Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hành Trình Về Phương Đông (Nguyên Phong)

Lời mở đầu

Trong cuộc sống vội vã, quay cuồng hiện tại, nhiều người đã mất đi niềm tin. Họ quan niệm rằng sống để thụ hưởng, thoả mãn các nhu cầu vật chất vì chết là hết. Không có Thượng đế hay một quyền năng siêu phàm gì hết. Các đây không lâu, một tờ báo lớn tại Hoa kỳ đã tuyên bố, “Thượng đế đã chết!”

Tác giả bài báo công khai thách đố mọi người đưa ra bằng chứng rằng Thượng đế còn sống. Dĩ nhiên, bài báo đó tạo nên một cuộc bàn cãi rất sôi nổi. Một nhà thiên văn học tại trung tâm nghiên cứu Palomar cũng cho biết, “Tôi đã dùng kính viễn vọng tối tân nhất, có thể quan sát các tinh tú xa trái đất hàng triệu năm ánh sáng mà nào có thấy thiên đường hay thượng đế cư ngụ nơi nào?” Sự ngông cuồng của khoa học thực nghiệm càng ngày càng đi đến chỗ quá trớn, thách đố tất cả mọi sự. Tuy nhiên, trong lúc khoa học đang tự hào có thể chứng minh, giải thích tất cả mọi sự, thì một sự kiện xảy ra:

Một phái đoàn ngoại giao do Tiểu vương Ranjit Singh cầm đầu sang thăm viếng nước Anh. Trong buổi viếng thăm đại học Oxford, vua Ranjit đã sai một đạo sĩ biểu diễn. Vị đạo sĩ này đã làm đảo lộn quan niệm khoa học lúc bấy giờ. Không những ông ta có thể uống tất cả mọi chất hoá học, kể cả những chất cường toan cực mạnh mà không hề hấn gì, ông ta còn nhịn thở hàng giờ đồng hồ dưới đáy một hồ nước. Sau khi để một phái đoàn y sĩ do bác sĩ Sir Claude Wade khám nghiệm, ông ta còn chui vào một quan tài để bị chôn sống trong suốt 48 ngày. Khi được đào lên, ông ta vẫn sống như thường. Đạo sĩ còn biểu diễn nhiều việc lạ lùng, dưới sự kiểm chứng nghiêm khắc của các khoa học gia. Điều này gây sôi nổi dư luận lúc đó. Hội Khoa Học Hoàng Gia đã phải triệu tập một uỷ ban để điều tra những hiện tượng này. Một phái đoàn gồm nhiều khoa học gia tên tuổi được chỉ thị sang Ấn độ quan sát, sưu tầm, tường trình và giải thích những sự kiện huyền bí. Phái đoàn khoa học đã đặt ra những tiêu chuẩn rõ rệt để giúp họ quan sát với một tinh thần khoa học tuyệt đối. Không chấp nhận bất cứ một điều gì nếu không có sự giải thích rõ ràng, hợp lý. Để soạn thảo bản tường trình, mỗi khoa học gia trong phái đoàn phải tự mình ghi nhận những điều mắt thấy, tai nghe vào sổ tay cá nhân. Sau đó, tất cả cùng nhau so sánh chi tiết và kiểm chứng cẩn thận. Chỉ khi nào tất cả đều đồng ý thì điều đó mới được ghi nhận vào biên bản chính. Điều này đặt ra để bảo đảm cho sự chính xác, không thành kiến đến mức tối đa. Tất cả những điều gì xảy ra mà không có sự giải thích khoa học, hợp lý đều bị loại bỏ.

Khi ra đi, họ không mấy tin tưởng nhưng khi trở về, họ đều đổi khác. Giáo sư Spalding đã cho biết, “Phương Đông có những chân lý quan trọng đáng để cho người Tây phương nghiên cứu, học hỏi. Đã đến lúc người Tây phương phải quay về Đông phương để trở về với quê hương tinh thần.” Điều đáng tiếc là sự trở về của phái đoàn đã gặp nhiều chống đối mãnh liệt từ một dư luận quần chúng đầy thành kiến hẹp hòi. Các khoa học gia bị bắt buộc phải từ chức, không được tuyên bố thêm về những điều chứng kiến. Sau đó ít lâu, trưởng phái đoàn, giáo sư Spalding đã cho xuất bản bộ sách, “Life and teachings of Masters of the East” và nó đã gây ra một dư luận hết sức sôi nổi. Người ta vội tìm đến những người trong phái đoàn, thì được biết họ đã rời bỏ Âu châu để sống đời tu sĩ trong dãy tuyết sơn. Tuy thế, ảnh hưởng cuốn sách này đã tạo hứng khởi cho nhiều người khác trở qua Ấn độ để kiểm chứng những điều ghi nhận của phái đoàn. Thiên ký sự của Sir Walter Blake đăng trên tờ London Scientific cũng như loạt điều tra của ký giả Paul Bruton, Max Muller đã vén lên tấm màn huyền bí của Đông phương và xác nhận giá trị cuộc nghiên cứu này. Tìm mua: Hành Trình Về Phương Đông TiKi Lazada Shopee

Ấn độ là xứ có rất nhiều tôn giáo. Tôn giáo gắn liền với đời sống và trở nên một động lực rất mạnh làm chủ mọi sinh hoạt người dân xứ này. Người Ấn thường tự hào rằng văn hoá của họ là một thứ văn minh tôn giáo và dân xứ này được thừa hưởng một kho tàng minh triết thiêng liêng không đâu có. Vì thế Hội Khoa Học Hoàng Gia đã bảo trợ cho phái đoàn đến Ấn độ để nghiên cứu những hiện tượng huyền bí này.

Tuy nhiên, sau hai năm du hành khắp Ấn độ từ Bombay đến Calcutta, thăm viếng hàng trăm đền đài, tiếp xúc với hàng ngàn giáo sĩ, đạo sĩ nổi tiếng, phái đoàn vẫn không thoả mãn hay học hỏi điều gì mới lạ. Phần lớn các giáo sĩ chỉ lập đi lập lại những điều đã ghi chép trong kinh điển, thêm thắt vào đó những mê tín dị đoan, thần thánh hoá huyền thoại để đề cao văn hoá xứ họ.

Đa số tu sĩ đều khoe khoang các địa vị, chức tước họ đã đạt. Vì không có một tiêu chuẩn nào để xác định các đạo quả, ai cũng xưng là hiền triết (Rishi), sư tổ (Guru), hay đại đức (Swami), thậm chí có người xưng là thánh nhân giáng thế (Bhagwan). Ấn độ giáo (Hinduism) không có một chương trình đào tạo tu sĩ như Thiên chúa giáo, bất cứ ai cũng có thể vỗ ngực xưng danh, ai cũng là tu sĩ được nếu y cạo đầu, mặc áo tu hành, xưng danh tước, địa vị để lôi cuốn tín đồ. Ấn giáo không phải một tôn giáo thuần nhất, mà có hàng ngàn tông phái khác nhau, mỗi tông phái lại chia làm nhiều hệ phái độc lập chứ không hề có một tổ chức hàng dọc như các tôn giáo Âu châu. Các giáo sĩ mạnh ai nấy giải thích kinh điển theo sự hiểu biết của họ. Phần lớn cố tình giảng dạy những điều có lợi cho họ nhất, ngoài ra họ còn tụ họp để phong chức tước lẫn nhau hay chống đối một nhóm khác. Sự tranh luận tôn giáo là điều xảy ra rất thường, nhóm nào cũng tự nhận họ mới là chính thống, mới là đúng với giáo lý của thượng đế. Do đó, cuộc nghiên cứu tôn giáo của phái đoàn không mang lại một kết quả mong ước, nhiều lúc mọi người thấy lạc lõng, rồi rắm không biết đâu là đúng, là sai. Hội Khoa Học

Hoàng Gia chỉ thị việc nghiên cứu phải đặt căn bản trên nền tảng khoa học, hợp lý nhưng lấy tiêu chuẩn này áp dụng sẽ gặp nhiều trở ngại vì văn hoá Ấn độ và Âu châu khác hẳn nhau. Người dân xứ này chấp nhận các tông phái như một điều hiển nhiên, không ai chất vấn khả năng các giáo sĩ hay suy xét xem lời tuyên bố của họ có hợp lý hay không? Họ sùng tín một cách nhiệt thành, một cách vô cùng chịu đựng.

