Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hai Cuốn Nhật Ký

Tác phẩm của Tanizaki thường đi sâu vào lĩnh vực cấm kỵ. Từ sự khiêu dâm tinh tế đến tình dục bệnh hoạn đều được ông đưa cả vào sách của mình. Ông lãng mạn hóa sự khổ dâm, thi vị hóa sự dày vò tình cảm, ông viết chân thực về những xúc cảm dục vọng thầm kín của đàn ông, ông phanh trần ẩn ức dục vọng đàn bà. Người đọc có thể phì cười vì nỗi ám ảnh khiêu dâm trong sách của ông, nhưng cũng rất dễ dàng nhận thấy đó là sự hân hoan háo hức đòi hỏi cũng rất con người. Ông đưa tình dục của con người ta đi về một bến bờ nào đó xa lắc xa lơ. Trích đoạn Hai cuốn nhật ký “Vừa ân ái với người mình yêu, rồi lại gối chăn với kẻ mình ghét, người bình thường sẽ lấy làm khó chịu vô cùng, nhưng vợ tôi là ngoại lệ. Mà dẫu nàng có ý cự tuyệt tôi thì thân thể nàng lại chưa từng từ khước. Nàng có thể cự tuyệt tôi bằng lý trí, nhưng xác thịt nàng nào chống lại được ham muốn. Dâm phụ muôn đời vẫn là dâm phụ, điều ấy sao tôi lại quên nhỉ...” *** Năm 1956, thời điểm hồi phục kinh tế hậu chiến của Nhật Bản đã được hoàn thành và thời kỳ tăng trưởng kinh tế cao đang bắt đầu, người già đã trở thành một vấn đề của xã hội, tình dục người già càng là một chủ đề nhạy cảm. Nhưng cái gì càng nhạy cảm, Tanizaki luôn lao đầu vào, bất chấp mọi chuẩn mực xã hội, luôn giữ thái độ phản kháng văn hóa và thăm dò truyền thống. Bối cảnh Nhật Bản trong thời kỳ giao thoa văn hoá Tây phương, sự xung đột giữa truyền thống và hiện đại được thể hiện rõ nét trong “Hai cuốn nhật ký” của Tanizaki. Tác phẩm là câu chuyện được đan lát từ hai cuốn nhật ký đầy nhục dục của cặp vợ chồng trung niên. Người chồng là một giáo sư đại học. Cuốn nhật ký của ông không kể lại những câu chuyện hằng ngày, mà là nơi người đàn ông trung niên tội nghiệp thoát khỏi vỏ bọc của một con người trí thức thành công cùng cái tuổi tác đã ngấp ngưỡng lục tuần, để giãi bày tự nội tâm những ẩn uất về tình dục, với những ham muốn, ám ảnh, chán nản, bực bội và cả tiếc nuối. Người vợ của giáo sư là Ikuko, cũng viết nhật ký để nói lên những khao khát chốn phòng the mà bấy lâu nay chưa được chồng đáp ứng. Ikuko là một người vợ đặc trưng cho hình mẫu phụ nữ Nhật Bản, sinh ra trong một gia đình truyền thống, được dạy dỗ tử tế, phải giữ khuôn phép trong mọi cử chỉ hành vi, bởi vậy mà bà luôn rụt rè trong chuyện giường chiếu để tỏ vẻ chính chuyên… Ngán ngẩm một nỗi, thâm tâm Ikuko vốn là một người đàn bà hiếu dâm luôn tràn đầy ham muốn, và tư tưởng của bà trong buổi giao thời đã thoát ra lằn ranh truyền thống lại e dè vẫn cố bám vào truyền thống. Buồn của Ikuko là kể từ khi lấy chồng và đã có chung được một mụn con, bà vẫn chưa một lần đạt được thỏa mãn trong chuyện phòng the, bởi giáo sư là một kẻ “yếu nòng”, dẫu luôn khát khao vẻ đẹp của vợ. Những khúc mắc nhạy cảm không thể nói thành lời ấy khiến đời sống sinh hoạt tình dục của đôi vợ chồng suốt 20 năm qua không đạt được hạnh phúc. Họ tìm đến nhật ký để cả hai có thể tỏ bày nỗi lòng. Họ viết nhật ký nhưng lại không cất giấu, hoặc cất giấu một cách ỡm ờ, cố tình để cho đối phương đọc được. Một cuộc đấu trí căng thẳng và gay cấn giữa ông chồng già vẫn khát khao thể hiện bản lĩnh đàn ông và bà vợ hiếu dâm nhưng lại thích ra vẻ chính chuyên. Những mưu mô từng người giăng ra chực chờ đối phương mắc bẫy, để rồi kết thúc mở bằng một cuộc điều tra án mạng? Những tình tiết trần trụi ướt át dựng trên nền một cốt truyện trinh thám, Tanizaki đã làm mới mình bằng cách mô tả bài bản và tâm lý về nhân vật có ảo tưởng tình dục, nhưng lại kích thích trí tưởng tượng của người đọc lên đến đỉnh điểm. Người đọc gần như không nhận ra nổi tác phẩm chính là một kế hoạch giết người ẩn giấu, cho đến khi đọc đến những trang cuối cùng. ***   Truyện kể về cuộc đấu trí, lừa lọc nhau của 4 con người trong một gia đình, dưới hình thức 2 cuốn nhật ký của cặp vợ chồng trong cuộc. Và chủ đề của cuốn sách, cũng như công cụ của các âm mưu trong truyện, là tình dục. Thứ tình dục được nhắc tới ở đây, không phải thứ tình dục lãng mạn của tuổi trẻ, hay cuồng nhiệt của tuổi trưởng thành, mà là thứ tình dục khó nói, khó chia sẻ của tuổi trung niên và xế chiều. Cái độ tuổi mà con cái đã trưởng thành, sự nghiệp vững chắc, xã hội nể trọng, người ta thường hướng tới sự an nhàn, những thú vui tao nhã. Nhưng không, đó chỉ là những gì người ta dám thể hiện, còn những nhu cầu, nhưng khao khát rất “tầm thường” mang tên tình dục