Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Quần Jeans May Mắn

Nhẹ nhàng với những tình tiết gần gũi tới mức bạn hình dung từng nghe tới đâu đó, Quần jeans may mắn kể một câu chuyện tuyệt hay về tình bạn mà không cần chạm tới những mỹ từ bóng bẩy. Ngay từ đầu cuốn sách, bốn cô gái trẻ tuổi 15 đã giới thiệu họ là tất cả của nhau mà không cần phải nói ra điều đó. Bốn người bạn rất khác nhau. Một cái quần Jeans may mắn. Và một mùa hè xa Chúng ta, Hội chị em, bằng văn bản này đặt ra các quy tắc dưới đây để quản lý  việc sử dụng Cái Quần Du Lịch: 1. Không bao giờ được giặt cái quần. 2. Không đựơc phép xắn gấu quần lên. Rất quê. Sẽ không có lúc nào làm thế mà trong lại không quê. 3. Không bao giờ nói từ "péo" khi mặc Cái quần. Không bao giờ được có ý nghĩ "Mình béo" khi mặc Cái quần. 4. Không đựơc để anh chàng nào cởi Cái quần (tuy nhiên có thể tự cởi trước mặt anh chàng). 5. Không được phép ngoáy mũi khi đang mặc Cái quần. Tuy nhiên, có thể vô tình quệt lỗ mũi mà thực ra là ngoáy mũi. 6. Khi họp mặt, phải tuân theo các thủ tục khi ghi lại quãng thời gian mặc Cái quần như sau: 7. Phải thừơng xuyên viết thư cho các chị em khác trong hội trong suốt mùa hè, cho dù bạn có vui vẻ như thế nào khi không có họ bên cạnh. 8. Phải chuyển Cái quần cho các thành viên khác trong hội theo đúng quy ứơc của hội. Nếu không tuân theo sẽ bị đá đít thật mạnh khi họp hội. 9. Không được nhét áo vào Cái quần và đeo thắt lưng. em điều 2. 10. Hãy nhớ: Cái quần = Tình yêu. Hãy yêu quý bạn bè. Hãy yêu quý chính mình. "Một nhóm bạn gái trung thành vô cùng hấp dẫn; cộng thêm cái quần hoàn hảo biến giấc-mơ-thành-sự-thực và bạn không thể để mất. Bạn tốt, giống như những cái quần tốt, sẽ mang lại cho bạn cảm giác thần kỳ; Brashares kết hợp cả hai và tạo nên một cuốn sách vui tươi, tràn đầy cảm xúc." - The Horn Book Magazine "Một cuốn truyện được dẫn dắt bởi bốn giọng kể đan xen duyên dáng sẽ khiến bạn đọc nghiến ngấ Lối miêu tả của Brashares sinh động đến độ độc giả có thể nhìn thấy cả rừng ôliu ở Hy Lạp và bầu trời lấp lánh ánh sao ở Baja." - The Book Report *** Ann Brashares, sinh năm 1967, lớn lên ở Chevy Chase, bang Maryland và từng theo học ngành Triết học tại trường Cao đẳng Barnard, một nhánh thuộc Đại học Columbia ở thành phố New York. Sau khi tốt nghiệp cao đẳng, cô trở thành biên tập viên, dự định sẽ dành một năm đi làm kiếm tiền để tiếp tục học lên đại học ngành Triết. Nhưng vì quá yêu nghề Ann Brashares đã không học đại học nữa mà ở lại New York làm việc trong nhiều năm rồi trở thành nhà văn chuyên nghiệp sau tác phẩm đầu tay Quần jeans may mắn. Ngay sau khi ra đời, Quần jeans may mắn đã thành công rực rỡ về mặt thương mại, được dựng thành phim năm 2005 và đưa tác giả của nó vào hàng ngũ các nhà văn có sách bán chạy nhất trên toàn thế giới. Brashares chủ yếu viết cho giới trẻ. Cùng với bốn cuốn sách về hội chị em: Quần jeans may mắn, Mùa hè thứ hai của Quần jeans may mắn, Girls in Pants: The third Summer of the Sisterhood, Keep in touch: Letters, Notes, and More from the Sisterhood of the Traveling Pants, cô còn viết hai tiểu thuyết cho người lớn nữa là Forever in Blue: The fourth Summer of the Sisterhood và The last Summer (of you and me). Cô còn là tác giả của các cuốn sách khá nổi tiếng khác như Linus Torvald - kẻ nổi loạn trong lĩnh vực phần mềm và Steve Job nghĩ khác. Brashares hiện đang sống tại New York với chồng - Jacob Collin, con trai một giáo sư dạy triết của cô từ hồi học cao đẳng, là một họa sĩ khá thành danh ở Mỹ - và ba con. *** PHẦN MỞ ĐẦU Ngày xửa ngày xưa có một cái quần. Đó là cái quần thuộc loại rất cơ bản, jeans, màu xanh lơ tự nhiên nhưng không phải là màu xanh mới cứng mà bạn thường xuyên thấy vào ngày đầu tiên đến trường. Nó là một cái quần màu xanh mềm mại, hơi bạc một chút ở đầu gối và đũng, và có những gợn sóng màu trắng ở gấu quần. Cái quần hẳn đã có một cuộc sống tốt đẹp trước khi gặp chúng tôi. Bạn có thể nói như vậy. Tôi thì nghĩ một cửa hàng bán đồ cũ xét theo khía cạnh nào đó cũng đại loại như một nơi nhốt chó mèo lạc vậy. Bất kỳ cái gì bạn mua ở đó cũng có rất nhiều điểm thừa hưởng từ những người chủ cũ của chúng. Cái quần của chúng tôi không giống như một chú cún con lạc mẹ gào khóc từ sáng đến đêm. Nó giống như một chú chó đã lớn mà gia đình nhà chủ rất yêu quý nhưng phải chia tay vì dọn đến một khu nhà mới, hoặc có thể chuyển đến sống ở Hàn Quốc (à mà có phải là Hàn Quốc không nhỉ?), nơi người