Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Một Linh Hồn

Một linh hồn là tiểu thuyết đầu tay của Thụy An, in năm 1941-Nhà xuất bản Đàn Bà (76 pho Wiélé Hà Nội). Theo Bùi Thụy Băng (con Thụy An), Một linh hồn in năm 1943 (1). Cuốn sách này được Vũ Ngọc Phan đánh giá cao: “Một linh hồn cũng đáng kể là một tiểu thuyết xuất sắc của phụ nữ Việt Nam từ trước đến nay: tác giả đã giàu tưởng tượng, truyện lại xây dựng một cách vững vàng, chắc chắn”. Ông cũng định vị Thụy An trong tư cách nhà văn: “Hàn Mặc Tử đã đem vào thi ca Việt Nam lòng tin tưởng ở đạo Gia-Tô với một giọng say sưa đầm ấm. Thụy An cũng xây dựng cho tiểu thuyết của bà có những nhân vật tin cậy ở đẳng cấp Đấng Cứu Thế ở Đức Mẹ Đồng Trinh và sẵn lòng nhịn nhục, hi sinh”.  *** Bài giới thiệu của Nhà thơ Viên Linh:   Nữ sĩ Thụy AnThụy An Hoàng Dân là một nhà văn nữ nổi tiếng từ trước 1945, vừa qua văn chương vừa bởi cách sống, song danh vọng đã không rực rỡ, số phận lại còn gian lao; bà vào tù ra khám nhiều lần, một đời văn không ngừng va chạm với sắt máu, kể cả với chính mình khi tự cầm đũa chọc thủng một con mắt giữa nhà tù Hỏa Lò Hà Nội.        Thụy An là bút hiệu của bà Lưu Thị Yến, sinh năm 1916 ở Hà Nội, từng viết cho báo Phụ Nữ Tân Văn do Phan Khôi chủ trương, và trên hai tờ Đàn Bà Mới và Đàn Bà đều do chính bà chủ trương, xuất bản ở Sài Gòn và Hà Nội, khoảng từ 1939 tới năm chiến tranh chống Pháp bùng nổ. Trong Nhà Văn Hiên Đại, khi viết về cuốn tiểu thuyết Một Linh Hồncủa Thụy An, nhà phê bình Vũ Ngọc Phan đã dùng câu sau đây để kết luận 8 trang sách về bà: “Một Linh Hồn… đáng kể là một tiểu thuyết xuất sắc nhất của phụ nữ Việt Nam từ trước đến nay: tác giả đã giàu tưởng tượng, truyện lại xây dựng một cách vững vàng, chắc chắn.”        Khoảng đầu thập niên ’50, nhà hoạt động cách mạng Đỗ Đình Đạo, từng là quân ủy trung ương của Việt Nam Quốc Dân Đảng, sau lúc bôn ba qua Trung Hoa trở về thì bị ám sát chết; vụ thanh toán gây sôi nổi trên báo chí Hà Nội lúc ấy, và một số bài báo có nhắc đến tên Thụy An Hoàng Dân như là người trách nhiệm chính. Trong trí nhớ đã phai mờ, tôi hình dung câu chuyện như một truyện tình, tuy rằng có thể đó là một vụ khai trừ vì chính kiến. Giờ này, không rõ tờ báo đọc hồi nhỏ có đáng tin không, tường thuật có chính xác không (không nhớ đó là tờ Tia Sáng hay tờ Giang Sơn, hay tờ Tiếng Dân), tôi đã đi tìm đọc những tác phẩm của nhà văn nữ ấy, như Vợ Chồng, như Bốn Mớ Tóc.       Những năm cuối thập niên ’50, tên Thụy An Hoàng Dân lại được báo chí nói đến, cả ở Hà Nội lẫn ở Sài Gòn. Lần này bà bị chính quyền Miền Bắc qui tội gián điệp, bị bỏ tù 15 năm. Đó là sau vụ Nhân Văn – Giai Phẩm, – bề ngoài là vụ án hữu khuynh chống Đảng, song thời gian đang cho thấy đây nhiều phần là vụ thanh toán các nhà văn gốc Miền Bắc bởi Tố Hữu, một cán bộ văn vần kém cỏi nhưng đắc thế, đầu óc nặng nề địa phương tính, lệt sệt mặt đất vì mặc cảm thua tài nhưng lại ở đỉnh cao của Đảng, phóng dọi qua lăng kính chủ nghĩa để thành cao viễn