Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bàn Tay Kẻ Lạ Mặt

ROBERT DALEY BÀN TAY KẺ LẠ MẶT Người dịch: Nguyễn Đắc Lộ NHÀ XUẤT BẢN TỔNG HỢP KHÁNH HÒA - 1990 Dịch từ nguyên bản tiếng Anh Hands of a Stranger (Robert Daley) NXB New American Library (Signet Book) 1986, Nguồn sách: @quang3456 Chụp ảnh, pdf, OCR: 4DHN Cuộc đấu tranh để ngăn chặn, chống những tệ nạn xã hội là một trong những trận tuyến thầm lặng nhung không kém phân gay go, quyết liệt và nhiều khi trở thành nóng bỏng đối với nhiều nước trên thế giới hiện nay, đặc biệt là ở những nước tư bản phát triển, khi lối sống thực dụng lan trần, con nguôi chỉ biết chạy theo đồng tiền và những dục vọng thấp hèn, bất chấp mọi luật pháp và những nên tảng dạo đức xã hội. Thống qua tắn bi kịch của một gia dinh, tiểu thuyết “Bàn tay kè lạ mặt” của Robert Daley tuy chỉ đề cập dến một trong những loại hình tội phạm dang làm nhức nhối trong lòng xã hội Mỹ đương đại: tội hiếp dâm, nhung với lối viết chân thực, rất tỉ mi, cụ thể mà có tầm khái quát cao của mình, ngòi bút của ông đã vẽ nên một bối cảnh xã hội rộng lớn của xã hội Mỹ hiện nay: con người được sống với những diều kiện vật chất cao hơn, nhung khi nền tảng đạo đức xã hội bị phá vỡ, con người càng có nguy cơ trở nên tàn ác, tha hóa, thú vật với nhau hơn và tội ác càng cố sức công phá lớn, khó ngăn chặn hơn khi nó tận dụng được những phương tiện khoa học hiện đại phục vụ cho nó. Với một đề tài hấp dẫn nhung thật khó viết vì rất dễ có nguy cơ roi vào dung tục, khiêu dâm, chạy theo những thị hiếu tầm thường, Robert Daley dã thành công và tỏ ra là một cây bút có bản lĩnh. Cuốn sách của ông được đánh giá cao, trờ thành một hiện tượng văn học trong thập niên 80 ở Mỹ. Nhiều nhà phè bình nôi tiếng khẳng định giá trị nghệ thuật, tính chân thực và bức thống điệp nóng bỏng mà ông gửi dến cho mọi người về những mối de dọa của tội ác với cuộc sống và hạnh phúc của con người Trân trọng giới thiệu “Bàn tay kẻ lạ mặt”với bạn đọc. *** Nạn nhân bị xâm phạm đầu tiên sáng hôm ấy là một cô gái da đen mười chín tuổi. Người thứ nhì là một bà nội trợ da trắng ba mươi tám tuổi. Phụ tá chưởng lý quận Judith Adler không làm được gì đáng kể cho bất kỳ vụ nào. Cô gái da đen được một nữ thám tử đưa vào và được chỉ vào một chiếc ghế đối diện với bàn giấy. Viên thám tử trao tập hồ sơ vụ án của cô gái rồi ngồi dựa vào tường, một tập giấy vàng trên váy cô, chiếc ví tay nặng của cô đặt trên sàn nhà ngay bên cạnh. Judith Adler, sau khi nhìn lướt qua tập hồ sơ, thấy rằng nạn nhân tên là Bianca, người đã bị sáu người đàn ông “bề hội đồng” hôm qua, cô ta không hề biết mặt những tên hãm hiếp trước đó. Chẳng tên nào được gọi đích danh và cô ta chỉ có thể mô tả chúng là sáu “anh chàng da đen” thôi. Sự mô tả không làm Judith mỉm cười được. “Bianca, sáng nay cô thế nào?” Nàng ngẩng đầu lên hỏi: “Cô không sao chứ?” Nàng cố hết sức thật ôn tồn và thông cảm vì, xét theo tập hồ sơ, sự thông cảm hoàn