Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cuộc Thanh Trừng Mùa Đông

Thị trấn nhỏ nép mình nơi miền rừng núi của tiểu bang Wisconsin không chỉ bị trận bão tuyết bất ngờ ập đến làm cho trấn động. Trong đêm bão, cả gia đình nhà Lacourt gồm 3 người bị sát hại hết sức dã man, ngôi nhà của họ bị thiêu rụi bởi một kẻ mang tên là Người Băng, chỉ vì hắn cần lấy một bức ảnh. Vụ việc xảy ra hết sức phức tạp, để truy tìm ra danh tính kẻ sát nhân, chàng thám tử đến từ thành phố  Minneapolis, tên là Lucas Davenport buộc phải dùng kì nghỉ đông dài ngày của mình khi được cảnh sát trưởng của thị trấn tin tưởng giao trọng trách điều tra vụ án bí ẩn này. Trong khi tham gia vào điều tra vụ án này Lucas Davenport đã quen với một nữ bác sĩ tên là Weather Karkinnen. Tại đây hai người đã nảy sinh tình cảm và cùng nhau đi tìm lời giải đáp của vụ án này. Trong lúc lần mò tháo từng nút thắt, Lucas Davenport không biết rằng, tên sát nhân Người Băng – kẻ thù nguy hiểm nhất của anh đang ẩn mình trong đêm tối như một con sói săn mồi, chực chờ thời cơ hòng hủy diệt mọi đầu mối dẫn đến những bí mật khủng khiếp hơn ẩn dưới lớp tuyết dày. “Cuộc thanh trừng mùa đông” là một cuốn sách đầy lối cuốn với những tình tiết rùng rợn được đẩy lên cao trào, khiến người đọc như hòa vào dòng chảy của câu chuyện không thể dừng lại. Và khác so với nhiều cuốn tiểu thuyết khác, tác phẩm được xây dựng cốt truyện ngay từ khi được chắp bút của tác giả. *** Nhân vật nổi tiếng của John Sandford, Lucas Davenport, là điều tra viên chính của Cục điều tra tội phạm Minnesota. Davenport lần đầu tiên xuất hiện trong Rules of Prey năm 1989. Kể từ đó, Sandford đã viết hơn 20 cuốn tiểu thuyết của Lucas Davenport. Davenport là loại thám tử thích làm việc bên ngoài các quy tắc được thiết lập của lực lượng cảnh sát. Anh ta lái một chiếc Porsche và là một người lăng nhăng. Một số cuốn sách trong bộ này thay thế cho bộ khác của Sandford tập trung vào Hoa Virgil.   *** Trong số mười chín tiểu thuyết trong series Săn mồi tôi đã viết tính đến giờ, có một vài cuốn có cốt truyện đơn giản hơn, và thực lòng mà nói, cũng có một vài cuốn hay hơn những cuốn khác. Tôi không muốn kể tên chúng ra - thế lại làm giảm doanh thu bán sách của tôi mất - những những người đã theo dõi cả bộ tiểu thuyết nói với tôi rằng “Cuộc thanh trừng mùa đông” là một trong những cuốn xuất sắc hơn hẳn. Tôi cũng đồng ý với những nhận xét này. Và thường những tác phẩm hay lại là những cuốn truyện không tốn quá nhiều công sức của tác giả. Một câu chuyện với những nhân vật hay ho cùng tính cách phong phú, và với cốt truyện liền mạch ngay từ khi vừa chắp bút sẽ tự khai triển trong tâm trí tác giả như một cuốn phim vậy - ta gần như có thể xem được bộ phim đó khi ngồi viết bên bàn máy tính. Viết nên cuốn tiểu thuyết này giống như chép lại những câu chuyện trong đầu tôi vậy. Cũng có những cuốn kiểu như thế này. Bạn dự định viết một cuốn dài một trăm nghìn từ nhưng khi mới viết được năm mươi nghìn thì bạn lại nghĩ rằng câu chuyện chỉ có thể dừng ở mức năm mươi lăm nghìn từ. Sau cùng, thay vì viết tiểu thuyết, bạn lại viết nó thành một truyện ngắn. Và khi chuyện đó xảy ra, bạn cố tình tạo ra những bất ngờ hay những nút thắt thay đổi cốt truyện mà ngay từ đầu không hề dự định. Và điều này khiến nó trở thành một cuốn tiểu thuyết không xuất sắc. (Những ví dụ điển hình nhất cho thể loại này là những cuốn tiểu thuyết viễn tưởng chỉ dài có hai trăm năm mươi nghìn từ, loại tiểu thuyết bạn có thể đọc trên xe buýt trong vòng hai tuần. Đó là cái kiểu chuyện nói về một anh hùng cưỡi rồng tới Khu Rừng Hắc Ám để chiến đấu với đồ đệ của một phù thủy nào đó. Rồi sau cuộc chiến, anh ta lại tiếp tục đi sâu hơn vào khu rừng để chiến đấu với một tên đồ đệ phù thủy lợi hại hơn, vân vân… Khuấy các tình tiết lên cho đến khi chúng trộn lẫn vào nhau và thành một món dở sống dở chín). Khác với những tiểu thuyết này, cuộc THANH TRỪNG MÙA ĐÔNG được dựng cốt truyện ngay từ khi chắp bút. Ngay trước khi cầm bút, tôi đã có cơ hội được trải nghiệm mùa đông khắc nghiệt ở khu rừng North Woods. Mùa đông ấy vẫn hằn sâu trong tâm trí tôi, và nó đã trở thành một nhân vật trong cuốn sách, với những con hươu, con sói đói khát và những hiện trường vụ án lạnh lẽo đến thấu xương. Một người bạn của tôi nói rằng vợ anh ấy chưa từng đọc hết cuốn truyện vì nó quá rùng rợn. Cô ấy sống ở vùng nông thôn, và trong suốt mùa đông, khi mà anh bạn của tôi thường xuyên vắng nhà, cô ấy không muốn có bất kì ý niệm nào về những sinh vật hoạt động trong những đêm đông, cho dù đã nhét khẩu súng săn dưới giường… Đồng thời, trong Cuộc thanh trừng mùa đông, tôi cũng đem đến một nhân vật mới, Weather Karkinnen. Cô là một bác sĩ, và không chỉ sưởi ấm cho Lucas Davenport trong cuốn sách này, cô sẽ trở thành tình yêu của đời anh trong những cuốn tiếp theo. Tôi đã từng thắc mắc mình sẽ làm gì với Weather sau khi cuốn truyện này kết thúc. Thực ra, tôi đã liên tục nhắc đến cô dưới cái tên “Harkinnen” ở những cuốn tiểu thuyết sau này. Tôi tin rằng Weather được khắc họa đậm nét nhất trong Cuộc thanh trừng mùa đông hơn bất kì một cuốn nào khác, dù trong một cuốn truyện, cô ấy trở thành nhân vật chính, và trong các cuốn tiểu thuyết khác cũng xuất hiện nhân vật này. MỘT ĐIỀU KHIẾN Cuộc thanh trừng mùa đông trở nên thành công chính là khi tôi viết cuốn sách này, tôi vẫn khá gần gũi với công tác báo chí. Ví dụ, cảnh hỏa hoạn ở phần mở đầu của cuốn sách thực ra được mô phỏng dựa trên hai vụ hỏa hoạn mà tôi đã đưa tin vào mùa đông ở Minnesota, một vụ cháy căn nhà di động và một vụ ở tòa nhà ở trung tâm Minneapolis. Vụ cháy tòa nhà ở Minneapolis diễn ra khi nhiệt độ xuống tới âm hai mươi bảy độ c với sức gió lên đến gần năm mươi km/h. Khi làm thử phép tính, sẽ cho ra “yếu tố gió lạnh”* tầm âm một trăm nghìn độ. Các anh lính cứu hỏa phải được “đục” ra theo đúng nghĩa đen khỏi những bộ đồng phục bị băng đá thổi ngược lại từ cái vòi cứu hỏa làm cho nặng trịch. Yếu tố gió lạnh (windchill factor), chỉ tình trạng vào mùa đông khi có gió thổi, con người sẽ cảm thấy lạnh hơn nhiệt độ thực tế đo được. Đó là những mẩu chuyện khá hay ho. Theo cá nhân tôi, những câu chuyện viễn tưởng “thực nhất” phải bao gồm những sự kiện được quan sát tận mắt chứ không phải chi được vẽ ra trong trí tưởng tượng của tác giả. Dù sao đi chăng nữa thì mùa đông (ở Hayward, Wisconsin, nơi tôi có một ngôi nhà gỗ để nghỉ hè) vẫn là một trong những nguồn cảm hứng dồi dào nhất của tôi. Một tên loạn trí cưỡi xe trượt tuyết, cùng một cô người yêu tuổi mới lớn lệch lạc tư tưởng và một đống xác chết - thảy hết chúng vào câu chuyện này, và ta chẳng còn cần gì hơn thế nữa. SAU KHI KẾT THÚC cuốn truyện và chỉnh sửa những chương đầu cùng chương cuối, tôi ngồi ngẫm lại và nhận ra rằng có lẽ mình đã trở thành một nhà văn chuyên nghiệp của dòng tiểu thuyết trinh thám rồi. Không chỉ không gặp nhiều khó khăn với cuốn này, mà sau sáu cuốn tiểu thuyết tôi đã từng chắp bút, có lẽ đây là lần đầu tiên tôi cảm thấy rằng tôi có thể điều khiển dòng chảy của câu chuyện từ đầu cho tới cuối. Không như những cuốn tôi đã viết trước đó, tôi không phải dừng lại giữa chừng để đọc lại và bỏ đi một nửa những gì mình đã viết, vì tôi đã dẫn dắt câu chuyện đi sai hướng, hoặc vì tôi đã phạm phải một lỗi cơ bản mà không nhận ra. Tôi có thể thấy được cái kết cho Cuộc thanh trừng mùa đông ngay từ khi bắt tay vào viết… Sau Cuộc thanh trừng mùa đông, tôi nghĩ rằng mình có thể viết đến cả trăm cuốn nữa cho bộ tiểu thuyết này, và chúng cũng sẽ xuất sắc, cô đọng và đầy chuyên nghiệp như thế này. Và rồi nghiệp viết văn của tôi sẽ trở nên dễ dàng hơn. Mọi chuyện chưa được như ý tôi muốn nhưng ít nhất đó là những gì tôi cảm nhận sau khi hoàn thành cuốn này. Mong bạn đọc sẽ yêu thích câu chuyện. JOHN SANDFORD *** GIÓ RÍT TỪNG CƠN dọc những lạch nước đã đóng băng của sông Shasta, giữa những bức tường đen kịt được tạo nên bởi rừng thông. Những rặng trăn trần trụi khẳng khiu nơi đầm lầy và những cây bạch dương mới nhú rủ xuống trước gió. Những bông tuyết nhọn hoắt như mũi kim cưỡi gió, tựa như hạt sạn trên tờ giấy nhám, tạc nên những đường xoắn ốc kiểu Ả Rập trên lớp tuyết đang lất phất bay. Người Băng men theo con sông dẫn tới hồ. Hắn ta định hướng chủ yếu dựa vào cảm tính và thời gian cũng tốt như bằng thị giác vậy. Khi sáu phút đã trôi qua trên cái mặt phát sáng của chiếc đồng hồ lặn, hắn bắt đầu đi tìm cây thông chết. Hai mươi giây sau, cái thân bị thời tiết mài cho trắng phớ của cây thông hiện ra dưới ánh đèn pha của chiếc xe máy tuyết, treo mình ở đó một lúc, rồi biến mất như một con ma vẫy xe xin quá giang. Chín ki lô mét, góc phương vị* hai trăm bảy mươi độ… Góc phương vị (compass bearing) là góc tạo bởi hướng Bắc và hướng muốn đi trên la bàn. Tích tắc tích tắc… Vấn đề duy nhất bây giờ là thời gian… Hắn suýt chút nữa đâm sầm vào bờ hồ phía tây nơi chân con dốc đổ xuống từ phía ngôi nhà. Ngôi nhà bị tuyết phủ tọa lạc trên tầng tầng tuyết trắng, hiện ra lù lù trước mắt. Hắn quẹo xe, giảm tốc rồi men theo bờ hồ. Thứ ánh sáng màu xanh nhân tạo phát ra từ đèn hiên xuyên rọi qua màn tuyết. Hắn chầm chậm nhích xe lên trên bờ hồ rồi tắt máy. Gạt cái kính mũ bảo hiểm lên, Người Băng ngồi xuống và lắng nghe. Hắn chẳng nghe thấy gì ngoài tiếng tuyết khẽ táp vào bộ quần áo đang mặc và chiếc mũ bảo hiểm, những âm thanh thật khẽ của động cơ xe đang nguội dần, hơi thở của chính hắn và tiếng gió. Hắn đeo một chiếc mặt nạ trượt tuyết bằng len che kín cả mặt, chỉ còn chừa lại đôi mắt và miệng. Những bông tuyết len lỏi vào từng thớ len, rồi dần dần tan ra, nhỏ thành từng giọt từ khoảng hở chỗ đôi mắt xuống mặt dọc theo sống mũi hắn. Hắn ăn vận thật kĩ lưỡng cho chuyến đi trong cái thời tiết này, mặc trên người bộ đồ đi tuyết chống gió và cách nhiệt, chân mang đôi giày đi tuyết nặng trịch và tay thì xỏ găng trượt tuyết. Cái áo cao cổ làm bằng sợi PP dày cộp chờm lên cái mặt nạ và cổ áo của bộ đồ hắn mặc trên người thì được cài liền với chiếc mũ bảo hiểm màu đen. Hắn gần như được bao bọc bởi len và nylon, vậy mà hơi lạnh vẫn luồn vào từng kẽ hở, rút lấy từng hơi thở của hắn… Trên giá để đồ, đôi giày đi tuyết được cột sau ghế ngồi, bên cạnh con dao chặt ngô bọc trong một tờ báo. Xoay người ngồi nghiêng một bên, hắn tựa hẳn mình vào chiếc xe, tay lục tung túi áo parka để tìm chiếc đèn pin nhỏ bằng nhôm và soi về hướng giá để đồ. Đôi găng tay dày cộp lúc này trở nên thật vướng víu. Hắn tháo găng ra, mặc nó lủng lẳng trên nẹp cổ tay áo. Ngọn gió như một lưỡi rìu phá băng cứa sâu vào những ngón tay không đeo găng của hắn khi hắn rút đôi giày đi tuyết ra. Hắn ta bỏ đôi giày xuống nền tuyết trắng, xỏ chân vào cái nẹp nối thao tác nhanh, cài dây buộc rồi ngay lập tức lại luồn tay vào đôi găng. Mới có một phút mà tay hắn đã lạnh cóng, đông cứng lại. Sau khi xỏ lại đôi găng, hắn đứng dậy, kiểm tra bề mặt tuyết bên dưới. Lớp tuyết bên trên khá xốp nhưng cái lạnh cắt da cắt thịt đã làm lớp tuyết bên dưới cứng lại. Chân hắn chỉ bị lún xuống sáu đến tám xen ti mét. Tình hình khá khả quan. Tiếng chuông báo hiệu thời gian lại vang lên trong tâm trí hắn. Hắn dừng lại, tự trấn an mình. Cái bộ máy phức tạp vận hành sự tồn tại của hắn giờ đây đang trong hiểm nguy. Hắn đã từng ra tay hạ sát trước đây, nhưng đó gần như chỉ là một tai nạn. Hắn đã phải tạo hiện trường giả một vụ tự sát quanh tử thi của nạn nhân. Và nó gần như quá hoàn hảo. Ít nhất cũng đủ để cảnh sát không có lấy một cơ hội để bắt hắn. Ngày hôm đó đã thay đổi hắn hoàn toàn. Hắn đã được nếm mùi máu và hương vị thứ thiệt của quyền lực. Hắn ngửa đầu ra sau như một con chó đang lần theo mùi. Ngôi nhà cách bờ sông hơn ba trăm mét. Hắn bị bóng tối bao trùm, không thể nhìn thấy ngôi nhà ngoại trừ ánh sáng le lói rọi từ đèn sân. Hắn lôi con dao ra khỏi giá đựng đồ và bắt đầu leo lên dốc. Con dao chặt ngô là một vũ khí đơn giản nhưng hoàn hảo để phục kích trong một đêm đầy tuyết, nếu cơ may xuất hiện. Trong cơn bão, và đặc biệt về đêm, căn nhà của Claudia LaCourt dường như trôi ra nơi rìa thế giới. Tuyết rơi càng dày thì những ngọn đèn rọi từ hiên nhà qua dòng sông đóng băng càng mờ dần rồi từng ngọn, từng ngọn lụi tắt hẳn. Cùng lúc đó, khu rừng như tiến sát lại. Những cây thông và cây tùng khẽ nhón chân lại gần, đè hẳn mình lên ngôi nhà. Những cây trắc bách diệp như đang cạo vào cửa sổ, và những cành bạch dương trơ trụi thì như muốn cào nát diềm mái nhà. Tất thảy nghe như thể một sinh vật ác độc đang tiến lại gần, một con quái vật với vuốt nhọn và răng nanh, đập vào tấm ván che kêu rầm rầm hòng tìm kiếm một chỗ để bám vào. Nó dường như có thể thổi bay cả ngôi nhà. Khi ở nhà một mình hoặc ở cùng cô con gái Lisa, Claudia thường nghe những album cũ của Tammy Wynette hay xem các chương trình truyền hình giải trí. Nhưng cơn bão vẫn chứng minh sự hiện diện của mình bằng những cú sập cửa hoặc những tiếng gào rú trong đêm. Hoặc một đường dây dẫn điện có thể hỏng ở đâu đó. Lúc đó, những ngọn đèn chập chờn rồi vụt mất, nhạc tắt lịm, ai nấy đều nín thở lắng nghe cơn bão gầm gừ như muốn xé nát tất cả. Ánh nến càng làm cho mọi thứ trở nên tệ hại hơn và đèn bão thì cũng chẳng hữu ích là bao. Thứ duy nhất có thể chiến đấu với những điều xấu xa được tạo ra bởi trí tưởng tượng của con người trong một cơn bão đêm là sự hiện diện của khoa học hiện đại -truyền hình