vẫn hừng hực như tuổi 20. Nó không hề già đi theo năm tháng, có chăng chỉ là sự chống đối của sức khỏe, nhưng tinh thần thì vẫn đầy năng lượng, đầy ham muốn. Bên cạnh tình dục là các âm mưu. Âm mưu để thỏa mãn nhu cầu bản thân, âm mưu để tránh tai tiếng, âm mưu đề chiếm đoạt, âm mưu để lợi dụng… Có quá nhiều âm mưu so với lượng nhân vật chỉ là 4. Tất nhiên, đã có âm mưu thì sẽ có kẻ thắng, người thua, và cho tới cuối cùng, tôi dám cá là người đọc ai cũng có suy nghĩ về cái kết của riêng mình. Truyện không dài, nên 4 nhân vật là hợp lý. Đây cũng là lý do tôi thích truyện Nhật hơn Âu Mỹ, nhân vật ít sẽ có đủ thời gian để xây dựng tình cách, người đọc sẽ dễ đồng cảm hơn. 4 người 4 cá tính, tuy được kể qua nhật ký của 2 nhân vật thôi, nhưng 2 người còn lại vẫn đủ sống động, đủ gây hứng thú. Một thiếu nữ hiểm độc, một chàng trai hám lợi danh, một ông chồng bệnh hoạn và một bà vợ dâm đãng. Cứ thế, họ tương tác và gây ảnh hưởng lẫn nhau, tạo nên một trận chiến không ồn ào, nhưng đầy mùi duc vọng. Lần đầu tới với Tanizaki, lại là câu chuyện được kể dưới dạng nhật ký, nhưng không thể phủ nhận cách dẫn dắt lôi cuốn và ngôn từ gợi cảm là điểm mạnh của nhà văn này. Bao nhiêu hư ảo của cuộc ái ân, vốn dĩ rất khó miêu tả thành lời, nay qua con chữ của ông hiện lên vô cùng rõ nét và rực rỡ, đem lại trải nghiệm độc đáo cho người đọc là tôi. Tóm lại, tác phẩm là kết hợp của cốt truyện thú vị, chủ đề nhạy cảm, lối kể độc đáo, nhân vật có cá tính, lời văn gợi cảm, dẫn dắt lôi cuốn. Từng đó lý do là quá đủ để ai yêu thích văn chương Nhật và không ngại các chủ đề “nhạy cảm” nên tìm đọc. *** Ngày mùng một tháng Giêng... Tôi quyết định từ năm nay sẽ bắt đầu ghi lại tất cả những điều chưa từng dám viết vào nhật ký. Trước giờ, những việc phòng the, sinh hoạt vợ chồng, tôi thường không dám ghi chép tỉ mi lại, bởi e ngại vợ mình đọc trộm mà sinh tức giận. Nhưng từ đầu năm nay trở đi, tôi quyết không lo lắng nữa. Nàng chắc chắn cũng biết cuốn nhật ký này được đặt đâu đó trong ngăn kéo tại thư phòng tôi. Nhưng vốn xuất thân từ một gia đình quyền quý ở Kyoto, coi trọng những giá trị đạo đức, lễ giáo cổ xưa, nàng đích thực là một tiểu thư con nhà gia giáo, thậm chí còn tự hào về điều ấy nữa, thế nên những chuyện như lén đọc nhật ký của chồng, chắc sẽ hiếm khi làm, dĩ nhiên chẳng có gì là không thể cả. Từ nay trở đi, tôi sẽ phá bỏ lệ cũ mà ghi lại sự tình ẩn mật trong những lần sinh hoạt vợ chồng. Liệu nàng có cưỡng lại nổi sự cám dỗ của việc rình lén những bí mật của chồng mình không? Nàng là người bẩm sinh kín đáo, đặc biệt hiếu kỳ với những bí mật. Nhưng dù có biết vẫn vờ như không, giữ kín ở trong lòng, chẳng dễ dàng nói ra miệng, tệ nhất là nàng nghĩ phụ nữ thì phải như thế. Trước giờ, tôi vẫn thường giấu chìa khóa ngăn kéo chứa cuốn nhật ký ở một nơi kín đáo, hơn nữa lại thường xuyên đổi chỗ giấu, thế nhưng với lòng hiếu kỳ phi thường ấy, nàng thừa sức dò được mỗi khi tôi thay đổi. Kỳ thực, đâu cần phải phiền phức đến vậy, chỉ cần đánh thêm một chiếc nữa là được mà... Mới rồi, tôi viết "từ đầu năm nay trở đi, tôi quyết không lo lắng nữa", nhưng thú thực tôi đã dự tính chuyện nàng sẽ đọc, thậm chí còn mong nàng đọc ấy chứ. Thế thì tại sao tôi còn phải trăm phưong nghìn kế để giấu giếm chìa khóa đi? Có lẽ là để thỏa mãn tính tò mò của nàng. Giả như tôi cố ý đặt ngay cuốn nhật ký ở nơi dễ thấy, hẳn nàng sẽ không tín mà cho rằng "chồng mình cốt viết nhật ký cho mình xem đây mà". Thậm chí lại cho rằng "chắc là còn cuốn nhật ký thật khác đang giấu ở đâu đó"... Ikuko, vợ yêu của tôi ơi, tôi chẳng biết mình đã đọc trộm cuốn nhật ký chưa. Mà dẫu tôi có hỏi thẳng mình chuyện ấy, hẳn mình cũng chối phắt "em chẳng xem trộm nhật ký ai bao giờ", rõ tốn công vô ích. Bất quá nếu mình có đọc mấy dòng này, thì tôi hy vọng mình sẽ tin rằng đây không phải là cuốn nhật ký giả, những gì viết trong đó đều là sự thật. Đương nhiên với những người đa nghi Tào Tháo, thì càng nói như vậy càng chẳng đáng tin. Nên tôi sẽ chẳng nhiều lời nữa, đọc hết nhật ký rồi, thực hư thế nào ắt mình sẽ hiểu. Đương nhiên tôi sẽ không chỉ viết những điều sướng tai nịnh mắt nàng, nhất định là sẽ có những điểm khiến nàng chướng tai gai mắt. Chính vì con người tôn thờ bí mật chủ nghĩa như nàng mà tôi viết nên cuốn nhật ký này. Ở chốn khuê phòng, nàng thường xấu hổ mỗi khi nhắc tới chuyện ân ái, nếu tôi có buột miệng thốt ra đôi câu khiếm nhã, nàng bèn bịt chặt hai tai rất "kiểu