Thất vọng về cuộc du khảo không mang lại kết quả như ý muốn, giáo sư Spalding một mình lang thang đi dạo trong thành Benares. Giữa rừng người hỗn tạp ồn ào, một thuật sĩ cởi trần đang phùng má thổi kèn gọi rắn. Một con rắn hổ to lớn nằm trong sọt ngửng cổ lên cao, phun phì phì. Tiếng kèn lên bỗng xuống trầm, con rắn cũng lắc lư, nghiêng ngã. Đám đông xúm lại xì xầm coi bộ khâm phục lắm. Nếu họ hiểu con rắn đã bị bẻ răng, nuôi bằng bả á phiện và được luyện tập cẩn thận… Khắp xứ ấn, các trò bịp bợm này diễn ra không biết bao nhiêu lần trong ngày, nó sẽ kết thúc khi một vài tên “cò mồi” đứng trong đám đông vỗ tay, ném tiền vào rổ, và khuyến khích dân chúng ném theo… Đang mãi mê suy nghĩ, Spalding bỗng thấy một người Ấn to lớn, phong độ khác thường chăm chú nhìn ông mỉm cười. Người Ấn lễ phép cúi đầu chào bằng một thứ tiếng Anh hết sức đúng giọng, ông cũng đáp lễ lại. Câu chuyện dần dần trở nên thân mật, Spalding bèn lên tiếng hỏi người bạn mới quen nghĩ sao về những trò bịp bợm này. Người Ấn trả lời:

- Các vị minh sư đâu có cư ngụ trong đền thờ lộng lẫy, họ đâu in danh thiếp với các chức tước, địa vị to lớn, trọng vọng. Họ đâu cần phải quảng cáo các quyền năng, đạo quả hoặc in tên trong điện thoại niên giám. Một vị minh sư không nhất thiết phải có đông đệ tử, muốn tìm gặp họ phải biết phân biệt.

Các đạo sĩ mà ông đã gặp, sở dĩ nổi tiếng có đông giáo đồ vì họ biết thu tập đệ tử qua các hình thức quảng cáo, biết hứa hẹn những điều giáo đồ muốn nghe, họ chả dạy điều gì ngoài một số “từ chương” trong kinh sách. Điều này một người thông minh có thể tự đọc sách, nghiên cứu lấy. Phải chăng ông thất vọng vì các đạo sĩ ông đã gặp chưa từng có các kinh nghiệm tâm linh?”

Giáo sư Spalding ngạc nhiên:

- Tại sao ông biết rõ như thế?

Người Ấn mỉm cười:

- Các ông đã bàn cãi với nhau rằng cuối tháng này, nếu không thu thập thêm điều gì mới lạ, phái đoàn sẽ trở về Âu châu và kết luận rằng Á châu chả có điều gì đáng học hỏi. Giai thoại về các bậc hiền triết, thánh nhân chỉ là những huyền thoại để tô điểm cho vẻ huyền bí Á châu.

Giaó sư Spalding mất bình tĩnh:

- Nhưng tại sao ông lại biết những điều này? Chúng tôi vừa bàn định với nhau như thế, ngay trong phái đoàn còn có nhiều người chưa rõ kia mà?

Người Ấn nở một nụ cười bí mật và thong thả nhấn mạnh:

- Ông bạn thân mến, tư tưởng có một sức mạnh thần giao vượt khỏi thời gian và không gian. Thái độ của ông bạn là lý do mà hôm nay tôi đến đây để chuyển giao một thông điệp ngắn ngủi, chắc hẳn ông bạn rất thuộc thánh kinh, “Hãy gõ cửa, rồi cửa sẽ mở. Hãy tìm rồi sẽ gặp”. Đó là thông điệp của một vị chân sư nhờ tôi chuyển giao.”

Sự kiện người Ấn đứng giữa chợ Benares nhắc đến một câu trong Kinh thánh làm giáo sư Spalding ngây ngất như say vừa tỉnh. Toàn thân ông như rung động bởi một luồng điện cao thế.

Ông lắp bắp:

- Nhưng làm sao chúng tôi biết các ngài ở đâu mà tìm? Chúng tôi đã bỏ ra suốt hai năm trời đi gần hết các đô thi, làng mạc xứ Ấn…

Người Ấn nghiêm nghị trả lời:

- Hãy đến Rishikesh, một thị trấn bao phủ bởi dẫy Hy Mã Lạp Sơn, các ông sẽ gặp những đạo sĩ hoàn toàn khác hẳn những người đã gặp. Những đạo sĩ này chỉ sống trong các túp lều sơ sài, hoặc ngồi thiền trong các động đá. Họ ăn rất ít và chỉ cầu nguyện. Tôn giáo đối với họ cần thiết như hơi thở. Đó mới là những người dành trọn cuộc đời cho sự đi tìm chân lý. Một số người đã thắng đoạt thiên nhiên và chinh phục được các sức mạnh vô hình ẩn tàng trong trời đất… Nếu các ông muốn nghiên cứu về các quyền năng, phép tắc thần thông thì các ông sẽ không thất vọng.

Người Ấn im lặng một lúc và nhìn thẳng vào mặt giáo sư Spalding:

- Nhưng nếu các ông muốn đi xa hơn nữa, để tìm gặp các đấng chấn sư (Rishi) thì các ông còn mất nhiều thời gian nữa…

Giaó sư Spalding thắc mắc:

- Ông vừa dùng danh từ Chân sư, vậy chứ Chân sư (Rishi) và đạo sĩ (Yogi) khác nhau thế nào?

- Nếu ông tin ở thuyết tiến hoá của Darwin, thì tôi xin tóm tắt: “sự tiến hoá của linh hồn đi song đôi với thể xác. Chân sư là một người đã tiến rất xa trên mức thang tiến hoá; trong khi đạo sĩ chỉ mới bắt đầu…”

- Như thế thì các vị chân sư có thể làm các phép lạ được chứ?

Người Ấn mỉm cười khẽ lắc đầu:

- Chắc chắn như thế, nhưng phép thuật thần thông đâu phải mục đích tối hậu của con đường đạo. Nó chỉ là kết quả tự nhiên do sự tập trung tư tưởng và ý chí. Đối với các bậc chân sư, sử dụng phép thuật là điều ít khi nào các ngài phải làm. Mục đích của con đường đạo là Gỉai Thoát, là trở nên toàn thiện như những đấng cao cả mà đức Jesus là một.

Giáo sư Spalding cãi:

- Nhưng chúa Jesus đã từng làm các phép lạ.

Người Ấn bật cười trả lời:

- Ông bạn thân mến, bạn nghĩ rằng chúa Jesus làm vậy vào mục đích khoe khoang hay sao? Không bao giờ, đó chỉ là những phương tiện để cảm hoá những người dân hiền lành, chất phác và đem lại cho họ một đức tin mà thôi.