vệ tinh, radio, đĩa CD, điện thoại và trò chơi điện tử. Hoặc máy khoan. Những thứ tạo ra âm thanh của máy móc và xua đi những móng vuốt của thời kỳ tăm tối đang chực chờ lật tung ngôi nhà. Claudia đứng cạnh bồn, rửa cốc cà phê và treo chúng lên giá. Cửa sổ cạnh bồn rửa phản chiếu hình ảnh của cô như một tấm gương, nhưng đôi mắt và những đường nét trên gương mặt có vẻ tối hơn giống như trong những bức hình được chụp theo phương pháp Daguerre* vậy. Phương pháp Daguerre (Daguerreotype) là phương pháp chụp ảnh được phát minh bởi Louise Dagueưe (1787-1851), qua đó hình ảnh sẽ được ghi lại trên một tấm bảng kim loại. Nhìn từ bên ngoài, Claudia trông như nàng thánh mẫu trong một bức vẽ, là dấu hiệu duy nhất của ánh sáng và sự sống trong cơn bão, nhưng cô chưa từng nghĩ mình như vậy. Claudia là một bà mẹ với vòng ba săn chắc, mái tóc mang sắc đỏ, có khiếu hài hước và rất có gu uống bia. Cô có thể lái tàu đánh cá và chơi bóng mềm. Vào mùa đông, thỉnh thoảng, khi Lisa ngủ ở nhà bạn, cô và Frank lái xe tới Grant và thuê một phòng ở nhà nghỉ Holiday Inn, nơi có những tấm gương lớn, cao từ sàn tới tận trần nhà, được đặt trên cánh cửa tủ quần áo cạnh giường. Cô thích cái cảm giác ngồi trên hông của anh ngắm thân hình mình trong cơn khoái lạc, đầu ngả ra sau và ngực thì ửng hồng. Claudia cậy mảng vỏ bánh cháy cuối cùng ra khỏi khay nướng bánh, rửa sạch rồi cho nó vào giá đĩa để ráo nước. Cô nhìn ra ngoài, nơi một cành cây cào vào cửa sổ, nhưng không hề sợ hãi. Cô ngân nga một bài hát cũ rích nào đó, một bài hát từ thời trung học. Đêm nay ít ra thì không chỉ có mình cô và Lisa. Frank đang ở đây. Anh bước lên trên cầu thang và cũng đang ngân nga một bài hát nào đó. Họ thường hay cùng lúc làm một việc như vậy. “Ừm,” cô quay lại khi nghe thấy tiếng anh. Mái tóc đen mỏng của anh loà xoà trên đôi mắt đen. Anh trông như một chàng cao bồi với gò má cao và đôi bốt cao cổ cũ kĩ ló ra ngoài chiếc quần bò côn, Claudia nghĩ. Anh đang mặc một cái tạp dề làm bằng vải bò rách tả tơi bên ngoài chiếc áo phông, và tay thì cầm chiếc chổi sơn lấm lem nước sơn đỏ như máu. “Sao vậy, anh yêu?”cô lên tiếng. Đây là cuộc hôn nhân thứ hai của cả hai người. Họ đều đã trải qua nhiều chuyện và thực sự dành tình cảm cho nhau. Anh rầu rĩ, “Anh vừa mới bắt đầu sơn cái giá sách nhưng anh đã để cái lò sưởi cháy hết mất rồi.” Anh vung vẩy cái chổi sơn trước mặt cô. “Chắc anh sẽ mất cả tiếng đồng hồ để sơn xong cái giá sách mất. Anh thực sự rất thích việc này.” “Lạy Chúa, Frank…,” cô đảo mắt. “Anh xin lỗi,” anh ăn năn theo đúng kiểu một chàng cao bồi bảnh bao. “Thế về chuyện với cảnh sát trưởng thì sao?” Cô chuyển chủ đề. “Anh vẫn sẽ tiếp tục chuyện này sao?” “Anh sẽ gặp ông ấy vào ngày mai,” anh quay mặt đi, tránh ánh mắt của cô “Chỉ thêm rắc rối thôi.” Cuộc tranh luận vẫn đang âm ỉ giữa hai người họ. Cô bước ra xa khỏi bồn rửa và nghiêng người ra sau, đưa mắt về phía hành lang hướng phòng Lisa. Căn phòng vẫn đóng kín và tiếng nhạc của Guns ‘N Roses khe khẽ vọng ra. Giọng của Claudia trở nên gay gắt, đầy lo lắng. “Anh có thể im đi được không? Đó không phải việc của anh. Anh đã nói cho Harper nghe rồi. Jim là con trai của anh ta. Nếu đó là Jim.” “Chắc chắn là Jim, được chứ. Anh đã kể cho em cái cách mà Harper cư xử rồi mà.” Frank bặm chặt môi lại. Claudia nhận ra cái biểu cảm này và biết rằng anh sẽ không thay đổi quyết định của mình, cũng giống như cái gã trong bộ phim “High Noon.” Hắn tên gì nhỉ? Phải rồi, Gary Cooper. “Em ước là mình chưa bao giờ thấy bức hình đó,” cô cúi đầu, tay phải day thái dương. Lisa đã đưa lại bức hình cho mẹ mình trong phòng ngủ. Cô bé không muốn Frank thấy nó. “Chúng ta không thể để mọi chuyện cứ như thế được.” Frank năn nỉ. “Anh đã bảo với Harper rồi.” “Sẽ có rắc rối đó, Frank,” Claudia nói. “Pháp luật có thể giải quyết được mà. Chúng ta sẽ không bị liên lụy gì cả,” anh đoan chắc. Sau một hồi, Frank lên tiếng “Em bật cái lò sưởi lên nhé?” “Thôi được rồi. Em sẽ lo chuyện cái lò sưởi”. Claudia hướng mắt ra ngoài cửa sổ nơi ánh đèn thuỷ ngân ngoài hiên rọi xuống garage. Những bông tuyết dường như bắt đầu rơi từ một điểm ngay bên dưới ánh đèn, như thể được đổ xuống từ một cái phễu phía trên phía cửa sổ, chiếu thẳng vào đôi mắt cô như một viên đạn nhỏ. “Trông có vẻ như tuyết sẽ ngớt.” “Đáng nhẽ không có tuyết mới đúng.” Frank chửi tên dự báo thời tiết, “Mẹ kiếp.” Dự báo thời tiết nói rằng trời sẽ lạnh và quang quẻ ở hạt Ojibway, nhưng bây giờ thì tuyết đang rơi như trút. “Anh thử suy nghĩ về việc buông xuôi nó đi” cô nài xin “Hãy suy nghĩ lại một chút thôi.” “Anh sẽ suy nghĩ lại,” anh nói rồi quay lưng đi xuống hầm. Frank có thể nghĩ về nó, nhưng anh sẽ không bao giờ thay đổi quyết định của mình. Claudia ngẫm lại mọi chuyện, tròng mình vào chiếc áo len rồi bước ra gian ngoài. Đôi găng lái xe ướt nhẹp của Frank phơi trên lỗ thông hơi của lò sưởi khiến cả căn phòng có mùi như len sấy khô. Cô khoác lên người chiếc áo parka và chiếc mũ len với quả bông treo lủng lẳng phía sau. Claudia đeo găng rồi với tay tìm công tắc trong gian ngoài, bật đèn hiên và bước ra ngoài, hòa mình vào cơn bão. Bức ảnh đó. Bọn họ đáng lẽ có thể là bất cứ ai, từ Los Angeles đến Miami, nơi mà họ làm những việc như vậy. Nhưng không. Họ đến từ hạt Lincoln. Chất lượng in ấn thì tệ hại, giấy thì tồi đến mức có thể bở nát ra ngay khi cầm trong tay. Nhưng đó đúng là con trai của Harper. Nhìn kĩ bức ảnh, cô có thể thấy đốt tay cụt bên bàn tay trái bị gây ra bởi rìu chặt củi và đôi khuyên tai vòng của cậu bé. Trong bức ảnh, cậu ta đang khỏa thân trên giường, hông hướng về phía máy ảnh và ánh mắt thì đờ đẫn pha lẫn chút hoang mang. Cậu ta có gương mặt đang dần trưởng thành của một thanh niên trẻ tuổi, nhưng đâu đó vẫn ẩn chứa hình bóng của một cậu bé làm việc ở trạm xăng của cha. Cậu bé mà cô đã biết từ lâu. Phía trước bức ảnh là thân hình của một gã đàn ông ục ịch, ngực đầy lông. Hình ảnh đó nhanh chóng lướt qua tâm trí Qaudia. Cô đủ quen thuộc với đàn ông và cơ thể của họ, nhưng có một điều gì đó trong bức ảnh, một điều vô cùng tồi tệ… Mắt của cậu bé tối sầm lại trước đèn flash. Khi nhìn gần hơn nữa, đồng tử của cậu bé trông như thể ai đó ở tòa soạn của tờ tạp chí đã vẽ nó vào mắt cậu bằng một cây bút dạ. Claudia khẽ rùng mình nhưng hoàn toàn không phải vì lạnh. Cô nhanh chóng bước xuống đường hào bị phủ đầy tuyết dẫn tới garage và kho để gỗ. Mới đó mà tuyết rơi trong hầm đã dày tới mười centimet. Rồi sáng mai cô sẽ lại phải thổi tuyết ra. Cửa garage ở phía cuối đường hào. Cô đẩy mạnh cánh cửa rồi bước vào, bật đèn sáng choang và giậm mạnh chân theo quán tính. Garage được cách nhiệt và sưởi ấm bằng lò sưởi. Bốn khúc gỗ sồi cháy âm ỉ và tản ra đủ nhiệt để giữ nhiệt độ trong garage luôn trên mức đóng băng kể cả vào những đêm lạnh giá nhất, và cũng đủ để khởi động xe. Ở cái xứ Chequamegon này thì khởi động xe đúng là vấn đề sống còn. Lò sưởi vẫn còn ấm. Than đã cháy hết, nhưng Frank đã dọn lò tối hôm trước. Dù sao thì đó cũng không phải là việc của cô. Cô quay lại nhìn về phía đống gỗ gần cánh cửa. Chỉ còn đủ cho đêm nay. Cô ném vài thanh gỗ thông còn đầy nhựa to bằng cổ tay vào lò cùng với bốn khúc gỗ sồi để giữ lửa cháy. Cô thở dài nhìn về nơi mà đống gỗ đáng lẽ phải ở và quyết định mang thêm mấy thanh gỗ để tuyết bám trên chúng có thể tan ra trước sáng hôm sau. Rồi cô bước ra ngoài, đóng cửa lại nhưng không khóa, lần dọc về phía chái nhà để củi ở bên hông garage. Cô nhặt thêm bốn khúc gỗ sồi rồi loạng choạng quay về cửa garage, đẩy cửa bằng chân và thảy mấy khúc gỗ sồi xuống cạnh lò sưởi. Cô sẽ chỉ đi một lượt nữa thôi và phần còn lại sáng hôm sau là của Frank. Cô quay về phía hông garage, đi vào nhà kho đựng gỗ tối om lấy thêm hai khúc gỗ sồi. Đột nhiên tóc gáy cô dựng đứng… Không chỉ có cô, ai đó cũng đang ở đây. Claudia run rẩy đánh rơi những khúc gỗ, tay đưa lên cổ tự trấn an mình. Khu đất phía sau của garage tối đen như mực. Cô không thể nhìn thấy ai cả nhưng trực giác của cô thì mách bảo điều ngược lại. Tim cô đập dội vang trong lồng ngực và những bông tuyết rơi trên mũ trùm tạo thành từng tiếng đồm độp thật nhỏ. Không còn gì khác nữa, nhưng cô có linh cảm không lành. Cô lùi lại, nhưng chẳng có gì khác ngoài tuyết và ánh sáng xanh của đèn hiên. Bước đi trong đường hào đầy tuyết, cô bỗng khựng lại, chú mục vào bóng tối… rồi bỏ chạy thật nhanh về phía căn nhà. Ngay cả khi tới nơi, cô vẫn có cảm giác ai đó đang ở phía sau lưng mình. Hắn dường như sắp chạm tới cô. Cô túm lấy nắm tay cửa, giật thật mạnh, đẩy cửa bằng mu bàn tay rồi bước vào gian ngoài sáng choang và ấm áp. “Claudia?” Frank lên tiếng. Cô hét lên. Frank đứng thần ra ở đó với chiếc giẻ lau sơn, và đôi mắt mở to đầy ngạc nhiên “Xảy ra chuyện gì vậy?” “Chúa ơi!” Claudia kéo khóa áo bộ đồ đi tuyết xuống, vật lộn với cái khóa mũ trùm đầu. Mồm cô mấp máy nhưng không thể phát ra một lời nào. “Lạy Chúa, Frank, có ai đó ngoài garage.” “Gì cơ?” Frank khẽ nhíu mày và tiến về phía cửa sổ trong bếp. “Em có thấy hắn ta không?” “Không, nhưng em thề có Chúa là có ai đó ngoài kia. Em có thể cảm thấy hắn.” Cô bám lấy tay anh, đôi mắt hướng ra ngoài cửa sổ. “Gọi 911 đi!” “Anh không thấy gì cả,” Anh đi qua bếp, nghiêng người trên bồn rửa, nhìn chằm chằm về phía đèn hiên. “Anh không thể thấy được gì đâu,” Cô khóa chặt cửa lại rồi bước vào căn bếp, “Frank, em thề có Chúa đấy, chắc chắn là có ai đó ngoài kia…” “Thôi được rồi,” Anh trả lời một cách nghiêm túc “Anh sẽ đi kiểm tra xem sao.” “Tại sao chúng ta không gọi…” “Anh sẽ xem thử xem thế nào.” Anh nhắc lại. Rồi tiếp lời, “Cảnh sát sẽ không tới đây lúc trời bão thế này đâu. Khi mà thậm chí em còn không nhìn thấy ai cả.” Anh nói đúng. Claudia theo anh ra gian ngoài, mồm lắp bắp, “Em đã cho gỗ vào bếp sưởi, sau đó em vòng sang hông garage để lấy thêm vài khúc gỗ cho sáng mai.Vào lúc đó, cô tự nhủ rằng, đây không phải là cô của thường ngày. Frank ngồi trên chiếc ghế dài ở gian ngoài, kéo đôi bốt Tony Lamas ra khỏi chân. Mặc xong bộ đồ đi tuyết, Frank ngồi xuống, xỏ chân vào đôi ủng rồi buộc dây giày. Xong xuôi, anh kéo khóa áo khoác lên và với lấy đôi găng tay. “Anh sẽ quay lại ngay.” Anh tỏ vẻ tức giận nhưng anh biết rõ cô không phải là người dễ dàng hoảng sợ. Cô bật thốt lên, “Em sẽ đi cùng anh” “Không, em sẽ ở lại đây.” anh nói chắc nịch. Cô vội vã vòng ra sau bàn bếp và kéo mạnh cái ngăn kéo “Frank, mang súng theo đi.” Một khẩu Smith Wesson 357 cỡ lớn đã được nạp sẵn đạn nằm sâu trong hộc tủ, phía sau bức vách ngăn. “Đó có thể là Harper… Có thể…” Mời bạn đón đọc Cuộc Thanh Trừng Mùa Đông của tác giả John Sandford.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Vòng Đu Quay Đêm
“Sự thật chỉ có một. Đối tượng để khóc thương, đối tượng để chỉ trích, đối tượng để an ủi, tất cả đều là gia đình, chỉ vậy mà thôi.” Khu dân cư cao cấp Hibarigaoka rúng động bởi vụ án mạng xảy ra trong một gia đình hạnh phúc như tranh vẽ. Cha là nạn nhân, mẹ là nghi phạm, ba đứa trẻ nhà Takahashi đột ngột đối diện với một tương lai tàn khốc mà chúng chưa từng tưởng tượng ra. Trong quá trình bóc tách từng lớp bóng tối hòng tìm ra sự thật, chúng nhận ra những uẩn khúc của vụ án dần được phơi bày từ câu chuyện của chính những người sống ở nhà đối diện. Cuốn tiểu thuyết gây sốc lấy đề tài “gia đình” đến từ Minato Kanae – tác giả của kiệt tác “Thú tội”. GIỚI THIỆU TÁC GIẢ: Minato Kanae là tiểu thuyết gia Nhật Bản, sinh năm 1973 tại Hiroshima. Năm 2007, với truyện ngắn Kẻ truyền đạo bà đã giành được giải Tác giả tiểu thuyết trinh thám mới lần thứ 29. Năm 2008 bà viết tác phẩm đầu tay Thú tội với chương đầu chính là truyện ngắn Kẻ truyền đạo, đứng vị trí thứ nhất trong Bảng xếp hạng top 10 truyện trinh thám năm 2008 của tuần báo Bunshun, sau đó giành được giải Booksellers’ Award lần thứ 6. Đến năm 2014, Thú tội lại được tờ Wall Street Journal của Mỹ chọn làm một trong 10 tác phẩm trinh thám xuất sắc nhất. Năm 2012, truyện ngắn Sao trên mặt biển trong tập truyện Vọng hương của bà đã nhận giải Hiệp hội tác giả truyện trinh thám Nhật Bản lần thứ 65 trong hạng mục truyện ngắn. Năm 2016, tiểu thuyết Utopia của bà nhận giải Yamamoto Shugoro lần thứ 29. Những tác phẩm khác của Minato Kanae đã được xuất bản:   Thú Tội - Minato Kanae Những Đứa Trẻ Bị Mắc Kẹt Chuộc Tội Cảnh Ngộ Tất Cả Vì N Án Mạng Bạch Tuyết *** Một câu chuyện xảy ra tại 1 khu dân cư được coi là cao cấp, nằm trên 1 con dốc cao của 1 thành phố nào đó tại Nhật….những gia đình sống ở đó dường như có 1 cuộc sống đáng mơ ước, đáng ghen tỵ đối với người ngoài, nhưng sự thật thì không hẳn như vậy….ngay tại gia đình được cho là kiểu mẫu nhất tại khu dân cư này, lại xảy ra 1 vụ án mạng….và câu chuyện sau đó xoay quanh những người trong gia đình đó, và cả những gia đình khác trong khu dân cư….khi xảy ra biến cố, những ngóc ngách sâu thẳm và tối tăm nhất trong đời sống tưởng chừng lấp lánh như kim sa kia mới dần phơi bày, và nó ko tốt đẹp và yên bình như ngta từng tưởng!…. Trong Vòng đu quay đêm, Minato đã kể 1 câu chuyện nhiều tính người chân thật hơn so với những truyện trước đây (theo quan điểm cá nhân t)….dù rằng thực tế là t vẫn ko hoàn toàn đồng cảm được với tâm lý của những nhân vật trong truyện, nhưng ít ra t nhìn ra đâu đó bóng dáng của 1 xã hội thu nhỏ nơi đây….chúng ta vẫn nói: người giàu cũng khóc – hay đúng hơn là bất cứ ai, bất cứ gia đình nào cũng có những vấn đề riêng, nỗi đau riêng và người ngoài thì không hiểu đc….gia đình của Mayumi có những vấn đề mà ai cũng thấy rõ, như sự hỗn láo của đứa con gái, sự kìm nén của người mẹ và sự trốn tránh trách nhiệm, nhu nhược của người bố, nhưng bi kịch lại ko xảy ra ở gia đình cô, mà lại xảy ra với gia đình Takahashi, vì sao?