toàn là sự công bình mà nạn nhân này hình như muốn có được. Bianca cám ơn, nói rằng cô ta khỏe và hình như sự thật là như thế. Ở vào trường hợp của cô thì một nữ sinh viên khác ở Park Avenue - Judith đã đối phó với nhiều người như thế - chắc sẽ cứng đờ người ra. Bianca mặc quần Jeans và giầy cổ cao, mấy chiếc móng chân màu đỏ tươi ló ra ngoài. Khuôn mặt rất trẻ, nước da rất đen. Cô tô son đỏ tươi và mặc một chiếc áo cánh cũng đỏ tươi. Với tiêu chuẩn trong thế giới riêng của cô, có lẽ ăn mặc như thế là thanh lịch. Judith định nói ai nhỉ? Bản thân nàng mặc một bộ đồ xanh lục bên ngoài một chiếc áo cánh lụa. Nạn nhân bị hãm hiếp kiên nhẫn chờ đợi. Theo tập hồ sơ sự vụ, hiện trường là một khách sạn phúc lợi tại Harlem. Địa điểm này quen thuộc đối với Judith. Công việc của nàng là phải biết những điều như thế. “Đấy chẳng phải là một khách sạn tốt” - nàng chê trách như thể chính khách sạn phải chịu trách nhiệm vì nếu không thì tội ác đối với Bianca không thể nào hiểu được. - “Rất nhiều gái điếm ở đây”. Bianca không có công việc làm, không có địa chỉ nhất định nào cả. Tuần qua cô ta đã di chuyển từ một căn nhà công cộng đến khách sạn phúc lợi và nàng biết rõ phải ngủ với quần áo đầy đủ kể cả đôi giầy vì sợ rằng sáng ra mọi thứ nàng có đều bị ăn cắp. Một người đàn bà tên Maria - không có họ - cũng sống ở đấy và trở thành bạn gái của cô ta. Nhưng Maria có chồng, dù theo luật lệ chung hoặc là chồng thật sự -cũng không thành vấn đề và một buổi sáng anh chồng này khoác lác rằng đã làm tình với Bianca ở phòng bên trong đêm. “Hắn bảo Maria rằng cô đã mút “của” hắn. Và cô có làm thế không Bianca?” Vai trò của nàng cho phép nàng có quyền nêu lên những câu hỏi như thế. Tuy nhiên một số những câu hỏi mà nàng sẽ hỏi sau đây sẽ còn có tính cách riêng tư hơn nữa. “Tôi chẳng thèm làm tình với bất kỳ ai mà tôi vừa gặp mặt cả”. Bianca phản đối. “Tôi nghĩ rằng tôi không chịu nói về việc ấy”. Câu này được nói lên thật trịnh trọng đến nỗi Judith, dù nàng chỉ gật đầu thôi, muốn hoan hô cô. Đối với Judith, sự tự trọng và lòng can đảm đều như nhau. Cả hai đều hiếm, đáng ca ngợi, và trong trường hợp một người mà viễn ảnh của cuộc sống thật tàn nhẫn như cuộc sống của Bianca, nó hoàn toàn bất ngờ. Maria đã ra đường phố thu thập một số đàn ông. Ả đã tìm thấy họ nằm uể oải nơi hiên trước và thơ thẩn ở các góc đường dưới ánh đèn. Ả đã thu thập được sáu kẻ thơ thẩn và đưa họ lên lầu. Tuổi họ từ vị thành niên cho đến năm mươi! “Tao sẽ làm mày tổn thương vì điều mày đã làm với chồng tao”. Ả đã bảo Bianca như thế và cho họ tấn công cô ta. Như mọi tội ác khác, hiếp dâm được phân hạng. Trường hợp hiếp dâm này, Judith Adler thấy, là một sự hiếp dâm để trả thù. Hiếp dâm để gỡ hòa. Hiếp dâm để trừng phạt. Tất cả sáu người đàn ông đều đã hãm hiếp Bianca. Chúng đã thực hiện nhiều lần và kéo dài theo khả năng của chúng. Chúng đã hãm hiếp cô ta cả phía trước lẫn phía sau và khi khả năng hoặc sự hăng hái của