ta thỉnh thoảng ăn thịt chó ấy. Tôi có thể thấy cái quần đã không đến với chúng tôi từ một bi kịch. Nó chỉ đơn giản chứng kiến một trong những chuyển biến bình thường nhưng đau đớn của cuộc đời. Đó hóa ra chính là Hành trình của Cái quần. Đó là một cái quần quý phái, nhưng khiêm tốn. Bạn có thể liếc qua nó và nghĩ “Ừ, một cái quần,” hoặc bạn có thể dừng hẳn lại và nhìn ngắm thật kỹ sự kết hợp tài tình của màu sắc và các đường may. Cái quần chẳng buộc bạn phải say mê nó. Cái quần chỉ vui vẻ làm trọn một nhiệm vụ bình thường là che mông bạn mà không làm cho nó trông to hơn kích cỡ thực tế. Tôi thu nhận cái quần ở một cửa hàng bán đồ cũ phía ngoại vi Georgetown, cửa hàng này kẹp giữa một cửa hàng bán nước (chẳng biết các bạn thế nào, chứ tôi thì có sẵn nước ở nhà, không phải mua bao giờ!) và một cửa hàng bán thực phẩm tự nhiên có tên là Yes! (1). Bất cứ khi nào đứa nào trong chúng tôi nhắc đến Yes! (và chúng tôi nhắc đến ngay khi có thể), chúng tôi bao giờ cũng hét lớn Yes! hết cỡ mà cổ họng cho phép. Tôi đi đâu cũng đi cùng Lena và em gái nó, Effie, và mẹ của hai đứa. Effie đến đó mua một chiếc váy cho buổi khiêu vũ của sinh viên năm thứ hai. Effie không thuộc tuýp con gái có thể mua một cái gì đó màu đỏ dây rợ loằng ngoằng như mỳ ống ở cửa hàng Bloomingdale như nhiều cô gái khác. Cô này phải mua cái gì đó cổ điển cơ. Tôi mua cái quần chủ yếu bởi vì mẹ của Lena ghét các cửa hàng bán quần áo cũ. Bà nói quần áo cũ là dành cho người nghèo. “Mẹ nghĩ nó bẩn lắm, Effie,” bà liên tục nói mỗi lần Effie kéo thứ gì đó xuống khỏi mắc áo. Tôi ngầm đồng ý với bà Kaligaris, điều này làm tôi hơi xấu hổ một chút. Thật lòng mà nói tôi yêu thích sự sạch sẽ của quần áo nhãn hiệu Express, nhưng tôi đành phải mua một cái gì đó vậy. Cái quần gập gọn gàng một cách vô tội trên một chiếc giá gần quầy thanh toán. Tôi cho là cái quần đã được giặt sạch. Hơn nữa, nó chỉ có 3,49 đôla kể cả thuế. Tôi chẳng buồn mặc thử, như bạn có thể thấy đấy, tôi chẳng để ý lắm đến chuyện mua bán này. Mông của tôi đã có những quy chuẩn nhất định dành cho quần rồi. Effie chọn ra một chiếc váy nhỏ nhắn vô cùng không thích hợp với khiêu vũ, và Lena tìm ra được một đôi giày kỳ quặc trông như có vẻ đã thuộc về cụ tổ của ai đó. Bàn chân Lena to, phải cỡ 9,5 hay gì đó. Đó là phần duy nhất không hoàn hảo ở nó. Tuy nhiên tôi thích đôi bàn chân ấy. Và tôi không thể không nhăn mặt khi nhìn đôi giày nó chọn. Mua quần áo cũ đã là quá rồi, nhưng quần áo có thể giặt được, còn giày cũ thì sao? Khi về đến nhà tôi nhét cái quần vào đáy tủ quần áo và chẳng còn nhớ đến nó nữa. Cái quần tái xuất hiện vào một buổi chiều trước khi tất cả chúng tôi mỗi đứa đi nghỉ hè một ngả. Tôi sắp sửa đến Nam Carolina chơi với bố, Lena và Effie sẽ đến chơi với ông bà ở Hy Lạp hai tháng, Bridget sắp sửa bay đến trại tập bóng đá ở Baja California (nghe tên thế mà cuối cùng hóa ra lại ở Mexico. Ai mà biết được?). Tibby sẽ ở nhà. Đây là mùa hè đầu tiên mà chúng tôi mỗi đứa tản mác một ngả, và tôi nghĩ điều này làm tất cả chúng tôi có một cảm giác gì đó lạ lùng và xao xuyến. Mùa hè năm ngoái, tất cả chúng tôi đều chọn học môn lịch sử nước Mỹ vì Lena bảo rằng học vào mùa hè dễ có điểm cao hơn. Tôi chắc là Lena đã có điểm cao hơn. Mùa hè trước đó tất cả chúng tôi đều là CIT(2) ở Trại Gỗ Tròn trên bờ biển Đông Maryland. Bridget huấn luyện bóng đá và dạy bơi, Lena làm việc với lớp nghệ thuật và đồ thủ công, còn Tibby lại một lần nữa kẹt cứng trong bếp. Tôi trợ giúp cho buổi hội thảo về kịch cho đến khi mất bình tĩnh nghiêm trọng với hai đứa nhóc chín tuổi quỷ quái và được trao trả về với nhiệm vụ liếm và dán phong bì ở văn phòng của trại. Lẽ ra họ có thể cho tôi nghỉ thẳng luôn, nhưng tôi nghĩ bố mẹ chúng tôi đã trả tiền cho họ để chúng tôi được làm việc ở đó. Những mùa hè trước đó là một vài ký ức mờ nhạt của những lọ dầu bôi người, Sun-In_ và việc căm ghét cơ thể mình (tôi thì ngực lớn còn Tibby lại không có ngực) ở bể bơi công cộng Rockwood. Da tôi trở nên sẫm hơn; nhưng không một sợi tóc nào trở nên vàng óng như tôi mong đợi cả. Và trước đó nữa thì… Ôi trời, tôi chả biết chúng tôi đã làm gì nữa. Tibby đã tham dự ngày cộng đồng của một trại hè và góp sức xây những ngôi nhà giá rẻ. Bridget học tennis suốt ngày. Lena và Effie vầy nước ở bể bơi suốt ngày này sang ngày khác. Còn tôi thì trung thực mà nói hình như đã xem TV suốt. Tuy nhiên ít nhất thì chúng tôi cũng cố gặp nhau vài tiếng một ngày, và vào