….vì tâm lý con người thì thường mù quáng và chủ quan, thế nên ai cũng ko tránh khỏi việc đánh giá người khác bằng cái nhìn phiến diện của bản thân, thế nên cái vẻ hạnh phúc, êm ấm của nhà Takahashi có chăng chỉ là lớp vỏ ngoài, mà giấu bên trong đó là áp lực của người mẹ lên cậu con trai chỉ vì muốn ganh đua với người vợ quá cố của chồng, sự thiếu quan tâm của mẹ đến cô con gái và sự vô tư, vô tâm trong hành xử của ông bố….thật khó để đem lên bàn cân vấn đề của gia đình nào là nặng nề hơn, nhưng có lẽ việc cố duy trì lớp vỏ hạnh phúc khó khăn hơn, hoặc khả năng kìm nén của 2 người phụ nữ là khác nhau, nên cuối cùng bi kịch đã ko may xảy ra với nhà Takahashi!…. Minato cũng vẫn ko quên nói về vấn đề môi trường giáo dục của xã hội Nhật Bản, nơi sự cạnh tranh về thành tích học tập, về sự thành công là gánh nặng lên những đứa trẻ, và tạo ra những hệ lụy nặng nề…. Cá nhân t thích truyện này hơn Tất cả vì N hay Những đứa trẻ bị mắc kẹt, vì tính biểu tượng thể hiện khá rõ nét, như cái cách các nhân vật giải quyết vấn đề của mình….3 anh em nhà Takahashi, Keisuke – người chồng nhu nhược hay Ayumi, bạn thân của Hinako, họ là những người thuộc thế hệ trẻ hơn, nhưng trong những thời khắc phải đưa ra quyết định họ đã chọn cách trực tiếp có mặt, chứ ko tìm hiểu thông qua tin nhắn, gọi điện (Yoshiyuki bị bạn gái thu điện thoại, nên cậu chọn cách trực tiếp trở về gặp các em, Shinji ko mang điện thoại, và Hinako thì thường để điện thoại trong túi vì sợ hết pin, và thật may mắn do đó họ tình cờ đoàn tụ và giải quyết chuyện gia đình…. Keisuke trong thời khắc quyết định đã ko gọi điện về cho gia đình, thay vì thế anh chọn cách hành động có ích để giải tỏa tâm lý bản thân…. Ayumi ko nhắn tin cho Hinako mà chọn cách giúp Keisuke tháo gỡ đi những kỳ thị dành cho gia đình người bạn của mình….cuối cùng thì những hành động thiết thực đó đã mang lại kết quả tốt đẹp)…. Trong khi đó, bà Satoko – vốn dĩ là 1 bà già luôn ra sức bảo vệ truyền thống, thì lại chỉ có thể tìm cách an ủi sự cô đơn và tuyệt vọng của bản thân bằng cách duy nhất là gọi điện cho người con trai ở xa – người mà ngay việc nghe điện thoại từ mẹ cũng ko tha thiết gì!….với t, đó là 1 thông điệp rõ ràng rằng: trong 1 xã hội mà khoảng cách kết nối tâm hồn con người càng ngày càng xa nhau tỉ lệ nghịch với khoảng cách truyền đi của sóng điện thoại di động, thì trực tiếp tìm đến nhau là cách duy nhất để kéo những con người lại gần nhau hơn…. Một hình tượng nữa khá hay, đó là hình ảnh về vòng đu quay đêm!….tựa đề của truyện là Vòng đu quay đêm, xuất phát từ 1 công trình vòng đu quay khổng lồ (sắp) được khởi công gần khu dân cư Hibarigaoka, và công trình (chưa tồn tại) này thu hút sự mong chờ của mọi người, mong chờ cảm giác được lên vòng đu quay để ngắm nhìn thành phố….nhưng ko ai trong khu Hibarigaoka nhận ra, bấy lâu nay họ vẫn sống ở 1 nơi giống như vòng đu quay khổng lồ kia….khu dân cư nằm trên dốc cao, có thể nhìn trọn vẹn cảnh thành phố bên dưới…. vì vậy mỗi lần lên xuống dốc, chả phải cũng giống như quá trình lên xuống của vòng đu quay hay sao!?….thế nên, thay vì tưởng tượng đến niềm vui, niềm hạnh phúc chưa xảy đến, chi bằng hãy trân trọng và nâng niu cuộc sống mình đang có, và hạnh phúc với nó!…. Truyện của Minato nhìn chung là buồn….nhưng ít ra với Vòng đu quay đêm, điểm sáng đã le lói lên ở cuối con dốc đêm tưởng như dài vô tận ấy!….   Nguyễn Thành Tiến *** Cuộc sống quá mệt mỏi và đáng ghét vậy sao? Đọc xong quyển này mình thấy cuộc sống quả thật có quá nhiều áp lực. Nếu rơi vào hoàn cảnh vừa là nạn nhân cũng vừa là đối tượng công kích của dư luận khi bỗng dưng cha bị chết, mẹ là hung thủ giết người không biết sẽ phải đối mặt ra sao. Review VÒNG ĐU QUAY ĐÊM Tác phẩm không hoàn toàn là trinh thám mà nó là tâm lý xã hội thì đúng hơn. Và chủ đề của Vòng đu quay đêm là chủ đề về gia đình, những vấn đề về gia đình trong xã hội hiện đại. Gia đình là nền tảng của xã hội nhưng quả thật trong một gia đình cũng có quá nhiều áp lực và khủng hoảng. Cha mẹ thì áp lực trong việc nuôi dạy con cái, mong muốn những điều tốt đẹp tới cho con cái, đặt kỳ vọng, mong muốn vào con cái. Nhưng chính những kỳ vọng, mong muốn quá cao đó lại vô tình gây nên những áp lực không đáng có cho con cái khi cha mẹ thật sự không hiểu khả năng của con tới đâu. Mà nhiều khi họ không lắng nghe hay đối thoại cùng con để hiểu nhau, để cùng giải quyết vấn đề. Điều quan trọng là cách đối mặt, giải quyết những vấn đề gặp phải như thế nào để nó không gây ra những hậu quả đáng tiếc khi phải chịu đựng stress trong một thời gian quá dài rồi bùng phát ra. Mình không thể chấp nhận được bất cứ cách giải quyết nào của các nhân vật trong Vòng đu quay đêm. Người con thì quá hỗn láo và vô lý. Việc bị thi trượt vào trường danh tiếng dẫn tới xấu hổ, tự ti, tự tạo ra áp lực cho chính mình không thể là lý do để biện hộ cho sự hỗn láo, xấc xược với cha mẹ sinh ra mình như vậy được. (con cái mà gọi cha mẹ là ông nọ, bà kia, đòi hỏi này nọ, cãi lại nhem nhẻm nhem nhẻm một cách vô lý rồi lên cơn phá phách, ném đồ đạc trước mặt cha mẹ như vậy là không thể chấp nhận được). Người mẹ thì nuông chiều, coi đó là việc hiển nhiên, cứ thế chấp nhận rồi cho qua, không có biện pháp gì hiệu quả. Người cha thì theo chủ nghĩa “im lặng là vàng, nhẫn nhịn là bạc, lẩn tránh là thượng sách”, gặp vấn đề chỉ biết lảng tránh cho im chuyện không hề có biện pháp giải quyết nào cả, không có tiếng nói của một người cha trong gia đình một cách đúng nghĩa. Không biết có phải đó là chủ ý của tác giả khi xây dựng nên các tuyến nhân vật như vậy để người đọc có thể nhìn nhận, soi chiếu vào chính gia đình, cộng đồng mình đang sống hay không? Không dám nói nhiều sợ spoil nhưng cái kết của tác phẩm làm mình không thoả mãn. Trong tác phẩm cũng có một vài điểm sáng về tình người chứ không quá u ám như các tác phẩm mà mình đã đọc trước đó của Minato Kanae. Tác phẩm vẫn mang phong cách của Minato Kanae khi được nhìn dưới nhiều góc độ của các tuyến nhân vật. Tác phẩm không phải là không để lại suy ngẫm nhưng Vòng đu quay đêm không phải là tác phẩm xuất sắc của Minato Kanae. Binh Boog Mời các bạn mượn đọc sách Vòng Đu Quay Đêm của tác giả Minato Kanae & Nguyễn Hải Anh (dịch).
Hội Chứng E
"Franck Thilliez đã khéo léo đưa khoa học và thần kinh học vào những tình tiết trinh thám xuất sắc trong Hội chứng E, từ đó dẫn dắt người đọc vào mê cung lắt léo của bộ não con người cùng tất cả những lệch lạc mà bộ não đó có thể nảy sinh..." - Tạp chí Elle Một bộ phim ngắn bí ẩn và độc hại khiến người xem đột ngột bị mù... Vậy là đủ để đi tong toàn bộ kỳ nghỉ hè của trung úy cảnh sát Lucie Hennebelle. Năm xác chết bị cắt xẻ tàn bạo được tìm thấy trong tình trạng mất não, mất mắt, và phân hủy đến khó lòng nhận dạng... Chẳng cần gì hơn thế để mời gọi thanh tra trưởng Franck Sharko đang trong kỳ nghỉ cưỡng chế phải quay trở lại đội Hình sự. Hai hướng điều tra cho cùng một vụ án duy nhấ sẽ kết hợp Hennebelle và Sharko, đưa họ đi từ những khu ổ chuột nhơ nhớp ở Cairo đến các trại trẻ mồ côi ở Canada, để rồi đối mặt với một tội ác có một không hai, một thực tế tàn bạo, hé lộ sự thật rằng tất cả chúng ta ai cũng đều có thể phạm phải điều tồi tệ nhất. Với Hội chứng E, Franck Thilliez thêm một lần nữa giúp chúng ta hiểu thế nào là kinh hoàng khi đưa chúng ta vào tâm hồn con người, vào cội rễ của bạo lực và cái ác. *** Thực ra nói tôi thích trinh thám cũng đúng, nhưng nếu chính xác hơn thì tôi thích Trinh thám, kinh dị có hòa trộn hoặc được lấy cảm hứng hay đan xen, thậm chí đào sâu các vấn đề về tâm lý xã hội, tâm lý con người, và bởi vậy nên tôi không thể bỏ qua cuốn Hội Chứng E, một cuốn trinh thám đáp ứng đủ mọi yêu cầu của tôi ngay từ trang giới thiệu. Truyện lấy bối cảnh chính ở nước Pháp, năm cái xác được tìm thấy bị chôn sâu dưới lớp đất, kinh khủng hơn là các nạn nhân đã bị khoét sạch nhãn cầu, não bị lấy đi, răng bị nhổ sạch, bàn tay bị chặt đứt. Thực ra khá là dễ đoán lý do vì sao các nạn nhân bị lấy đi những bộ phận đó, là răng và bàn tay thì để tránh bị nhận ra danh tính, còn não và mắt thì chắc chắn là để nghiên cứu rồi, vấn đề là nghiên cứu điều gì, và kẻ nào có thể tỉnh táo và bệnh hoạn đến mức làm những việc như vậy mà không run tay? Đó chính là vấn đề mà thanh tra Sharko phải tìm ra. Song song đó thì thông tin về một đoạn phim ma quái làm mù mắt người xem cũng được nữ cảnh sát Lucie tiếp nhận và điều tra. Hai người, hai hướng điều tra hoàn toàn khác nhau, lại dẫn đến một con đường chung nhất về câu trả lời cho tất cả mọi thứ. Cá nhân tôi rất thích quá trình điều tra của vụ án này, cảm giác rất thực tế, rõ ràng, và có một quy trình cụ thể, được sự hỗ trợ và liên kết của rất nhiều thành phần, từ cảnh sát, chuyên gia tâm lý học tội phạm, bác sĩ, nhà nghiên cứu… tất cả đều có vai trò vô cùng quan trọng trong việc tìm ra những miếng ghép và đặt nó đúng chỗ, để từ đó hiện lên bức tranh kẻ thủ ác. Giống như đang chơi CoC vậy ;)). Một số truyện thì đề cao cảnh sát, một số khác thì lại đề cao vai trò thám tử, nhưng ở đây, mọi nhân vật từ chính đến phụ đều có vai trò quan trọng như nhau, không quá dìm hay quá nâng một bên nào, đó là điều khiến tôi hài lòng. Không có ai là thần thánh hay thông minh tài giỏi đến mức khiến người đọc khó chịu. Liên quan đến đoạn phim ma quái kia thì có chuyên gia phân tích phim, phục chế phim, liên quan đến não bộ và mắt nhìn của con người thì có những nhà nghiên cứu chuyên sâu, còn quá trình điều tra, những lý giải về tâm lý tội phạm thì đó là việc của hai nhân vật chính của chúng ta, Sharko và Lucie. Mọi thứ đều theo đúng logic và quy trình thực tế, giúp người đọc không bị ngợp và không có cảm giác khó chịu khi bị qua mặt hay đùa giỡn, kiểu như nhân vật chính là hiện thân của Superman hay vị thánh nào đó vậy! Quá trình điều tra vụ án này cũng đưa người đọc phiêu lưu qua không gian và thời gian, từ Pháp, đến Bỉ, rồi đến vùng đất xa lạ Ai Cập, hay Canada, từ vụ án ngày hôm nay mà lật giở lại những vụ án từ nhiều năm trước, rồi các vụ thảm án có thật trong lịch sử, những sự kiện tác động trực tiếp đến xã hội, rất nhiều rất nhiều chuyến phiêu lưu, mà đích đến chung nhất của tất cả những đường nhánh này đều là vụ án của hiện tại. Không dừng lại ở đó, mức độ đồ sộ của vụ án này còn nằm ở những lý giải và phân tích liên quan đến kỹ thuật làm phim, đến mắt và não bộ của con người. Bạn có tin không, có một kỹ thuật gọi là phim chồng phim, nhà làm phim sẽ dùng những thủ thuật về ánh sáng, màu sắc, sự tương phản và tốc độ chạy của cuộn phim mà ẩn giấu ở đó là một đoạn phim thật sự, không thể nhìn thấy bằng mắt thường, mà chính là Bộ não của chúng ta sẽ nhìn thấy, rất lạ đúng không? Mục đích của họ là khiến bộ não của chúng ta bị tác động trực tiếp từ những đoạn phim như vậy, mắt thì nhìn thấy một cô bé ngồi chơi trên chiếc xích đu thật yên bình, nhưng song song lúc đó, bộ não sẽ nhìn thấy đoạn phim bị ẩn giấu, đó là những đứa trẻ đang dùng tay không đập chết những con thỏ… Chính lúc đó thì não bộ chúng ta sẽ xuất hiện những xung động, khiến bản thân có cảm giác khó chịu mà không thể lý giải nổi. Lý giải sâu xa hơn, kỹ thuật này nếu xuất hiện phổ biến trong đời sống con người hiện nay, những đoạn quảng cáo bạn xem, những đoạn phim tưởng như vô bổ, nhưng rất có thể, có những hình ảnh ẩn giấu đang tác động trực tiếp đến não bộ của bạn, và khi một tác động nào đó đủ, thì nó sẽ khiến bạn có những suy nghĩ và hành vi như họ mong muốn mà chính bạn cũng không ý thức được. Thật sự đáng sợ! Những kẻ thủ ác của truyện đã lợi dụng kỹ thuật này, kết hợp với thuốc, và những âm thanh, giọng nói… để biến những đối tượng thí nghiệm của chúng trở nên bạo lực cực đoan, không biết sợ hãi, những người này sẽ trở thành những kẻ “táng tận lương tâm”, giết người không ghê tay, và không còn lương tri nữa. Nếu điều này được phổ biến và nhân rộng thì hậu quả sẽ như thế nào, cũng dễ đoán thôi… Vậy thì, Hội Chứng E là gì? Có thể nói đơn giản đó là hội chứng điên loạn bạo lực tập thể, mà có thể lân lan qua đường thần kinh, chứ không theo một mô thức cụ thể nào, có vẻ mông lung khó hiểu và khó tin nhỉ? Nhưng quả thật là tác giả có những dẫn chứng từ chính những sự kiện có thật trong lịch sử, quả thật thì tôi chưa tìm hiểu hay đọc sâu hơn về những sự kiện đó, nên cũng không biết là có lý giải nào khác hay không, trước mắt cứ tạm tiếp nhận phương án này của tác giả vậy… Vậy vấn đề đặt ra ở đây thì, nếu có thể tự mình tác động và tạo ra Hội chứng E thì sao? Những con người có Hội Chứng E thì hạch hạnh nhân trong não sẽ bị teo nhỏ, vậy, nếu có thể dùng thuốc, hay kích thích liên quan đến thần kinh để khiến hạch này teo nhỏ như ý mình muốn, vậy có phải là lúc đó mình sẽ tạo ra được một đội quân hiếu chiến, không biết sợ hãi, tàn nhẫn máu lạnh không? 