định không thể bỏ qua.  *** Bryan Burrough là đặc phái viên của Vanity Fair và cựu phóng viên của The Wall Street Journal, ông đã báo cáo về nhiều chủ đề, bao gồm các sự kiện dẫn đến cuộc chiến ở Iraq, sự mất tích của Natalee Holloway và vụ Anthony Pellicano. Bryan còn là tác giả của nhiều bài phê bình sách và bài báo trên The New York Times, Los Angeles Times và Washington Post. John Helyar là một nhà báo và tác giả người Mỹ. Ông tốt nghiệp Đại học Boston và đã làm việc cho The Wall Street Journal, Fortune, ESPN.com, ESPN The Magazine và Bloomberg News. Bài viết của ông và Bryan Burrough về RJR Nabisco đã mang về cho cả hai giải thưởng danh giá Gerald Loeb. *** LỜI GIỚI THIỆU cho bản tiếng Việt 1 Bất kỳ thành quách hay pháo đài kiên cố nào cũng đều có thể bị phá hủy từ bên trong. Và người thuận lợi nhất, dễ dàng nhất, ít bị đề phòng nhất để phá hủy lại chính là người lãnh đạo của cái pháo đài ấy. Đây không chỉ là cuốn sách để người đọc ồ à ngạc nhiên, tò mò với những thủ thuật tài chính, mua bán sáp nhập hiện đại và nguy hiểm, mà còn là cuốn sách khiến những người lãnh đạo doanh nghiệp như chúng ta nhức nhối và trăn trở về cách thức quản trị tổ chức hiệu quả (corporate governance). Trăm năm là rất dài. Nhưng trăm năm dường như vẫn là chưa đủ để tích lũy độ dày cần thiết giúp cái vỏ trứng mong manh có thể chống chọi được những sự phá hoại từ bên trong. Những câu chuyện “chất như nước cất” về quá trình khởi nghiệp, tạo dựng và phát triển của các đế chế hàng đầu thế giới như Reynolds trong ngành thuốc lá hay Nabisco trong ngành bánh kẹo có lẽ sẽ là động lực hừng hực cho những chủ doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam. Nhưng câu chuyện về sự sụp đổ nhanh chóng của những đế chế trăm năm ấy chỉ trong một thời gian rất ngắn có thể làm cho lãnh đạo của những tập đoàn lớn nhiều nghìn tỷ chúng ta lạnh lưng rợn gáy. Việc cho phép những công cụ tài chính nguy hiểm được hoạt động thiếu kiểm soát lại là trách nhiệm và bài học nhức nhối cho những người quản lý nhà nước. Nhưng trao quyền nhầm người trong khi không có cơ chế kiểm soát đủ hiệu quả có lẽ là nguyên nhân lớn nhất. 2 Quyền lực tuyệt đối sẽ dẫn đến sự sa đọa tuyệt đối. Có lẽ với một số độc giả, Ross Johnson cũng sẽ là một nhà quản lý hiệu quả nếu được sử dụng ở đúng vai trò, vị trí và kèm với một số cơ chế kiểm soát phù hợp. Khi trái ngọt đến quá dễ dàng thì người ta sẽ dễ bị lạc hướng, chìm vào những thủ đoạn chính trị nội bộ, những mua chuộc dối trá và những ê kíp đoàn kết nhất trí ru ngủ… Cuốn sách này vì thế cũng là một bài học về quản trị nhân sự. Tuyển dụng và phát triển nhân tài như thế nào để vừa phù hợp, vừa hiệu quả và bền vững không chỉ là một khoa học mà còn là một nghệ thuật. Không phải cứ nhanh hơn là hay hơn. Không phải cứ trao quyền là tốt hơn. Không hẳn cứ trọng dụng là tiến bộ hơn. Đúng người (Who), đúng việc (What) nhưng còn phải đúng cách (How) nữa. Và cũng vì thế nên trách nhiệm quản trị nhân sự không phải là của trưởng phòng hay giám đốc nhân sự. Trách nhiệm ấy là của Ban điều hành, Hội đồng quản trị và cả Đại hội đồng cổ đông. Đặc biệt là với những nhân sự nòng cốt. 3 Thành công của một lãnh đạo không chỉ giới hạn trong