cuối tuần thì chúng tôi không hề tách khỏi nhau. Có những năm đặc biệt hơn: mùa hè mà gia đình Lena xây bể bơi, mùa hè mà Bridget bị thủy đậu và làm tất cả chúng tôi bị lây. Mùa hè mà bố tôi dọn nhà đi. Vì một vài lý do nào đó, cuộc đời của chúng tôi đã được ghi dấu bằng những mùa hè. Trong khi Lena và tôi học ở trường tiểu học công thì Bridget học ở một trường tư với một lô những đứa nhóc khác, và Tibby vẫn học ở trường Embrace, cái trường bé tí kỳ lạ, nơi học sinh ngồi trên các túi đậu chứ không ngồi ở bàn học và cũng chẳng có điểm số nào cả. Mùa hè là thời gian cuộc sống của chúng tôi giao thoa với nhau hoàn toàn, là thời gian chúng tôi có ngày sinh nhật, là thời gian rất nhiều chuyện quan trọng xảy ra. Trừ năm mà mẹ của Bridget qua đời. Đó là vào dịp lễ Giáng sinh. Chúng tôi đã là một “hội” từ trước khi ra đời. Tất cả bốn đứa chúng tôi đều sinh ra vào cuối mùa hè; rải rác cách nhau mười bảy ngày: Lena đầu tiên, cuối tháng Tám, và tôi cuối cùng, giữa tháng Chín. Điều này không hẳn là một sự trùng hợp, vì những lý do mà tôi sẽ kể sau đây. Vào mùa hè chúng tôi sinh ra, các bà mẹ của chúng tôi đã tham gia học một lớp aerobic dành cho phụ nữ có bầu (cứ thử hình dung mà xem) ở một nơi gọi là trung tâm Gilda; họ là những người thuộc nhóm tháng Chín (Lena chui ra hơi sớm một chút). Aerobic lúc đó cực kỳ phổ biến. Tôi cho là các thành viên khác của lớp đều sẽ không sinh con trước mùa đông, nhưng các bà bầu thuộc nhóm tháng Chín thì bụng đặc biệt to, đến độ giáo viên lo rằng họ sẽ nổ tung bất cứ khi nào. Giáo viên này đã phải thay đổi chương trình học dành riêng cho họ. “Nào các bà mẹ tháng Chín!” bà này sẽ gầm lên, đấy là theo lời mẹ tôi kể. “Chỉ làm bốn động tác đại diện thôi, nhìn đấy! Cẩn thận đấy.” Người hướng dẫn aerobic này tình cờ lại có tên là April(3), và theo lời của mẹ tôi thì họ đều ghét bà này lắm. Các bà mẹ tháng Chín bắt đầu la cà đi chơi sau khi tan lớp, tụ tập than thở về những đôi chân bị xuống máu sưng phồng, về việc họ đã béo ú ra thế nào và cười đùa về bà April. Sau khi chúng tôi sinh ra - trùng hợp thay toàn là con gái, cộng với hai anh trai sinh đôi của Bridget - họ đã tự lập ra nhóm hỗ trợ các bà mẹ nhỏ của riêng mình và để kệ cho chúng tôi lăn lộn trong chăn chơi với nhau trong khi họ than thở về việc không ngủ được và việc họ vẫn béo phì như thế nào. Sau một thời gian thì nhóm hỗ trợ tan rã, nhưng vào những mùa hè khi chúng tôi một, hai và ba tuổi, họ vẫn đưa chúng tôi đến Rockwood chơi. Chúng tôi sẽ tè trong bồn tắm trẻ con và giành đồ chơi của nhau. Tình bạn của các bà mẹ sau này đã trở nên xấu đi. Tôi không rõ tại sao. Tôi cho là vì cuộc sống của họ trở nên phức tạp hơn. Hai người trong số họ đi làm trở lại. Bố mẹ của Tibby chuyển đến sống ở trang trại gần Rockville Pike. Có lẽ các bà mẹ của chúng tôi chưa bao giờ thực sự có nhiều điểm chung lắm, trừ việc có bầu gần như cùng thời điểm. Ý tôi là khi nghĩ về họ ta sẽ thấy đó là một nhóm kỳ lạ: mẹ của Tibby, một người có quan điểm cấp tiến và trẻ tuổi; mẹ của Lena, một người Hy Lạp tham vọng và rất hay tham gia các hoạt động xã hội ở trường; mẹ của Bridget, một cô người Alabama trẻ; và mẹ tôi, một người Puerto Rico với một cuộc hôn nhân trắc trở. Nhưng vào lúc đó, họ có vẻ như là bạn của nhau. Tôi thậm chí còn có thể nhớ đôi chút về việc đó. Hiện giờ các bà mẹ chúng tôi duy trì một tình bạn được xếp hạng đâu đó dưới các ông chồng, con cái, sự nghiệp, nhà cửa và tiền bạc. Ở đâu đó giữa việc phơi nắng ngoài trời và thưởng thức âm nhạc. Đối với chúng tôi thì không thế. Mẹ tôi bảo tôi “Hãy chờ đến khi các con nghiêm túc với trường học và các cậu trai. Hãy chờ đến khi các con bắt đầu cạnh tranh mà xem.” Nhưng mẹ đã nhầm. Chúng tôi không để điều đó xảy ra với chúng tôi đâu. Cuối cùng thì tình bạn của các bà mẹ cũng không phải là tình bạn của các bà nữa, mà chuyển thành tình bạn của chúng tôi, các cô con gái. Các bà mẹ thì như thể những cặp vợ chồng đã ly dị, không có gì chung trừ con cái và quá khứ. Thực sự thì họ có vẻ lúng túng với nhau, nhất là sau việc xảy đến với mẹ Bridget. Có gì đó như là nỗi thất vọng và có lẽ còn một vài điều bí mật giữa họ, vì vậy họ vẫn duy trì vẻ dè dặt với nhau. Chúng tôi bây giờ là các “nhân vật” tháng Chín. Những tháng Chín thực sự. Chúng tôi là tất cả của nhau. Chúng tôi không cần phải nói ra điều đó; điều đó đơn giản là sự thật. Đôi khi có vẻ như chúng tôi gần gũi đến độ trở thành một con người hoàn chỉnh duy