500 trang truyện là sự kết hợp của quá trình điều tra, tìm hiểu sự thật và tất cả những vấn đề này, rất đồ sộ, rất to lớn, hoành tráng, nhưng lại rõ ràng và đáng tin vô cùng. Thực sự thì đọc xong tôi cũng không biết cái nào là thực, cái nào là tác giả hư cấu nữa, một lời khen dành cho tác giả, ông đã khéo léo dùng những điều thực tế để làm tiền đề cho câu chuyện của mình, từ nơi chốn, sự kiện, con người, thậm chí là các tổ chức như CIA, lính lê dương Pháp, chương trình MKUltra… tất cả những điều đó càng khiến cho câu chuyện của Hội Chứng E mang một màu sắc chân thực đến mức khiến người đọc nổi da gà! Đọc đến trang cuối thì điều đọng lại ở độc giả không còn là sự tàn nhẫn hay máu me của những vụ án, mà đó là suy ngẫm về những điều hiện diện ngay xung quanh đời sống có thể đang dần dần biến đổi bộ não của mình mà chính bản thân cũng không hề hay biết. Tôi tin rằng, đây là một thành công lớn của tác giả, không dùng máu me để câu khách, mà lại khiến người đọc phải ấn tượng và suy ngẫm rất nhiều về tác phẩm của mình. Một tác phẩm trinh thám đồ sộ, đáng được trải nghiệm, tôi mong rằng những tác phẩm khác của tác giả này sẽ sớm được xuất bản tại Việt Nam. Tôi thích cách mà ông đào sâu nghiên cứu để đưa đến cho người đọc cái nhìn sâu và kĩ nhất, không phải là cưỡi ngựa xem hoa, mà cẩn thận… cho đi bộ đào đất trồng hoa luôn đấy! Những tác giả đặt cả tâm huyết của mình vào tác phẩm, thật sự rất đáng để trân trọng. *** Chào cả nhà iu lại là mị đây, xin phép repost có chỉnh sửa review và ảnh của cuốn này tại đợt trước hổng có ưng lắm hị hị. . Hà Nội nóng nực và chói chang như màu của cái bìa cuốn sách ấy nên cũng được thể giới thiệu cho các bạn, đặc biệt là các bạn fan trinh thám quyển Hội Chứng E – một tác phẩm mà theo tớ đánh giá là rất đồ sộ về cả mặt hình thức và nội dung. Cảm giác khi đọc xong Hội Chứng E như kiểu khai phá ra cả một miền tri thức kỳ vĩ mới luôn á trời. . Franck Thilliez là một nhà văn trinh thám người Pháp, cuốn Hội Chứng E là phần thứ ba trong nguyên series sách được lấy luôn tên nhân vật chính – Franck Sharko – làm tựa đề. Nói là series nhưng may mắn là cuốn này có thể đọc riêng lẻ được nên khỏi lo vì không hiểu gì hết nhen. Quay trở lại nội dung chính của Hội Chứng E, tác phẩm mở đầu với việc hé lộ với khán giả một bộ phim kỳ quái, bí ẩn và độc hại có khả năng làm người xem đột ngột bị mù. Bộ phim này chính là nguyên nhân phá hỏng kỳ nghỉ của trung úy cảnh sát Lucie, buộc cô phải dấn thân vào điều tra gốc rễ của những thước quay gây ám ảnh đó. Cùng lúc ấy, năm xác chết bị cắt xẻ tàn bạo được tìm thấy trong tình trạng mất não, mất mắt và bị phá hủy một cách dã man để giấu đi thân phận của người xấu số, mời gọi thanh tra Franck Sharko quay trở lại đội Hình sự sau mấy năm tưởng như đã quen với công việc bàn giấy. Hai mạch truyện, hai hướng điều tra khác nhau song cuối cùng đều quy về một mối mang tên Hội Chứng E, hé lộ một thực tế và một trang sử tàn bạo, nơi giới hạn của con người dường như là vô tận, rằng bất cứ ai đều có khả năng thực hiện tội ác. Nội dung nom có vẻ hấp dẫn, nhích lun. Đọc Hội Chứng E của Franck Thilliez tớ liên tưởng ngay đến các tiểu thuyết trinh thámcủa tác giả Jeffery Deaver vì ấn tượng với lượng kiến thức khổng lồ của hai tác giả này quá thể, thật sự luôn ấy. Nếu các bạn muốn đọc một cuốn trinh thám siêu bự về kiến thức lịch sử, thần kinh học, tâm lý học và đặc biệt là muốn tu bổ trí não thêm về cách hoạt động của mắt dẫn truyền lên bộ não hay cách để tạo dựng ra một bộ phim-ẩn-trong-một-bộ-phim với những thuật ngữ chuẩn thì Hội Chứng E có đủ hết, không chê vào đâu được. Cảm giác như tác giả đã dành phần nhiều thời gian tìm tòi, chọn lọc và miệt mài đầu tư chất xám vào cuốn tiểu thuyết trinh thám này. Ban đầu tớ nghĩ là tớ sẽ – theo nghĩa đen – đọc một cách lê lết từng trang ấy nhưng mà không, tôi đã nhầm rồi quý dzị ạ, vì Hội Chứng E siêu siêu siêu cuốn, cứ phải lật lật giở giở để xem hướng điều tra của Lucie và Sharko rồi sẽ đi đến đâu, hé lộ ra những gì và tên tội phạm chủ mưu với bộ óc thông minh đi trước thời đại này là ai. Nghe có vẻ hơi sai sai khi dành cho hung thủ một lời khen ngợi như thế, nhưng quả đúng thật, tên này thông minh thấy gớm luôn không ai đọ được đâu.  Một điểm tớ thích nữa đó là sự vận hành của cốt truyện có tính liêt kết chặt chẽ với nhau với từng chi tiết trải dài từ quá khứ cho đến hiện tại, tất cả đều quy về một mối duy nhất mang tên Hội Chứng E, có những điều tưởng như không liên quan mà lại liên quan không tưởng. Kiểu wow, sao điều này có thể được nhỉ? Nhưng mà trong tác phẩm này thì nó có thể đấy các bạn tôi ơi.  Nhìn chung Hội Chứng E là tác phẩm đồ sộ cả về kiến thức lẫn nội dung. Siêu ấn tượng về khối lượng kiến thức của tác giả, thực sự ấy. Có yếu tố yêu đương trong này (thở dài cái thườn thượt) nhưng may là không nhiều đâu, nếu không máu xéo sắc của mị đã bùng cháy lên rồi. Dù sao đây cũng là trinh thám chứ hổng phải tiểu thuyết tình yêu gì cho cam hén. À có thắc mắc nhỏ không rõ do bản gốc hay do dịch (nhưng mị nghĩ là do bản gốc) mà trong đây nhiều lúc cảm thấy hơi bất hợp lý qua cách gọi một nữ trung úy cảnh sát gần 40 tuổi hai mụn con và góa chồng là “cô gái nhỏ”, cứ thấy hơi… Tóm cái quần lại thì quyển này hay, đoạn kết hẫng chút hơi buồn tí nhưng đừng bỏ qua ẻm vì Hội chứng E ổn lắm. Recommend cho các bạn mình nhớ. neverblossom *** gười đến đầu tiên. Ngay khi biết tin qua quảng cáo, từ sáng sớm, Ludovic Sénéchal đã lên đường và ngốn hết hai trăm ki lô mét ngăn cách vùng ngoại ô thành phố Lille với thành phố Liège trong khoảng thời gian ngắn kỷ lục. “Bán bộ sưu tập phim cũ 16mm, 35mm, câm và có âm thanh. Tất cả các thể loại, phim ngắn, phim dài, từ những năm ba mươi trở đi. Hơn 800 cuộn phim, trong đó có 500 phim tình báo. Trả giá tại chỗ…” Loại quảng cáo này khá hiếm gặp trên một trang mạng đa ngành. Thông thường, các chủ sở hữu vẫn bán qua các hội chợ, kiểu như Argenteuil, hoặc gửi bán đấu giá từng cuộn phim của mình trên eBay. Ở đây, lời quảng cáo chẳng khác nào rao bán một cái tủ lạnh cũ cần bỏ đi. Dấu hiệu tốt. Ở giữa trung tâm thành phố của nước Bỉ, Ludovic chật vật tìm chỗ đỗ xe, liếc mắt nhìn về phía số nhà rồi trình diện trước chủ nhân ngôi nhà, Luc Szpilman. Chừng hai mươi lăm tuổi, đi giày thể thao Converse, đeo kính lướt ván, mặc áo thun hiệu Bulls. Còn xỏ cả mấy chiếc khuyên nữa. - À vâng, anh đến vì mấy bộ phim. Đi theo tôi, chúng ở trên gác thượng. - Tôi là người đến đầu tiên chăng? - Những người khác hẳn cũng sắp đến thôi, tôi đã nhận được rất nhiều cuộc điện thoại. Tôi không nghĩ là mọi chuyện lại nhanh đến thế. Ludovic theo gót anh ta. Căn nhà đặc sệt phong cách vùng Flamand, với những màu sắc ấm áp và gạch lát sẫm màu. Các phòng được gắn kết với nhau xung quanh khoang cầu thang, phòng chính lấy sáng từ giếng trời. - Tại sao cậu lại vứt bỏ những cuốn phim cũ đó? Ludovic lựa chọn từ ngữ rất cẩn thận. Vứt bỏ, cũ… Vụ thương lượng đã bắt đầu. - Bố tôi mất hôm qua rồi. Ông ấy chưa bao giờ nói với ai là sẽ phải làm gì với chúng. Ludovic kinh ngạc: người cha già còn chưa được chôn xuống đất mà người ta đã lột sạch tài sản của ông ta. Vả chăng, đứa con trai ngớ ngẩn này cũng chẳng thấy ích lợi gì trong việc giữ lại những cuộn phim dài nặng đến cả hai mươi lăm cân, bởi ngày nay có thể lưu giữ số lượng hình ảnh nhiều gấp ngàn lần mà trọng lượng lại ngàn lần nhẹ hơn. Thật tội nghiệp cho một thế hệ bị hy sinh… Cầu thang dốc ngược, nhìn lên muốn gãy cổ. Khi đã lên đến gác thượng, Szpilman bật một bóng đèn công suất thấp. Ludovic mỉm cười, trái tim của nhà sưu tầm trong anh nảy lên một nhịp. Chúng nằm đó, được bảo vệ hoàn toàn khỏi ánh sáng tự nhiên… Những chiếc hộp đủ màu sắc xếp chồng lên nhau, hai chục hộp một, tạo thành những tòa tháp nhỏ. Mùi phim thật dễ chịu, gió uốn éo luồn lách giữa các giá. Một cái thang có bánh lăn cho phép lên tới những tầng giá trên cùng. Ludovic lại gần. Một bên là những cuộn phim 35mm, rất đồ sộ, và một bên là loại 16mm, loại khiến anh đặc biệt thích thú. Những chiếc hộp tròn được dán nhãn, sắp xếp một cách hoàn hảo. Những bộ phim câm cổ điển, những bộ phim dài từ thời hoàng kim của điện ảnh Pháp, đặc biệt là phim tình báo, chiếm số đông trên quá nửa các giá… Ludovic đưa tay cầm một cuộn phim. Người đàn ông nguy hiểm nhất thế giới, một công trình của John Lee Thompson về CIA và Trung Hoa cộng sản. Một bản sao đầy đủ, nguyên vẹn, được bảo quản khỏi độ ẩm và ánh sáng, chẳng khác nào một loại rượu nghìn năm. Thậm chí còn có cả những dải băng thể hiện độ pH trong các hộp, nhằm kiểm soát độ axít. Ludovic khó khăn lắm mới kìm được nỗi xúc động. Chỉ riêng kho báu này cũng đáng giá đến năm trăm euro trên thị trường. - Bố cậu rất mê phim tình báo đúng không? - Còn nữa cơ, anh chưa nhìn thấy tủ sách của bố tôi đâu. Thuyết âm mưu và bộ sậu của nó. Gần như ám ảnh ấy. - Cậu bán chúng giá bao nhiêu? - Tôi đã tìm hiểu trên Internet. Tính ước chừng thì khoảng một trăm euro một cuộn phim. Nhưng mục đích của tôi là tất cả mớ này biến mất càng nhanh càng tốt, tôi cần chỗ. Thế nên chúng ta có thể thương lượng. - Tôi rất hy vọng thế. Ludovic tiếp tục lùng sục. - Hẳn là bố cậu phải có một phòng chiếu riêng? - Vâng, sắp tới chúng tôi sẽ cải tạo nó. Vứt bỏ đồ cũ, thay đồ mới vào. Màn hình LCD và rạp hát gia đình công nghệ mới nhất. Tôi sẽ bố trí cho ban nhạc của tôi ở đây. Ngán ngẩm trước thái độ thiếu tôn trọng đó, Ludovic đi vòng sang bên phải, lật đi lật lại các chồng phim, đắm mình trong mùi phim. Anh phát hiện ra phim của Harold Lloyd, Buster Keaton, rồi, xa hơn một chút, là những phim kiểu như Hamlet hoặc Đại úy Fracasse. Anh những muốn mua hết, nhưng mức lương của một nhân viên an sinh xã hội và những khoản phí thuê bao khác nhau - Meetic*, Internet, truyền hình cáp, truyền hình vệ tinh - chỉ để lại cho anh một khoản eo hẹp để chi tiêu mỗi tháng. Thế nên anh phải lựa chọn. Anh lại gần chiếc thang. Luc Szpilman cảnh báo: - Anh nên cẩn thận. Bố tôi đã ngã xuống từ chính chiếc thang đó, và bị vỡ đầu. Dù sao thì, trèo lên đó khi đã ở tuổi tám mươi hai… Ludovic lưỡng lự một lát, tuy nhiên vẫn trèo lên. Anh nghĩ đến ông già kia, đam mê đến nỗi bị chính những cuộn phim của mình giết chết. Anh trèo lên cao hết mức có thể, tiếp tục chọn mua. Đằng sau Bức thư từ điện Kremlin, trên một hàng hộp không thể nhìn thấy từ bên dưới, anh phát hiện ra một chiếc hộp đen sì, không dán nhãn. Ludovic giữ tư thế thăng bằng rồi nhấc nó lên. Bên trong, nhìn qua là một bộ phim ngắn, bởi độ dài cuộn phim không đủ lấp đầy khoảng trống trong hộp. Cùng lắm là mười đến hai mươi phút chiếu. Có lẽ là một phim bị thất lạc, độc bản, mà chủ nhân của nó không bao giờ xác định được. Ludovic cầm chiếc hộp, xuống thang rồi xếp chồng lên chín bộ phim về tôn giáo mà anh đã chọn. Những cuộn phim không tên này luôn là yếu tố tạo sự lôi cuốn cho các buổi chiếu phim. Khi quay lại, anh tỏ vẻ bình thản, nhưng các huyết mạch trong người như đang bùng cháy. - Đáng tiếc là đa phần phim của cậu không đáng giá lắm. Toàn những thứ hết sức chuẩn mực. Với lại… Cậu có ngửi thấy cái mùi đó không? - Mùi gì? - Mùi giấm. Các cuộn phim đã bị nhiễm hội chứng giấm, nói cách khác, chẳng mấy nữa chúng sẽ hỏng. Chàng trai trẻ bước lên và hít ngửi. - Anh chắc chứ? - Chắc chắn. Tôi sẵn lòng giải quyết giúp cậu mười cuộn phim này. Ba mươi lăm euro một cuộn, cậu thấy thế nào? - Năm mươi. - Bốn mươi. - Thôi được… Ludovic chi ra một tờ séc bốn trăm euro. Khi anh chuẩn bị dong buồm, một chiếc xe đeo biển đăng ký ở Pháp đang tìm chỗ đỗ. Hẳn là một người mua nữa đã tới. Ludovic ra khỏi phòng chiếu riêng, rồi một mình, tay cầm lon bia, ngồi xuống một trong số mười hai chiếc ghế bằng vải giả da mang phong cách những năm 1950 mà anh đã mua lại hồi người ta đóng cửa rạp Rex, rạp phim nhỏ trong khu phố. Anh đã thửa cho mình một phòng chiếu phim đích thực dưới tầng hầm, và gọi đó là “rạp phim bỏ túi” của mình. Ghế gấp, bục, màn chiếu gắn hạt thủy tinh nhỏ, máy chiếu Tri-Film Heurtier, đủ hết. Ở tuổi bốn mươi hai, anh chỉ còn thiếu một cô bạn gái, để vừa ôm ấp vừa xem bản gốc phim Cuốn theo chiều gió. Nhưng lúc này, những trang web hẹn hò chết tiệt chỉ đưa anh đến với những cuộc tình chớp nhoáng hoặc thất bại. Đã gần ba giờ sáng. Đầu óc còn nhồi đầy những hình ảnh tình báo và chiến tranh, anh kết thúc buổi chiếu phim dài dằng dặc bằng bộ phim ngắn lạ lùng được bảo quản cẩn thận đến khó tin kia. Nhìn bề ngoài, có vẻ đó là một bản sao. Những bộ phim không tên này đôi khi chứa đựng kho báu thực sự, hoặc nếu thần may mắn mỉm cười, anh sẽ gặp được tác phẩm thất lạc của những nhà làm phim nổi tiếng: Méliès, Welles, Chaplin. Nhà sưu tầm trong anh rất thích mơ mộng. Khi Ludovic giở đoạn đầu cuộn phim không tên ra để nối vào máy chiếu, anh đọc thấy trên dải băng, “50 hình/giây”. Loại này khá hiếm so với tiêu chuẩn 24 hình/giây, tốc độ đó thừa đủ để tạo ra cảm giác chuyển động. Tuy nhiên, anh vẫn đổi tốc độ chụp của máy chiếu để khớp với tốc độ yêu cầu. Để khỏi phải xem một bộ phim quay chậm. Rất nhanh chóng, nền trắng của màn hình nhường chỗ cho một hình ảnh tối thẫm, mờ mịt, không nhan đề cũng chẳng phần giới thiệu đoàn phim. Một vòng tròn màu trắng hiện ra ở góc trên cùng bên phải. Lúc đầu, Ludovic tự hỏi liệu có phải do lỗi phim không, như vẫn thường xảy ra với những cuộn phim cũ. Bộ phim bắt đầu. Ludovic ngã vật xuống trong lúc chạy lên tầng trên. Anh không còn nhìn thấy gì nữa, mặc dù đèn vẫn bật. Anh đã bị mù. Mời các bạn đón đọc Hội chứng E của tác giả Franck Thilliez & Nguyễn Thị Tươi (dịch).