việc xây dựng, phát triển và lãnh đạo đội ngũ đủ sức đạt được những kết quả hoạt động mong đợi trong nhiệm kỳ của mình. Thành công của lãnh đạo còn được đánh giá bởi kết quả của sự chuẩn bị lực lượng kế thừa đủ chất lượng, đủ sức lãnh đạo tổ chức thành công trong các nhiệm kỳ tiếp theo. Trách nhiệm của người lãnh đạo không phải là tạo ra những người đi theo: Họ cần tạo ra những người lãnh đạo đủ tầm khác. Nhìn từ góc độ này, những người lãnh đạo tiền nhiệm của Ross Johnson tại các doanh nghiệp liên quan đều là những người lãnh đạo tồi, cho dù tính cách và phong cách lãnh đạo của mỗi người đều rất khác nhau. 4 Muốn hủy diệt một quốc gia, hãy lấy hết đất đai của họ. Nhưng muốn hủy diệt một dân tộc, chỉ cần làm ô nhiễm hay pha loãng văn hóa của họ. Trong doanh nghiệp cũng vậy. Văn hóa của một doanh nghiệp là cực kỳ quan trọng cho sự phát triển và trường tồn của doanh nghiệp ấy. Cuốn sách chia sẻ những câu chuyện tuyệt vời về sức mạnh vô địch của văn hóa doanh nghiệp. Không có một văn hóa đủ mạnh thì chắc là cả Nabisco lẫn Reynolds đã sớm chìm vào dòng lịch sử chứ không thể sừng sững với thời gian như vậy. Văn hóa của một tổ chức không phải là thứ mà họ tuyên bố hay tuyên truyền. Văn hóa ấy được bắt nguồn từ những người lãnh đạo cao nhất và thấm nhuần vào suy nghĩ, hoạt động cũng như hành vi hằng ngày của tất cả các cấp lãnh đạo và nhân viên của tổ chức ấy. Văn hóa ấy không nhất thiết phải là “tốt” dưới con mắt của cộng đồng xã hội. Nhưng nhất thiết phải phù hợp với đặc tính ngành nghề, bổ trợ cho sự phát triển của tổ chức và tăng cường gắn kết với những người quan trọng cần thiết cho sự thành công của tổ chức: cổ đông, nhân viên và khách hàng. Câu chuyện về văn hóa doanh nghiệp ở doanh nghiệp thuốc lá Reynolds là một ví dụ không thể thuyết phục hơn. 5 Kết cục đau thương cho những thương hiệu hàng đầu trong câu chuyện đặt ra câu hỏi nhức nhối về công thức truyền thừa của các tổ chức: Làm sao để trường tồn? Văn hóa mạnh: Đúng rồi. Nhưng sẽ đến lúc chính văn hóa ấy cản trở doanh nghiệp thay đổi và phát triển. Lãnh đạo tâm - tầm - tài: Đúng rồi. Nhưng lãnh đạo nào rồi cũng sẽ ra đi, mà có phải lãnh đạo nào cũng minh mẫn suốt đời đâu. Có lẽ sẽ cần hơn nữa những sự cảm nhận và thôi thúc sứ mệnh, những ý thức và cam kết với các giá trị cốt lõi và sự bổ sung thường xuyên của những động lực phát triển mới cho doanh nghiệp. Nhưng khổ nỗi, tất cả những điều ấy đều đến từ hay bị điều chỉnh bởi lãnh đạo. Làm sao để kiểm soát được lãnh đạo, hoặc ít nhất để lãnh đạo tự kiểm soát được chính mình, thì chỉ có những người tạo ra lãnh đạo trả lời được mà thôi. Vài dòng tâm tư khi đọc cuốn sách Bọn rợ rình trước cổngtrong chuyến đi cứu trợ miền Trung năm 2020. Trần Bằng Việt Chuyên gia tư vấn cao cấp Chủ tịch Giải pháp Phát triển Đông A *** LỜI TÁC GIẢ Năm 1989, chúng tôi viết Bọn rợ rình trước cổng kể về các sự kiện đang diễn ra; bây giờ mọi thứ đã trở thành dĩ vãng. Một số cuốn sách có vòng đời dài hơn các cuốn khác. Chúng tôi nghĩ rằng cuốn sách này là một trong số đó. Nó vẫn được dùng để giảng dạy về nhiều chủ đề cho sinh viên trong các trường đào tạo kinh doanh lớn, từ đạo đức kinh doanh đến nghiệp vụ ngân hàng đầu tư. Năm 