cách", rõ là giả vờ giả vịt "yểu điệu thục nữ", ra vẻ ta đây thanh tao cao nhã. Chúng tôi lấy nhau đã hơn hai mươi năm, có một con gái đã đến tuổi cập kê, mỗi khi lên giường đều yên lặng mà hành sự, chưa từng có lấy một câu ân ái, vợ chồng nào mà lại như vậy cơ chứ? Nàng cấm đoán đề cập tới chuyện phòng the khiến tôi cực kỳ bất mãn, nên quyết ghi hết lại trong nhật ký. Từ nay trở đi, bất kể nàng có đọc trộm hay không, tôi cứ cho là nàng đã đọc, những gì tôi viết ra cũng coi như đang gián tiếp đàm luận cùng nàng. Thực tâm tôi yêu nàng nhất trần đời, trước đây tôi vẫn luôn nói vậy, mà nàng cũng biết rõ điều ấy. Chỉ là trong vấn đề chăn gối thì tôi không được sung mãn, khó bề đáp ứng được nhu cầu của nàng. Tôi năm nay đã năm mươi sáu (còn nàng bốn mươi lăm), cũng chưa tính là quá già, nhưng chẳng hiểu nguyên cớ làm sao, mỗi khi làm chuyện ấy đều luôn cảm thấy lực bất tòng tâm. Thành thực mà nói, nếu chúng tôi ân ái mỗi tuần một lần... hay có lẽ mười ngày một lần thì hợp cho tôi hơn. Thế nhưng về phương diện này, nhu cầu của nàng lại mạnh mẽ một cách phi thường, bất chấp việc mắc bệnh tim bẩm sinh (nàng rất ghét nhắc đến việc này). Đây là điều khiến tôi lâu nay thực buồn rầu, lo lắng. Mình là chồng, lại không hoàn thành được nghĩa vụ với vợ, nên luôn nghĩ làm cách nào để bù đắp những thiếu thốn cho nàng. Nhưng nếu đề cập đến chuyện ấy, hẳn vợ tôi sẽ nổi cơn tam bành lục tặc. Mặt khác, giả như... chỉ giả như thôi nhé, nàng mơ tưởng tới chuyện ong bướm, thì tôi lại khó lòng mà chịu nổi. Cứ nghĩ tới chuyện đó thôi là tôi đã nổi cơn ghen đùng đùng lên rồi. Mà cũng phải suy xét cho sức khỏe của nàng nữa chứ, ít nhiều cũng nên kiềm chế bớt cái ham muốn quá độ đến bệnh hoạn ấy lại. ... Mời các bạn đón đọc Hai Cuốn Nhật Ký của tác giả Tanizaki Junichiro & Thanh Điền (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Âm Điệu Bóng Đêm
Trong suốt sự nghiệp viết lách nổi tiếng của mình, Julie Garwood đã làm say mê độc giả với những nhân vật hấp dẫn, táo bạo và bùng nổ với cuộc sống. Giờ đây, tiểu thuyết gia nổi tiếng Julie Garwood đã trở về với câu chuyện tình lãng mạn lịch sử, một câu chuyện ly kỳ về tình yêu, giết người, phiêu lưu và bí ẩn chống lại khung cảnh ám ảnh của Scotland thời trung cổ. Đối với Công chúa Gabrielle của St. Biel, Scotland là vùng đất của những khung cảnh tuyệt đẹp, những thủ lĩnh hoang dã, những ánh mắt xảo quyệt, và những bóng tối dốc đứng, skullduggery, phản bội, và giờ là giết người. Được tôn vinh bởi vẻ đẹp tinh tế của mình, con gái của một trong những nam tước có ảnh hưởng nhất nước Anh, Gabrielle cũng là một con bài mặc cả hoàn hảo cho một vị vua cần hòa bình ở vùng núi cao: Vua John đã sắp xếp cuộc hôn nhân của Gabrielle đến một người phụ nữ tốt bụng và hiền lành. Nhưng cuộc hôn nhân này sẽ không bao giờ diễn ra. Mọi thứ thay đổi trong một đợt tự do cuối cùng khi cô và những người bảo vệ của mình bắt gặp một cảnh tàn ác không thể tưởng tượng được. Với một phát bắn từ cây cung và mũi tên của mình, Gabrielle lấy mạng, cứu mạng và bắt đầu một cuộc chiến.Trong vài ngày, vùng núi cao rực lửa một trận chiến hoàng gia bùng lên giữa kẻ thù cũ và mới. Đến Scotland để kết hôn, thay vào đó, Gabrielle bị vướng vào mưu đồ ở vùng cao. Đối với hai nhà quý tộc tàn bạo, việc đánh giá thấp sự dũng cảm và năng lực của Gabrielle có thể sẽ dẫn đến cái chết, nhưng nhờ có một bí mật mà Gabrielle sở hữu , Colm MacHugh - người đàn ông đáng sợ nhất ở Scotland, đã tìm ra một nguyên nhân mới cho sự can đảm. Một cuốn tiểu thuyết hấp dẫn đi sâu vào trái tim của những cảm xúc, niềm đam mê bất khuất của tình yêu, thù hận và sự trả thù. “Âm điệu bóng đêm” là món quà tuyệt vời từ Julie Garwood và một thành tựu đáng nể trong sự nghiệp tuyệt vời của cô. *** Mưa lắm rồi vào cái năm mà những cơn giông bão dữ dội tràn vào từ biển khơi, đám chiến binh đầu tiên từ vùng đất xa xôi băng đồi vượt núi và đặt chân lên bờ biển của chúng ta. Với vũ khí bằng thép đeo trước ngực và bộ giáp được đánh bóng sáng lấp lánh tựa như mảnh kính vỡ dưới ánh mặt trời ban trưa, chúng tuần hành khắp những nơi mà mắt có thể nhìn thấy được. Chúng không cần hỏi han cũng chẳng hề quan tâm rằng mình đang xâm lược. Nói cách khác, chúng đang thi hành nhiệm vụ và chẳng gì có thể ngáng đường chúng. Băng qua đồng bằng của chúng ta, chúng chiếm đoạt ngựa và thức ăn, dẫm đạp lên hoa màu, cướp phụ nữ và giết rất nhiều những trai tráng khỏe mạnh. Chúng hủy diệt tất