Mười Hai Người Hoa Và Một Cô Gái
Với cốt chuyện đơn giản nhưng văn phong giàu hình ảnh và đậm tính hành động, James Hadley Chase khiến cho người đọc có cảm giác như chính họ đang trực tiếp tham gia vào câu chuyện, đối mặt với những sự kiện gay cấn và bí ẩn. Đó là một trong những lý do khiến nhiều người lựa chọn Mười hai người Hoa và một cô gái cho tủ sách của mình. Cuốn sách gồm hai truyện ngắn, Mười hai người Hoa và một cô gái là cuộc điều tra của một thám tử can trường Ferner chống lại những hoạt động tội ác của một băng tội phạm người Hoa, còn Chẳng bao giờ hiểu được đàn bà là câu chuyện tình éo le của một thám tử thất cơ với một cô gái bị nghi ngờ là thủ phạm của một vụ giết người hàng loạt. Mời các bạn đón đọc. *** James Hadley Chase là bút danh của tác giả người Anh – Rene Brabazon Raymond (24/12/1906 – 6/2/1985), người cũng đã viết dưới tên James L. Docherty, Ambrose Grant và Raymond Marshall. Ông được sinh ra ở Luân Đôn, là con của một đại tá người Anh phục vụ trong quân đội thuộc địa Ấn Độ, người dự định cho con trai mình có một sự nghiệp khoa học, bước đầu đã cho học tại trường học Hoàng gia, Rochester, Kent và sau đó học ở Calcutta. Ông rời gia đình ở tuổi 18 và làm nhiều công việc khác nhau, một nhà môi giới trong nhà sách, nhân viên bán sách bách khoa toàn thư của trẻ em, người bán sách sỉ trước tập trung vào sự nghiệp viết lách, đã sản xuất hơn 80 cuốn sách bí ẩn. Năm 1933, ông đã cưới Chase Sylvia Ray và có một con trai. Trong sự nghiệp sáng tác của mình, với khoảng 90 tiểu thuyết, hầu như câu chuyện nào của James Hadley Chase cũng có một nhân vật chính muốn làm giàu nhanh bằng cách phạm tội ác - lừa gạt, cướp bóc hay ăn trộm. Nhưng kế hoạch của họ luôn thất bại, phải giết người để gỡ bí, và càng bí thêm. *** Các tác phẩm của James H. Chase đã được xuất bản tại Việt Nam: Cái Chết Từ Trên Trời Cả Thế Gian Trong Túi Ôi Đàn Bà Cạm Bẫy Gã Hippi Trên Đường (Frank Terrell #5) Thằng Khùng Cạm Bẫy Bản Đồng Ca Chết Người (Frank Terrell #1) Tỉa Dần Hứng Trọn 12 Viên Đam Mê và Thu Hận Tệ Đến Thế Là Cùng Mười Hai Người Hoa và Một Cô Gái Buổi Hẹn Cuối Cùng Trở Về Từ Cõi Chết Không Nơi Ẩn Nấp Đồng Tiền và Cạm Bẫy Lại Thêm Một Cú Đấm Đặt Nàng Lên Tấm Thảm Hoa Cành Lan Trong Gió Bão Những Xác Chết Chiếc Áo Khoác Ghê Tởm Món Quà Bí Ẩn Âm Mưu Hoàn Hảo Cướp Sòng Bạc Cạm Bẫy Dành Cho Johnny Những Xác Chết Câm Lặng Em Không Thể Sống Cô Đơn Thà Anh Sống Cô Đơn Buổi Hẹn Cuối Cùng Mùi Vàng Phu Nhân Tỉ Phú Giêm Tình Nhân Gã Vệ Sĩ Dấu Vết Kẻ Sát Nhân Trong Bàn Tay Mafia Này Cô Em Vòng Tay Ác Quỷ Thiên Đường của Vũ Nữ Châu Dã Tràng Xe Cát .... *** Fenner hé một bên mắt lúc Paula lách bộ ngực ngon lành và mái tóc bù xù vào khe cửa phòng giấy của ông. Ông lơ đãng nhìn rồi lại thu mình trên ghế tựa, hai chân gác lên tấm giấy thấm trắng tinh trên bàn. Ghế tựa xoay tròn của ông nghiêng 45 độ trông chỉ chực đổ. - Ra đi, Paula. - ông càu nhàu. - Lúc khác hãy vào, bây giờ tôi đang suy nghĩ. Paula lách hẳn bộ ngực vào phòng giấy. Cô đến bên bàn. - Dậy đi. Thần Ngù! - cô nói. - Có khách hàng đang đợi ngoài kia kìa. - Bảo người ta về, - Fenner nhăn nhó. - Bảo họ chúng ta tạm nghỉ. Lạy Chúa, thì thỉnh thoảng tôi cũng cần ngủ chứ? - Thế sếp dùng giường làm cái gì? - Paula sốt ruột nói. - Đừng hỏi tôi những câu như thế, - Fenner gắt rồi lại co người trong ghế tựa. - Mời sếp đứng lên đi. - Paula năn nỉ. - Một bông hoa rừng. Mà em thấy hình như cô ta đang gặp chuyện rắc rối gì rất cần nhờ đến sếp. Fenner mở mắt. -Dáng dấp ra sao? Liệu cô ta có định xin bố thí không đấy? Paula ngồi vào ghế ở góc phòng: -Nhiều lúc em cứ tự hỏi, không hiểu sếp treo tấm biển ngoài cửa để làm gì. Sếp không muốn có khách hàng sao? Fenner lắc đầu: -Không, nếu tôi chưa thấy cần thiết. Mấy vụ vừa rồi được khá tiền. Chúng ta đang rủng rỉnh, đúng không nào? Nghỉ ít lâu đã. -Em thấy vụ này có vẻ lý thú đấy. Nhưng nếu anh không thích thì thôi. Paula đứng lên định ra ngoài. - Khoan đã, - Fenner vội gọi lại. Fenner đã ngồi hẳn dậy, kéo chiếc mũ lên trán: - Đúng là bông hoa rừng chứ? Paula gật đầu. - Em thấy cô ta có vẻ rất hoảng hốt. - Thôi được. Cho cô ta vào. Paula hé mở cánh cửa. nói ra ngoài: - Mời cô vào đây. - Cảm ơn, - tiếng phụ nữ bên ngoài. Một cô gái trẻ bước vào, đi ngang trước mặt Paula, chăm chú nhìn Fenner bằng cặp mắt xanh biếc. Vóc tầm thước. Dáng đi mềm mại. Hai chân mềm mại. Bàn tay nhỏ nhắn và bàn chân nhỏ nhắn. Lưng rất thẳng. Tóc đen nhánh lộ ra ngoài chiếc mũ nhỏ. Mặc bộ đồng màu cắt giản dị và đẹp. Vẻ mặt non trẻ. Có vẻ đang rất sợ hãi chuyện gì đó. Paula mỉm nụ cười trấn an cô gái rồi bước ra ngoài, khép cửa lại. Fenner nói: - Mời cô ngồi. Cô cần tôi giúp việc gì? Ông trỏ ghế tựa lớn. Cô gái lắc đầu. - Tôi muốn đứng, - cô gái nói, giọng hơi hổn hển. - Có lẽ tôi không gặp ông lâu đâu. Fenner ngồi xuống: - Tùy cô, - ông nói giọng điềm tĩnh. - Cô cứ tự nhiên. Hai người nhìn nhau một lúc. Fenner nói tiếp: - Cô nên ngồi xuống thì hơn. Xem chừng cô sẽ phải kể với tôi nhiều đấy, và trông cô lại rất mỏi mệt. Fenner thấy rõ không phải cô gái sợ ông mà sợ thứ gì đó ông chưa biết. Cặp mắt cô gái đầy lo lắng. Hai tay cô co lên đỡ cặp vú rất cao, như thể chỉ chực chạy vụt ra ngoài. Cô gái lại lắc đầu. - Tôi nhờ ông tìm giúp em gái tôi, - cô ta nói giọng lo lắng. - Tôi rất lo cho nó. Tốn bao nhiêu, thưa ông? Ý tôi nói là tôi phải trả ông bao nhiêu? Fenner liếc nhìn lọ mực nằm ngay cạnh bàn tay ông: - Cô không phải băn khoăn chuyện đó. Yên tâm đã. Và kể tôi nghe đầy đủ câu chuyện. Trước hết tôi muốn biết cô là ai. Chuông điện thoại reo. Cô gái đột nhiên hốt hoảng. Cô vội vã chạy ra xa máy vài bước rồi đứng lại, cặp mắt trợn lên và tối lại. Fenner mỉm cười bình thản để cô gái yên tâm. - Lúc tôi ngủ. bao giờ tiếng chuông điện thoại cũng làm tôi hồi hộp như vậy đấy. Fenner nhấc máy. Cô gái lúc này đứng ở ngưỡng cửa phòng giấy, nhìn ông không chớp mắt. - A - lô! Tôi đây. Tiếng trong máy rất bị nhiễu. Giọng đàn ông ngọt ngào: - Ông Fenner? - Vâng. - Ngay bây giờ sắp có một cô gái đến tìm ông. Tôi nhờ ông giữ cô ta lại ở chỗ ông, đợi tôi đến. Tôi đi ngay bây giờ. Ông hiểu chứ? Fenner nháy mắt với cô gái để trấn an rồi nói vào máy: - Chưa hiểu. - Vậy tôi nhắc lại. Ông nghe cho kỹ. Chỉ lát nữa thôi sẽ có một cô gái đến tìm ông, nhờ ông tìm em gái cô ta bị mất tích. Ông hãy giữ cô ấy lại ở chỗ ông đợi tôi đến. Cô ta mắc bệnh tâm thần đấy và trốn ở bệnh viện tâm thần ra hôm qua. Tôi biết cô ta đang trên đường đến văn phòng của ông. Ông chỉ cần giữ cô ấy lại, không cho đi, thế là đủ. Tôi sẽ đến ngay. Fenner kéo mũ chụp xuống mũi. - Nhưng ông là ai? Máy lạo xạo rất to. - Lát nữa tôi sẽ kể ông rõ. Chúng tôi sẽ đền bù công lao của ông hậu hĩ. - Được, - Fenner nói. - Tôi đợi ông. Đợi Fenner đặt máy xuống, cô gái hỏi: - Lão ta bảo tôi điên phải không? Bàn tay không cầm xắc run rẩy bấu vào váy. Fenner gật dầu. Cô gái nhắm mắt một giây, rồi đột nhiên mở to, y hệt như con búp bê nhắm mở mắt bị trẻ nhấc cho ngồi dậy. - Khó mà không tin lão ta được, đúng không thưa ông? - cô gái lo lắng nói. Đột nhiên cô ta đặt xắc lên bàn, tháo găng tay rồi cởi áo vét. Fenner im lặng, tay vẫn còn đặt trên máy điện thoại, nhìn cô gái. Cô gái nấc lên rồi bàn tay run rẩy cởi dần khuy áo sơ mi. Fenner ngượng ngịu lắc bàn tay: -Không cần! Vụ của cô làm tôi thấy hứng thú. Thế là đủ, cô không cần thưởng thêm gì nữa. Cô gái lại nấc lên như khóc, quay lưng lại phía Fenner. Rồi cô cởi áo sơ mi. Fenner đã đưa tay định bấm chuông gọi người vào. Con bé này định giở trò vu cho mình cuồng hiếp nó để mình bị bắt chứ gì? Nhưng Fenner chưa kịp bấm chuông thì ông đã giật mình. Lưng cô gái là cả một vết thương lớn chằng chịt những vết roi rớm máu ngang dọc, tạo thành một hình hoa văn quái đản và khủng khiếp. Cô gái mặc lại sơ mi rồi cài khuy. Mặc tiếp áo vét. Sau đó cô quay mặt lại phía Fenner. Cặp mắt cô còn mở to hơn lúc trước. - Bây giờ nếu tôi nói tôi đang rất sợ thì ông tin chứ? Fenner lắc đầu. - Lẽ ra cô không cần phải làm như vừa rồi. Cô đến đây cầu cứu tôi, thế là đủ. Và bây giờ cô không phải sợ thứ gì nữa. Cô gái vẫn đứng, hàm răng trên trắng bóng cắn cắn vào môi dưới. Rồi cô mở xắc lấy ra một tập giấy bạc đặt lên bàn. - Thế này đã đủ để trả công ông chưa? Fenner sờ ngón tay vào tập giấy bạc. Chưa đếm nhưng Fenner cũng đoán ít nhất phải mười hai ngàn đô. Ông đứng dậy, nhấc tập tiền đem ra cửa. Ông bảo cô gái: - Cô đứng yên đấy. Fenner ra phòng làm việc của cô thư ký Paula. Paula ngừng đánh máy, đặt hai bàn tay lên đầu gối, ngẩng nhìn Fenner. Fenner nói: - Paula! Cô đội mũ mau rồi dẫn cô gái kia đến khách sạn Baltimore. Thuê một phòng và dặn cô ta khóa trái cửa lại. Thu xếp chỗ nghỉ cho cô ta xong, cô nhập khoản tiền này vào tài khoản trong nhà băng. Hãy tác động để cô ta yên tâm. Bảo tôi sẽ che chở được cô ta. Trấn an cô ta, cô ta đang hốt hoảng. Tuổi cô ta vẫn cần có mẹ đấy, cô hãy làm bà mẹ, rõ chứ? Fenner quay vào phòng giấy. - Tên cô là gì? Cô gái chớp chớp mắt: - Ông hãy đưa tôi ra khỏi đây ngay! Ở lại đây tôi sợ lắm! - cô năn nỉ. Fenner đặt bàn tay to bè lên vai cô gái: - Tôi đã bảo cô thư ký đưa cô đi rồi. Cần gì cô cứ nói với cô ấy. Một người nào đó sắp đến đây. Y rất quan tâm đến cô. Tôi sẽ tiếp y. Nhưng tên cô là gì? - Marian Daley, - cô gái đáp. Cổ họng nghẹn lại. - Bà thư ký sẽ đưa tôi đi đâu? Paula bước vào. vừa đi vừa xỏ tay vào găng. - Cô hãy đi vởi cô Paula Dolan. Ra lối cổng sau. Thế là yên rồi, cô không phải lo lắng gì nữa. Marian Daley mỉm cười e thẹn. -Ôi, tôi đến đây nhờ ông là rất đúng. Ông thấy đấy, tôi đang gặp nhiều nỗi bất hạnh... Tôi còn lo cho em gái tôi nữa chứ. Nó sẽ ra sao với mười hai tên người Hoa kia? - Tôi chưa thể nói gì lúc này được. - Fenner lúng túng nói. Lúc tiễn cô gái ra cửa. Fenner nói thêm: -Em gái cô mến người Hoa. có lẽ thế. Cũng có nhiều người như vậy, Cô đừng lo lắng gì hết. Tối nay, tôi sẽ đến gặp cô. Fenner tiễn Paula và cô gái đến tận thang máy. Khi buồng thang máy đã lao xuống dưới, ông trở lại phòng giấy, nhẹ nhàng gài chốt cửa lại. Sau đấy ông mở ngăn kéo bàn lấy ra khẩu súng ngắn tự động nhét vào túi áo vét. Ông lại ngồi xuống, gác chân lên tấm giấy thấm, nhắm mắt. Fenner ngồi suy nghĩ như thế chừng mười phút. Ba thứ làm ông quan tâm: mười hai ngàn đô, những thương tích trên lưng cô gái và mười hai người Hoa. Tại sao cô Marian Daley này lại trả tiền trước? Tại sao cô ta không đơn giản chỉ nói cô ta bị kẻ nào đánh mà lại cởi áo sơ mi ra trước mặt ông? Tại sao cô ta lại nói mười hai người Hoa mà không nói những người Hoa? Tại sao lại là mười hai? Fenner ngọ nguậy trên ghế. Rồi lại chuyện một thằng cha nào đó gọi điện thoại tới. Hay cô Marian kia trốn trại điên thật? Ngờ lắm. Cô ta có vẻ rất hoảng sợ nhưng không có vẻ người mắc bệnh tâm thần. Fenner mở mắt nhìn chiếc đồng hồ báo thức mạ kền nhỏ trên bàn. Paula đưa cô gái đi đã được mười hai phút. Sao chưa thấy thằng cha gọi điện thoại? Bao giờ hắn mới tới? Trong lúc suy nghĩ, Fenner có cảm giác mình không tập trung tư tưởng lắm. Bởi tai ông đang nghe tiếng ai huýt sáo ngoài hành lang. Ông cố tập trung tư tưởng để suy nghĩ vào vấn đề cô gái kia. Marian Daley! Cô ta là ai? Có vẻ con nhà giầu. Bộ quần áo cô ta mặc thuộc loại đắt tiền. Fenner rất khó chịu với tiếng thằng cha nào huýt sáo mãi ngoài hành lang. Bản nhạc nào ấy nhỉ. Bất giác ông cũng huýt sáo theo. Bản nhạc khá buồn. Bản Chloe. Nhạc buồn của giai điệu làm Fenner rối trí. Đột nhiên ông rùng mình, bởi tiếng huýt sáo vẫn ở nguyên một chỗ, như thể thằng cha đứng ngay ngoài cửa văn phòng của Fenner và cố tình huýt sáo cho ông nghe. Fenner rút chân trên bàn xuống rất khẽ. Đứng dậy. Tiếng huýt sáo vẫn khi xa khi gần, khi nhỏ khi to và ở nguyên một chỗ ấy, bên ngoài hành lang. Fenner sờ tay vào báng súng trong túi áo vét. Tuy phòng giấy của ông chỉ có một lối ra chính thức, đi qua phòng làm việc của cô thư ký Paula, nhưng vẫn có một lối ra khác phía trong, bao giờ cũng đóng chặt. Tiếng huýt sáo bên