1993, cuốn sách được chuyển thể thành phim và chiếu trên kênh HBO. Năm 2002, 14 năm sau khi gây chấn động, cuộc chiến RJR lại được chuyển thể thành một bộ phim tài liệu chiếu trên kênh History. Sự đón nhận này của công chúng là những gì chúng tôi chưa từng dám nghĩ tới khi bắt tay viết cuốn sách. Trên thực tế, mục tiêu chính của chúng tôi chỉ đơn giản là kiểm tra năng lực của chính mình, xem liệu chúng tôi có thể tự viết một cuốn sách hay không; cả hai chúng tôi đều chưa từng thử viết sách. Bọn rợ rình trước cổng cũng không phải là cuốn sách được các nhà xuất bản tranh giành. Trên thực tế, trong số hơn chục nhà xuất bản chúng tôi đã tiếp xúc, chính xác chỉ có nhà xuất bản Harper & Row (nay là nhà xuất bản Harper Collins) tỏ ra quan tâm một chút. Mọi người đã chán ngấy với các câu chuyện xuất hiện nhiều tuần trên những mặt báo về RJR. Còn ai muốn đọc thêm nữa? Là phóng viên của tờ Wall Street Journal, chúng tôi đã cố gắng làm cho Bọn rợ rình trước cổng thấm nhuần các chuẩn mực về tính thời sự và tính chính xác mà chúng tôi đã nắm vững khi viết báo. Thật sự, Bọn rợ rình trước cổng sẽ không thể ra đời nếu không có sự khích lệ mà hai biên tập viên của cuốn sách này, Norman Pearlstine và Paul Steiger, dành cho chúng tôi. Không chỉ vậy, chúng tôi còn được nghỉ phép không lương trong tám tháng để thực hiện cuốn sách này. Tháng 10 năm đó, khi câu chuyện về RJR bùng nổ, tôi là phóng viên của Wall Street Journal, tờ báo đầu tiên đưa tin về vụ sáp nhập và mua lại đình đám ở Phố Wall; còn John, sống tại Atlanta, phụ trách viết bài về công ty. Chúng tôi đã cùng nhau viết về mọi ngóc ngách của trận chiến RJR kéo dài sáu tuần. Chỉ đến khi trận chiến kết thúc, chúng tôi mới thống nhất cùng nhau viết sách, thế là chúng tôi gặp nhau. John giơ một cuốn tạp chí Timelên, trên trang bìa là bức ảnh đáng hổ thẹn của Ross Johnson, để tôi có thể nhận ra anh ở sân bay Atlanta. Chúng tôi thường có chút ngại ngùng khi thừa nhận đã nghiên cứu và viết Bọn rợ rình trước cổng trong tám tháng ngắn ngủi, từ tháng Một đến tháng Tám năm 1989. Đó là quãng thời gian buồn vui lẫn lộn với chúng tôi. Tôi sống trong một căn hộ không có điều hòa ở khu phố Park Slope, quận Brooklyn. Tôi đi tàu điện ngầm đến Manhattan để thực hiện sáu cuộc phỏng vấn mỗi ngày; chúng tôi nhất trí với nhau rằng tất cả các cuộc phỏng vấn nên được thực hiện trực tiếp. Buổi tối, tôi trở về nhà, kiểm tra, đối chiếu thông tin và viết lại những ghi chú trong buổi phỏng vấn. Đôi khi, vì trời mùa hè quá nóng, tôi chỉ mặc chiếc quần bơi và áo phông. John phải di chuyển rất nhiều, qua lại giữa Atlanta, Bắc Carolina và New York để khớp nối các câu chuyện về con đường tiến thân đến đỉnh cao quyền lực của Ross Johnson. Chúng tôi làm việc độc lập, trừ khi có các cuộc phỏng vấn quan trọng với chính Johnson, đã có các cuộc phỏng vấn dài không chính thức ở Atlanta và Manhattan, có thêm bánh pizza và nước ngọt. Khi đang viết sách, chúng tôi đã lo rằng câu chuyện về RJR sẽ bị lu mờ bởi một số thương vụ đình đám hơn, khắc nghiệt hơn. Giữa những kẻ tập kích công ty, các nghệ sĩ LBO và những nhà tài phiệt đầu tư vào trái phiếu rác, toàn bộ giới kinh doanh của những năm 1980 như phát điên. Những