nhất chứ không phải bốn người tách biệt. Chúng tôi thuộc những tuýp riêng: Bridget - con người thể thao, Lena - người đẹp, Tibby - kẻ nổi loạn, và tôi, Carmen, người… gì nhỉ? Cô gái cáu kỉnh. Nhưng là người quan tâm đến việc chúng tôi gắn bó với nhau nhất. Bạn có biết bí quyết là gì không? Đơn giản lắm. Chúng tôi yêu quý nhau. Chúng tôi tốt với nhau. Bạn có biết rằng điều đó hiếm thấy thế nào không? Mẹ tôi nói rằng mọi sự không thể thế mãi, nhưng tôi thì tin là mọi sự sẽ vẫn như thế. Cái quần như là một điềm báo vậy. Nó đại diện cho lời hứa mà chúng tôi hứa với nhau, rằng dù có xảy ra chuyện gì, chúng tôi cũng sẽ luôn gắn bó với nhau. Nhưng nó cũng đại diện cho một thách thức nữa. Ở mãi Bethesda, bang Maryland, và sống trong những ngôi nhà có điều hòa thì không đủ. Chúng tôi đã hứa với nhau rằng một ngày nào đó sẽ ra ngoài thế giới kia và cùng nhau khám phá nhiều thứ. Tôi có thể giả vờ là một con người sâu sắc, trung thành và đánh giá cao cái quần ngay tắp lự, hoặc tôi cũng có thể rất trung thực mà kể với bạn rằng tôi chính là người gần như đã ném nó đi. Nhưng việc đó khiến chúng ta cần lùi lại một thời gian để tôi có thể kể cho bạn nghe Cái quần Du lịch đã ra đời như thế nào. Mời các bạn đón đọc Quần Jeans May Mắn của tác giả Ann Brashares.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Chúa tể những chiếc nhẫn: Đoàn Hộ Nhẫn - J.R.R. Tolkien
AudioBook Chúa Tể Những Chiếc Nhẫn   John Ronald Reuel Tolkien (1892 - 1973), một nhà ngôn ngữ, tiểu thuyết gia và giáo sư người Anh, được công chúng biết đến nhiều nhất qua các tác phẩm Anh chàng Hobbit (The Hobbit) và Chúa tể những chiếc nhẫn (The Lord of the Rings). Ông giảng dạy về ngôn ngữ Anglo-Saxon tại Đại học Oxford (giữ cương vị Giáo sư Rawlinson  Bosworth đầu ngành Anglo-Saxon của Oxford) từ năm 1925 đến 1945, và sau đó ông giữ ghế Giáo sư Merton đầu ngành ngôn ngữ và văn học Anh cũng tại Oxford từ 1945 đến 1959. Bộ tiểu thuyết của tác giả John Ronald Reuel Tolkien (J.R.R. Tolkien) gồm ba phần, 6 quyển. - Chúa Tể Những Chiếc Nhẫn - Đoàn Hộ Nhẫn tải eBook - Chúa Tể Những Chiếc Nhẫn - Hai Tòa Tháp tải eBook - Chúa Tể Những Chiếc Nhẫn - Nhà Vua Trở Về tải eBook Bản dịch tiếng Việt phần một vừa hoàn thành và ra mắt độc giả trong nước với tên Đoàn hộ nhẫn. "Đoàn hộ nhẫn" kể về cuộc hành trình gian lao của anh chàng Hobbit Frodo Bao Gai và những người bạn từ mọi chủng tộc của mình, nhằm giải cứu Trung Địa khỏi rơi vào tay Chúa tể Sauron và chiếc Nhẫn Chúa. Phần một này được chia thành 2 quyển, quyển đầu tiên nói về chuyến đi khỏi Quận của Frodo Bao Gai để chạy trốn những tay sai của Chúa tể Bóng tối Sauron, những Ma Nhẫn. Tiếp nối âm hưởng của Anh chàng Hobbit, câu chuyện bắt đầu với bữa tiệc sinh nhật của Bilbo Bao Gai. Trong bữa tiệc, Bilbo đã đột ngột biến mất trước mắt dân làng để bắt đầu cái mà ông gọi là "kỳ nghỉ vô tận", để lại cho Frodo toàn bộ tài sản, trong đó có chiếc Nhẫn Chúa, vật mà Chúa tể Sauron đang tìm kiếm, vật có thể giúp hắn một lần nữa cai trị vùng Trung Địa. Được vị Phù Thủy già Gandalf cảnh báo, Frodo cùng những người bạn Hobbit của mình là Sam, Merry và Pippin đã bí mật rời khỏi nơi sinh sống, trốn tránh sự truy tìm của lũ Kị Sĩ Đen - những Ma Nhẫn, để đến Thung Đáy Khe. Trên suốt đường đi, họ đã gặp rất nhiều khó khăn, nhưng cùng với sự xuất hiện của Sải Chân Dài và Glorfindel, cuối cùng nhóm Hobbit đã tới được Thung Đáy Khe. Quyển thứ hai tiếp nối câu chuyện ở Thung Đáy Khe, nơi mọi người lên kế hoạch để huỷ diệt chiếc nhẫn ở Vùng Đất Đen Mordor. Đánh Giá: “Cộng đồng Anh ngữ được phân làm hai: những người đã đọc Anh chàng Hobbit cùng Chúa tể những chiếc nhẫn, và những người sẽ đọc.” - Sunday Times “Tín đồ Thiên Chúa giáo chưa đọc hết Kinh thánh còn có thể tạm tha thứ, chứ một fan tiểu thuyết kỳ ảo mà chưa đọc cuốn phúc âm của thể loại kỳ ảo này thì không thể chấp nhận được.” - Amazon.com “Tolkien may mắn được ban tặng tài đặt tên chính xác và con mắt quan sát diệu kỳ; kết thúc cuốn I, bạn đọc đã nắm rõ lịch sử Hobbit, người Tiên, Người Lùn cùng sông núi quê hương họ chẳng kém gì nắm rõ xứ sở tuổi thơ mình. Và nếu nhìn nhận một câu chuyện kỳ ảo là nghiêm túc, ai cũng phải thấy rằng dù bề ngoài trình bày những nhân vật và sự kiện khác xa thế giới ta đang sống, đấy vẫn là tấm gương soi hiện thực duy nhất mà ta biết: hiện thực của chúng ta.” - W. H. Auden Mời các bạn đón đọc Chúa tể những chiếc nhẫn - Đoàn Hộ Nhẫn của tác giả J.R.R. Tolkien.