Một lần nữa, người Ấn lạ lùng này lại nói về một đấng giáo chủ mà hầu như mọi người Tây phương đều biết đến. Giáo sư Spalding suy nghĩ và hỏi:

- Thế tại sao các đấng Chân sư không xuất hiện dạy dỗ quần chúng?

Người Ấn nghiêm nghị:

- Ông nghĩ rằng các ngài sẽ tuyên bố cho người đời biết mình là ai chăng?

Nếu đức Phật hay đấng “Christ” hiện ra tuyên bố các giáo điều, liệu ông có chịu tin không? Có lẽ các ngài phải biểu diễn các phép thần thông như đi trên mặt nước hay biến ra hàng ngàn ổ bánh mì cho dân chúng thì các ông mới tin sao? Điều này chắc rồi cũng sẽ có một số đạo sĩ Hắc đạo biễu diễn để lôi cuốn tín đồ nhưng các đấng cao cả đâu có làm thế phải không ông bạn?

- Nhưng….nhưng các ngài sống ẩn dật như thế có lợi gì cho thế gian đâu?

Người Ấn mỉm cười:

- Vì không biết rõ các ngài nên thế gian không thể xét đoán các ngài một cách đứng đắn. Ai bảo rằng các ngài không giúp ích gì cho nhân loại? Nếu tôi quả quyết rằng đấng “Christ” vẫn thường xuất hiện và vẫn giúp đỡ nhân loại không ngừng thì ông có tin không? Có lẽ ông sẽ đòi hỏi một bằng chứng, một hình ảnh hoặc một cái gì có thể chứng minh được. Bạn thân mến, những tư tưởng sâu xa của các đấng cao cả không dễ gì chúng ta hiểu thấu.

Có lẽ câu trả lời giản dị nhất là các ngài phụng sự thế gian một cách âm thầm, lặng lẽ bằng cách phóng ra các tư tưởng yêu thương, bác ái, tốt lành mà sức mạnh có thể vượt thời gian và không gian. Tuy mắt ta không trông thấy nhưng hiệu lực của nó vô cùng mạnh mẽ. Khi xưa, nhân loại còn ấu trĩ nên các ngài đã xuất hiện để đặt một nền móng, căn bản, hướng dẫn loài người. Đến nay, nhân loại đã ít nhiều trưởng thành và phải tự lập, sử dụng khả năng của mình, chịu trách nhiệm về những việc họ làm.

Giáo sư Spalding suy nghĩ và hỏi:

- Lúc nãy bạn nói rằng có một vị chân sư nhờ bạn chuyển giao một thông điệp cho chúng tôi. Bạn có thể cho tôi biết địa chỉ của ngài được không?

- Bạn thân mến, tất cả đều do Nhân Duyên, đến khi nào đủ duyên bạn sẽ gặp các ngài.

Nói xong, người Ấn độ cúi đầu chào và biến mất trong đám người đông đúc, ồn ào giữa ngôi chợ thành phố BenaresDưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Nguyên Phong":Bên Rặng Tuyết SơnĐường Mây Qua Xứ TuyếtHoa Trôi Trên Sóng NướcMinh Triết Trong Đời SốngNgọc Sáng Trong Hoa SenHành Trình Về Phương ĐôngTrở Về Từ Cõi SángTử Thư Tây TạngMuôn Kiếp Nhân Sinh - Tập 1Dấu Chân Trên CátHoa Sen Trên TuyếtMột Làn Gió Tinh KhôiMuôn Kiếp Nhân Sinh - Tập 2Muôn Kiếp Nhân Sinh - Tập 3