chúng hoặc bất kỳ thứ gì đã duy trì được hành động của chúng cuối cùng cạn đi, chúng bắt đầu hãm hiếp cô ta bằng các đồ vật. Thực là may, Judith suy nghĩ, vì chúng không chủ tâm giết cô ta. Nhiều cô gái trong các trường hợp tương tự đã xuất huyết đến chết. Công tác đầu tiên của nàng là đưa ra một sự mô tả chính xác của chính các hành động - cái gì và do ai. Những câu hỏi của nàng minh bạch và nàng đòi hỏi các câu trả lời cũng minh bạch. Nhưng giọng nói của nàng vẫn đều đều vì công tác của nàng không cho phép nàng bày tỏ cảm xúc và đôi khi nàng còn tự hỏi xem nàng có còn cảm thấy sự xúc động nào không nữa. Nàng đã không muốn trở thành chai đá. Mình là một người đàn bà, thỉnh thoảng nàng đã tự nhắc nhở lại như thế. Mình không phải là đàn ông. Nếu so sánh những sự xúc phạm mà người nghèo khổ gây ra cho nhau, đôi khi sẽ làm cho người giàu có có vẻ thánh thiện. Cộng thêm vào việc Maria đã hành động với tư cách giám sát và bản thân những kẻ hãm hiếp, rõ ràng là căn phòng đã đầy dẫy các quan sát viên, và Judith bắt đầu cố gắng thu thập những cái tên mà Bianca biết, không may những cái tên này đều không có họ. Dĩ nhiên, có Maria và chồng ả, Willis. “Willis có hãm hiếp cô không?” “Willis à, hắn là trọng tài đấy”. Silvia, không có họ, được mô tả là “có giọng thanh hơn tôi” đôi ba lần, khóc lóc thảm hại như Bianca và van xin các tên cưỡng hiếp buông Bianca ra. Tiny, được Bianca mô tả là “một người đàn ông mập với một mùi mồ hôi rất nồng”, đã quan sát với ngón tay cái đưa lên miệng. Judith ý thức rằng sự mô tả này có vẻ buồn cười trong lúc kể lại. Có lẽ điều ấy còn có vẻ buồn cười ngay cả trong một phòng xử án nữa. Nhưng đối với nàng nó chẳng có vẻ gì là buồn cười cả. “Cô phải tránh xa khách sạn ấy ra”, Judith ngẩng lên từ những điều ghi chú của nàng và khuyên cô gái. “Vì nếu họ hiểu được cô đã đến với tôi, họ có thể tìm cách hãm hại cô đấy”. Hãm hại cô ta à? Có lẽ họ sẽ giết cô ta đấy. Judith ghi số điện thoại và đẩy nó qua bàn giấy. “Đây là nhà và số văn phòng của tôi” - nàng giải thích. “Nếu cô đánh mất, tôi vẫn còn trong sổ sách. Nếu cô trông thấy bất kỳ ai trong số những người này, nếu có ai quấy rầy cô, tôi muốn cô gọi tôi ngay. Cô hiểu không? Hãy gọi tôi bất kỳ giờ nào bất luận ngày hoặc đêm”. Khi nữ thám tử đưa Bianca ra khỏi văn phòng, phụ tá chưởng lý quận Adler gấp tập hồ sơ, nhưng không bỏ vụ án lại. Dù rằng chẳng có gì nhiều để tiếp tục, nàng quyết định dù sao cũng phải theo đuổi nó. Nàng định đưa hai thám tử da đen đến khách sạn. Nếu Maria, Tiny hoặc Silvia vẫn còn đấy có thể bị nhận diện, và nếu Bianca tìm được địa chỉ và nhớ gọi đến, lúc ấy, có lẽ có thể sắp xếp được một hồ sơ, các sự bắt giữ sẽ được thực hiện. Maria và Willis, khi bị bắt có thể khai ra tên tuổi các tên hãm hiếp. Có lẽ thế mới có thể mong xét xử được. Có quá nhiều chữ “nếu”. Và nàng sẽ lấy đâu ra các thám tử nhỉ? Các chỉ huy trưởng cảnh sát không muốn đưa người ra cho những vụ án ưu tiên thấp