Giết Con Chim Nhại - Harper Lee.
AudioBook Giết Con Chim Nhại Giết con chim nhại (nguyên tác tiếng Anh: To Kill a Mockingbird) là cuốn tiểu thuyết đầu tay của Harper Lee; đây là cuốn tiểu thuyết rất được yêu chuộng, thuộc loại bán chạy nhất thế giới với hơn 10 triệu bản. Cuốn tiểu thuyết được xuất bản vào năm 1960 và đã giành được giải Pulitzer cho tác phẩm hư cấu năm 1961. Nội dung tiểu thuyết dựa vào cuộc đời của nhiều bạn bè và họ hàng tác giả, nhưng tên nhân vật đã được thay đổi. Tác giả cho biết hình mẫu nhân vật Jean Louise "Scout" Finch, người dẫn truyện, được xây dựng dựa vào chính bản thân mình. Giết con chim nhại là một câu chuyện bao gồm nhiều mô-típ, như sự ích kỷ, sự thù hận, lòng dũng cảm, sự kiêu hãnh, định kiến, và các giai đoạn trong cuộc đời, đặt trong bối cảnh cuộc sống miền Nam Hoa Kỳ. Cuốn tiểu thuyết đã được đạo diễn Robert Mulligan dựng thành phim với kịch bản do Horton Foote viết vào năm 1962. Cho tới nay, cuốn tiểu thuyết này là tác phẩm được xuất bản duy nhất của bà Harper Lee. Cuốn tiểu thuyết kể về câu chuyện của hai đứa trẻ ở lứa tuổi mới lớn, Jean Louise "Scout" Finch và Jeremy Atticus "Jem" Finch, sinh trưởng ở thị trấn nhỏ Maycomb, Alabama, nằm sâu trong miền nam nước Mỹ trong thập niên 1930. Chuyện xảy ra trong vòng 3 năm, được kể lại bởi người em. Trong truyện, cha của hai đứa trẻ, luật sư Atticus Finch được chỉ định để bào chữa một người da đen tên là Tom Robinson, bị buộc tội cưỡng hiếp một cô gái da trắng tên là Mayella Ewell. Sau khi tặng quà Giáng sinh cho hai chị em Jem và Scout là mấy khẩu súng hơi, ông Atticus dặn lũ trẻ là mặc dù chúng có thể "bắn bao nhiêu chim giẻ cùi xanh tùy thích", chúng phải nhớ "giết hại chim nhại là tội ác". Sau này cô Maudie Atkinson, hàng xóm của lũ trẻ, giải thích đó là vì chim nhại không bao giờ làm điều gì có hại, nó mang lại niềm vui bằng tiếng hót của chúng: "nó chẳng làm điều gì khác ngoài việc mang đến tiếng hót từ tận con tim cho chúng ta". Con chim nhại (mockingbird) được dùng lặp đi lặp lại như một hình tượng của nạn nhân và sự trong trắng trong suốt tác phẩm. Nó là biểu tượng của sự trong trắng và cái đẹp chống lại chủ nghĩa phân biệt chủng tộc và lòng hận thù. Mời các bạn đón đọc Giết con chim nhại của tác giả Harper Lee.  
Kiến - Bernard Werber
Tên Sách: Kiến (Full PRC, EPUB) Tác Giả: Bernard Werber   Thể Loại: Giả Tưởng, Tiểu Thuyết, Văn học phương Tây   Dịch Giả: Lê Thu Hằng   Đánh Máy: Mọt Sách   Nguồn: vnthuquan.net   Ebook: http://www.dtv-ebook.com   Kiến - Bernard Werber (full prc, epub)   Giới Thiệu: Trong vài giây bạn đọc những dòng này, trên Trái đất có bốn mươi người được sinh ra nhưng có tới bảy trăm triệu con kiến ra đời. Từ hơn trăm triệu năm trước chúng ta, chúng đã ở đó, được chia thành nhiều đội, nhiều tổ, nhiều đế chế trên toàn bề mặt trái đất. Chúng đã tạo ra một nền văn minh song song, xây dựng những vương quốc thực sự, phát minh ra vũ khí tối tân, thiết kế cả nghệ thuật chiến tranh, làm chủ một nền công nghệ đáng kinh ngạc. Chúng có những Attila, Christophe Colomb, Jules César, Machiavel hay Léonard de Vinci của chính mình. Khi bước vào kho chứa đồ trong ngôi nhà mà ông bác nhà côn trùng học già di tặng, Jonathan Wells còn lâu mới nghĩ rằng anh sẽ gặp chúng. Theo chân anh, chúng ta sẽ khám phá thế giới giàu có ngoài sức tưởng tượng, khổng lồ và quyến rũ của những “người dưới đất” này trong một câu chuyện ly kỳ độc nhất vô nhị, nơi ở từng trang sự hồi hộp và ghê rợn đều được xây dựng dựa trên những cứ liệu khoa học chính xác nhất. Đọc "Kiến" rồi sau bị ám ảnh, nhìn thấy kiến không dám dí tay xuống nữa, không bởi vì bỗng dưng trở nên nhân từ không muốn sát sinh mà vì... sợ, hay nể thì đúng hơn cái giống loài bé tí... như mình đã biết vô cùng đơn giản, vô cùng trật tự và đạt hiệu quả cao trong mọi việc.   