ngoài lối cửa đó. Fenner rón rén bước đến cánh cửa, nhè nhẹ vặn chìa khóa, cố không để đầu ông in bóng lên mặt ô kính mờ trên cánh cửa. Đúng lúc Fenner xoay quả đấm rất nhẹ và từ từ mở cửa thì tiếng huýt sáo đột nhiên ngừng bặt. Ông bước ra ngoài hành lang nhìn. Không có ai. Ông đi nhanh ra chỗ đầu cầu thang, cúi xuống nhìn. Cầu thang vắng ngắt. Ông quay lại, đi nhanh sang đầu cầu thang bên kia. Cũng không thấy ai. Kéo sụp mũ xuống, Fenner đứng im suy nghĩ, tai lắng nghe. Tiếng xe cộ dưới phố, vọng lên yếu ớt. Tiếng thang máy chạy. Fenner chậm chạp, quay về, đứng lại trước cánh cửa mở. Ông vừa đóng cửa, tiếng huýt sáo lại nổi lên. Thần kinh Fenner căng thẳng tột độ. Đóng cửa xong, Fenner rút súng trong túi ra cầm sẵn trong tay, bước sang phòng làm việc của Paula. Đột nhiên ông đứng sững lại, nhăn mặt. Một người đàn ông vóc nhỏ nhắn, mặc bộ âu phục đen nhầu nát ngồi thu mình trong chiếc ghế bọc nệm da êm ái dành cho khách. Y kéo mũ xuống che nên Fenner không nhìn rõ mặt. Nhưng chỉ liếc qua, ông biết y đã chết. Fenner nhét súng vào túi áo, tiến lại gần, ngắm nghía hai bàn tay vàng khè xương xẩu thõng xuống. Rồi ông cúi xuống lật mũ người lạ. Khuôn mặt rúm ró của một người Hoa! Cổ họng y bị cắt ngang, vết cắt chạy dài từ bên này sang bên kia, được khâu lại rất tỷ mẩn. Tuy vậy trông vẫn vô cùng khủng khiếp. Fenner rút khăn tay ra lau mặt. - Lý thú đấy! - ông lẩm bẩm một mình. Đang chưa biết xử sự thế nào thì Fenner nghe thấy chuông điện thoại. Ông nhấc máy. Đó là Paula. Cô thư ký có vẻ rất bối rối. - Cô ta chuồn mất rồi! Em đưa cô ta đến khách sạn Baltimore và thế là cô ta biến mất! Fenner lịm người. - Biến mất nghĩa là sao? Kẻ nào lôi cô ta đi? -Không. Em mải lúi húi ghi tên vào sổ đăng ký thuê phòng ở quầy nên không nhìn. Lúc ghi xong, ngẩng đầu lên thì không thấy cô ta đâu nữa. Em vội nhìn ra. thấy cô ta đi nhanh ra cửa. Em đuổi theo thì cô ta đã biến mất. - Cả tiền cô ta cũng cuỗm theo chứ? -Không. Em gửi tạm thủ quỹ ở đây rồi. Bây giờ em phải làm gì? Về văn phòng chứ? Fenner liếc nhìn xác người Hoa. -Cứ ở lại khách sạn Baltimore. Gọi ăn điểm tâm. Xong việc ở đây, tôi sẽ đến đó gặp cô. Hiện đang có một khách hàng tại đây... -Còn cô gái kia thì sao? Anh nên đến đây ngay thì hơn. Fenner nổi cáu: -Tôi chỉ huy hay cô? Thằng cha ngồi đây đang lạnh dần đây này. Tôi không nói đùa đâu... Fenner đặt máy, đứng lên. Ông quay sang phòng bên cạnh nhìn xác người Hoa. ngắm nghía. - Ta đi thôi, anh bạn, - ông nói. - Một cuộc đi dạo nhỏ! ... Mời các bạn đón đọc Mười Hai Người Hoa Và Một Cô Gái của tác giả James Hadley Chase.
Bàn Tay Kẻ Lạ Mặt
ROBERT DALEY BÀN TAY KẺ LẠ MẶT Người dịch: Nguyễn Đắc Lộ NHÀ XUẤT BẢN TỔNG HỢP KHÁNH HÒA - 1990 Dịch từ nguyên bản tiếng Anh Hands of a Stranger (Robert Daley) NXB New American Library (Signet Book) 1986, Nguồn sách: @quang3456 Chụp ảnh, pdf, OCR: 4DHN Cuộc đấu tranh để ngăn chặn, chống những tệ nạn xã hội là một trong những trận tuyến thầm lặng nhung không kém phân gay go, quyết liệt và nhiều khi trở thành nóng bỏng đối với nhiều nước trên thế giới hiện nay, đặc biệt là ở những nước tư bản phát triển, khi lối sống thực dụng lan trần, con nguôi chỉ biết chạy theo đồng tiền và những dục vọng thấp hèn, bất chấp mọi luật pháp và những nên tảng dạo đức xã hội. Thống qua tắn bi kịch của một gia dinh, tiểu thuyết “Bàn tay kè lạ mặt” của Robert Daley tuy chỉ đề cập dến một trong những loại hình tội phạm dang làm nhức nhối trong lòng xã hội Mỹ đương đại: tội hiếp dâm, nhung với lối viết chân thực, rất tỉ mi, cụ thể mà có tầm khái quát cao của mình, ngòi bút của ông đã vẽ nên một bối cảnh xã hội rộng lớn của xã hội Mỹ hiện nay: con người được sống với những diều kiện vật chất cao hơn, nhung khi nền tảng đạo đức xã hội bị phá vỡ, con người càng có nguy cơ trở nên tàn ác, tha hóa, thú vật với nhau hơn và tội ác càng cố sức công phá lớn, khó ngăn chặn hơn khi nó tận dụng được những phương tiện khoa học hiện đại phục vụ cho nó. Với một đề tài hấp dẫn nhung thật khó viết vì rất dễ có nguy cơ roi vào dung tục, khiêu dâm, chạy theo những thị hiếu tầm thường, Robert Daley dã thành công và tỏ ra là một cây bút có bản lĩnh. Cuốn sách của ông được đánh giá cao, trờ thành một hiện tượng văn học trong thập niên 80 ở Mỹ. Nhiều nhà phè bình nôi tiếng khẳng định giá trị nghệ thuật, tính chân thực và bức thống điệp nóng bỏng mà ông gửi dến cho mọi người về những mối de dọa của tội ác với cuộc sống và hạnh phúc của con người Trân trọng giới thiệu “Bàn tay kẻ lạ mặt”với bạn đọc. *** Nạn nhân bị xâm phạm đầu tiên sáng hôm ấy là một cô gái da đen mười chín tuổi. Người thứ nhì là một bà nội trợ da trắng ba mươi tám tuổi. Phụ tá chưởng lý quận Judith Adler không làm được gì đáng kể cho bất kỳ vụ nào. Cô gái da đen được một nữ thám tử đưa vào và được chỉ vào một chiếc ghế đối diện với bàn giấy. Viên thám tử trao tập hồ sơ vụ án của cô gái rồi ngồi dựa vào tường, một tập giấy vàng trên váy cô, chiếc ví tay nặng của cô đặt trên sàn nhà ngay bên cạnh. Judith Adler, sau khi nhìn lướt qua tập hồ sơ, thấy rằng nạn nhân tên là Bianca, người đã bị sáu người đàn ông “bề hội đồng” hôm qua, cô ta không hề biết mặt những tên hãm hiếp trước đó. Chẳng tên nào được gọi đích danh và cô ta chỉ có thể mô tả chúng là sáu “anh chàng da đen” thôi. Sự mô tả không làm Judith mỉm cười được. “Bianca, sáng nay cô thế nào?” Nàng ngẩng đầu lên hỏi: “Cô không sao chứ?” Nàng cố hết sức thật ôn tồn và thông cảm vì, xét theo tập hồ sơ, sự thông cảm hoàn toàn là sự công bình mà nạn nhân này hình như muốn có được. Bianca cám ơn, nói rằng cô ta khỏe và hình như sự thật là như thế. Ở vào trường hợp của cô thì một nữ sinh viên khác ở Park Avenue - Judith đã đối phó với nhiều người như thế - chắc sẽ cứng đờ người ra. Bianca mặc quần Jeans và giầy cổ cao, mấy chiếc móng chân màu đỏ tươi ló ra ngoài. Khuôn mặt rất trẻ, nước da rất đen. Cô tô son đỏ tươi và mặc một chiếc áo cánh cũng đỏ tươi. Với tiêu chuẩn trong thế giới riêng của cô, có lẽ ăn mặc như thế là thanh lịch. Judith định nói ai nhỉ? Bản thân nàng mặc một bộ đồ xanh lục bên ngoài một chiếc áo cánh lụa. Nạn nhân bị hãm hiếp kiên nhẫn chờ đợi. Theo tập hồ sơ sự vụ, hiện trường là một khách sạn phúc lợi tại Harlem. Địa điểm này quen thuộc đối với Judith. Công việc của nàng là phải biết những điều như thế. “Đấy chẳng phải là một khách sạn tốt” - nàng chê trách như thể chính khách sạn phải chịu trách nhiệm vì nếu không thì tội ác đối với Bianca không thể nào hiểu được. - “Rất nhiều gái điếm ở đây”. Bianca không có công việc làm, không có địa chỉ nhất định nào cả. Tuần qua cô ta đã di chuyển từ một căn nhà công cộng đến khách sạn phúc lợi và nàng biết rõ phải ngủ với quần áo đầy đủ kể cả đôi giầy vì sợ rằng sáng ra mọi thứ nàng có đều bị ăn cắp. Một người đàn bà tên Maria - không có họ - cũng sống ở đấy và trở thành bạn gái của cô ta. Nhưng Maria có chồng, dù theo luật lệ chung hoặc là chồng thật sự -cũng không thành vấn đề và một buổi sáng anh chồng này khoác lác rằng đã làm tình với Bianca ở phòng bên trong đêm. “Hắn bảo Maria rằng cô đã mút “của” hắn. Và cô có làm thế không Bianca?” Vai trò của nàng cho phép nàng có quyền nêu lên những câu hỏi như thế. Tuy nhiên một số những câu hỏi mà nàng sẽ hỏi sau đây sẽ còn có tính cách riêng tư hơn nữa. “Tôi chẳng thèm làm tình với bất kỳ ai mà tôi vừa gặp mặt cả”. Bianca phản đối. “Tôi nghĩ rằng tôi không chịu nói về việc ấy”. Câu này được nói lên thật trịnh trọng đến nỗi Judith, dù nàng chỉ gật đầu thôi, muốn hoan hô cô. Đối với Judith, sự tự trọng và lòng can đảm đều như nhau. Cả hai đều hiếm, đáng ca ngợi, và trong trường hợp một người mà viễn ảnh của cuộc sống thật tàn nhẫn như cuộc sống của Bianca, nó hoàn toàn bất ngờ. Maria đã ra đường phố thu thập một số đàn ông. Ả đã tìm thấy họ nằm uể oải nơi hiên trước và thơ thẩn ở các góc đường dưới ánh đèn. Ả đã thu thập được sáu kẻ thơ thẩn và đưa họ lên lầu. Tuổi họ từ vị thành niên cho đến năm mươi! “Tao sẽ làm mày tổn thương vì điều mày đã làm với chồng tao”. Ả đã bảo Bianca như thế và cho họ tấn công cô ta. Như mọi tội ác khác, hiếp dâm được phân hạng. Trường hợp hiếp dâm này, Judith Adler thấy, là một sự hiếp dâm để trả thù. Hiếp dâm để gỡ hòa. Hiếp dâm để trừng phạt. Tất cả sáu người đàn ông đều đã hãm hiếp Bianca. Chúng đã thực hiện nhiều lần và kéo dài theo khả năng của chúng. Chúng đã hãm hiếp cô ta cả phía trước lẫn phía sau và khi khả năng hoặc sự hăng hái của chúng hoặc bất kỳ thứ gì đã duy trì được hành động của chúng cuối cùng cạn đi, chúng bắt đầu hãm hiếp cô ta bằng các đồ vật. Thực là may, Judith suy nghĩ, vì chúng không chủ tâm giết cô ta. Nhiều cô gái trong các trường hợp tương tự đã xuất huyết đến chết. Công tác đầu tiên của nàng là đưa ra một sự mô tả chính xác của chính các hành động - cái gì và do ai. Những câu hỏi của nàng minh bạch và nàng đòi hỏi các câu trả lời cũng minh bạch. Nhưng giọng nói của nàng vẫn đều đều vì công tác của nàng không cho phép nàng bày tỏ cảm xúc và đôi khi nàng còn tự hỏi xem nàng có còn cảm thấy sự xúc động nào không nữa. Nàng đã không muốn trở thành chai đá. Mình là một người đàn bà, thỉnh thoảng nàng đã tự nhắc nhở lại như thế. Mình không phải là đàn ông. Nếu so sánh những sự xúc phạm mà người nghèo khổ gây ra cho nhau, đôi khi sẽ làm cho người giàu có có vẻ thánh thiện. Cộng thêm vào việc Maria đã hành động với tư cách giám sát và bản thân những kẻ hãm hiếp, rõ ràng là căn phòng đã đầy dẫy các quan sát viên, và Judith bắt đầu cố gắng thu thập những cái tên mà Bianca biết, không may những cái tên này đều không có họ. Dĩ nhiên, có Maria và chồng ả, Willis. “Willis có hãm hiếp cô không?” “Willis à, hắn là trọng tài đấy”. Silvia, không có họ, được mô tả là “có giọng thanh hơn tôi” đôi ba lần, khóc lóc thảm hại như Bianca và van xin các tên cưỡng hiếp buông Bianca ra. Tiny, được Bianca mô tả là “một người đàn ông mập với một mùi mồ hôi rất nồng”, đã quan sát với ngón tay cái đưa lên miệng. Judith ý thức rằng sự mô tả này có vẻ buồn cười trong lúc kể lại. Có lẽ điều ấy còn có vẻ buồn cười ngay cả trong một phòng xử án nữa. Nhưng đối với nàng nó chẳng có vẻ gì là buồn cười cả. “Cô phải tránh xa khách sạn ấy ra”, Judith ngẩng lên từ những điều ghi chú của nàng và khuyên cô gái. “Vì nếu họ hiểu được cô đã đến với tôi, họ có thể tìm cách hãm hại cô đấy”. Hãm hại cô ta à? Có lẽ họ sẽ giết cô ta đấy. Judith ghi số điện thoại và đẩy nó qua bàn giấy. “Đây là nhà và số văn phòng của tôi” - nàng giải thích. “Nếu cô đánh mất, tôi vẫn còn trong sổ sách. Nếu cô trông thấy bất kỳ ai trong số những người này, nếu có ai quấy rầy cô, tôi muốn cô gọi tôi ngay. Cô hiểu không? Hãy gọi tôi bất kỳ giờ nào bất luận ngày hoặc đêm”. Khi nữ thám tử đưa Bianca ra khỏi văn phòng, phụ tá chưởng lý quận Adler gấp tập hồ sơ, nhưng không bỏ vụ án lại. Dù rằng chẳng có gì nhiều để tiếp tục, nàng quyết định dù sao cũng phải theo đuổi nó. Nàng định đưa hai thám tử da đen đến khách sạn. Nếu Maria, Tiny hoặc Silvia vẫn còn đấy có thể bị nhận diện, và nếu Bianca tìm được địa chỉ và nhớ gọi đến, lúc ấy, có lẽ có thể sắp xếp được một hồ sơ, các sự bắt giữ sẽ được thực hiện. Maria và Willis, khi bị bắt có thể khai ra tên tuổi các tên hãm hiếp. Có lẽ thế mới có thể mong xét xử được. Có quá nhiều chữ “nếu”. Và nàng sẽ lấy đâu ra các thám tử nhỉ? Các chỉ huy trưởng cảnh sát không muốn đưa người ra cho những vụ án ưu tiên thấp như vụ này. Nàng sẽ tán tỉnh nhiều đấy. Vụ án tiếp theo hơi khá hơn. Bà nội trợ người da trắng ba mươi tám tuổi cũng ngồi vào cùng chiếc ghế như Bianca. Có một vết xây xát phía trên gò má bà ta và những vết khâu đen nơi khóe miệng. Bà cố gắng nở một nụ cười thê lương, dường như lúng túng vì đã gây ra nhiều sự phiền nhiễu, và nụ cười này có vẻ rộng một phân về một bên khuôn mặt bà ta hơn phía bên kia. Bà ta trông không xấu quá, Judith nghĩ như thế. Không như một số người mình đã gặp. Những người mà chỉ có những kẻ điên rồ thực sự