như vụ này. Nàng sẽ tán tỉnh nhiều đấy. Vụ án tiếp theo hơi khá hơn. Bà nội trợ người da trắng ba mươi tám tuổi cũng ngồi vào cùng chiếc ghế như Bianca. Có một vết xây xát phía trên gò má bà ta và những vết khâu đen nơi khóe miệng. Bà cố gắng nở một nụ cười thê lương, dường như lúng túng vì đã gây ra nhiều sự phiền nhiễu, và nụ cười này có vẻ rộng một phân về một bên khuôn mặt bà ta hơn phía bên kia. Bà ta trông không xấu quá, Judith nghĩ như thế. Không như một số người mình đã gặp. Những người mà chỉ có những kẻ điên rồ thực sự mới tấn công. Bà nội trợ đã bị ve vãn trong lúc đang thả bộ tại Công viên Trung ương. Bà ta đã bị lôi vào bụi và bị hãm hiếp. Bà ta đã la hét nhưng chẳng ai đến cả. Bà ta đã được xem các quyển album của những kẻ thường hay tấn công về tình dục, nhưng chẳng thể nào chỉ ra được kẻ nào đã tấn công mình. “Bọn hiếp dâm là những tên tái phạm”. Judith Adler bảo bà ta. Lần sau hắn có thể bị bắt và chúng tôi sẽ mời bà xuống và bà cố gắng chỉ ra hắn. Hình như chẳng có gì nhiều cho người đàn bà để đổi lại những gì bà ta phải chịu. Khi viên nữ thám tử đã dẫn bà ta ra, ông Katz bước vào với một tờ giấy ghi lại các cú điện thoại. Ông Katz là thư ký của nàng, một người đàn ông trạc lục tuần đội một chòm tóc giả không thích hợp. Ông ta đã đến làm việc đầu tiên tại văn phòng luật sư quận từ hơn ba mươi năm trước. Trong những ngày ấy, mọi người kể cả các thư ký, đều phải là đàn ông. Vào lúc Judith Adler tốt nghiệp trường luật - chỉ độ một chục năm trước thôi - vẫn chỉ có sáu người phụ nữ trong một ban nhân viên gồm trên hai trăm công tố viên, nhưng họ không được giao vụ nào để khởi tố cả. Dĩ nhiên bây giờ không phải kiểu như thế. Khi xin việc tại đây, Judith còn trẻ, mặt non choẹt và nhiệt tình, và viên chưởng lý quận lúc ấy, một ông già tao nhã, không muốn thu nhận nàng. Nàng vẫn còn nhớ rõ chiếc áo nàng đã mặc ngày ấy, nàng đã cố gắng thật đẹp để làm cho nàng trông được mắt ông già. “Công việc của chúng tôi quá hào nhoáng đối với một phụ nữ trẻ”, ông đã bảo nàng như thế. Nàng đã tranh luận, thuyết phục và nài nỉ. Cuối cùng, hình như trái với lương tri của ông, ông đã nhận nàng. Ông già có lý, bây giờ Judith nghĩ lại. Nó hào nhoáng - còn hào nhoáng hơn cả bất kỳ ai bên ngoài có thể đoán được. Một trong những câu nhắn trên điện thoại, ông Katz bảo, có vẻ đặc biệt, và ông trao nó cho nàng: một đại úy thuộc cảnh sát tiểu bang New Jersey đã gọi: “Ông ta chỉ muốn đích thân nói chuyện với bà thôi. Ông ta bảo rằng có việc khẩn cấp”. Phụ tá chưởng lý quận Adler, với một đầu óc nặng trĩu vì những người đàn bà bị bạo hành, muốn có một sự thay đổi, bất kỳ sự thay đổi nào, dù chỉ là thoảng qua, nên nàng lật qua bức điện khẩn và tò mò. “New Jersey à?” “Hãy gọi điện thoại cho ông ấy”, nàng bảo Katz. Ông ta gật đầu và đi ra. Khi nút trên điện thoại của nàng bật sáng, nàng đập vào nó. “A lô”, nàng gọi. Nghe giọng phụ nữ ở đầu dây, người đàn ông ở đầu kia không chấp nhận. Ông ta chỉ nói chuyện với chính phụ tá chưởng lý quận hiện tại, ông ta nhấn mạnh. “Đây là người ấy đấy”, Judith bực mình nghĩ. Rõ ràng là viên cảnh sát đã mong được nói chuyện với một người đàn ông. Ít năm trước, có lẽ ông ta cũng nói như thế; giờ đây, Judith ghi nhận một lần nữa, những người như thế, chỉ đối xử với nàng bằng một sự im lặng hơi kéo dài thôi. “Tôi là đại úy Sample”, giọng đàn ông cuối cùng lên tiếng. “Bà có thể ra khỏi chỗ đấy không? Chúng tôi có điều quan trọng để thảo luận với bà”. Và ông ta đợi. “Tốt hơn ông nên tường trình cho tôi đi”, Judith nói. Sau khi đã mất hứng thú nơi đại úy Sample, nàng bắt đầu lật qua các bức điện khác. Các luật sư cho các bị cáo, ủy viên công tố trừng phạt rắc rối với một tù nhân, có lẽ thế. Văn phòng thị trưởng. Chánh án hành pháp. “Tôi không muốn nêu vấn đề ấy ra trên điện thoại”, đại úy Sample nói. Câu này cũng làm Judith bực mình. Các cảnh sát viên về một vụ án thích cho là mọi đường dây điện thoại của họ đều bị nghe lén cả. “Tôi hơi bận,” nàng đáp cộc lốc. “Nếu ông muốn đến đây, tôi có thể cho ông một cuộc hẹn vào ngày mai hoặc ngày kia”. Sample cố gắng buông một tiếng cười trấn an. “Tôi không nghĩ rằng tôi có thể tìm ra văn phòng của bà. Bà sẽ phải đưa một chiếc xe cảnh sát đến đầu đường hầm để đưa tôi vào đấy.” Judith quả quyết “Nếu không…” Có một sự im lặng khác trong lúc lời đe dọa của nàng về đến đích. Cuối cùng Sample thở dài. “Hai người đàn ông định buộc cô gái trẻ này vào một chiếc xe” ông ta nói. Ông ta có một giọng nói khàn khàn và một âm điệu cứng. “Và một người của tôi ngẫu nhiên lái xe ngang qua, thế đấy. Chúng tôi bắt hai thủ phạm, và trong cốp xe của họ, bà biết chúng tôi đã tìm ra thứ gì không?” Judith đã quyết định sẽ gọi chánh án hành pháp ngay sau đó. Một vấn đề thuộc thời khóa biểu, nàng đoán như thế. Điều ấy có thể thương lượng trên điện thoại. “Tôi không biết”, nàng nói với đại úy Sample, “ông đã tìm ra điều gì thế?” “10 kilo hasit”, ông ta nói với vẻ đắc thắng. “Hay đấy”, Judith nói. Kế đấy nàng phải dự hai buổi thuyết trình pháp đình, buổi đầu tiên còn năm phút nữa - và trên tầng mười lăm. Sample, như hầu hết các cảnh sát viên của các thành phố nhỏ, bị hăm dọa một cách dễ dàng. “Tôi biết điều ấy không có vẻ gì là nhiều tại New York đâu”. “Ma túy không phải phần hành của tôi”, Judith nói. Nàng không muốn làm tổn thương cảm tình của Sample nhưng tốt nhất nàng nên cắt gọn vấn đề này. “Và New Jersey ngoài quyền xử lý của tôi.” “Chúng tôi có một tờ lệnh xét nhà họ”, Sample vội nói, “và bà nghĩ chúng tôi đã tìm được thứ gì nhỉ?” Lần này ông ta không chờ câu trả lời. “Độ hơn hai mươi cuộn video cassette về các cuộc hiếp dâm hiện nay. Các cô gái trẻ. Các cô người mẫu. Các cô thỏ Playboy. Các cô gái trẻ đẹp”. Giọng ông ta nghe như một cô quảng cáo trình diễn thoát y. “Nhưng các cuộc hiếp dâm đều xảy ra tại New York. Tôi muốn bà ra khỏi đây và nhìn qua các cuộn băng. Bà có định đến không?” Judith