Bernard Werber sinh năm 1961 tại Toulouse, Pháp. Ngay từ khi mười bốn tuổi, anh đã viết truyện cho một tập san nhỏ về khoa học viễn tưởng. Sau khi học luật tại Toulouse và báo chí tại Pháp, Bernard Werber dành hơn mười năm làm nhà báo khoa học và đã từng cộng tác với rất nhiều tờ có tên tuổi như Nouvel Observateur, Le Point, Ça m'intéresse. Sau đó, anh tập trung vào viết văn. Ngay từ cuốn tiểu thuyết đầu tiên xuất bản năm 1992,Kiến, nhà văn này đã nổi tiếng với một phong cách viết độc đáo, pha trộn giữa loại truyện phiêu lưu, khoa học viễn tưởng và triết lý.Kiến đã giành giải thưởng của độc giả tờ Khoa học và Tương lai (Sciences et Avenir). Cuốn thứ hai trong bộ ba tiểu thuyết về kiến,Le jour des fourmis (Ngày của kiến), ra đời ngay sau đó, đã được nhận giải thưởng lớn của độc giả tờ Elle. Các tác phẩm của Bernard Werber đã được dịch ra hơn 35 thứ tiếng. Với 15 triệu bản bán được trên toàn thế giới, cùng với Marc Levy, Bernard Werber là một trong những nhà văn Pháp đương đại nổi tiếng nhất. Ngoài tiểu thuyết, Bernard Werber còn được biết đến với truyện ngắn, truyện tranh, kịch và phim. Chú ý chỗ bạn đặt chân. Sau khi đọc xong cuốn tiểu thuyết quyến rũ này, bạn dám không nhìn thực tế theo cùng cách hiện giờ nữa. *** Một nền văn minh đầy kinh ngạc của loài kiến, một thế giới giàu có ngoài sức tưởng tượng, ly kỳ, rùng rợn và đáng sợ - đó là thế giới khắc nghiệt và kỳ diệu của những chú kiến bé nhỏ. Kiến không thuộc hàng tiểu thuyết khoa học kinh điển nhưng được xem là dấu son đỏ cho tiểu thuyết khoa học đương đại. Con người hoàn toàn có thể mường tượng ra tương lai không giống như hiện tại chút nào, một tương-lai-của-kiến. ----------------- Trong vài giây bạn đọc những dòng này, trên Trái đất có bốn mươi người được sinh ra nhưng có tới bảy trăm triệu con kiến ra đời. Từ hơn trăm triệu năm trước chúng ta, chúng đã ở đó, được chia thành nhiều đội, nhiều tổ, nhiều đế chế trên toàn bề mặt trái đất. Chúng đã tạo ra một nền văn minh song song, xây dựng những vương quốc thực sự, phát minh ra vũ khí tối tân, thiết kế cả nghệ thuật chiến tranh, làm chủ một nền công nghiệp đáng kinh ngạc. Chúng có những Attila, Christophe Colomb, Jules César, Machiavel hay Léonard de Vinci của chính mình. Khi bước vào kho chứa đồ ngôi nhà mà ông bác là nhà côn trùng học giả di tặng, Jonathan Wells còn lâu mới nghĩ rằng anh sẽ gặp... kiến, cùng cái thế giới giàu có ngoài sức tưởng tượng, ly kỳ, rùng rợn của chúng... Hãy chú ý nơi bạn đặt chân. Đọc xong cuốn tiểu thuyết này rồi, bạn sẽ không còn nhìn thực tế theo cách hiện giờ nữa. Kiến đã được dịch ra hơn 30 thứ tiếng, giành giải thưởng của độc giả tờ Sciences et Avenir, và là tác phẩm nổi tiếng nhất của Bernard Werber, nhà văn Pháp được đọc nhiều nhất trên thế giới. - “Trong Kiến, Bernard Werber đã làm được cho loài kiến những gì Richard Adams đã làm cho loài thỏ trong đồi thỏ…” – Bantam Doubleday Dell Publishing - “Đây là tiểu thuyết đầu tiên mà nhân vật chính là… kiến.” – Albin Michel - “Bernard Werber đã sáng tạo nên một thế giới loài vật gần gũi và chi tiết đến mức mỗi người đọc đều cảm thấy như mình là một phần của nó” – Kevin Grandfield. *** A nh sẽ thấy, không hoàn toàn như anh mong đợi đâu. Công chứng viên giải thích rằng tòa nhà được xếp hạng di tích lịch sử và nhiều nhà hiền triết thời Phục hưng đã từng sống ở đây, nhưng ông không nhớ là những ai. Họ xuống cầu thang, bước vào một hành lang tối om nơi công chứng viên dò dẫm hồi lâu, uổng công bật một cái nút trước khi thở dài: - Ái chà! Nó không chạy nữa. Họ tiến trong bóng tối, lộp cộp lần theo các bức tường. Khi cuối cùng công chứng viên tìm thấy cái cửa, mở nó và nhấn, lần này thì thành công, trúng cái công tắc, ông thấy khách hàng của mình mặt mày biến sắc. - Không ổn à, ông Wells? - Một chứng sợ thôi. Không sao đâu. - Sợ bóng tối? - Vâng. Nhưng đã khá hơn rồi. Họ xem xét mọi ngóc ngách. Đó là tầng hầm rộng hai trăm mét vuông. Dù nó chỉ mở ra phía ngoài bằng vài ô cửa tầng hầm hiếm hoi, bé xíu và sát trần, Jonathan vẫn hài lòng về căn hộ. Các bức tường được dán giấy xám đơn điệu, và bụi phủ khắp nơi… Nhưng anh sẽ không tỏ ra khó tính hơn. Căn hộ của anh hiện nay chỉ rộng bằng một phần năm căn hộ này. Hơn nữa, anh không còn khả năng để trả tiền thuê; nhà máy khóa nơi anh làm mới đây đã quyết định bỏ qua công đoạn của anh. Món thừa kế của bác Edmond đúng là của trời cho không tin được. Hai ngày sau, anh dọn đến số 3, phố Sybarites với vợ mình là Lucie, cậu con trai Nicolas và con chó bông lùn cụt đuôi Ouarzazate của họ. - Mấy bức tường xám này không làm em ngại đâu, Lucie vừa nói vừa lấy tay nâng mái tóc đỏ dày của cô. Chúng mình có thể trang trí như chúng mình muốn. Mọi thứ ở đây đều phải làm lại hết. Như kiểu mình biến nhà tù thành khách sạn đấy. - Phòng của con ở đâu ạ? Nicolas hỏi. - Phía cuối, bên phải. - Ẳng ẳng, con chó sủa, và nó bắt đầu nhay nhay bắp chân Lucie mà không biết là cô đang bưng chồng bát đĩa đám cưới trong tay. Kết cục, nó nhanh chóng bị nhốt vào nhà vệ sinh; khóa hẳn hoi, vì nó biết nhảy tới tận tay nắm cửa và