mới tấn công. Bà nội trợ đã bị ve vãn trong lúc đang thả bộ tại Công viên Trung ương. Bà ta đã bị lôi vào bụi và bị hãm hiếp. Bà ta đã la hét nhưng chẳng ai đến cả. Bà ta đã được xem các quyển album của những kẻ thường hay tấn công về tình dục, nhưng chẳng thể nào chỉ ra được kẻ nào đã tấn công mình. “Bọn hiếp dâm là những tên tái phạm”. Judith Adler bảo bà ta. Lần sau hắn có thể bị bắt và chúng tôi sẽ mời bà xuống và bà cố gắng chỉ ra hắn. Hình như chẳng có gì nhiều cho người đàn bà để đổi lại những gì bà ta phải chịu. Khi viên nữ thám tử đã dẫn bà ta ra, ông Katz bước vào với một tờ giấy ghi lại các cú điện thoại. Ông Katz là thư ký của nàng, một người đàn ông trạc lục tuần đội một chòm tóc giả không thích hợp. Ông ta đã đến làm việc đầu tiên tại văn phòng luật sư quận từ hơn ba mươi năm trước. Trong những ngày ấy, mọi người kể cả các thư ký, đều phải là đàn ông. Vào lúc Judith Adler tốt nghiệp trường luật - chỉ độ một chục năm trước thôi - vẫn chỉ có sáu người phụ nữ trong một ban nhân viên gồm trên hai trăm công tố viên, nhưng họ không được giao vụ nào để khởi tố cả. Dĩ nhiên bây giờ không phải kiểu như thế. Khi xin việc tại đây, Judith còn trẻ, mặt non choẹt và nhiệt tình, và viên chưởng lý quận lúc ấy, một ông già tao nhã, không muốn thu nhận nàng. Nàng vẫn còn nhớ rõ chiếc áo nàng đã mặc ngày ấy, nàng đã cố gắng thật đẹp để làm cho nàng trông được mắt ông già. “Công việc của chúng tôi quá hào nhoáng đối với một phụ nữ trẻ”, ông đã bảo nàng như thế. Nàng đã tranh luận, thuyết phục và nài nỉ. Cuối cùng, hình như trái với lương tri của ông, ông đã nhận nàng. Ông già có lý, bây giờ Judith nghĩ lại. Nó hào nhoáng - còn hào nhoáng hơn cả bất kỳ ai bên ngoài có thể đoán được. Một trong những câu nhắn trên điện thoại, ông Katz bảo, có vẻ đặc biệt, và ông trao nó cho nàng: một đại úy thuộc cảnh sát tiểu bang New Jersey đã gọi: “Ông ta chỉ muốn đích thân nói chuyện với bà thôi. Ông ta bảo rằng có việc khẩn cấp”. Phụ tá chưởng lý quận Adler, với một đầu óc nặng trĩu vì những người đàn bà bị bạo hành, muốn có một sự thay đổi, bất kỳ sự thay đổi nào, dù chỉ là thoảng qua, nên nàng lật qua bức điện khẩn và tò mò. “New Jersey à?” “Hãy gọi điện thoại cho ông ấy”, nàng bảo Katz. Ông ta gật đầu và đi ra. Khi nút trên điện thoại của nàng bật sáng, nàng đập vào nó. “A lô”, nàng gọi. Nghe giọng phụ nữ ở đầu dây, người đàn ông ở đầu kia không chấp nhận. Ông ta chỉ nói chuyện với chính phụ tá chưởng lý quận hiện tại, ông ta nhấn mạnh. “Đây là người ấy đấy”, Judith bực mình nghĩ. Rõ ràng là viên cảnh sát đã mong được nói chuyện với một người đàn ông. Ít năm trước, có lẽ ông ta cũng nói như thế; giờ đây, Judith ghi nhận một lần nữa, những người như thế, chỉ đối xử với nàng bằng một sự im lặng hơi kéo dài thôi. “Tôi là đại úy Sample”, giọng đàn ông cuối cùng lên tiếng. “Bà có thể ra khỏi chỗ đấy không? Chúng tôi có điều quan trọng để thảo luận với bà”. Và ông ta đợi. “Tốt hơn ông nên tường trình cho tôi đi”, Judith nói. Sau khi đã mất hứng thú nơi đại úy Sample, nàng bắt đầu lật qua các bức điện khác. Các luật sư cho các bị cáo, ủy viên công tố trừng phạt rắc rối với một tù nhân, có lẽ thế. Văn phòng thị trưởng. Chánh án hành pháp. “Tôi không muốn nêu vấn đề ấy ra trên điện thoại”, đại úy Sample nói. Câu này cũng làm Judith bực mình. Các cảnh sát viên về một vụ án thích cho là mọi đường dây điện thoại của họ đều bị nghe lén cả. “Tôi hơi bận,” nàng đáp cộc lốc. “Nếu ông muốn đến đây, tôi có thể cho ông một cuộc hẹn vào ngày mai hoặc ngày kia”. Sample cố gắng buông một tiếng cười trấn an. “Tôi không nghĩ rằng tôi có thể tìm ra văn phòng của bà. Bà sẽ phải đưa một chiếc xe cảnh sát đến đầu đường hầm để đưa tôi vào đấy.” Judith quả quyết “Nếu không…” Có một sự im lặng khác trong lúc lời đe dọa của nàng về đến đích. Cuối cùng Sample thở dài. “Hai người đàn ông định buộc cô gái trẻ này vào một chiếc xe” ông ta nói. Ông ta có một giọng nói khàn khàn và một âm điệu cứng. “Và một người của tôi ngẫu nhiên lái xe ngang qua, thế đấy. Chúng tôi bắt hai thủ phạm, và trong cốp xe của họ, bà biết chúng tôi đã tìm ra thứ gì không?” Judith đã quyết định sẽ gọi chánh án hành pháp ngay sau đó. Một vấn đề thuộc thời khóa biểu, nàng đoán như thế. Điều ấy có thể thương lượng trên điện thoại. “Tôi không biết”, nàng nói với đại úy Sample, “ông đã tìm ra điều gì thế?” “10 kilo hasit”, ông ta nói với vẻ đắc thắng. “Hay đấy”, Judith nói. Kế đấy nàng phải dự hai buổi thuyết trình pháp đình, buổi đầu tiên còn năm phút nữa - và trên tầng mười lăm. Sample, như hầu hết các cảnh sát viên của các thành phố nhỏ, bị hăm dọa một cách dễ dàng. “Tôi biết điều ấy không có vẻ gì là nhiều tại New York đâu”. “Ma túy không phải phần hành của tôi”, Judith nói. Nàng không muốn làm tổn thương cảm tình của Sample nhưng tốt nhất nàng nên cắt gọn vấn đề này. “Và New Jersey ngoài quyền xử lý của tôi.” “Chúng tôi có một tờ lệnh xét nhà họ”, Sample vội nói, “và bà nghĩ chúng tôi đã tìm được thứ gì nhỉ?” Lần này ông ta không chờ câu trả lời. “Độ hơn hai mươi cuộn video cassette về các cuộc hiếp dâm hiện nay. Các cô gái trẻ. Các cô người mẫu. Các cô thỏ Playboy. Các cô gái trẻ đẹp”. Giọng ông ta nghe như một cô quảng cáo trình diễn thoát y. “Nhưng các cuộc hiếp dâm đều xảy ra tại New York. Tôi muốn bà ra khỏi đây và nhìn qua các cuộn băng. Bà có định đến không?” Judith thôi lật các tờ giấy ghi lại những cú điện thoại của nàng. “Vụ án ma túy cũng có thể đưa về lại đây nữa”, Sample nói, ông ta cố gắng làm cho ngọt miếng mồi. Ông ta là một viên cảnh sát của một thành phố nhỏ đang có trong tay một vụ án hiếp dâm lớn, Judith nghĩ, ông ta không biết phải đối phó như thế nào với nó, ông ta đang cầu xin sự giúp đỡ. Rồi nàng nghĩ: ông ta chỉ hứng thú vì các nạn nhân đều hấp dẫn. Điều này làm phật ý nàng. Trong lúc các nguyên nhân lướt qua, điều ấy gây khó chịu. Giả sử các nạn nhân đều là các bà già thì sao? Các bà già cũng bị hãm hiếp nữa, nàng muốn bảo Sample như thế. Các bà nội thường đến đấy, nàng nghĩ thế. Họ không còn tự xem mình là đối tượng tình dục, đã nhiều năm rồi và sự xúc động chính của họ trong lúc họ kể lại câu chuyện của họ, trong lúc mô tả điều bọn đàn ông đã làm với họ là sự sợ hãi rằng mình sẽ cười. “Vậy bà định đến không?” Sample bảo. Giọng ông ta có vẻ nài nỉ. Điều ấy rất yếu vì những người mạnh bạo, những viên cảnh sát mạnh bạo, bất kỳ giá nào đều không nài nỉ - hoặc Judith cho rằng như thế. Nhưng điều ấy vẫn có và nàng hiểu được. Mình nên suy nghĩ điều này ít phút trước khi chối từ. Nàng tự nhủ. Mình nợ ông ta nhiều như thế đấy. “Để tôi xem người ta có gì cho tôi ở đây đã”, nàng nói. “Tôi sẽ trở lại với ông sau”. Trong lúc nàng đi vội lên tầng 15, chuyện ấy vẫn bám theo nàng. Buổi đầu tiên trong hai buổi nghe thuyết trình của nàng liên quan đến một tay thanh niên làm việc lặt vặt rất mập, đầu óc chậm chạp ngụ trong một tòa nhà ở phía tây. Ba tuần trước, vì một lý do chẳng ai xác định được là gì, hắn đã hiếp dâm một bà chủ nhà với một con dao để uy hiếp. Khi hắn không duy trì được tình trạng cương cứng, hắn bắt đầu đâm bà ta. Sau đấy tên thanh niên đi đến chỗ mẹ hắn và đưa cho bà mớ quần áo vấy máu của hắn để giặt. Bà đã gọi cảnh sát. Bây giờ luật sư của hắn cố gắng giữ hắn trong phòng bệnh tâm thần, cách ly các tù nhân thông thường với lý do rằng hắn tròn trĩnh và mềm như bất kỳ phụ nữ nào và đúng là không tự bảo vệ được về phương diện thể chất. Mỉa mai trên cả các sự mỉa mai: trong tù hắn sẽ bị hiếp dâm. Judith khăng khăng đòi các điều luật thích hợp. Nếu không nàng không phản đối gì cả. Buổi thuyết trình thứ nhì trong một phòng xử án bên cạnh, liên quan đến một người đàn ông da đen trung niên, lực lưỡng, vừa mới ra tù chỉ có ba tuần lễ. Không có tiền bạc và nghề nghiệp gì cả, duy nhất chỉ có bộ quần áo mà hắn vẫn còn mặc ở tòa án ngày hôm nay, cộng với nhiều cái đói khác nhau của hắn, hắn được thả lỏng trên xã hội. Trong hai tuần lễ tự do, hắn đã hãm hiếp hai người lạ trong hành lang của các tòa nhà. Cả hai đều giống những cuộc hiếp dâm trong tù - những cuộc đương đầu nhanh, tàn bạo rõ ràng là loại tình dục duy nhất mà người này biết hoặc có thể cảm thấy thoải mái. Bây giờ bị cáo lơ đễnh nhìn lên mặt bàn trong lúc luật sư của hắn nói với thẩm phán rằng quyền công dân của thân chủ ông ta đã bị xâm phạm, bắt giữ hắn là trái luật. Viên sĩ quan bắt giữ đã thiếu lý do có thể có được và hồ sơ mà cả hai nạn nhân đã tố giác thân chủ của ông đã được sắp xếp một cách không thích đáng. Đây là một trong nhiều vụ hãm hiếp chưa giải quyết mà chi tiết Judith còn đang mang trong đầu. Trước tòa nàng tranh luận rằng, trái lại, vụ án này tiêu biểu cho công việc có tính nguyên tắc cao nhất của cảnh sát và nàng giải thích rõ tại sao. Rồi nàng đưa chàng sĩ quan hình sự trẻ lên bục. Đầu tiên nàng chất vấn anh ta, rồi viên luật sư thẩm vấn chàng thật gắt gao. Hầu như đây là một cuộc xét xử đại qui mô, chỉ thiếu có bồi thẩm và tuyên án thôi. “Thưa quí tòa”, viên luật sư kết luận, “thân chủ của tôi bị bắt chỉ vì ông ấy là một người da đen trong một vùng phụ cận da trắng. Việc ông ấy bị bắt nặng mùi ngất trời. Tôi muốn nôn ra đây”. Chánh án giữ lại quyết định, điều đó ngầm bảo rằng ông ta có thể có quyết định cuối cùng là ra lệnh phóng thích bị cáo. Điều này xảy ra quá thường. Judith có lẽ cũng phải sốt ruột vì vụ án này và nàng đã thường sốt ruột chờ đợi rất nhiều rồi. Trong lúc ấy, bị cáo lại bị còng tay chỉ đứng cách nàng không đầy mười foot. Nếu một người là một tên hiếp dâm, nàng nghĩ trong lúc quan sát hắn, điều ấy phải được rõ ràng. Người ta có thể đoán ra được bằng cách nhìn hắn. Nhưng chẳng có gì lộ ra cả. Các tên hiếp dâm trông cũng chẳng khác gì người khác. Các tên sát nhân cũng thế. Điều ác không thể nhận ra bằng một cái liếc mắt được. Đây là lý do khiến chúng ta có hai phòng xử. Đấy là một cách tốt nhất mà chúng ra có thể làm được. Chàng cảnh sát trẻ đứng bên cạnh nàng. “Viên luật sư ấy”, viên cảnh sát cố ý nói, “ông ta cừ đấy, đúng không?” Chính những luật sư như thế đã đầu độc hầu hết các cảnh sát viên chống lại nghề nghiệp của nàng, và Judith biết điều này. Nhưng nàng không có ý định nào để phỉ báng các luật sư - bất kỳ luật sư nào - trước mặt các cảnh sát viên, nên nàng mỉm cười với viên cảnh sát, bắt tay anh ta và anh ta bỏ đi. Nàng còn một công việc nữa để làm trên tầng này nên nàng bước qua hai cánh cửa, đi dọc theo hành lang và bước vào một phòng xử ở đó một cuộc xử án đang tiến hành. Mặc dầu chỗ ngồi đều chật ních - bồi thẩm, chánh án, ban bào chữa, công tố, tốc ký, một số lính canh phòng xử có vũ trang - khu vực dành riêng cho người dự thính hầu như trống rỗng. Bao nhiêu là ghế mà chỉ có nàng và ba người khác. Có lẽ là một cuộc xử giả hiệu. Trong những căn phòng như thế này trên khắp đất nước, nền dân chủ được bênh vực từ ngày này sang ngày khác. Báo chí và các công dân, trừ trong một số ít vụ án nổi bật, chẳng chú ý gì cả. Chẳng lạ gì, nàng nghĩ, vì sao hệ thống làm việc không khá hơn mấy. Nàng chiếm một chiếc ghế gần cánh cửa nàng vừa bước vào và đặt hai tập hồ sơ nặng trên chiếc ghế bên cạnh. Công tố viên là chàng thanh niên Benjamin Goldberg. Chàng đang thẩm vấn một nữ nhân chứng trên bục, nhưng khi chàng nhìn lên và trông thấy Judith, chàng tặng nàng một nụ cười ngắn. Chàng trông có vẻ hài lòng vì nàng đã lên. Benjy vừa tốt nghiệp trường luật và mới hai mươi bốn tuổi. Chàng là công tố viên trẻ nhất ở ban của nàng. Nhưng họ đều còn trẻ cả - người lớn tuổi nhất trẻ hơn Judith nhiều. Họ hưởng lương kém, nhiệt tình, siêng năng và so với các luật sư bào chữa mà họ đương đầu, họ thiếu kinh nghiệm một cách thảm hại. Trong những phòng xử trống rỗng như thế này, sự có mặt của Judith chứng tỏ cho Benjy và những người khác thấy rằng lãnh đạo quan tâm đến - rằng có ai đấy quan tâm đến là điều quan trọng. Vụ án ở đây liên quan đến chuyện hiếp dâm bằng hậu môn của một cậu bé năm tuổi do một tên đốn mạt năm mươi hai tuổi ở