mà nạn nhân 99% là trí thức văn nghệ sĩ quê quán vùng Sông Hồng: Nguyễn Hữu Đang, Nguyễn Mạnh Tường, Đào Duy Anh, Trương Tửu, Thụy An, Hoàng Cầm, Văn Cao, Quang Dũng, Nguyễn Bính, Trần Dần… [gốc Bắc mà thoát nạn là vì biết sợ như Nguyễn Tuân, im lặng như Thế Lữ, hay thỏa hiệp từ đầu như Nguyễn Đình Thi]. Tố Hữu tuy đã chết, song chủ trương của đồng bọn / có thể ví như bọn kiêu binh tam phủ thời Hậu Lê / vẫn còn đang hoành hành từ Bắc vào Nam. Trong vụ Nhân Văn – Giai Phẩm, 304 người bị gọi đi tập trung chỉnh huấn, nhưng có 4 người chống lại không đi, trong có Thụy An Hoàng Dân.       Bị tù vì tội gián điệp (vì liên hệ với một người bạn ngoại quốc), bà Thụy An đã khắc lên tường phòng giam số 12 ở nhà pha Hỏa Lò câu sau đây: “Tại nơi này, tôi dã dùng đũa chọc, hủy bỏ một con mắt của tôi để phản đối chế độ cộng sản phi nhân, đàn áp dã man văn nghệ sĩ.” Bà từ trần ngày 10 tháng 6.1989 tại Sài Gòn. Truyện ngắn Giết Chó sau đây, đăng lần đầu trên Tạp chí Phổ Thông của Hội cựu Sinh viên Trường Luật Hà Nội, (số đôi 19-20, tháng 6-7.1953, trang 109), cho thấy Thụy An đã chống Cộng sản ngay từ lúc ấy. Đương thời, hoạt động vào ban đêm của Việt minh Cộng sản thường bị chó phát giác; như phát giác trộm đạo, nên họ đi tới đâu, chó sủa tới đó, vì vậy chó trở thành kẻ thù sớm nhất của “cách mạng”. Truyện này viết cách đây đúng nửa thế kỷ cho thấy Thụy An Hoàng Dân vẫn xứng đáng là nhà văn nữ xuất sắc nhất Việt Nam, như lời Vũ Ngọc Phan viết về tác giả Một Linh Hồn từ năm 1942. *** Thụy An sinh tại Hà Nội, nhưng quê gốc ở làng Hòa Xá, phủ Ứng Hòa, tỉnh Hà Đông (nay là Hà Nội), là con ông Lưu Tiến Ích và bà Phùng Thị Tôn. Có khiếu thơ văn từ nhỏ nên năm 13 tuổi, bà đã có thơ đăng trên báo Nam Phong (1929) và 3 năm sau, lại nhận được giải thưởng văn chương của Triều đình nhà Nguyễn. Chồng Lưu Thị Yến là nhà văn, nhà giáo Bùi Nhung bút hiệu là Băng Dương, em ruột học giả Bùi Kỷ. Nhưng sau khi bà sinh được 6 người con, thì ly thân với chồng từ 1949. Người tình của Lưu Thị Yến là ông Đỗ Đình Đạo, một nhân vật quan trọng của Việt Nam Quốc Dân Đảng. Sau ông Đỗ Đình Đạo chết vì một nguyên do còn nhiều nghi vấn. Trong thời kỳ Nhân Văn–Giai Phẩm, nhà văn Phan Khôi nhận Lưu Thị Yến là con nuôi. sau khi báo Nhân Văn và Giai Phẩm bị đình bản, bà bị bắt năm 1958 và trong phiên tòa ngày 21 tháng 1 năm 1960 xét xử bà tại Hà Nội, nhiều nhân chứng đều cho rằng bà đã có ảnh hưởng không nhỏ đối với một số văn nghệ sĩ tham gia phong trào này. Tuy nhiên, những người trong cuộc như Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt phủ nhận sự tham gia của bà trong nhóm. Bà bị kết án cũng như Nguyễn Hữu Đang 15 năm tù. Năm 1973, Lưu Thị Yến cùng với Nguyễn Hữu Đang, cũng bị tù vì vụ Nhân Văn–Giai Phẩm, được thả trong diện "Đại xá chính trị phạm trong hiệp định Paris". Vào Thành phố Hồ Chí Minh, bà quy y ở Chùa Quảng Hương Già Lam năm 1987 và mất năm 1989, tại nhà riêng ở đường Lê Văn Sỹ. Mời các bạn đón đọc Một Linh Hồn của tác giả Thụy An.