cả những nơi chúng đi qua… tất cả đều nhân danh Đức Chúa Trời. Chúng tự gọi mình là đội quân Thập Tự Chinh. Chúng cực kỳ tin tưởng rằng sứ mệnh của mình vô cùng thiêng liêng và tốt đẹp vì Đức Giáo Hoàng, người đã ban phước lành và ra lệnh cho chúng thực hiện cuộc hành trình đến phía bên kia của thế giới, đã nói với chúng như thế. Chúng phải trừng phạt những kẻ ngoại đạo và buộc họ phải tôn thờ Đức Chúa Trời và tín ngưỡng của chúng. Nếu những người ngoại đạo từ chối, những binh lính kia sẽ giết họ bằng thanh kiếm thiêng liêng được ban phước của mình. Vượt qua những ngọn núi của chúng ta là con đường duy nhất để đội quân Thập Tự Chinh tiến hành sứ mệnh của chúng, thế là chúng đi thành từng đoàn và khi chúng đặt chân đến bến cảng ở bên kia dãy núi, chúng đánh cắp tàu của chúng ta để giương buồm vượt đại dương đến nơi mà chúng cần đến. Đất nước nhỏ bé của chúng ta được gọi là Monchanceux, được cai trị bởi đức vua Grenier nhân từ. Ngài là người yêu quê hương và muốn bảo vệ nó. Chúng ta chẳng phải đất nước giàu có gì, nhưng chúng ta hài lòng với nó. Thế là đủ. Khi lũ xâm lược cướp bóc của chúng ta, đức vua rất phẫn nộ, nhưng ngài không để cho cơn giận dữ sai khiến. Vì ngài là một đấng minh quân, đức vua Grenier đã đưa ra một giải pháp. Ngài buộc tốp lính xâm lược tiếp theo phải trả phí khi vượt núi. Đường núi chật hẹp, nên có thể dễ dàng phòng thủ. Binh lính của chúng ta được trang bị để chống lại cái lạnh, tuyết và những cơn gió cắt thịt về đêm. Họ có thể bảo vệ rặng núi suốt hàng tháng trời và mùa đông sẽ đến rất nhanh. Kẻ dẫn đầu đoàn xâm lược vì chính nghĩa kia cảm thấy bị xúc phạm khi phải trả phí cho thứ gì đó. Hắn và binh lính của mình đang thực hiện một nhiệm vụ cao cả. Hắn dọa sẽ giết hết tất cả những người dân của Monchanceux, kể cả phụ nữ và trẻ em, nếu bọn chúng bị cản đường. Liệu đức vua Grenier và thần dân của mình có nhận ơn huệ của Giáo hội, hay họ chọn làm những kẻ ngoại đạo ngáng đường của Chúa? Câu trả lời sẽ quyết định số phận của họ. Ngay thời điểm mấu chốt ấy đức vua nhân từ và thông minh của chúng ta đã tiếp nhận tín ngưỡng. Ngài nói với kẻ dẫn đầu đội quân rằng ngài và tất cả thần dân của mình đều thuộc về Chúa và ngài sẽ chứng minh điều đó bằng bất cứ giá nào. Sau đó, Ngài cho gọi tất cả người dân của Monchanceux tập hợp trước ban công của cung điện. Kẻ cầm đầu đoàn quân Thập Tự Chinh đứng ngay sau ngài. “Kể từ giờ trở đi đất nước của chúng ta sẽ mang tên St. Biel, nhân danh vị thánh đỡ đầu của gia tộc ta. Người sẽ phù hộ cho những người vô tội,” đức vua Grenier tuyên bố. “Chúng ta sẽ dựng tượng thánh St. Biel và vẽ tranh của Người trước cửa thánh đường để bất cứ ai đặt chân đến với bờ biển của chúng ta đều sẽ thấy được sự tốt đẹp của Người, chúng ta sẽ cống nạp cho Đức Giáo Hoàng để tỏ lòng thành kính và sự phục tùng của chúng ta. Số lệ phí mà ta thu được sẽ dùng để cống nạp.” Kẻ cầm đầu đám ngoại xâm nhận ra rằng mình đang trong tình thế khó xử. Nếu hắn từ chối trả phí – bằng vàng, đương nhiên, đức vua sẽ không chấp nhận thứ gì khác – vậy khác nào hắn từ chối việc cho phép nhà vua cống nạp cho Đức Giáo Hoàng? Và nếu Đức Giáo Hoàng biết được hắn đã từ chối, Giáo Hoàng sẽ làm gì? Khai trừ hắn? Xử tử hắn? Sau một đêm dài suy ngẫm và quát tháo không ngừng, kẻ cầm đầu đoàn quân đã quyết định trả phí. Đó là một sự kiện trọng đại, một tiền lệ đã được đặt ra kể từ thời khắc đó, bất cứ quân Thập Tự Chinh nào muốn đi qua lãnh thổ của chúng ta đều phải trả phí mà không có bất cứ thắc mắc nào. Đức vua của chúng ta đã giữ đúng lời hứa. Ngài đã nung chảy vàng và làm chúng thành những đồng tiền nhỏ, trên mỗi đồng tiền đều có hình thánh St. Biel, với vầng hào quang trên đầu. Kho bạc hoàng gia phải mở rộng để làm phòng chứa những đồng tiền vàng, một con tàu được chuẩn bị cho chuyến hành trình dâng chúng đến tay Đức Giáo Hoàng. Một ngày trọng đại, những chiếc rương thật nặng được chất xuống hầm tàu, đám đông dân chúng tụ tập tại bến cảng để nhìn chuyến tàu khởi hành đến Rome. Ngay sau cái ngày lịch sử ấy, những tin đồn bắt đầu lan truyền. Chẳng ai có thể chắc chắn mình đã thật sự nhìn thấy số vàng hay ước lượng được bao nhiêu vàng đã được chuyển đi. Vài sứ thần tuyên bố rằng chỉ một khoản rất nhỏ đến được tay Giáo hoàng. Những lời bàn tán về tài sản khổng lồ của đức vua chúng ta dâng lên rồi hạ xuống như những đợt thủy triều vỗ vào bờ của chúng ta. Cuối cùng, một con đường ngắn hơn để đến vùng đất