cuộc đột kích man rợ diễn ra sau Bọn rợ rình trước cổng có thể làm cho trận chiến RJR từ bản anh hùng ca chỉ còn là vài dòng chú thích. (Đó là lý do tại sao Harper muốn ra mắt cuốn sách thật nhanh.) Chúng tôi đã sẵn sàng cho ngày đen tối đó, nhưng nó không bao giờ đến. Hóa ra cuộc chiến giành RJR vừa xác lập và kết thúc một kỷ nguyên. Trong gần một thập kỷ sau đó, vụ trúng thầu trị giá 25 tỷ đô-la của KKR vẫn được xem là thương vụ lớn nhất mọi thời đại. Có một số yếu tố kết hợp với nhau làm giảm quy mô của các giao dịch trong vài năm. Cỗ máy kiếm tiền siêu đẳng đằng sau LBO - trái phiếu rác - đã ngắc ngoải, và có lúc gần như dừng hoạt động. Mike Milken bị bắt giam; Drexel Burnham phá sản, và trong thời kỳ suy thoái đầu thập niên 1990, các công ty ốm yếu sử dụng đòn bẩy quá mức đã gây tiếng xấu cho LBO. Henry Kravis thôi không nhòm ngó các cuộc chơi lớn nữa. Ông ta còn bận với việc chăm sóc sức khỏe và ăn uống - cũng như chuyện nợ nần của RJR. Những ngôi sao khác của Phố Wall trong thập niên 1980, những kẻ từng chinh chiến để giành lấy RJR đã kiêu ngạo quá mức và trở nên quá đỗi nhạt nhòa. John Gutfreund bị hất cẳng vào năm 1991, khi đang là chủ tịch của Salomon Brothers, sau một vụ bê bối giao dịch trái phiếu kho bạc. Chủ tịch Tom Strauss cũng phải từ chức. Ông này từng tham gia với Peter Cohen trong vụ nhập nhèm ở một quỹ phòng hộ. Những người khác cũng chuyển sang các công ty quản lý quỹ, bao gồm Tom Hill ở tập đoàn Blackstone và Steve Waters ở một quỹ đầu tư tư nhân của châu Âu có tên Compass Partners. Nhân vật duy nhất nổi lên như một ngôi sao trong vụ Bọn rợ rình trước cổng là Steve Goldstone. Vị luật sư từng làm cho Ross Johnson cuối cùng đã trở thành CEO của RJR Nabisco. Nhưng ngay cả việc Goldstone leo lên được vị trí này cũng chủ yếu nhờ sự sụp đổ của công ty hùng mạnh một thời. Năm 1999, ông bán Nabisco cho Phillip Morris, thoái vốn khỏi hoạt động kinh doanh thuốc lá quốc tế của RJR, và đưa công ty trở lại điểm xuất phát: một công ty thuốc lá Mỹ có trụ sở tại Winston-Salem, Bắc Carolina. Kohlberg Kravis đã rời khỏi RJR ngay sau đó, với những khoản lợi nhuận khiêm tốn. Nhưng ngay khi những sát thủ Phố Wall của thập niên 1980 lặng lẽ lùi dần vào sau ánh hoàng hôn, họ đã mở ra buổi bình minh của thập niên 1990 thậm chí còn hỗn độn hơn. Ban đầu, các CEO của Mỹ bị sốc và kinh hoàng bởi những gì bọn rợ đã làm, nhưng cuối cùng lại theo chân họ. Từ vụ RJR, họ đã hiểu những gì mà những kẻ giàu sụ dễ dàng kiếm được. Họ bắt đầu lao vào giành lấy phần của mình. “CEO của các tập đoàn đã học được hai điều từ các vụ LBO,” Dick Beattie, người vẫn tiếp tục với các thỏa thuận lớn cho đến những năm 1990, nói. “Trước tiên, cách để có một khối tài sản kếch xù là thông qua sở hữu cổ phần, chứ không phải là dựa vào tiền lương và tiền thưởng, và thứ hai, anh không cần phải làm LBO mới có trong tay cổ phiếu. Anh có thể cho mình quyền mua bán cổ phiếu. Với cách làm phổ biến đó, các CEO của những năm 1990 đã thu về bộn tiền khiến Ross Johnson phải bối rối và lây lan tính tham lam trên cả Phố Main* lẫn Phố Wall. Tính tham lam đó thậm chí còn lây lan đến cả những công ty kế toán vốn ù lì, nay biến thành các công ty tổ chức sòng