Nguồn: dtv-ebook.com

Đọc Sách

Ngày Mai Tôi Sẽ Khác - Gilles Legardinier
Điều ngu ngốc nhất trong đời bạn từng làm là gì?    Ngu ngốc như vừa chạy cầu thang vừa mặc áo hay nhét cả bàn tay kẹt cứng trong thùng thư người hàng xóm... chẳng nhằm nhò gì so với những hành động rồ dại mà cô nàng Julie sau này cố làm để tiếp cận người đàn ông mà cô muốn khám phá. Bị những ý tưởng gàn dở liều lĩnh thôi thúc, Julie đã liều mình hành động để rồi tốt cuộc cũng có thể tìm ra câu trả lời cho câu hỏi: chúng ta có thể làm điều ngu ngốc trong đời là vì ai?    Một câu chuyện tình lãng mạn và đầy hài hước cùng cô nàng hậu đậu, luôn lo sợ. Với những hành động liều lĩnh và “trò lố” của mình trong chặng đường chinh phục chàng hàng xóm mới chuyển đến Patatras, Julie sẽ mang đến cho bạn đọc những giây phút giải trí nhẹ nhàng đồng thời đặt ra cho bạn đọc câu hỏi: chúng ta có thể làm điều ngu ngốc trong đời là vì ai ?   *** Với NGÀY MAI TÔI SẼ KHÁC, Gilles Legardinier đã phác họa một khía cạnh hoàn toàn mới của trí tưởng tượng vốn không bao giờ khiến ta ngừng ngạc nhiên. Cuốn tiểu thuyết mới của Gilles khẳng định điều mà những ai từng đọc sách của ông đều đã từng biết: một biệt tài kể những câu chuyện độc đáo đánh thức bản chất sâu kín nhất của chúng ta. “Một cuốn tiểu thuyết khiến ta cười sảng khoái ngay từ những trang đầu tiên để rồi chẳng thể dứt ra nổi.” – Figaro “Một chuyện tình đáng để ta sống vì yêu.” – Tạp chí BIBA Gilles Legardinner luôn cố gắng khơi gợi cảm xúc để sẻ chia. Sau khi làm việc trong mảng sân khâu truyền hình Anh-Mỹ, đặc biệt trong vai trò phụ trách kỹ thuật hoả pháo, ông đã thực hiện các bộ phim quảng cáo và trích đoạn quảng cáo cho nhiều bộ phim bom tấn. Hiện giờ ông tập trung vào mảng truyền thông điện ảnh cho các hãng phim lớn và viết kịch bản cũng như viết tiểu thuyết. Tiểu thuyết Ngày mai tôi sẽ khác đã gặt hái thành công vang dội trên toàn thế giới và đoạt giải Ngòi bút vàng do trang Plume libre bình chọn. Mời các bạn đón đọc Ngày Mai Tôi Sẽ Khác của tác giả Gilles Legardinier.