Thánh được tìm ra, đội quân Thập Tự Chinh không còn đi qua đất nước của chúng ta nữa. Chúng ta vô cùng biết ơn sự vắng mặt này. Tuy nhiên, chúng ta vẫn không được yên bình. Cứ cách vài năm lại có người đến để tìm kiếm số vàng trong truyền thuyết. Một vị bá tước từ Anh quốc tìm đến vì đức vua của ông ta đã nghe được tin đồn, nhưng sau khi người trị vì của chúng ta cho phép ông ta thực hiện một cuộc tìm kiếm toàn diện trong cung điện và các căn cứ, vị bá tước nói với ngài rằng ông ta sẽ trở về Anh quốc với tin tức: không có kho báu nào được tìm thấy. Bởi đức vua Grenier quá hiếu khách, vị bá tước đã lên tiếng cảnh báo ngài rằng hoàng tử John của Anh quốc đang có ý định xâm lược St. Biel. Hoàng tử John, vị bá tước giải thích, muốn thống trị thế giới và đang nóng lòng được kế thừa chiếc vương miện của Anh quốc. Vị bá tước kia tin chắc rằng St. Biel sẽ sớm trở thành một thuộc địa khác của Anh quốc mà thôi. Cuộc xâm lược đến vào một năm sau đó. Khi St. Biel chính thức thuộc về Anh quốc, cuộc tìm kiếm số vàng bị giấu lại được tiếp tục. Những người tham gia cuộc truy lùng thề rằng không có một viên đá nào chưa bị lật lên. Nếu thật sự từng có kho báu nào đó, thì nó đã biến mất. Mời bạn đón đọc Âm Điệu Bóng Đêm của tác giả Julie Garwood.
Bức Tranh Dorian Gray
Không chỉ là một kiệt tác văn chương gây nhiều tranh cãi khi mới xuất bản, “Bức tranh Dorian Gray” còn là cuốn tiểu thuyết duy nhất của Oscar Wilde. Lấy bối cảnh diễn ra vào thời Victoria ở nước Anh, Dorian Gray có vẻ ngoài cuốn hút, đã truyền cảm hứng cho Basil vẽ chân dung của anh. Đó là một bức chân dung kì lạ, nó thay Dorian Gray già đi, thậm chí khi Dorian Gray trở nên tệ bạc, xấu xa, bức tranh cũng trở nên tệ hại theo. Cứ thế Dorian Gray giữ được vẻ ngoài suốt gần hai mươi năm, nhưng liệu giữ được vẻ ngoài hào hoa bất biến theo thời gian có thật sự là may mắn? Trút hết sự suy đồi của mình vào một bức tranh liệu có làm cho Dorian Gray hạnh phúc, hay đó lại chính là khởi đầu cho những bất hạnh ngấm ngầm bao phủ cuộc đời anh ta? *** Trong lịch sử văn chương nhân loại có những cuốn sách được viết ra quá sớm so với thời đại của chúng, nên dường như vì thế mà chúng phải chịu trắc trở ngay từ những ngày mới chào đời. Ví dụ điển hình là Lolita của Vladimir Nabokov: Bị cấm ở nhiều nơi, không thể in ở Mỹ, nơi nó được sáng tác xong vào năm 1953, và phải xuất bản lần đầu ở Pháp vào năm 1955. Tuy nhiên, như đã biết, sau đó Lolita nhanh chóng trở thành một tác phẩm bán chạy hàng đầu của văn chương tiếng Anh, luôn được xếp hạng đầu trong các cuộc bình chọn, và đưa tác giả của nó trở thành một trong các nhà văn vĩ đại nhất nhân loại. Trước đó hơn nửa thế kỷ, vào năm 1891, cũng từng có một kiệt tác văn chương chịu số phận gập ghềnh không kém, là Bức tranh Dorian Gray (The picture of Dorian Gray) của Oscar Wilde, nhà văn vĩ đại người Ai Len. Sau khi xuất hiện lần đầu vào tháng Bảy năm 1890 trên tạp chí Lippincott's Monthly Magazine, mặc dù đã bị kiểm duyệt và bỏ đi khoảng năm trăm từ, nhưng cuốn sách này vẫn chịu phản ứng dữ dội từ giới phê bình văn chương Anh quốc, do đụng đến các vấn đề chưa được xã hội chấp nhận vào thời điểm ấy. Phiên bản sách giấy của Bức tranh Dorian Gray được Oscar Wilde chỉnh sửa, bổ sung, viết thêm phần Lời tựa rất nổi tiếng, và cho nhà xuất bản Ward, Lock and Company in vào năm 1891. Như vậy, tác phẩm này có hai phiên bản: một là bản 1890 với 13 chương và khoảng năm trăm từ bị kiểm duyệt, hai là bản 1891 với 20 chương và được in thành sách. Ngoài ra, năm 2011, Harvard University Press đã in lại bản 1890 với 13 chương nguyên vẹn không bị bỏ từ nào như Oscar Wilde viết từ đầu. Bản dịch tiếng Việt này được làm theo bản 1891 của Ward, Lock and Company. Mặc dù cuốn sách hiện nay đã nổi tiếng, được dựng thành phim và kịch, thậm chí Dorian Gray đã thành một thuật ngữ chỉ một hội chứng thời đại, nhưng tác giả của nó lại không được chứng kiến sự thành công của đứa con tinh thần của mình. Tác giả Bức tranh Dorian Gray phải chịu số phận bi thảm hơn nhiều so với tác giả Lolita, ông sống những ngày tháng cuối đời trong cô độc và nghèo khổ. Ngày 30 tháng Mười một năm 1900, ông qua đời vì bệnh viêm não tại Paris, khi mới 46 tuổi. Cuốn sách đã đem lại cho Oscar Wilde nhiều bi kịch, biến ông trở thành nhân vật bị xã hội căm ghét, và không khó nhận ra sự phản kháng của ông trong phần Lời tựa khi tái bản nó, với những tuyên ngôn đầy ẩn ý như: “Không có những thứ như