vùng phụ cận, một người đàn ông có một tiền án hai mươi hai năm về tội tình dục. Người đàn bà trên bục chắc là người mẹ. Benjy xử sự với nàng gần như mỗi ngày một khá hơn. Không như nhiều công tố viên trẻ, chàng là một người có năng khiếu tự nhiên. Chàng sẽ trở thành một luật sư tòa án thành công. Chẳng còn gì nhiều để nàng có thể góp ý cho chàng, vấn đề duy nhất của chàng sẽ là chính bản thân đứa bé. Đứa bé năm tuổi có còn nhớ điều đã xảy ra với nó không? Judith đã đưa ra xử càng sớm càng tốt. Tuy nhiên, vấn đề ấy phải mất sáu tháng, đứa bé có chỉ được kẻ tấn công nó không, hay tên đốn mạt sẽ lại tự do. Và sẽ tấn công một cậu bé nào đấy vào ngày mai hoặc tuần sau? Trong lúc đứng trong thang máy xuống văn phòng của nàng, Judith cảm thấy bực dọc. Nàng thấy luật chỉ là điều không hoàn hảo, vô hiệu và hầu như lúc nào cũng hoàn toàn không có hiệu quả dù rằng đấy là tất cả những gì nền văn minh có được. Yêu luật, và nàng quả tình yêu nó, như yêu một người không yêu mình. Cuộc đời nàng chỉ qua được một nửa thôi. Cuộc đời của nàng có lẽ mới một nửa - nàng ba mươi bảy tuổi - và nàng đã hoàn thành được gì? Điều nàng cần thật sự, nàng tự nhủ, là một lúc nào đó được rời bỏ văn phòng và ngay cả rời bỏ thành phố, không bận bịu những việc ở đây. Một buổi chiều một mình ở vùng quê bắt đầu làm cho nàng cảm thấy là một thú vui hiếm hoi nhất của cuộc đời. Khi nàng bước vào phòng trước của nàng, ông Katz đưa thêm cho nàng một số lời nhắn trên điện thoại. Chẳng có cái nào khẩn cấp cả, ông bảo. Judith, với hai hồ sơ vụ án kẹp dưới cánh tay, lật qua các bức điện, nhưng trí óc nàng để ở nơi khác. Nàng đang nghĩ đến cú điện thoại của cảnh sát tiểu bang New Jersey. Tại sao nàng không đến đấy trong một giờ và giúp đại úy Sample về những vụ án hiếp dâm mà ông ta nắm được nhỉ? Đấy là một chuyến đi có lý. Có một loạt cửa hàng mua sắm trên đường số 17. Ngoài ấy sẽ có ao hồ, rừng và không khí trong lành để thở. Nàng bỗng bảo ông Katz điện thoại cho Sample xin hướng dẫn. Hôm nay là thứ ba. Ông ta hẹn nàng vào chiều thứ năm. Nàng có nên đi một mình không, nàng tự hỏi, hoặc nên nhờ một cảnh sát trưởng cùng đi với nàng? Nếu thế thì ai đây? Về chiều, các cuộc xét xử đình lại. Tòa án đã kết thúc ngày làm việc. Các bồi thẩm đi phố. Các luật sư biện hộ đang bám vào những chiếc Cadillac của họ. Các thẩm phán đang treo áo trong phòng mình. Chỉ có những luật sư phụ thẩm quận trẻ, lương ít vẫn còn làm việc. Họ đã xuống lại văn phòng nơi họ sẽ làm việc thêm về các vụ án, một số người trong bọn họ còn làm việc đến khuya nữa. Các cuộc thẩm vấn phải được chuẩn bị, các bản tóm tắt phải được tu sửa lại. Họ như những diễn viên thiếu kinh nghiệm tập dợt lại giữa các màn trình diễn. Các nhân chứng cho ngày mai phải được tiếp xúc và phỏng vấn lại. Trong một số vụ, phải đưa thám tử ra truy lùng một nhân chứng thiếu hoặc một bằng chứng cuối cùng. Trời về chiều đã lâu, bỗng một số công tố viên trẻ được bổ nhiệm đến cho Judith cùng bước vào văn phòng nàng. Mỗi đêm trước khi về nhà, nàng muốn biết mỗi vụ án của họ đang diễn tiến thế nào, và lúc này họ có năm vụ, cộng với một vụ thứ sáu mà bồi thẩm vẫn còn vắng mặt. Tất cả những vụ này đều thuộc trách nhiệm của nàng. Nếu có vấn đề nào xuất hiện trong ngày, nàng muốn biết đây là những vấn đề gì. Do kinh nghiệm vượt trội của nàng, có lẽ nàng có thể ngăn chặn được một vụ án khỏi bị thua. Ít nhất nàng có thể đưa ra lời khuyến khích cho các chàng trai hoặc các cô gái đang khởi tố nó. Judith ngồi ở bàn giấy và họ vây lấy nàng và nàng hài lòng vì có họ ở đấy. Nàng mong muốn có những cuộc họp này hằng đêm. Đây là con cái của mình, nàng tự nhủ. Ông Katz đã mang vào một khay cà phê bằng các tông với những chiếc tách styrofoam. Các tách cà phê được chia ra và khuấy lên, đồng thời cuộc thảo luận bắt đầu. Đèn được bật lên. Bầu không khí trong phòng thân thiện, nhưng cũng căng thẳng. Các cuộc xử đều xúc động. Cuộc sống và nghề nghiệp của dân chúng đang bị đe dọa. Những biến cố kinh khủng đang được xét xử. Đa số các cuộc xét xử có vẻ đang diễn tiến tốt đẹp. Chỉ có Brian Crawford đã gặp phải một vấn đề nghiêm trọng; Chàng đứng tựa lưng vào tường, trông buồn bực. “Nhân chứng chính của tôi, nạn nhân, con bé tóc hoe bẽn lẽn ấy,” chàng thốt lên, “cô ta vừa gây trở ngại cho vụ án của tôi đấy.” Đối với các công tố viên này các cuộc xét xử giống như cuộc đời, hoàn toàn không tiên đoán được. Thủ tục tòa án theo đúng cách, nhưng tư cách các nhân chứng thì không. Phản ứng của các bồi thẩm cũng không. Các điều gây ngạc nhiên đều phổ biến. Các nhân chứng quên các câu của họ và ứng khẩu ra những câu mới. Một số đâm sợ hãi và thay đổi câu chuyện của họ. Một số cứng miệng. Các bồi thẩm tin một số và không tin số khác thì vì những lý do thách đố lương tri. Kết quả các vụ không bao giờ có thể tính trước được. Cuộc phiêu lưu hằng ngày của công việc xét xử đối với các luật sư trẻ này là một sự mê hoặc vô tận, và các đồng nghiệp của Crawford đang chờ để nghe bất kỳ điều kinh khủng nào ở pháp đình mà chàng sắp mô tả ra. “Tôi đã bảo cô ta”, Crawford nói, “chỉ ra người đàn ông đã hãm hiếp cô ta”. Có một sự im lặng bi thảm. “Cô bé tóc hoe e lệ này”, Crawford bảo, “chỉ hắn và la hét om sòm, “thằng chó ấy đấy”. Có một sự im lặng trong văn phòng Judith. Rồi mọi người bắt đầu cười. “Tôi không thể nào tin được tai mình,” Crawford bảo. Tiếng cười chấm dứt. Sự thông cảm của bồi thẩm đoàn là một chuyện mỏng manh. Nhưng không có nó các luật sư bảo là bạn thua vụ án. “Và hãy đợi”, Crawford bảo, “cho đến lúc bạn nghe điều cô ta nói tắt ngang.” Tất cả bọn họ đều biết các vụ án của nhau và bây giờ trong tâm trí họ, họ dừng lại để xem lại vụ án của Crawford. Bị cáo gõ cửa với lý do hắn là người trừ chuột. Cô bé e lệ cho hắn vào. Hắn chộp lấy một con dao ở tủ búp phê và hãm hiếp cô ta. Đấy là câu chuyện của cô ta suốt trong các cuộc phỏng vấn trước khi xét xử. “Không may,” Crawford bảo, “điều mà người trừ chuột làm là hắn đặt con dao xuống và bảo với cô ta là, tôi có thể đặt tay lên ngực cô không? Cô ta nói, cái gì đây, hiếp dâm à? Vì nếu như thế, chúng ta khắc phục nó.” Thế rồi cô ta bắt đầu cởi quần áo mình ra.” Một trận cười, sau đó im lặng. “Ngày mai anh thử thẩm vấn lại cô ta một lần nữa xem sao”. Judith xoa dịu anh ta. “Vâng, nhưng tôi phải nói gì?” Các công tố viên khác bắt đầu khuyên bảo. Câu chuyện được luật sư đoàn gợi ra ngày hôm sau hoàn toàn không tương xứng với điều kinh hoàng. Crawford có thể đưa lên bục một bác sĩ tâm thần để xác nhận điều ấy. Nhiều cái tên được đề nghị với chàng. “Nhưng cô ta đã gọi bị cáo là một tên “đít lừa”, Crawford bảo. “Bồi thẩm đoàn không còn xem cô ta là một cô bé tóc hoe e lệ nữa.” “Người đàn ông đã hãm hiếp cô ta đang đứng cách cô ta chỉ có ba thước,” Judith Adler vỗ về. “Cô ta vẫn còn bị hắn làm hoảng sợ. Trong sự kinh hoàng, cô ta gọi hắn bằng một từ thô lỗ.” Mọi người bắt đầu cười lại. “Đấy không phải là một cô bé tóc hoe đoan trang dùng một từ thô lỗ.” Judith bảo, “đấy là một nạn nhân hãm hiếp bị hoảng sợ.” Nàng nhìn quanh đến những người kia. “Marcy?” nàng bảo. Marcy Miller, người phụ nữ thứ hai duy nhất ngoài nàng hiện diện, đang xét xử một nha sĩ đã gạ gẫm nữ bệnh nhân bằng thuốc mê. Vụ án này diễn tiến tốt đẹp, nàng nói. Và trong vụ xử chuyện hiếp dâm bằng hậu môn của một tội nhân tình dục do thói quen, Benjy Goldberg đã đưa cậu bé năm tuổi lên bục chiều hôm nay và đã bắt đầu thẩm vấn trực tiếp. Đứa bé có được một lúc chú ý độ 60 giây. Nó đã ngồi vào ghế nhân chứng, hớp coca-cola và cười với mẹ nó cuối phòng xử. Các câu hỏi phải được lặp lại đôi ba lần nó mới có thể hiểu được và trả lời. Ngày mai Goldberg định bảo nó nhận diện bị cáo ở phòng xử công khai và chàng lo lắng. “Hãy cho nó đứng xa chiếc ghế nhân chứng,” Judith đề nghị. “Hãy bảo nó diễn lại vụ án - bị cáo đã đưa nó vào hẻm bằng cách nào, và hắn đã làm gì. Hãy bảo nó diễn lại. Tôi đã thử điều ấy trước kia với các em nhỏ. Điều ấy có vẻ hợp với chúng đấy.” Cánh cửa mở ra và ông Katz thò đầu vào phòng. “Vụ Ligouri đã có quyết định rồi,” ông thông báo. Tất cả bọn họ đều biết vụ án này nữa. Bồi thẩm đoàn của vụ Ligouri, đã thảo luận kỹ trong hai ngày. Katz bỗng nở một nụ cười thoải mái. Và hắn đã có bản án của hắn. “Trong vòng ít phút nữa,” Crawford bảo, “hắn sẽ vào đây và khoác lác rằng bản tóm tắt của hắn lớn lao như thế nào đấy.” Mọi người đều mỉm cười. “Tôi không hiểu tại sao bồi thẩm đoàn để lâu thế,” Judith trầm ngâm nói. Ngay lúc ấy cánh cửa bị giật ra sau và Anthony Ligouri, hai mươi bảy tuổi, đứng với vẻ đắc thắng trên ngưỡng cửa, đấm ngực, như Tarzan trong một bộ đồ ba mảnh. Những người kia cổ vũ chàng. “Tôi nghe bồi thẩm đoàn đã muốn kết tội anh thế nào đấy,” Benjy Golberg bảo. “Đấy là kết luận của anh”, Crawford nói. “Theo như tôi nhớ,” Benjy Goldberg bảo, “bị cáo hãm hiếp cô ta đứng dựa vào thành sau của một chiếc thang máy, lúc cửa mở và có hai cảnh sát viên đang đợi vào thang máy. Hiếp dâm có nhân chứng. Vậy tại sao bồi thẩm đoàn phải mất hai ngày nhỉ?” Ligouri, ngồi trên bệ cửa sổ của Judith, lau mồ hôi tưởng tượng trên trán. “Tôi đã nói chuyện với một người trong bồi thẩm đoàn sau đấy. Tôi đã suýt thua vụ án. Nạn nhân xác minh, chuyên viên phòng thí nghiệm và bác sĩ thực tập nội trú xác minh. Âm hộ của cô ta hoàn toàn bị trầy trụa. Còn cả tinh dịch nữa. Chúa ơi. Nhưng bồi thẩm số chín không tin rằng sự hãm hiếp xảy ra ở tư thế đứng như mô tả. Ông ta chống lại trong hai ngày. Không thể được, ông ta bảo. Ông ta là một công nhân bưu điện về hưu. Theo ông ta, sự giao hợp ở tư thế đứng không thể thực hiện được.” “Và anh hỏi tại sao thư từ chuyển quá chậm,” Crawford lên tiếng. Mọi người cười vang. “Các bồi thẩm kia tranh luận với ông ta hai ngày,” Ligouri bảo. Có bốn phụ nữ trong bồi thẩm đoàn ấy, tất cả đều có tuổi cả. Cuối cùng một trong số người ấy đứng dậy và bảo ông nhân viên bưu điện rằng ông ta sai, giao hợp ở tư thế đứng vẫn có thể thực hiện được. “Bà biết cách nào không?”, ông ta tra gạn. Và bà già tóc xám này bảo rằng: “Vì tôi đã đích thân làm như thế ở tư thế đứng.” “Điều ấy chắc gây thương tổn cho bà ta,” Judith lẩm bầm. “Ông nhân viên bưu điện vẫn không chịu,” Ligouri nói, “Nên các bà kia lần lượt đứng dậy và nhận rằng họ cũng đã làm điều ấy ở tư thế đứng. Cuối cùng, ông nhân viên bưu điện chịu thua và tôi có lời buộc tội.” Tất cả bọn họ đều cười vang, nhưng Judith thấy rằng họ cũng không được thoải mái. Dù rằng họ còn trẻ, tất cả đều đã lập gia đình. Ngay cả Marcy cũng có gia đình, còn Judith thì không, nên chuyện đùa cợt về tình dục trước sự hiện diện của nàng làm cho họ không được thoải mái như thể nàng là mẹ của họ. Đấy là con cái của nàng và nàng hãnh diện về tất cả bọn họ. Tuy vậy, đôi khi họ làm nàng có cảm giác nàng là gái già. Khi về nhà, nàng đi tắm ngay. Nàng sống trong một căn hộ phía tây công viên trung ương và đêm nay, như mọi đêm, đi tắm là một hành động hết phiên trực đầu tiên của nàng. Nàng kỳ cọ người kỹ lưỡng. Nàng tẩy rửa bụi bặm trong ngày và mồ hôi ở thân thể hay cố gắng rửa sạch bụi bặm trong tâm hồn nàng đây? Điện thoại reo. Sau khi bước ra nhà tắm, nàng lấy chiếc khăn lớn quạt nhanh lên người ít cái rồi bước vào phòng ngủ và trả lời. Da thịt của nàng vẫn còn bốc hơi yếu ớt, và nàng nắm chặt chiếc khăn ở một tay. “Alô?” Vẫn là một người khác trong số các công tố viên trẻ của nàng. David Reidy. Văn phòng nàng có người, 24/24. David trực đêm nay và một vụ án vừa đến - một nữ luật sư làm việc khuya bị hãm hiếp ngay trên bàn giấy của cô, do người thợ chữa điện của tòa nhà. David muốn được nàng khuyên bảo và nàng cho ý kiến. Rồi nàng đi tắm lại. Nàng đứng dưới vòi nước. Judith mặc pyjama và một chiếc áo khoác ngoài và tự đi sửa soạn bữa tối. Sau đấy nàng xem TV một lúc, rồi lên giường nằm, với tờ New York Times gấp lại ở phần đố ô chữ và đầu một cây bút chì cắn ở răng. Khoảng nửa đêm, nàng tắt đèn.   Mời các bạn đón đọc Bàn Tay Kẻ Lạ Mặt Tập 1 của tác giả Robert Daley.