Làm Đĩ - Vũ Trọng Phụng
AdioBook Làm Đĩ   Vũ Trong Phụng viết Làm đĩ vào năm 1936, một thời đại thực sự hỗn loạn như đã hiện lên qua nhiều trang viết của ông và các nhà văn cùng thời. Xã hội thành thị Việt Nam thời ấy đang "Âu hóa" một cách nửa mùa - cái cũ chưa qua, cái mới chưa tới, đầy rẫy sự nhốn nháo, lừa lọc, sa đọa và đau khổ. Làm đĩ được viết dưới dạng tự truyện của nhân vật chính tên Huyền. Sinh ra trong một gia đình có cha làm việc cho Tây nhưng lại cực kỳ hủ bại, từ nhỏ Huyền đã luôn bị người lớn lảng tránh và nạt nộ khi cô bé thắc mắc về những vấn đề giới tính. Thứ cô tiếp thu được chỉ là lời nói bậy bạ, thô tục của kẻ ăn người ở trong nhà và những bài "tự học" của đám trẻ thơ. Sự tò mò ấy làm bùng lên nỗi khát khao ở người thiếu nữ bước vào tuổi dậy thì, để rồi một ngày cô ngã vào vòng tay Lưu - một người anh họ xa đang trọ học tại nhà - trong cái đêm mất ngủ vì âm thanh "sự thị uy của ái tình" giữa cha và vợ bé chỉ cách giường cô một bức vách. Mối tình vụng dại kết thúc bi thảm hệt như những bộ phim lãng mạn thời bấy giờ. Lưu tự tử chết, Huyền bị ép gả cho Kim. Kim mắc bệnh giang mai do thói ăn chơi bừa bãi của giới thượng lưu nên chỉ có thể quấy rấy vợ bằng "cách nửa đời nửa đoạn." Vì tiền, Kim đem vợ ra làm mồi nhử Tân, một "đại gia" đào hoa, giàu có. Từ chỗ e ngại, Huyền và Tân đã trở thành đôi "gian phu dâm phụ" lúc nào không hay. Kim lật lọng, bắt Huyền thú tội và từ đó "giáng" cô xuống thân phận tôi đòi. Huyền tìm đến Tân nhưng chỉ nhận được lời giả dối của kẻ "cho mục đích của ái tình không phải là hôn sự". Tân phũ phàng từ chối Huyền và trơ tráo thừa nhận "lúc nào anh cũng có dăm bảy cô nhân tình." Tân tháo chiếc vàng đưa cho Huyền để trả công. Huyền ném chiếc nhẫn vào mặt kẻ bội bạc rồi bỏ chạy. Ít lâu sau, biết Tân - kẻ đạo đức giả đang được cả xã hội tung hô - đang chấm thi hoa hậu ở Sài Gòn, Huyền bỏ nhà vào tìm Tân để quyết giết chết kẻ phụ tình. Không tìm được Tân, tiền cạn, bước đường cùng khiến Huyền bắt đầu cuộc đời trụy lạc. Vũ Trọng Phụng tả con đường "làm đĩ" của Huyền và đã khẳng định rằng đẩy Huyền vào con đường ấy là hai kẻ đàn ông: anh chồng và thằng cha nhân tình. Cả hai đều bỉ ổi, khốn nạn và ích kỉ đến cùng cực. Hai con người đốn mạt ấy đều là nhân vật tiêu biểu của cái thời mà Vũ Trọng Phụng gọi là: "thế kỷ đắc thắng cho chủ nghĩa cá nhân". Hãy đọc, cảm thông cho tác giả và nhân vật Huyền đã sống và phải sống trong thời đại hỗn loạn đó. Mời các bạn đón đọc Làm Đĩ của tác giả Vũ Trọng Phụng.