sách đạo đức và sách vô đạo đức. Sách được viết hay, hoặc viết dở. Chỉ vậy thôi.” Hoặc: “Sự đa dạng quan điểm về một tác phẩm nghệ thuật cho thấy rằng tác phẩm ấy là mới mẻ, phức tạp và sinh động.” Tuy nhiên, thời gian là hòn đá thử vàng với nghệ thuật, không phải cái gì lấp lánh leng keng cũng chịu đựng được sự phán xét tàn nhẫn của thời gian. Năm nào cũng có vô số cuốn tiểu thuyết được viết ra, được ca ngợi bởi các nhà phê bình cũng như báo chí, thậm chí được các giải thưởng lớn nhưng không mấy cuốn còn lại được sau vài chục năm. Và trong các cuốn sách trụ vững với thời gian ấy thì, cũng như Lolita, Bức tranh Dorian Gray đã được đánh giá như một trong các kiệt tác văn chương quan trọng nhất của nhân loại. Tình yêu đồng giới mà nó đề cập đến đã được chấp nhận rộng rãi trên thế giới, mặc dù cũng chưa thể nói là đã được coi là bình thường tại một số nước nhất định. Tuy nhiên, chủ đề này chỉ là một điểm nhấn trong Bức tranh Dorian Gray, và ngay cả mô-típ bán linh hồn cho quỷ dữ cũng không phải là mới, mà chính kỹ thuật viết tuyệt đẹp đã đem lại sự thành công cho tác phẩm này. Vốn nổi tiếng như một tác giả của những câu văn hài hước, sâu sắc và đôi khi rất cay độc, Oscar Wilde đã đưa câu chuyện tưởng chừng rất khó viết cho tao nhã ấy thành một tiểu thuyết cực kỳ hấp dẫn không chỉ về số phận một nhân vật riêng lẻ, mà về bi kịch chung của thân phận con người. Ba nhân vật quan trọng nhất trong cuốn sách: Henry Wotton, Dorian Gray, Basil Hallward, theo Oscar Wilde, là ba phản thân của tác giả, là những hình ảnh mà thế gian nhìn nhận về ông; chính ông muốn mình sẽ trở thành, có thể, ở một thời đại khác; và ông nghĩ là của chính ông. Thực ra cũng không ai biết ai trong ba nhân vật trên đây có nhiều tính Oscar Wilde hơn cả, vì không phải lúc nào con người cũng nhìn nhận được chính xác về mình, dẫu người đó có là một thiên tài chăng nữa. Người viết những dòng này vốn hâm mộ Oscar Wilde từ khi còn là một cậu bé, và không thể phủ nhận rằng đã bị nhiều câu văn của ông ảnh hưởng phần nào đến cách tư duy, nên việc dịch Bức tranh Dorian Gray, tiểu thuyết duy nhất của ông, vừa là một chuyến trở về thế giới của bậc thầy, vừa là một nghĩa vụ cá nhân: Đưa kiệt tác này đến với tiếng Việt một cách hoàn hảo nhất, bằng tất cả những gì mà khả năng và thời gian cho phép. Ba tháng dịch Bức tranh Dorian Gray đã đem lại cho người dịch nó những kỷ niệm khó quên, không chỉ trong mà còn ngoài cuốn sách. Có những chương dài và vô cùng phức tạp vì liên quan đến những kiến thức văn hóa và lịch sử cổ xưa của châu Âu, có nhiều câu văn đẹp đến mức không thể bỏ đi tiếp khi chưa thấy bản dịch thỏa mãn được chính người dịch, có những lúc mệt mỏi với sự đen tối không đáy của tâm hồn con người, có những lúc bật cười với sự hài hước đặc biệt của Oscar Wilde, có những lúc xao lòng với nỗi đau đằng sau một nụ cười nào đó, nhưng, trên tất cả, là niềm hạnh phúc vì đã, cùng với thần tượng của mình, tạo ra được một thứ tuyệt đối vô ích, chỉ vì mê nó đến cùng cực. Thiên Lương *** Nghệ sỹ là người tạo ra cái đẹp. Biểu lộ nghệ thuật và che giấu nghệ sỹ là mục đích của nghệ thuật. Nhà phê bình là người có thể tái hiện qua phong cách khác hoặc chất liệu khác các ấn tượng của mình về cái đẹp. Hình thái phê bình cao nhất cũng như thấp nhất là một dạng tự truyện. Những ai thấy nghĩa xấu trong cái đẹp là đã đồi bại song không nhờ thế mà khả ái hơn. Đó là tội trọng. Nhưng ai thấy nghĩa đẹp trong cái đẹp thì đã biết tu dưỡng. Với những kẻ này thì vẫn còn hy vọng. Họ là những kẻ được chọn lựa, những kẻ thấy cái đẹp chỉ đơn giản là đẹp mà thôi. Không có những thứ như sách đạo đức và sách vô đạo đức. Sách được viết hay, hoặc viết dở. Chỉ vậy thôi. Sự căm ghét của thế kỷ mười chín với chủ nghĩa hiện thực là cơn thịnh nộ của Caliban khi thấy mặt mình trong gương. Sự căm ghét của thế kỷ mười chín với chủ nghĩa lãng mạn là cơn thịnh nộ của Caliban khi không thấy mặt mình trong gương. Cuộc đời đạo đức của con người tạo thành một phần chủ đề của nghệ sỹ, nhưng đạo đức nghệ thuật cốt ở sự sử dụng thành thạo một công cụ không hoàn hảo. Không nghệ sỹ nào muốn làm sáng tỏ điều gì. Ngay cả những điều đúng đắn cũng có thể bị làm sáng tỏ. Không nghệ sỹ nào có sự đồng cảm với luân thường đạo lý. Sự đồng cảm với luân thường đạo lý ở nghệ sỹ là một phong cách riêng tư không thể dung thứ. Không nghệ sỹ nào từng bệnh hoạn. Nghệ sỹ có thể diễn tả mọi điều. Tư tưởng và ngôn ngữ là các công