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Hành Trình Về Phương Đông PDF của tác giả Nguyên Phong nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Chiến Thắng Con Quỷ Trong Bạn (Napoleon Hill)
Giới thiệu Cuốn sách là cuộc trò chuyện của Napoleon Hill và Con Quỷ. Sau bao nhiêu năm miệt mài nghiên cứu cuối cùng ông cũng phát hiện ra Con Quỷ, bắt nó phải thú tội và tiết lộ những sự thật kinh hoàng về nơi nó sống, cách nó kiểm soát tâm trí con người và cách để con người chiến thắng được nó. Khi đọc cuốn sách này, có thể bạn sẽ tự hỏi, cuộc trò chuyện này có thật không? Con Quỷ là có thật hay là một sản phẩm của trí tưởng tượng của Napoleon Hill. Nhưng quyền lựa chọn cách hiểu vấn đề là của bạn. Bởi lẽ cuối cùng, thông qua cuộc trò chuyện với Con Quỷ, Napoleon Hill đã cung cấp cho chúng ta chìa khóa để chiến thắng Con Quỷ trong cuộc sống riêng của mỗi người. Hãy tận hưởng cuốn sách kỳ diệu này và chia sẻ nó với gia đình, bạn bè. Sức mạnh trong ngôn từ của Napoleon Hill có thể và sẽ thay đổi cuộc đời bạn. Mục lục Tìm mua: Chiến Thắng Con Quỷ Trong Bạn TiKi Lazada Shopee LỜI NGỎ của Sharon Lechter LỜI TỰA Chương Một: CUỘC GẶP GỠ ĐẦU TIÊN VỚI ANDREW CARNEGIE Chương Hai: MỘT THẾ GIỚI MỚI MỞ RA TRƯỚC MẮT TÔI Chương Ba: CUỘC PHỎNG VẤN KỲ LẠ VỚI CON QUỶ Chương Bốn: BUÔNG THẢ CÙNG CON QUỶ Chương Năm: CON QUỶ TIẾP TỤC THÚ TỘI Chương Sáu: NHỊP ĐIỆU THÔI MIÊN Chương Bảy: MẦM MỐNG CỦA NỖI SỢ HÃI Chương Tám: MỤC TIÊU XÁC ĐỊNH Chương Chín: GIÁO DỤC VÀ TÔN GIÁO Chương Mười: KỶ LUẬT TỰ GIÁC Chương Mười một: HỌC TỪ NGHỊCH CẢNH Chương Mười hai: MÔI TRƯỜNG, THỜI GIAN, SỰ HÒA HỢP VÀ CẨN TRỌNG TỔNG KẾT LỜI BẠT SUY NGẪM LỜI CẢM ƠN NAPOLEON HILL (1883 - 1970) SHARON LECHTER Lời khen tặng dành cho CHIẾN THẮNG CON QUỶ TRONG BẠNDưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Napoleon Hill":Tư Duy Tích Cực Tạo Thành CôngCách Nghĩ Để Thành CôngChiến Thắng Con Quỷ Trong BạnThink And Grow Rich - 16 Nguyên Tắc Nghĩ Giàu, Làm GiàuCách Làm Việc Kỳ Diệu Cho Riêng BạnLàm Giàu Với Sự Bình An Tâm TríBí Quyết Làm Giàu Của Napoleon HillKế Hoạch Làm Giàu 365 NgàyNhững Quy Tắc Vàng Của Napoleon HillLuật Thành Công - Tập 1Luật Thành Công - Tập 2Suy Nghĩ Và Làm GiàuĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Chiến Thắng Con Quỷ Trong Bạn PDF của tác giả Napoleon Hill nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Cái Cười Của Thánh Nhân (Nguyễn Duy Cần)
Cái cười của thánh nhân Trào Lộng U Mặc Là Gì? Cái Cười Của Thánh Nhân Nguyễn Duy Cần Phần Một Tìm mua: Cái Cười Của Thánh Nhân TiKi Lazada Shopee Trào Lộng U Mặc Là Gì? Một nhà văn tây phương có viết: "Tình yêu là một vị thần bất tử, U mặc là một lợi khí, Cười là một sự bổ ích. Không có ba cái đo,ù không đủ nói đến văn hóa toàn diện" Cười đùa quả là một sự bổ ích, u mặc quả là một lợi khí căng thẳng, ngột ngạt, cái khô khan của những chủ thuyết một chiều, cái máy móc của tâm hồn do văn minh cơ khí điều khiển uốn nắn... đang biến loài người thành những bộ máy vô hồn, không dám nói những gì mình nghĩ, không dám làm những gì mình muốn... mà chỉ thở bằng cái mũi của kẻ khác, nhìn bằng cặp mắt của kẻ khác, nghe bằng lỗ tai của kẻ khác... theo nghệ thuật tuyên truyền siêu đẳng của văn minh cơ khí ngày nay! Một con người hoàn toàn là sản phẩm của xã hội, chưa biết sống và dám sống theo ý mình... đó là mục tiêu chính mà u mặc nhắm vào. Chính u mặc đã khiến cho bà Roland, khi lên đoạn đầu đài đã "cười to" với câu nói bất hủ này: "Ôi Tự Do, người ta đã nhân danh mi mà làm không biết bao nhiêu tội ác!" Lâm Ngữ Đường, mà trí thức Trung Hoa tặng cho danh hiệu "u mặc đại sư" có nói: "U mặc là một phần rất quan trọng của nhân sinh, cho nên khi mà nền văn hóa của một quốc gia đã đến một trình độ khá cao rồi ắt phải có một nền văn hóa u mặc xuất hiện". U mặc xuất hiện là để đặt lại mọi nghi vấn về các giá trị thông thường của xã hội mà đời nào cũng tự do là "văn minh nhất" lịch sử! Nhà văn Georges Duhamel khuyên người Tây Phương, trong hoàn cảnh hiện thời, cần phải đặt lại tất cả mọi giá trị của văn minh, vì chưa có xã hội nào trong văn minh lịch sử mà người trong thiên hạ điêu linh thống khổ bằng! Ở xã hội Trung Hoa ngày xưa, thời Xuân Thu Chiến Quốc, một thời đại điêu linh nhất đã phải sinh ra một ông Lão, một ông Trang, để đặt lại tất cả mọi giá trị của xã hội đương thời. Nhà văn họ Lâm cho rằng: "Tinh thần ở u mặc Trung Hoa ngày xưa cũng đã thấy bàng bạc ngay trong kho tàng ca dao Trung Quốc. Trong Kinh Thi, Thiên Đường Phong, một tác giả vô danh, vì thấy rõ cái "trống không" của cuộc đời hết sức vô thường của con người, đã trào lộng hát lên: Ngài có xe ngựa, sao không cưỡi, không tế... Đợi lúc chết rồi, kẻ khác hưởng đi mất thôi! Đó là một phần nào đã bộc lộ cái trạng thái u mặc. Nhưng phải đợi đến nhân vật chủ não là Trang Châu xuất hiện, mới có được một thứ văn chương nghị luận ngang dọc... mở ra cho người đời một thứ tư tưởng và văn học u mặc hẳn hòi. Trang Tử là thủy tổ của văn học Trung Hoa. Các tung hành gia như Quỷ Cốc Tử, Thuần Vu Khôn... điều là những nhà hùng biện trào lộng thật, nhưng vẫn chưa kịp phong thái u mặc thượng thừa của Trang Châu... Nền văn Trung Hoa với "bách gia chư tử" đã phát triển rất mạnh. Người ta nhận thất rõ ràng có hai luồng tư tưởng khác nhau xuất hiện: Phái cẩn nguyện (Lấy lễ, nhạc, trang nghiêm, cung kính và nghị luận tuyệt đối một chiều làm chủ yếu), và phái siêu thoát (lấy tự do phóng túng, trào lộng u mặc, nghị luận dọc ngang làm yếu chỉ). Trong khi phái cẩn nguyện cúc cung tận tụy phó vua giúp nước, chăm chăm lấy sự "sát thân thành nhân", "lâm nguy bất cụ" làm lẽ sống, nhưng nhóm đồ đệ của Mặc Địch hay nhóm cân đai áo mão đồ đệ của Khổng Khâu, thì phái siêu thoát lại cười vang... cho bọn khép nép chầu chực ở sân rồng còn kém xa "loài heo tế", hoặc già như nhóm đồ đệ của Dương Chu, nhổ một sợi lông chân mà đổi lấy thiên hạ cũng không thèm, hoặc coi nhân nghĩa như giày dép rách, xem lễ là đầu mối