biết xoay để mở cửa. - Anh có biết rõ ông bác hào phóng của anh không? Lucie tiếp tục. - Bác Edmond? Thực ra, tất cả những gì anh nhớ, chỉ là bác nhấc anh lên giả làm máy bay, lúc anh còn rất nhỏ. Một lần anh sợ đến nỗi anh đã tè dầm lên bác ấy. Họ cười. - Đã nhát gan thế cơ à? Lucie trêu. Jonathan làm ra vẻ không nghe thấy gì. - Bác ấy không trách anh về chuyện đó. Bác chỉ nói với mẹ anh: “Được rồi, chúng ta biết là sẽ không cho nó thành phi công…” Sau đó, mẹ nói rằng bác theo sát suốt cuộc đời anh, nhưng anh không gặp lại bác từ ấy. - Bác làm nghề gì? - Đó là một nhà bác học. Một nhà sinh học, hình như thế. Jonathan trở nên trầm tư. Cuối cùng, thậm chí anh cũng không biết ân nhân của mình. Cách đó 6 km: BEL-O-KAN, Cao một mét. 50 tầng dưới lòng đất. 50 tầng trên mặt đất. Thành phố lớn nhất của vùng. Dân số ước tính: 18 triệu. Sản lượng hàng năm: - 50 lít mật rệp. - 10 lít mật sâu yên chi. - 4 kilô nấm mũ. - Đá được dũi: 1 tấn. - Số km hành lang đi lại được: 120. - Diện tích trên mặt đất: 2m2. Một tia sáng vụt qua. Một cái chân vừa nhúc nhích. Cử động đầu tiên từ đợt bắt đầu ngủ đông, cách đây ba tháng. Một cái chân khác từ từ tiến, kết thúc là hai cái chân dần dần tách ra. Một cái chân khác duỗi ra. Rồi đến bộ ngực. Rồi một cái thân. Rồi mười hai cái thân. Chúng rùng mình để giúp dòng máu trong suốt lưu thông trong các động mạch của mình. Máu chuyển từ trạng thái sền sệt sang nhão rồi lỏng. Dần dần van tim bắt đầu hoạt động trở lại. Nó đẩy máu tới tận cuối các chi. Các cơ sinh học nóng dần lên. Các khớp siêu phức tạp xoay từ từ. Khắp nơi, xương bánh chè với các mảng bảo vệ cố tìm thấy cực điểm xoắn của chúng. Chúng tỉnh dậy. Cơ thể lấy lại hơi. Các động tác của chúng rời rạc. Như vũ điệu quay chậm. Chúng lắc nhè nhẹ, vẩy vẩy. Chân trước chúng chập lại trước miệng như kiểu đang cầu nguyện, nhưng không phải, chúng làm ướt các chân của mình để đánh bóng râu. Mười hai con vừa thức dậy xoa cho nhau. Sau đó chúng tìm cách đánh thức những con bên cạnh. Nhưng chúng mới chỉ có đủ sức để nhúc nhích mỗi cơ thể mình, chúng không còn năng lượng để cho đi. Chúng bỏ cuộc. Rồi chúng khó nhọc tiến đến giữa những cơ thể cứng như tượng của các chị em mình. Chúng hướng về bên Ngoài rộng lớn. Toàn bộ cơ thể máu lạnh của chúng cần phải hứng lấy năng lượng mặt trời. Chúng tiếp tục tiến lên, mệt nhoài. Mỗi bước đi là cả một sự đau đớn. Chúng muốn nằm lại đến chừng nào và muốn được yên tĩnh như hàng triệu bạn đồng loại của chúng! Nhưng không. Chúng là những người đầu tiên thức tỉnh. Bây giờ chúng phải đánh thức toàn thành phố. Chúng qua thành phố. Ánh sáng mặt trời làm chúng chói mắt, nhưng tiếp xúc với năng lượng trong lành sảng khoái đến nhường nào. Mặt trời rọi chiếu trên cơ thể gầy của chúng ta, Lay tỉnh những cơ bắp đau nhức Và hợp nhất các suy nghĩ tản mát.   Mời các bạn đón đọc Kiến của tác giả Bernard Werber.
Những Kỳ Vọng Lớn Lao - Charles Dickens
Cuốn tiểu thuyết Những Kỳ vọng lớn lao - Great Expectations được viết vào những năm 1860-1861. Cho đến thời điểm hiện tại, Những Kỳ vọng lớn lao - Great Expectations đã được các đạo diễn dựng lại trên sân khấu và màn ảnh 250 lần. Trong tác phẩm Những Kỳ vọng lớn lao - Great Expectations vào một đêm Giáng sinh, Pip vô tình gặp một tù nhân trốn tàu trong sân của nhà thờ làng. Người tù nhân này tóm lấy Pip dọa dẫm và yêu cầu Pip ăn trộm thức ăn và một cái kìm cho ông ấy. Vừa sợ hãi, vừa cảm thấy thương cảm, Pip đã ăn trộm thức ăn ở nhà chị gái mang cho người đàn ông lạ mặt. Đây là lần đầu tiên trong đời cậu biết thế nào là cảm giác của một người ăn trộm thực sự. Sự ân cần, hồn nhiên và tốt bụng của Pip đã sưởi ấm trái tim băng giá và lạnh lùng của người tù nhân. Nó gợi nhắc ông về người con nhỏ mà ông nghĩ là đã chết… Rồi người đàn ông ra đi… Cuộc sống thường ngày cuốn Pip đi và cuộc gặp ngắn ngủi này cũng nhanh chóng tan biến trong tâm trí cậu. Trong làng Pip ở có quý bà Havisham giàu có nhưng rất khó tính và tàn nhẫn. Bà có cô con gái nuôi xinh đẹp tên là Estella. Một lần, Pip bất ngờ được bà thuê tới làm việc… Ngay từ giây phút đầu tiên gặp Estella, Pip đã bị vẻ đẹp của cô hút hồn... Và khi lớn lên, những rung động đầu đời ấy đã trở thành một tình yêu thật sự. Nhưng đó là một tình yêu vô vọng bởi Havisham là một người căm thù đàn ông, bà đã bị chú rể bỏ rơi ngay trong đám cưới, chính vì vậy ngay từ khi quyết định nhận nuôi Estella, Havisham đã lên kế hoạch nuôi dạy cô thành một thiếu nữ có trái tim tàn nhẫn để phá vỡ trái tim những người đàn ông yêu cô.   