thôi lật các tờ giấy ghi lại những cú điện thoại của nàng. “Vụ án ma túy cũng có thể đưa về lại đây nữa”, Sample nói, ông ta cố gắng làm cho ngọt miếng mồi. Ông ta là một viên cảnh sát của một thành phố nhỏ đang có trong tay một vụ án hiếp dâm lớn, Judith nghĩ, ông ta không biết phải đối phó như thế nào với nó, ông ta đang cầu xin sự giúp đỡ. Rồi nàng nghĩ: ông ta chỉ hứng thú vì các nạn nhân đều hấp dẫn. Điều này làm phật ý nàng. Trong lúc các nguyên nhân lướt qua, điều ấy gây khó chịu. Giả sử các nạn nhân đều là các bà già thì sao? Các bà già cũng bị hãm hiếp nữa, nàng muốn bảo Sample như thế. Các bà nội thường đến đấy, nàng nghĩ thế. Họ không còn tự xem mình là đối tượng tình dục, đã nhiều năm rồi và sự xúc động chính của họ trong lúc họ kể lại câu chuyện của họ, trong lúc mô tả điều bọn đàn ông đã làm với họ là sự sợ hãi rằng mình sẽ cười. “Vậy bà định đến không?” Sample bảo. Giọng ông ta có vẻ nài nỉ. Điều ấy rất yếu vì những người mạnh bạo, những viên cảnh sát mạnh bạo, bất kỳ giá nào đều không nài nỉ - hoặc Judith cho rằng như thế. Nhưng điều ấy vẫn có và nàng hiểu được. Mình nên suy nghĩ điều này ít phút trước khi chối từ. Nàng tự nhủ. Mình nợ ông ta nhiều như thế đấy. “Để tôi xem người ta có gì cho tôi ở đây đã”, nàng nói. “Tôi sẽ trở lại với ông sau”. Trong lúc nàng đi vội lên tầng 15, chuyện ấy vẫn bám theo nàng. Buổi đầu tiên trong hai buổi nghe thuyết trình của nàng liên quan đến một tay thanh niên làm việc lặt vặt rất mập, đầu óc chậm chạp ngụ trong một tòa nhà ở phía tây. Ba tuần trước, vì một lý do chẳng ai xác định được là gì, hắn đã hiếp dâm một bà chủ nhà với một con dao để uy hiếp. Khi hắn không duy trì được tình trạng cương cứng, hắn bắt đầu đâm bà ta. Sau đấy tên thanh niên đi đến chỗ mẹ hắn và đưa cho bà mớ quần áo vấy máu của hắn để giặt. Bà đã gọi cảnh sát. Bây giờ luật sư của hắn cố gắng giữ hắn trong phòng bệnh tâm thần, cách ly các tù nhân thông thường với lý do rằng hắn tròn trĩnh và mềm như bất kỳ phụ nữ nào và đúng là không tự bảo vệ được về phương diện thể chất. Mỉa mai trên cả các sự mỉa mai: trong tù hắn sẽ bị hiếp dâm. Judith khăng khăng đòi các điều luật thích hợp. Nếu không nàng không phản đối gì cả. Buổi thuyết trình thứ nhì trong một phòng xử án bên cạnh, liên quan đến một người đàn ông da đen trung niên, lực lưỡng, vừa mới ra tù chỉ có ba tuần lễ. Không có tiền bạc và nghề nghiệp gì cả, duy nhất chỉ có bộ quần áo mà hắn vẫn còn mặc ở tòa án ngày hôm nay, cộng với nhiều cái đói khác nhau của hắn, hắn được thả lỏng trên xã hội. Trong hai tuần lễ tự do, hắn đã hãm hiếp hai người lạ trong hành lang của các tòa nhà. Cả hai đều giống những cuộc hiếp dâm trong tù - những cuộc đương đầu nhanh, tàn bạo rõ ràng là loại tình dục duy nhất mà người này biết hoặc có thể cảm thấy thoải mái. Bây giờ bị cáo lơ đễnh nhìn lên mặt bàn trong lúc luật sư của hắn nói với thẩm phán rằng quyền công dân của thân chủ ông ta đã bị xâm phạm, bắt