của loạn ly trộm cướp... Phái Nho gia có thuyết tôn quân nên bị nhà cầm quyền khai thác lợi dụng, nhân đó mà có bọn hủ nho xuất hiện, được nhóm vua chúa nâng đỡ đủ mọi phương tiện. Nhưng, dù bị đàn hạc, bị bức bách đủ mọi hình thức, văn học u mặc chẳng nhưng không bị tiêu diệt lại còn càng ngày càng mạnh. Đúng như lời Lão Tử: "Tương dục phế chi, tất cố hưng chi". Cũng như văn trào lộng của nước Pháp ở thế kỷ mười tám sở dĩ được phát đạt một thời với những ngòi bút trào lộng bất hủ của Voltaire và Rousseau, phải chăng là "nhờ" nơi cái nhà ngục Bastille mà được vừa tế nhị, vừa rực rỡ! "Họa chung hữu phúc" là vậy! Nguồn tư tưởng phóng khoáng của Đạo gia quá to rộng như đại dương, không sao đụng được trong những ao tù nhỏ hẹp, nó vượt khỏi thời gian không gian, ôm chầm vũ trụ, siêu thoát Âm Dương... không ai có thể lấy ngao mà lường biển. Cho nên tư tưởng Trung cổ về sau, dù đại thế của Nho gia được đề cao và chiếm địa vị độc tôn, cũng không làm sao ngăn trở nó được. Văn khí của u mặc hồn nhiên mạnh mẽ như giông to gió lớn, trước nó không một chướng ngại vật nào có thể đứng vững. Huống chi người Trung Hoa trí thức nào cũng có hai tâm hồn: Bên ngoài là một ông Khổng, bên trong là một ông Lão. Nho Lão cùng ở trong một người mà không bao giờ nghịch nhau. Hạng trung lưu, không một người Đông phương nào, cả Trung Hoa, Nhật Bản hay Việt Nam mà đọc lên bài "Quy khứ lai từ" của Đào Uyên Minh lại không biết thích thú, nhất là hạng người say mê trong con đường nhập thế. Ngày có làm, thì đêm phải có nghĩ, đó là định luật của thiên nhiên: "Nhật hạp nhật tịch vị chi biến". Văn học u mặc là "mở", văn học cẩn nguyện là "đóng", nghĩa là khép kính trong vòng tiểu ngã, trong các giáo điều luân lý tôn giáo, nguồn gốc sinh ra không biết bao nhiêu việc nhỏ nhen ích kỷ và giả dối. Văn học Trung Hoa, ngoài thứ văn học lăng miếu trong triều đình không kể, còn điều là thứ văn học rất đắc thế cho tư tưởng u mặc. Văn học trong miếu, thực ra, chưa đáng kể là văn học, vì nền văn học có linh tính chân thật phải đi sâu vào tâm tư con người để khám phá và cởi mở những khác vọng thầm kính của nó mà ước lệ giả tạo của xã hội cấm đoán. Để hòa đồng với thiên nhiên phải tránh xa lối văn nhân tạo. Đó là đặc điểm đầu tiên của u mặc. Ở Trung Hoa, nếu chỉ có nền văn học cẩn nguyện của Nho gia đạo thống mà thiếu nền văn học u mặc của Đạo gia, không biết văn học Trung Hoa sẽ cằn cõi khô khan đến bậc nào, tâm linh người Trung Hoa sẽ sầu khổ héo hắt đến chừng nào! Nhận xét trên đây của nhà văn họ Lâm rất đúng, không riêng gì cho Trung Hoa mà cho tất cả mọi nền văn học trên khắp địa cầu. Nhà văn Chamfort có viết: "Triết lý hay nhất là hỗn hợp được sự vui đời mà trào lộng chua cay với sự khinh đời mà độ lượng khoan hòa"Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Nguyễn Duy Cần":Lão Tử Đạo Đức KinhLão Tử Tinh HoaThuật Xử Thế Của Người XưaCái Dũng Của Thánh NhânCái Cười Của Thánh NhânTinh Hoa Đạo Học Đông PhươngTrang Tử Và Nam Hoa KinhDịch Học Tinh HoaPhật Học Tinh HoaToàn Chân Triết LuậnĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Cái Cười Của Thánh Nhân PDF của tác giả Nguyễn Duy Cần nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Cái Cười Của Thánh Nhân (Nguyễn Duy Cần)
Cái cười của thánh nhân Trào Lộng U Mặc Là Gì? Cái Cười Của Thánh Nhân Nguyễn Duy Cần Phần Một Tìm mua: Cái Cười Của Thánh Nhân TiKi Lazada Shopee Trào Lộng U Mặc Là Gì? Một nhà văn tây phương có viết: "Tình yêu là một vị thần bất tử, U mặc là một lợi khí, Cười là một sự bổ ích. Không có ba cái đo,ù không đủ nói đến văn hóa toàn diện" Cười đùa quả là một sự bổ ích, u mặc quả là một lợi khí căng thẳng, ngột ngạt, cái khô khan của những chủ thuyết một chiều, cái máy móc của tâm hồn do văn minh cơ khí điều khiển uốn nắn... đang biến loài người thành những bộ máy vô hồn, không dám nói những gì mình nghĩ, không dám làm những gì mình muốn... mà chỉ thở bằng cái mũi của kẻ khác, nhìn bằng cặp mắt của kẻ khác, nghe bằng lỗ tai của kẻ khác... theo nghệ thuật tuyên truyền siêu đẳng của văn minh cơ khí ngày nay! Một con người hoàn toàn là sản phẩm của xã hội, chưa biết sống và dám sống theo ý mình... đó là mục tiêu chính mà u mặc nhắm vào. Chính u mặc đã khiến cho bà Roland, khi lên đoạn đầu đài đã "cười to" với câu nói bất hủ này: "Ôi Tự Do, người ta đã nhân danh mi mà làm không biết bao nhiêu tội ác!" Lâm Ngữ Đường, mà trí thức Trung Hoa tặng cho danh hiệu "u mặc đại sư" có nói: "U mặc là một phần rất quan trọng của nhân sinh, cho nên khi mà nền văn hóa của một quốc gia đã đến một trình độ khá cao rồi ắt phải có một nền văn hóa u mặc xuất hiện". U mặc xuất hiện là để đặt lại mọi nghi vấn về các giá trị thông thường của xã hội mà đời nào cũng tự do là "văn minh nhất" lịch sử! Nhà văn Georges Duhamel khuyên người Tây Phương, trong hoàn cảnh hiện thời, cần phải đặt lại tất cả mọi giá trị của văn minh, vì chưa có xã hội nào trong văn minh lịch sử mà người trong thiên hạ điêu linh thống khổ bằng! Ở xã hội Trung Hoa ngày xưa, thời Xuân Thu Chiến Quốc, một thời đại điêu linh nhất đã phải sinh ra một ông Lão, một ông Trang, để đặt lại tất cả mọi giá trị của xã hội đương thời. Nhà văn họ Lâm cho rằng: "Tinh thần ở u mặc Trung Hoa ngày xưa cũng đã thấy bàng bạc ngay trong kho tàng ca dao Trung Quốc. Trong Kinh Thi, Thiên Đường Phong, một tác giả vô danh, vì thấy rõ cái "trống không" của cuộc đời hết sức vô thường của con người, đã trào lộng hát lên: Ngài có xe ngựa, sao không cưỡi, không tế... Đợi lúc chết rồi, kẻ khác hưởng đi mất thôi! Đó là một phần nào đã bộc lộ cái trạng thái u mặc. Nhưng phải đợi đến nhân vật chủ não là Trang Châu xuất hiện, mới có được một thứ văn chương nghị luận ngang dọc... mở ra cho người đời một thứ tư tưởng và văn học u mặc hẳn hòi. Trang Tử là thủy tổ của văn học Trung Hoa. Các tung hành gia như Quỷ Cốc Tử, Thuần Vu Khôn... điều là những nhà hùng biện trào lộng thật, nhưng vẫn chưa kịp phong thái u mặc thượng