Ngay khi nhận ra Pip đã đem lòng yêu cô con gái nuôi của mình, bà Havisham không thuê anh ấy nữa… Pip trở về làm việc tại lò rèn. Cậu sống trong nghèo khổ và luôn nơm nớp lo sợ Estella sẽ nhìn qua cửa xưởng rèn và thấy sự rách rưới của mình…Cậu mong ước được có một cuộc sống giàu có để có thể đến với cô.   Rồi cho đến một ngày, bất ngờ có một vị luật sư từ London tới gặp Pip và thông báo rằng anh ấy có một khoản thừa kế kếch xù từ một người ân nhân giấu tên. Tuy nhiên, có điều kiện đặt ra là để nhận được khoản tiền này anh phải tới Lodon ngay lập tức và việc đầu tiên là mua sắm quần áo để trở thành một người đàn ông quý phái, sau đó phải đến trường học… Pip chấp nhận điều kiện.   Cậu cứ đinh ninh rằng người bí mật cung cấp tiền cho cậu ăn học không phải là ai khác mà chính là Havisham. Cậu nghĩ rằng bà ấy đầu tư tiền cho cậu trở thành một người có địa vị cao hơn trong xã hội để sau này cậu sẽ cưới con gái nuôi của bà ấy Estella… Pip đã sống nhiều năm tại London và tình yêu của cậu dành cho Estella ngày càng lớn hơn dù cậu chưa một lần dám thổ lộ. Trong khi đó, người con gái nuôi của Havisham thì càng ngày càng lạnh lùng hơn…   Thế rồi cho đến một đêm, Pip bất ngờ phát hiện ra rằng, người đầu tư cho mình không phải là bà Havisham như anh từng suy đoán và như bà đã từng ngụ ý bóng gió… mà người ân nhân đó chính là một tù nhân có tên Magwitch… Đây là bước ngoặt thay đổi cả cuộc đời anh, những ước mơ, dự định… Anh cảm thấy xấu hổ vì trong suốt thời gian qua đã sống và học tập trên số tiền của người tù này và càng xấu hổ hơn khi tù nhân đó muốn sống nốt phần đời còn lại ở bên cậu. Mọi thứ càng trở nên phức tạp khi tù nhân đó đang bị cảnh sát truy đuổi... Với suy nghĩ, phải trả món nợ cho người đàn ông này, Pip cùng với một số người bạn thân âm thầm vạch một kế hoạch để Pip và tù nhân vượt biên. Trước khi đi, Pip đến thăm nhà Havisham. Estella đã lấy chồng. Bà Havisham thì đang sống trong đau khổ và ân hận. Bà xin Pip tha thứ rồi nhảy vào đống lửa gần đó tự tử. Pip đã liều mình để cứu bà. Tuy nhiên, do bỏng quá nặng Havisham chết sau đó ít lâu... trong sự cô đơn.   Pip và Magwitch chưa kịp hoàn thành chuyến vượt biên thì kẻ thù cũ Magwitch bất ngờ xuất hiện và muốn giết ông. Hạ gục được kẻ thù nhưng Magwitch cũng bị thương nặng và sau đó ít lâu thì chết trong nhà giam. Qua những ngày chăm sóc cho Mag, Pip đã biết thêm về cuộc đời của người tù và nhận ra ông là một người tốt, dòng dõi quý tộc... Và đặc biêt hơn nữa Pip đã tìm ra người con mà Mag nghĩ đã chết, đó chính là Estella...   Sau khi Mag qua đời, Pip trở nên suy sụp, cậu thành một kẻ lang thang vô gia cư, không tài sản. Trong khoảng thời gian này, người anh rể hết lòng chăm sóc Pip... Anh gượng dậy dần dần và bắt đầu lấy lại thăng bằng. Với sự giúp đỡ và hỗ trợ của người bạn thân, anh bắt đầu có những bước phát triển trong nghề nghiệp.. . Những Kỳ vọng lớn lao - Great Expectations kết thúc bằng cuộc trở về thăm ngôi nhà bà Havisham lần cuối cùng của Pip. Tại đây, anh đã gặp Estella, cô đã li dị chồng và sống cùng con nhỏ. Cô mong Pip tha thứ và coi cô như một người bạn...   Những Kỳ vọng lớn lao - Great Expectations với một kết thúc mở... *** Charles John Huffam Dickens sinh năm 1812 tại Portsmouth, Anh quốc. Ngay từ khi còn nhỏ ông đã phải làm việc vất vả để giúp gia đình. Cuộc sống khổ cực trong nhà máy và những khu phố nghèo đã giúp ông hình thành tư tưởng cho nhiều tác phẩm nổi tiếng về sau. Được xem là tiểu thuyết gia người Anh nổi tiếng nhất thời nữ hoàng Victoria, sự nghiệp văn chương của Dickens đầy ắp các tác phẩm, các bài báo và rất nhiều buổi diễn thuyết thành công, trong đó tiêu biểu là Oliver Twist (tiểu thuyết, 1837-1839); Nicholas Nickleby (tiểu thuyết, 1838-1839); Bài ca lễ Giáng sinh (truyện vừa, 1843); David Copperfield (tiểu thuyết, 1849-1850); Kỳ vọng vĩ đại (tiểu thuyết, 1860-1861)... Nhiều cuốn sách của ông đã được chuyển thể thành phim, kịch, nhạc kịch, hoạt hình... và đến nay các phiên bản mới vẫn tiếp tục ra đời. Dickens mất năm 1870 tại hạt Kent, Anh quốc. Một số tác phẩm của tác giả Charles Dickens được dịch, xuất bản tại Việt Nam: Hồn ma đêm giáng sinh (Bài Ca Mừng Giáng Sinh) Chuyện Vặt Ông Pickwick Oliver Twist David Copperfield Hai Tòa Tháp Những Kỳ Vọng Lớn Lao ... Mời các bạn đón đọc Những Kỳ vọng lớn lao - Great Expectations của tác giả Charles Dickens.