cụ nghệ thuật của nghệ sỹ. Sự đồi bại và đức hạnh là các chất liệu của nghệ sỹ cho nghệ thuật. Từ quan điểm hình thái học, mẫu mực mọi nghệ thuật là nghệ thuật của nhạc sỹ. Từ quan điểm cảm xúc, ngón nghề của nghệ sỹ là mẫu mực. Mọi nghệ thuật đồng thời là bề mặt và biểu tượng. Những ai đi xuống dưới bề mặt đều làm liều. Những ai đọc biểu tượng đều làm liều. Chính khán giả, chứ không phải cuộc sống, mới là cái mà nghệ thuật thật sự phản chiếu. Sự đa dạng quan điểm về một tác phẩm nghệ thuật cho thấy rằng tác phẩm ấy là mới mẻ, phức tạp và sinh động. Khi các nhà phê bình bất đồng, nghệ sỹ thống nhất với chính mình. Ta có thể tha thứ cho kẻ tạo ra một thứ hữu ích chừng nào y còn chưa mê nó. Lý do duy nhất để bào chữa cho việc tạo ra một thứ vô ích là người ta mê nó đến cùng cực. Mọi nghệ thuật đều tuyệt đối vô ích. Oscar Wilde *** Oscar Wilde, tên đầy đủ: Oscar Fingal O'Flahertie Wills Wilde, sinh ngày 16.10.1854. Oscar Wilde là một nhà văn, nhà thơ, nhà biên kịch và phê bình nổi tiếng của Ireland. Năm 1871, ông học tại Trinity College (Dublin), sau đó học tại Magdalen College (Oxford, 1874-1878). Ở đây ông đã gặp và chịu ảnh hưởng của nhà văn, nhà phê bình Walter Pater (1839-1894) và ủng hộ phong trào ”nghệ thuật vị nghệ thuật". Ông cũng chính là người khởi xướng việc giảng dạy phong trào nghệ thuật này. Năm 1878, Oscar Wilde nhận giải Newdigate của Oxford cho bài thơ Ravenna. Năm 1884, Wilde kết hôn và cùng gia đình định cư tại Chelsea (London), tiếp tục viết và làm việc cho các tạp chí như Pall Mall Gazette và biên tập viên của Women's world (1887 – 1889). Ông xuất bản sách truyện cổ tích đầu tiên năm 1888 với tác phẩm The Happy Prince and Other Stories (Hoàng tử hạnh phúc và những câu chuyện khác). Ông sáng tác nhiều và thành công với lối viết tự nhiên, trong sáng. Ông cũng thành công với quyển tiểu thuyết duy nhất The Picture of Dorian Gray (1891). Sở trường của ông là biên kịch và với giọng văn trào phúng, châm biếm cùng với cách chơi chữ hóm hỉnh, ông đã sản xuất các phim hài như Lady Windermere's Fan (1892), An Ideal Husband (1895) và The importance of being earnest(1895), Salomé (1896). Năm 1895, Wilde bị buộc tội "có lối sống không đứng đắn” đối với hành vi “tình dục đồng giới” với 02 năm lao động khổ sai. Sau khi ra tù vào tháng 5/1897, ông đã dành phần đời còn lại của mình ở châu Âu, xuất bản "The Ballad of Reading Gaol" trong năm 1898. Ông qua đời tại Paris vào ngày 30 Tháng 11 năm 1900 vì bệnh viêm màng não. Các tác phẩm đã được dịch và xuất bản tại Việt Nam Hoàng Tử Hạnh Phúc Và Những Truyện Khác - Oscar Wilde Chân Dung Của Dorian Gray - Oscar Wilde Gã Khổng Lồ Ích Kỷ - Oscar Wilde Tội Ác Của Huân Tước Arthur Savile Và Các Truyện Ngắn Khác ... Mời các bạn đón đọc Bức Tranh Dorian Gray của tác giả Oscar Wilde & Thiên Lương (dịch).
John Carter Và Thống Soái Hỏa Tinh - Edgar Rice Burroughs
John Carter là một cựu binh trong cuộc Nội chiến của Hoa Kỳ. Một ngày tình cờ anh bị hút vào Hỏa tinh, và nó đã khởi đầu cho cuộc phiêu lưu ly kỳ của anh trong suốt hơn hai mươi năm dài. Trải qua bao nhiêu phen vào sinh ra tử và vô số cuộc chiến, bằng lòng quả cảm, thủy chung và những đức tính rất “người” của một cư dân Trái đất, John Carter không những đã xây dựng cho mình một gia đình hạnh phúc mà còn góp phần lớn vào công cuộc đem lại hòa bình, thịnh vượng và tình yêu thương cho hành tinh vốn khô cằn và đang hấp hối này. Những thủ pháp miêu tả và cách xây dựng nội dung, tình tiết, cao trào của Burroughs đúng là của một bậc thầy, khiến độc giả không bao giờ chán và thậm chí không muốn dừng mạch đọc, dù đang theo dõi một cuộc đấu nghẹt thở hay đang lắng lòng với cảnh tự tình của hai con người yêu nhau. Ngoài ra, một trong những điểm đặc sắc của bộ truyện là tư tưởng mang tính tiên phong của Burroughs. Ngay từ đầu thế kỷ XX, ông đã có một tầm nhìn sâu sắc về môi trường, trong đó một Hỏa tinh đã từng trù phú trở nên khô khan cằn cỗi và các chủng tộc buộc phải lấy chiến tranh làm một phương tiện để trung hòa giữa dân số và nguồn tài nguyên thực phẩm hiếm hoi. Bên cạnh đó, những ý tưởng mang đầy tính sáng tạo của ông về các công nghệ trên Hỏa tinh thật sự là những yếu tố hấp dẫn và thú vị, đặc biệt của một tác giả sống trước năm 1950. Bộ Barsoom xuất bản tại Việt Nam gồm có:   - John Carter Và Công Chúa Hỏa Tinh     - John Carter Và Linh Thần Hỏa Tinh - John Carter Và Thống Soái Hỏa Tinh - ... *** Lưỡi dao đã hạ xuống ngực ai? Dejah Thoris? Thuvia? Và cả ba cô gái đó có còn sống sót hay không, sau một năm Hoả tinh dài dằng dặc bị nhốt trong căn phòng kín, chưa kể tới cơn hỏa hoạn thiêu rụi ngôi đền Issus? *** Tác giả: Edgar Rice Burroughs (01/09/1875 - 19/03/1950) là một tác giả người Mỹ, nổi tiếng với những tác phẩm về người rừng Tarzan và những cuộc thám hiểm của anh hùng John Carter trên Hỏa tinh. Ông từng theo học tại Philips Academy Andover và Học viện quân sự Michigan. Từ 1897 đến 1911, Burroughs đã không thành công trong nhiều lĩnh vực kinh doanh tại Chicago và Idaho. Năm 1911, Burroughs ổn định gia đình tại Chicago và bắt đầu sáng tác. Sáng tác đầu tay của ông Under the Moons of Mars đã gây tiếng vang lớn. Thành công này đã thôi thúc ông tập trung vào con đường trở thành nhà văn chuyên nghiệp. Năm 1912, tập truyện đầu tiên trong bộ truyện 25 quyển về Tarzan đã ra đời: Truyện Tarzan (Tarzan of the Apes) đã được dịch ra hơn 56 ngôn ngữ và đã trở thành đề tài hấp dẫn cho điện ảnh, các chương trình phát thanh. Ngoài Tarzan, Burroughs còn là tác giả của hơn 68 đầu sách. Trong chiến tranh thế giới thứ hai, Burroughs là phóng viên thường trú cho “The Los Angeles Times” và là phóng viên thường trú cao tuổi nhất (66 tuổi) có mặt tại Nam Thái Bình Dương. Mời các bạn đón đọc John Carter Và Thống Soái Hỏa Tinh của tác giả Edgar Rice Burroughs
John Carter Và Linh Thần Hỏa Tinh - Edgar Rice Burroughs
John Carter là một cựu binh trong cuộc Nội chiến của Hoa Kỳ. Một ngày tình cờ anh bị hút vào Hỏa tinh, và nó đã khởi đầu cho cuộc phiêu lưu ly kỳ của anh trong suốt hơn hai mươi năm dài. Trải qua bao nhiêu phen vào sinh ra tử và vô số cuộc chiến, bằng lòng quả cảm, thủy chung và những đức tính rất “người” của một cư dân Trái đất, John Carter không những đã xây dựng cho mình một gia đình hạnh phúc mà còn góp phần lớn vào công cuộc đem lại hòa bình, thịnh vượng và tình yêu thương cho hành tinh vốn khô cằn và đang hấp hối này. Những thủ pháp miêu tả và cách xây dựng nội dung, tình tiết, cao trào của Burroughs đúng là của một bậc thầy, khiến độc giả không bao giờ chán và thậm chí không muốn dừng mạch đọc, dù đang theo dõi một cuộc đấu nghẹt thở hay đang lắng lòng với cảnh tự tình của hai con người yêu nhau. Ngoài ra, một trong những điểm đặc sắc của bộ truyện là tư tưởng mang tính tiên phong của Burroughs. Ngay từ đầu thế kỷ XX, ông đã có một tầm nhìn sâu sắc về môi trường, trong đó một Hỏa tinh đã từng trù phú trở nên khô khan cằn cỗi và các chủng tộc buộc phải lấy chiến tranh làm một phương tiện để trung hòa giữa dân số và nguồn tài nguyên thực phẩm hiếm hoi. Bên cạnh đó, những ý tưởng mang đầy tính sáng tạo của ông về các công nghệ trên Hỏa tinh thật sự là những yếu tố hấp dẫn và thú vị, đặc biệt của một tác giả sống trước năm 1950. Bộ Barsoom xuất bản tại Việt Nam gồm có:   - John Carter Và Công Chúa Hỏa Tinh     - John Carter Và Linh Thần Hỏa Tinh - John Carter Và Thống Soái Hỏa Tinh - ... *** Đại úy John Carter có quay trở lại Hỏa tinh? Công chúa Dejah Thoris, quả trứng con của hai người, và tất cả các cư dân sao Hỏa khác liệu có còn sống sót không sau sự cố ở nhà máy sản xuất khí quyển? Và trong chuyến trở lại Hỏa tinh này, John Carter sẽ trải qua những cuộc phiêu lưu kỳ thú nào khác nữa? *** Tác giả: Edgar Rice Burroughs (01/09/1875 - 19/03/1950) là một tác giả người Mỹ, nổi tiếng với những tác phẩm về người rừng Tarzan và những cuộc thám hiểm của anh hùng John Carter trên Hỏa tinh. Ông từng theo học tại Philips Academy Andover và Học viện quân sự Michigan. Từ 1897 đến 1911, Burroughs đã không thành công trong nhiều lĩnh vực kinh doanh tại Chicago và Idaho. Năm 1911, Burroughs ổn định gia đình tại Chicago và bắt đầu sáng tác. Sáng tác đầu tay của ông Under the Moons of Mars đã gây tiếng vang lớn. Thành công này đã thôi thúc ông tập trung vào con đường trở thành nhà văn chuyên nghiệp. Năm 1912, tập truyện đầu tiên trong bộ truyện 25 quyển về Tarzan đã ra đời: Truyện Tarzan (Tarzan of the Apes) đã được dịch ra hơn 56 ngôn ngữ và đã trở thành đề tài hấp dẫn cho điện ảnh, các chương trình phát thanh. Ngoài Tarzan, Burroughs còn là tác giả của hơn 68 đầu sách. Trong chiến tranh thế giới thứ hai, Burroughs là phóng viên thường trú cho “The Los Angeles Times” và là phóng viên thường trú cao tuổi nhất (66 tuổi) có mặt tại Nam Thái Bình Dương. Mời các bạn đón đọc John Carter Và Linh Thần Hỏa Tinh của tác giả Edgar Rice Burroughs