thừa của Trang Châu... Nền văn Trung Hoa với "bách gia chư tử" đã phát triển rất mạnh. Người ta nhận thất rõ ràng có hai luồng tư tưởng khác nhau xuất hiện: Phái cẩn nguyện (Lấy lễ, nhạc, trang nghiêm, cung kính và nghị luận tuyệt đối một chiều làm chủ yếu), và phái siêu thoát (lấy tự do phóng túng, trào lộng u mặc, nghị luận dọc ngang làm yếu chỉ). Trong khi phái cẩn nguyện cúc cung tận tụy phó vua giúp nước, chăm chăm lấy sự "sát thân thành nhân", "lâm nguy bất cụ" làm lẽ sống, nhưng nhóm đồ đệ của Mặc Địch hay nhóm cân đai áo mão đồ đệ của Khổng Khâu, thì phái siêu thoát lại cười vang... cho bọn khép nép chầu chực ở sân rồng còn kém xa "loài heo tế", hoặc già như nhóm đồ đệ của Dương Chu, nhổ một sợi lông chân mà đổi lấy thiên hạ cũng không thèm, hoặc coi nhân nghĩa như giày dép rách, xem lễ là đầu mối của loạn ly trộm cướp... Phái Nho gia có thuyết tôn quân nên bị nhà cầm quyền khai thác lợi dụng, nhân đó mà có bọn hủ nho xuất hiện, được nhóm vua chúa nâng đỡ đủ mọi phương tiện. Nhưng, dù bị đàn hạc, bị bức bách đủ mọi hình thức, văn học u mặc chẳng nhưng không bị tiêu diệt lại còn càng ngày càng mạnh. Đúng như lời Lão Tử: "Tương dục phế chi, tất cố hưng chi". Cũng như văn trào lộng của nước Pháp ở thế kỷ mười tám sở dĩ được phát đạt một thời với những ngòi bút trào lộng bất hủ của Voltaire và Rousseau, phải chăng là "nhờ" nơi cái nhà ngục Bastille mà được vừa tế nhị, vừa rực rỡ! "Họa chung hữu phúc" là vậy! Nguồn tư tưởng phóng khoáng của Đạo gia quá to rộng như đại dương, không sao đụng được trong những ao tù nhỏ hẹp, nó vượt khỏi thời gian không gian, ôm chầm vũ trụ, siêu thoát Âm Dương... không ai có thể lấy ngao mà lường biển. Cho nên tư tưởng Trung cổ về sau, dù đại thế của Nho gia được đề cao và chiếm địa vị độc tôn, cũng không làm sao ngăn trở nó được. Văn khí của u mặc hồn nhiên mạnh mẽ như giông to gió lớn, trước nó không một chướng ngại vật nào có thể đứng vững. Huống chi người Trung Hoa trí thức nào cũng có hai tâm hồn: Bên ngoài là một ông Khổng, bên trong là một ông Lão. Nho Lão cùng ở trong một người mà không bao giờ nghịch nhau. Hạng trung lưu, không một người Đông phương nào, cả Trung Hoa, Nhật Bản hay Việt Nam mà đọc lên bài "Quy khứ lai từ" của Đào Uyên Minh lại không biết thích thú, nhất là hạng người say mê trong con đường nhập thế. Ngày có làm, thì đêm phải có nghĩ, đó là định luật của thiên nhiên: "Nhật hạp nhật tịch vị chi biến". Văn học u mặc là "mở", văn học cẩn nguyện là "đóng", nghĩa là khép kính trong vòng tiểu ngã, trong các giáo điều luân lý tôn giáo, nguồn gốc sinh ra không biết bao nhiêu việc nhỏ nhen ích kỷ và giả dối. Văn học Trung Hoa, ngoài thứ văn học lăng miếu trong triều đình không kể, còn điều là thứ văn học rất đắc thế cho tư tưởng u mặc. Văn học trong miếu, thực ra, chưa đáng kể là văn học, vì nền văn học có linh tính chân thật phải đi sâu vào tâm tư con người để khám phá và cởi mở những khác vọng thầm kính của nó mà ước lệ giả tạo của xã hội cấm đoán. Để hòa đồng với thiên nhiên phải tránh xa lối văn nhân tạo. Đó là đặc điểm đầu tiên của u mặc. Ở Trung Hoa, nếu chỉ có nền văn học cẩn nguyện của Nho gia đạo thống mà thiếu nền văn học u mặc của Đạo gia, không biết văn học Trung Hoa sẽ cằn cõi khô khan đến bậc nào, tâm linh người Trung Hoa sẽ sầu khổ héo hắt đến chừng nào! Nhận xét trên đây của nhà văn họ Lâm rất đúng, không riêng gì cho Trung Hoa mà cho tất cả mọi nền văn học trên khắp địa cầu. Nhà văn Chamfort có viết: "Triết lý hay nhất là hỗn hợp được sự vui đời mà trào lộng chua cay với sự khinh đời mà độ lượng khoan hòa"Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Nguyễn Duy Cần":Lão Tử Đạo Đức KinhLão Tử Tinh HoaThuật Xử Thế Của Người XưaCái Dũng Của Thánh NhânCái Cười Của Thánh NhânTinh Hoa Đạo Học Đông PhươngTrang Tử Và Nam Hoa KinhDịch Học Tinh HoaPhật Học Tinh HoaToàn Chân Triết LuậnĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Cái Cười Của Thánh Nhân PDF của tác giả Nguyễn Duy Cần nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Bạn Đang Nghịch Gì Với Đời Mình (Jiddu Krishnamurti)
Mục lục Trang tựa đề Bạn Đang Nghịch Gì Với Đời Mình Phần I | Bản ngã và Cuộc đời của bạn Chương I | Tôi là ai? | — 1 — | Hiểu về tâm trí Tìm mua: Bạn Đang Nghịch Gì Với Đời Mình TiKi Lazada Shopee — 2 — — 3 — | Tâm trí là gì? — 4 — | Bản ngã là gì? — 5 — | Hiểu biết chính mình | là một tiến trình — 6 — | Bạn sao, thế giới vậy — 7 — | Cuộc chiến của bạn | cũng là cuộc chiến của nhân loại — 8 — | Thay đổi chính mình | để thay đổi thế giới — 9 — | Tại sao phải thay đổi ngay bây giờ? - 10 - | Suy nghĩ không giúp giải quyết | vấn đề của bản ngã Chương II | Điều ta mong muốn | — 1 — | Sự an toàn, hạnh phúc | và cảm giác hài lòng - 2 - | Không thể theo đuổi hạnh phúc - 3 - | Sự hài lòng, niềm vui thích | chuyển thành thói lệ thuộc | và nỗi sợ mất mát - 4 - - 5 - | Niềm vui là sự vắng bóng | cái tôi ham muốn - 6 - | Chúng ta muốn được an toàn - 7 - | Hiểu về tình trạng bất an - 8 - | Tại sao chúng ta luôn tìm kiếm | một điều gì đó? Chương III | Ý nghĩ, người suy nghĩ và ngục tù của bản ngã | — 1 — | Người suy nghĩ và ý nghĩ - 2 - | Ý nghĩ là sự hồi đáp của ký ức | được tích lũy: Chủng tộc, hội nhóm, | gia đình - 3 - | Nguồn gốc của suy nghĩ là gì? - 4 - | Ký ức là những ý nghĩ | có chỗ đứng riêng - 5 - | Ý nghĩ tìm kiếm sự an toàn - 6 - | Tại sao phải thay đổi? - 7 - | Ý nghĩ không thể chấm dứt | nỗi đau buồn - 8 - | Sống một cuộc đời như-nó-là - 9 - | Bản chất của sự quan sát - 10 - | Sự cô đơn: Mắc kẹt | trong ngục tù của cái tôi - 11 - | Sự nhận biết - 12 - | Tư duy đúng đắn và sự nhận biết - 13 - | Không có ý nghĩ tự do Chương IV - 2 - | Sự hiểu biết cùng sự nhận biết | có thể loại trừ mọi vấn đề - 3 - | Sự thấu hiểu xuất hiện | khi tâm trí tĩnh lặng - 4 - | Hiểu biết bị triệt tiêu | bởi sự phân tích - 5 - | Thoát khỏi cái tôi - 6 - | Ngu dốt là tình trạng | thiếu hiểu biết chính mình - 7 - | Chúng ta phạm sai