Đêm Thánh Vô Cùng - Heinrich Boll
Nhà văn Đức Heinrich Boll bắt đầu làm thơ và viết truyện ngắn từ rất sớm, học tiếng Đức, văn học cổ điển và nghề kinh doanh sách; năm 1938 bị bắt vào lính, bị quân đội Mỹ bắt làm tù binh; trở về quê tiếp tục học và kiếm sống bằng những công việc không thường xuyên. Năm 1949, ông trình làng truyện vừa Chuyến tàu đến đúng giờ phản ánh cuộc sồng đời thường sau chiến tranh, văn phong đơn giản hoá một cách chủ ý. Tính vô nghĩa của cuộc chiến tranh đúc rút từ những trải nghiệm cá nhân nhân vật là chủ đề trung tâm trong những tác phẩm này và cũng là đề tài chủ đạo xuyên suốt toàn bộ sáng tác về sau của H. Boll, thường được gọi là dòng “văn học hoang tàn”. Tác phẩm có thể coi là hoành tráng đầu tiên của ông là Ván bi-a lúc chín rưỡi được viết với văn phong và cấu trúc phức tạp hơn; tiếp đó là Qua con mắt của chú hề nói về tự do cá nhân giữa những sức ép mang tính xã hội và chính trị. Năm 1971 ra đời tiểu thuyết lớn nhất của H. Boll là Bức chân dung tập thể với mottjquý bà mô tả các sự kiện xảy ra trong khoảng thời gian 1899- 1970 với đối tượng chỉ trích là nhà thờ và “xã hội thành đạt”. Năm 1972, H. Boll được trao giải Nobel vì những tác phẩm kết hợp tầm bao quát hiện thực rộng lớn với nghệ thuật xây dựng tính cách điển hình đã trở thành đóng góp to lớn vào sự phục hồi nền văn học Đức. Năm 1974, được bầu làm chủ tịch Hội Văn bút Quốc tế, ông nhiệt tình giúp đỡ những nhà lãnh đạo phong trào hoà bình và chống sử dụng vũ khí hạt nhân. Ngoài sự nghiệp sáng tác, H. Boll còn là dịch giả văn học Mỹ. Tác phẩm chính: - Chuyến tầu đến đúng giờ (Der Zug kommt pünktlich, 1949), truyện vừa. - Người ở đâu? Adam? (Wo warst du, Adam?, 1951), tiểu thuyết. - Ván bi-a lúc chín rưỡi (Billiard um halbzehn, 1959), tiểu thuyết. - Qua con mắt của chú hề (Ansichten eines Clowns, 1963), tiểu thuyết. - Những bài giảng ở Frankfurt (Frankfurter Vorlesungen, 1966), tiểu thuyết. - Bức chân dung tập thể với một quý bà (Gruppenbild mit Dame, 1971) tiểu thuyết. - Danh dự bị lăng nhục của Katharina Blum (Die verlorene Ehre der Katharina Blum, 1974), truyện vừa. Mời các bạn đón đọc Đêm Thánh Vô Cùng của tác giả Heinrich Boll..
Người Ở Đâu Về - Heinrich Boll
Trong quãng thời gian từ năm 1947 đến năm 1952, Heinrich Böll đã cho ra đời nhiều tác phẩm viết về đề tài chiến tranh. Nguồn tư liệu viết truyện của ông được lấy từ những sự kiện mà chính ông đã trải qua, với tư cách là một người lính trong Thế chiến Thứ II. Người ở đâu về? (nguyên bản tiếng Đức là Wo warst du, Adam?) là một trong số đó. Cuốn này được ông viết vào năm 1951. Thông qua 9 chương sách khá độc lập nhau, cuốn tiểu thuyết nói đến số phận của Feinhals và những người lính cùng chung chiến hào với anh trên mặt trận phía đông vào những tháng cuối cùng của cuộc chiến. Trong những tác phẩm văn học về đề tài chiến tranh của Böll, không có anh hùng. Nhân vật chính trong những tác phẩm này đều là những người lính bình dị, những người lính bị chèn ép, áp bức. Họ không làm chủ được cuộc sống của chính mình và sự hy sinh của họ trên chiến trường hoàn toàn là vô nghĩa - những cái chết thường là đau đớn và không có gì gọi là cao đẹp cả. Với tư tưởng chỉ trích chiến tranh, Böll viết vô cùng thực tế; ông nhìn nhận chiến