bạc hơn là làm công việc kiểm toán. “Lỗi là ở các nhân viên ngân hàng đầu tư,” Paul Volcker gào lên. Ông là cựu Chủ tịch Fed, người đã rất nỗ lực giải cứu Arthur Andersen nhưng bất thành trong một vụ bê bối gây nhiều tranh cãi. Lúc ông mới đến Phố Wall vào đầu năm 2002, những tay đầu cơ cổ phiếu ở đây đã có ảnh hưởng sâu sắc đến đám đông nhân viên kiểm toán thường đội mũ lưỡi trai màu xanh lá cây để che nắng này*. Volcker kể lại: “Các kế toán viên cảm thấy thế này: ‘Chúng ta cũng giỏi như bọn họ, và chúng ta đang làm mọi việc.’ Bầu không khí bao trùm nơi đây là: ‘Tiền ở đó, đến mà lấy.”’ Hãy gọi đó là “chiến thắng của bọn rợ” cho đó là lý do để cuốn sách này vẫn mãi liên hệ đến những con người của hiện tại. Các CEO khét tiếng ngày nay như Dennis Kozlowski và Bernie Ebbers thực sự là những phiên bản Ross Johnson thời hiện đại. Họ đã phát triển những gì mà ông tiên phong: CEO chỉ là những kẻ tư lợi, không phải là người của công ty. Các CEO như những tay giang hồ liều lĩnh và là những kẻ trơ tráo tước đoạt tài sản của công ty. Chỉ khác là các thương vụ họ thực hiện ở quy mô, tầm vóc lớn hơn, trong thị trường bò (bull market) và thời kỳ bong bóng công nghệ của những năm 1990, khi số cổ phiếu và lượng tiền chiếm đoạt lớn hơn rất nhiều. Ngay cả những kẻ bất tài như Henry Samueli và Henry Nicholas, đồng chủ tịch của một công ty có tên Broadcom, cũng thu về mỗi người 800 triệu đô-la lợi nhuận. Họ bán cổ phiếu thưởng lấy tiền mặt khi ngành viễn thông vẫn còn đang “nổi”. So với số tiền đó, chiếc dù vàng đáng xấu hổ một thời trị giá 53 triệu đô-la của Ross Johnson vẫn còn là ít. Nhưng ngay cả khi có các thương vụ đã vượt qua Bọn rợ rình trước cổng về quy mô tiền mặt, chúng cũng không được dựng thành phim. Và nguyên nhân không nằm ở tài năng của các tác giả, có Chúa mới biết. Đó là vì trong sáu tuần chinh chiến vào năm 1988 đó, khi một nhóm các ông trùm kinh doanh mới phất lên giành giật quyền sở hữu một công ty lớn và trở thành những ông chủ lớn thống trị Phố Wall, trật tự hoàn hảo của thế giới mới đã được thiết lập. Hệ tư tưởng của một thời đại đã được thể hiện đầy đủ trong cuộc chiến giành RJR: những cảm xúc thô thiển xung đột kịch liệt với tính tự cao tự đại: cốt truyện không hề bị méo mó và các nhân vật lại càng không. Các tác giả khác đã cùng viết nên những cuốn sách đáng tự hào, những thiên tiểu thuyết về kinh doanh. Cuốn Indecent Exposure (tạm dịch: Để lộ âm tàng) của David McClintick là khuôn mẫu cho tất cả chúng ta, nhưng không có cuốn sách nào lại đặc biệt với nhiều tư liệu rùng rợn đến vậy. Chúng tôi viết về những nhân viên ngân hàng đầu tư vừa nuốt vội bánh Milk Bone, vừa chạy như bay đến khu trung tâm Manhattan, hạ giá thầu vào phút cuối. Chúng tôi viết về một CEO, người có con chó được sắp xếp bay trên một chiếc máy bay phản lực với khẩu hiệu sống: “Cứ mỗi giây qua đi, vài triệu đô-la lại trở thành quá khứ xa vời.” Chúng tôi mãi mãi biết ơn họ đã cho chúng tôi nguồn tư liệu quý để viết nên cuốn sách này. Bạn không thể cảm nhận được điều đó đâu. Mời các bạn đón đọc Bọn Rợ Rình Trước Cổng: Mua Lại Có Đòn Bẩy Và Thương Vụ Đình Đám RJR Nabisco của tác giả Bryan Burrough & John Helyar & Hoàng Thị Ngọc (dịch).