lầm khi | tách biệt cái tôi với cái không-tôi - 8 - | Kiến thức, sự khôn ngoan | và sự thấu hiểu Chương V - 2 - | Sự trốn chạy là khát khao | quên lãng chính mình - 3 - | Tránh cái-nó-là thì gặp ách nô lệ - 4 - | Sự lệ thuộc biểu hiện đời sống | trống rỗng của chúng ta - 5 - | Tại sao tình dục là hình thức | trốn chạy phổ biến nhất? - 6 - | Có điều gì bất ổn ở niềm khoái lạc? - 7 - | Khi nhu cầu khoái lạc | không được thỏa mãn - 8 - | Niềm khoái lạc có phải là | lối thoát khỏi nỗi cô đơn? - 9 - | Hiểu về niềm khoái lạc | không có nghĩa là chối bỏ nó - 10 - | Đừng mang theo suy nghĩ vào đó Chương VI - 2 - | Tại sao chúng ta muốn thay đổi? - 3 - | Thay đổi là cần thiết - 4 - | Sự thay đổi bên trong, | chứ không phải bề ngoài, | sẽ giúp chuyển hóa xã hội Chương VII | Mục đích sống | — 1 — | Mục đích của cuộc sống là gì? - 2 - | Cuộc sống là gì? - 3 - | Đâu là mục tiêu của cuộc sống? - 4 - | Hãy hiểu, đừng trốn chạy | khỏi sự giày vò thường nhật - 5 - | Chúng ta sống vì lẽ gì? Phần II | Hiểu biết | bản thân - | chìa khóa | của tự do Chương I | Nỗi sợ hãi | — 1 — | Nỗi sợ hãi bên trong và bên ngoài - 2 - | Nỗi sợ hãi ngăn cản sự tự do tâm lý - 3 - | Nỗi sợ hãi về thể xác | là phản ứng thường gặp ở động vật - 4 - | Liệu ta có thể thoát khỏi | những quy định bắt nguồn | từ văn hóa hay từ động vật không? - 5 - | Nỗi sợ thể lý nhằm bảo vệ | cơ thể là sự hiểu biết, | nỗi sợ tâm lý là vấn đề của chúng ta - 6 - | Nguồn gốc của nỗi sợ - 7 - | Ý nghĩ là nguồn gốc của nỗi sợ - 8 - | Sự chú tâm - 9 - | Sự chú tâm sẽ chấm dứt nỗi lo sợ - 10 - | Căn nguyên của mọi nỗi lo sợ Chương II | Giận dữ và bạo lực | — 1 — | Sự giận dữ dường như khởi nguồn | từ việc cho mình là quan trọng - 2 - | Căn nguyên thể lý | và căn nguyên tâm lý của cơn giận - 3 - | Cơn giận náu mình | trong sự lệ thuộc - 4 - | Vấn đề của việc dồn nén cơn giận - 5 - | Sự kỳ vọng mang đến nỗi đau | và cơn giận - 6 - | Sự hiểu biết xua tan cơn giận - 7 - | Giận dữ là một tiến trình | mang tính lịch sử - 8 - | Nội tâm thế nào, cuộc sống thế ấy - 9 - | Nguyên nhân của giận dữ | và bạo lực - 10 - | Nguyên nhân sinh lý - 11 - | Nguyên nhân xã hội và môi trường - 12 - | Sự giận dữ chủ yếu đến từ nhu cầu | an toàn về mặt tâm lý - 13 - | Trật tự phổ quát bên trong | và bên ngoài - 14 - | Tội phạm vị thành niên - 15 - | Ta có tôn sùng kẻ sát nhân | và theo đó dung dưỡng sự giận dữ? Chương III - 2 - | Tại sao chúng ta buồn chán? - 3 - | Buồn chán có thể dẫn đến kiệt sức - 4 - | Phải chăng chúng ta chỉ vui thích | vì những phần thưởng? - 5 - | Sụ phục hồi diễn ra | trong dòng suy tưởng Chương IV - 2 - | Buồn phiền là sự cô đơn - 3 - | Ta thán là một nhân tố | gây buồn phiền - 4 - | Buồn phiền vì cô đơn - 5 - | Cô đơn là buồn phiền, | cô độc là tự do - 6 - | Đó là những giọt nước mắt | khóc cho chính bạn hay cho người | đã khuất? - 7 - | Tự do khỏi liều thuốc độc | của sự ta thán - 8 - | Vậy tôi nên sống mỗi ngày | như thế nào? - 9 - | Thấu hiểu nỗi đau khổ - 10 - | Đau khổ là đau khổ: Tâm trí ta | và nỗi khổ của ta đều như nhau Chương V - 2 - | Sự ghen tỵ không phải | là tình yêu thương - 3 - | Sự quyến luyến danh tiếng, | vật chất và con người | gây nên đau khổ - 4 - | Sự lệ thuộc về thể lý | khác với sự lệ thuộc về tâm lý - 5 - | Đỉnh cao của mọi thứ - 6 - | Khuôn mẫu nghiệt ngã - 7 - | Trách nhiệm có phải là tình thương? - 8 - | Tham vọng đồng nghĩa | với sự đố kỵ, | chia cách và chiến tranh Chương VI - 2 - | Dõi theo sự dịch chuyển | của ham muốn - 3 - | Sự nảy sinh ham muốn - 4 - | Hãy thấu hiểu, đừng tìm cách | triệt tiêu ham muốn - 5 - | Nhờ sự thấu hiểu, | ham muốn xảy đến mà chẳng thể | bén rễ trong tâm hồn - 6 - | Liệu chúng ta có thể biết đến | ham muốn mà không cần hành xử gì | với nó? - 7 - | Tại sao chúng ta khao khát | nhiều đến vậy? - 8 - | Ham muốn tự nó | không phải là vấn đề Chương VII - 2 - | Điều bạn là - 3 - | Tham vọng làm lu mờ sự sáng suốt - 4 - | Tham vọng là sợ hãi - 5 - | Sự hứng thú có giống với | tham vọng hay không? - 6 - | Làm điều bạn yêu - 7 - | Nếu bạn yêu hoa, | hãy trở thành người làm vườn - 8 - | Sự so sánh dung dưỡng | thói ganh đua, tham vọng - 9 - | Sự so sánh gây cản trở | cho sự sáng suốt - 10 - | Thành công và thất bại - 11 - | Hãy sống thật sâu! Chương VIII | Cô đơn, trầm cảm | và hỗn loạn | — 1 — | Cô đơn có giống với cô độc? - 2 - | Cô đơn là sự phiền muộn, | cô độc là niềm vui thú - 3 - | Liệu ta có thể sống | cùng nỗi cô đơn? - 4 - | Sự lệ thuộc chấm dứt | khi tâm trí được tĩnh lặng - 5 - | Không còn cái tôi, | không có nỗi cô đơn - 6 - | Trái đất này có đến 6 tỷ người[3], | ta cô đơn là do thái độ cá nhân | hay do thực tại? - 7 - | Đừng trốn chạy, | hãy để mình cô độc - 8 - | Chúng ta thật sự trống rỗng - 9 - | Sự phiền muộn | trú ngụ trong cái tôi - 10 - | Sự tự đánh giá | sẽ mang đến muộn phiền - 11 - | Chọn sự nội quan | hay sự nhận biết - 12 - | Liệu chúng ta có cần đến | các chuyên gia tâm lý để giải quyết | tình trạng rối loạn của mình? - 13 - | Sự hỗn loạn là gì? - 14 - | Ý kiến của ta | gây xáo trộn sự thật - 15 - | Ta sáng suốt hơn khi thấu hiểu | sự hỗn loạn - 16 - | Bạn có thể tự mình nhận thấy | tất cả những điều này Chương IX - 2 - | Đừng chỉ trang trí lại | ngục tù của bạn - 3 - | Quan sát sự vận hành | của nỗi phiền muộn trong tâm thức - 4 - | Tại sao chúng ta chấp nhận | sự khổ sở của việc sống hời hợt? - 5 - | Ta không thể chấm dứt phiền muộn | thông qua sự cải thiện - 6 - | Ta không thể chấm dứt phiền muộn | thông qua sự tiến triển - 7 - | Chấm dứt mọi thứ | ngày này qua ngày khác Phần III | Giáo dục, | công việc | và tiền bạc Chương I | Bàn về giáo dục | — 1 — | Loại hình giáo dục đúng đắn - 2 - | Đời sống đâu chỉ bao hàm | các phương thức mưu sinh - 3 - | Đừng chỉ bận tâm đến nghề nghiệp - 4 - | Cá nhân và hệ thống, | điều gì quan trọng hơn? - 5 - | Chức năng của giáo dục - 6 - | Con cái có phải là tài sản? - 7 - | Điều gì là cần thiết với chúng ta? - 8 - | Kiến thức là sự tích lũy quá khứ, | việc học hành thì luôn diễn ra | ở hiện tại Chương II | So sánh, cạnh tranh | và hợp tác | — 1 — | Việc so sánh nuôi dưỡng nỗi sợ hãi - 2 - | Sự cạnh tranh - 3 - | Ta cạnh tranh chỉ để che giấu | nỗi sợ thất bại - 4 - | Cạnh tranh là sự tôn sùng | vẻ hào nhoáng bên ngoài - 5 - | Hợp tác là sự vắng mặt | tinh thần vị kỷ - 6 - | Tất cả là vì Tôi, hay vì Chúng ta? - 7 - | Biết khi nào không thể hợp tác Chương III - 2 - | Tìm ra điều bạn yêu thích - 3 - | Giáo dục là một nghề cao quý - 4 - | Thực trạng mục nát, hỗn độn - 5 - | Liệu bạn có dễ bị tác động? - 6 - | Đâu mới là cách mưu sinh | đúng đắn? - 7 - | Hãy làm điều tốt nhất có thể: | Bạn phải sinh tồn mà - 8 - | Mưu sinh là gì? - 9 - | Đóng góp cho xã hội - 10 - | Công việc đúng nghĩa | của con người là khám phá chân lý Chương IV | Nền tảng của | hành động đúng đắn | — 1 — | Tại sao chúng ta phải thay đổi? - 2 - | Cảm giác chán chường - 3 - | Vấn đề của bản ngã không thể | được giải quyết bằng sự trốn chạy - 4 - | Giải quyết vấn đề - 5 - | Tuổi trẻ trong mối quan hệ | với các vấn đề - 6 - | Tâm trí bị nhào nặn - 7 - | Để giải quyết vấn đề và hành động | đúng đắn, hãy lắng nghe sự thay đổi | của cuộc sống, đừng tin vào | những nguyên tắc sáo rỗng - 8 - | Hành động đúng đắn | không phải là sự tuân phục - 9 - | Tự mình thấu hiểu mọi vấn đề | trong cuộc sống - 10 - | Không nhà tư tưởng nào có thể | giải quyết vấn đề của bạn - 11 - | Sự hiểu biết bắt nguồn từ | tự do khỏi cái tôi - 12 - | Đừng dùng bạo lực | để đáp trả bạo lực Phần IV | Những | mối tương quan Chương I - 2 - | Đừng lệ thuộc vào các mối quan hệ - 3 - | Liệu chúng ta có thể yêu thương | mà không chiếm hữu? - 4 - | Các mối quan hệ cá nhân | hình thành nên xã hội - 5 - | Soi rọi chính mình | để giải quyết xung đột - 6 - | Cuộc sống là mối tương quan | giữa chúng ta với mọi vật, | mọi người, mọi ý tưởng - 7 - | Mối quan hệ là tấm gương | phản chiếu - 8 - | Hạnh phúc là hiểu về chính mình | trong các mối tương quan - 9 - | Phá hủy cỗ máy hình tượng - 10 - | Sự hình thành các hình tượng | và quan điểm - 11 - | Các quan điểm chỉ là | những hình tượng - 12 - | Tự hình tượng hóa bản thân | khiến ta đau khổ Chương II - 2 - | Nơi nào có sự lệ thuộc, | nơi đó có nỗi sợ hãi - 3 - | Tình yêu xuất hiện từ sự thấu hiểu | về các mối quan hệ - 4 - | Tại sao chúng ta quan trọng hóa | chuyện tình dục? - 5 - | Tại sao tình dục là vấn đề? - 6 - | Ham muốn không phải là tình yêu Chương III - 2 - | Chúng ta có thực sự yêu thương | gia đình mình? - 3 - | Sự lệ thuộc biến bạn thành | kẻ bất tài vô tướng - 4 - | Theo một cách hoàn toàn tự nhiên, | ta có một gia đình - 5 - | Chỉ khi không màng đến | sự an toàn nội tại, | bạn mới được an toàn Chương IV - 2 - | Chúng ta yêu thương Trái đất | hay chỉ tận dụng nó thôi vậy? - 3 - | Bản đồ chỉ mang tính tham khảo chính trị, | Trái đất không là của riêng ai - 4 - | Chúng ta đều là những người | coi sóc của Trái đất Chương V - 2 - | Không thể suy nghĩ về tình yêu - 3 - | Khi biết cách yêu một người, | bạn biết cách yêu mọi người | và cả thế giới - 4 - | Tình yêu trong mối tương quan - 5 - | Chúng ta không yêu thương, | chúng ta khao khát | được yêu thương - 6 - | Tình yêu không là | của riêng bạn hoặc tôi - 7 - | Sự nhàm chán trong mối quan hệ - 8 - | Khi không có tình yêu, | chúng ta có hôn nhân - 9 - | Sự hài lòng không đồng nghĩa | với tình yêu - 10 - | Đừng cố sống độc thân - 11 - | Tại sao tình dục và hôn nhân | lại trở thành vấn đề? - 12 - | Cái nhìn thấu thị về giới hạn | của suy nghĩ - 13 - | Liệu tình yêu có thể tĩnh tại, | bất động hay không? - 14 - | Nơi nào bạn xem mình | là quan trọng, | nơi đó không có tình yêu - 15 - | Trong thói quen không có tình yêu Chương VI | Đam mê | — 1 — | Thiếu niềm đam mê, | cuộc sống trống rỗng - 2 - | Sao có thể yêu thương | nếu không đam mê - 3 - | Sự nguy hiểm của đam mê - 4 - | Hãy tiếp tục học hỏi, | đừng mắc kẹt trong lối mòn Chương VII | Chân lý, Thượng đế | và cái chết | — 1 — | Cái chết - 2 - | Điều gì sẽ tiếp diễn? - 3 - - 4 - | Sự tiếp diễn của ý nghĩ - 5 - | Trong sự đổi mới, | cái chết không tồn tại - 6 - | Sự đổi mới diễn ra khi tiến trình | tư duy chấm dứt - 7 - | Tình yêu bất diệt - 8 - | Cái chết và sự bất diệt - 9 - | Hiện tại là vĩnh hằng - 10 - | Liệu có tồn tại niềm vui bất tận, | dài lâu? - 11 - | Nỗi sợ cái chết là nỗi sợ | đánh mất điều đã biết - 12 - | Điều ta biết - 13 - | Cái chết và cuộc sống là một - 14 - | Từ bỏ cái tôi - 15 - | Thượng đế Chương VIII | Thiền là chú tâm | — 1 — | Hãy chú tâm khi thiền - 2 - | Thiền trong đời sống thường ngày - 3 - | Chú tâm đến toàn bộ chuyển động | của mối tương quan | là sự khởi đầu của thiền định - 4 - | Thiền là sự sáng rõ - 5 - | Thiền để thấu hiểu cuộc sống - | hãy là ngọn đèn soi sáng chính mình - 6 - | Thiền là tự biết mình - 7 - | Thiền là quên đi tâm trí của quá khứ - 8 - | Hạnh phúc trong tâm trí tĩnh lặng - 9 - | Sống trong tỉnh thức - 10 - | Trong thinh lặng, | các vấn đề được giải quyết - 11 - | Tâm trí tĩnh lặngDưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Jiddu Krishnamurti":Dưới Chân ThầyNghĩ Về Những Điều NàyLửa Trong Cái TríThâm Nhập Thấu TriệtThư Gửi Trường HọcBài Diễn Văn Giải Tán Giáo Hội Ngôi SaoBạn Đang Nghịch Gì Với Đời MìnhTự Do Vượt Trên Sự Hiểu BiếtBàn Về Cách Kiếm Sống Đúng ĐắnBàn Về Tình Yêu Và Sự Cô ĐộcCái Gương Của Sự Liên HệĐánh Thức Trí Thông MinhGiáo Dục Và Ý Nghĩa Của SốngGiáp Mặt Cuộc ĐờiSổ Tay Của KrishnamurtiTương Lai Của Nhân LoạiTuyển Tập KrishnamurtiVượt Khỏi Bạo LựcQuyển Sách Của Cuộc Đời Jiddu KrishnamurtiĐối Mặt Với Thế Giới Hoảng LoạnGhi Chép Của KrishnamurtiĐường Vào Hiện SinhKhai Sáng Trí NăngHướng Đi Cho Cuộc ĐờiNỗi Đau Thời GianÝ Nghĩa Về Sự Chết, Đau Khổ Và Thời GianĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Bạn Đang Nghịch Gì Với Đời Mình PDF của tác giả Jiddu Krishnamurti nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.