tranh không phải là một cuộc phiêu lưu kỳ thú mà là một “căn bệnh thương hàn.” Lời tựa cho cuốn sách là 2 câu nói: một là của Antoine de Saint-Exupery, người đã ví chiến tranh như căn bệnh thương hàn; và một là của Theodor Haecker, người đã gợi ra rằng vấn đề cơ bản của xã hội nước Đức đương thời chính là cứ lấy chiến tranh ra là cái cớ để gỡ tội cho mình – “Hồi ấy, anh ở đâu hở Adam?” “Tôi đang tham dự Đại chiến”. Câu nói này của Haecker đã được Böll trích một phần để làm tựa cho cuốn tiểu thuyết. Với Böll, Adam là đại diện cho một xã hội từ chối thừa nhận trách nhiệm trước những hành vi của mình. Đó cũng là hiện thân của những nhân vật đáng thương như Feinhals (Fanhan) và những đồng đội của anh - những người lính được kêu gọi nhập ngũ chiến đấu cho một mục đích mà họ cho là vô nghĩa. Không may, tính thụ động, hay sự bất lực của họ trước những hành động ấy, đã cho phép những nhân tố tiêu cực trong xã hội, ở đây là chế độ quốc xã, trỗi dậy dẫn đến vụ Thảm sát Holocaust. Böll mô tả sự khủng khiếp của vụ thảm sát Holocaust thông qua sự đụng độ giữa viên Đại úy SS Filskeit, chỉ huy trại hủy diệt và cô gái người Hung-ga-ri theo đạo Do Thái Ilona. Böll khắc họa Filskeit là một kẻ có cổ to, bụng to, chân ngắn, thiếu hấp dẫn nhưng lại có xu hướng tình dục tiềm tàng trong máu. Filskeit là một kẻ cuồng tín chủ nghĩa Quốc xã về cái gọi là sức mạnh của dòng máu thuần chủng của tộc người A-ri-an. Sự mô tả tính cách của Filskeit chính là một bài văn châm biếm những nét tiêu biểu của lính quốc xã nói chung: ngưỡng mộ quá mức phẩm cấp, tuân lệnh cấp trên một cách mù quáng và một kiến thức nông cạn về nghệ thuật. Filskeit mê mẩn những bản hợp xướng và trong suốt thời gian chiến tranh, khi được cử đến bất cứ trại nào, hắn đều lập ra một ban hợp ca. Khi Ilona tới, hắn yêu cầu cô hát trong khi hắn tuyển mộ nhân sự cho ban hợp ca của hắn. Khi cô hát bài “Kinh cầu nguyện cho tất cả các vị thánh”, Filskeit nhận ra cái lý thuyết ngụy biện của ý thức hệ Quốc xã về sức mạnh của giống người A-ri-an thuần chủng đã trở thành tâm điểm của cuộc đời hắn. Ở Ilona, hắn thấy hắn đã cố công tìm kiếm trong bản thân con người hắn một thứ không tồn tại: “một dòng máu cao quý, hoàn hảo kết hợp với một thứ làm hắn hoàn toàn tê liệt, đó là lòng trung thành.” Phản ứng của hắn thể hiện đúng bản chất méo mó của con người hắn: hắn bắn chết người thiếu phụ và ra lệnh giết hại hết toàn bộ những người Do Thái còn lại trong trại. Lời văn của Böll trong những chương này là một minh chứng rõ ràng cho thái độ của ông trước vụ Thảm sát Holocaust. Nếu như có đôi khi, Böll có vẻ như muốn kết tội tất cả những người Đức về trách nhiệm của mình trước những hiện thực xảy ra, thì cũng có lúc ông lại diễn tả trách nhiệm này trong những người Đức bình thường, những người vẫn bảo toàn được nhân tính của mình mặc dầu phải đối mặt với tính hung bạo ở khắp nơi. Khi người lính Feinhals (Fanhan) gặp Ilona, tình yêu của họ dành cho nhau vượt lên trên hẳn những vấn nạn của loài người hay của dân tộc. Cái chết vô nghĩa của anh ở cuối truyện, giống như cái chết của Ilona, đã nhấn mạnh sự vô nhân tính của chế độ quốc xã mà Thảm sát Holocaust là một ví dụ điển hình. Mời các bạn đón đọc Người Ở Đâu Về của tác giả Heinrich Boll.