giữ hắn là trái luật. Viên sĩ quan bắt giữ đã thiếu lý do có thể có được và hồ sơ mà cả hai nạn nhân đã tố giác thân chủ của ông đã được sắp xếp một cách không thích đáng. Đây là một trong nhiều vụ hãm hiếp chưa giải quyết mà chi tiết Judith còn đang mang trong đầu. Trước tòa nàng tranh luận rằng, trái lại, vụ án này tiêu biểu cho công việc có tính nguyên tắc cao nhất của cảnh sát và nàng giải thích rõ tại sao. Rồi nàng đưa chàng sĩ quan hình sự trẻ lên bục. Đầu tiên nàng chất vấn anh ta, rồi viên luật sư thẩm vấn chàng thật gắt gao. Hầu như đây là một cuộc xét xử đại qui mô, chỉ thiếu có bồi thẩm và tuyên án thôi. “Thưa quí tòa”, viên luật sư kết luận, “thân chủ của tôi bị bắt chỉ vì ông ấy là một người da đen trong một vùng phụ cận da trắng. Việc ông ấy bị bắt nặng mùi ngất trời. Tôi muốn nôn ra đây”. Chánh án giữ lại quyết định, điều đó ngầm bảo rằng ông ta có thể có quyết định cuối cùng là ra lệnh phóng thích bị cáo. Điều này xảy ra quá thường. Judith có lẽ cũng phải sốt ruột vì vụ án này và nàng đã thường sốt ruột chờ đợi rất nhiều rồi. Trong lúc ấy, bị cáo lại bị còng tay chỉ đứng cách nàng không đầy mười foot. Nếu một người là một tên hiếp dâm, nàng nghĩ trong lúc quan sát hắn, điều ấy phải được rõ ràng. Người ta có thể đoán ra được bằng cách nhìn hắn. Nhưng chẳng có gì lộ ra cả. Các tên hiếp dâm trông cũng chẳng khác gì người khác. Các tên sát nhân cũng thế. Điều ác không thể nhận ra bằng một cái liếc mắt được. Đây là lý do khiến chúng ta có hai phòng xử. Đấy là một cách tốt nhất mà chúng ra có thể làm được. Chàng cảnh sát trẻ đứng bên cạnh nàng. “Viên luật sư ấy”, viên cảnh sát cố ý nói, “ông ta cừ đấy, đúng không?” Chính những luật sư như thế đã đầu độc hầu hết các cảnh sát viên chống lại nghề nghiệp của nàng, và Judith biết điều này. Nhưng nàng không có ý định nào để phỉ báng các luật sư - bất kỳ luật sư nào - trước mặt các cảnh sát viên, nên nàng mỉm cười với viên cảnh sát, bắt tay anh ta và anh ta bỏ đi. Nàng còn một công việc nữa để làm trên tầng này nên nàng bước qua hai cánh cửa, đi dọc theo hành lang và bước vào một phòng xử ở đó một cuộc xử án đang tiến hành. Mặc dầu chỗ ngồi đều chật ních - bồi thẩm, chánh án, ban bào chữa, công tố, tốc ký, một số lính canh phòng xử có vũ trang - khu vực dành riêng cho người dự thính hầu như trống rỗng. Bao nhiêu là ghế mà chỉ có nàng và ba người khác. Có lẽ là một cuộc xử giả hiệu. Trong những căn phòng như thế này trên khắp đất nước, nền dân chủ được bênh vực từ ngày này sang ngày khác. Báo chí và các công dân, trừ trong một số ít vụ án nổi bật, chẳng chú ý gì cả. Chẳng lạ gì, nàng nghĩ, vì sao hệ thống làm việc không khá hơn mấy. Nàng chiếm một chiếc ghế gần cánh cửa nàng vừa bước vào và đặt hai tập hồ sơ nặng trên chiếc ghế bên cạnh. Công tố viên là chàng thanh niên Benjamin Goldberg. Chàng đang thẩm vấn một nữ nhân chứng trên bục, nhưng khi chàng nhìn lên và trông thấy Judith, chàng tặng nàng một nụ cười ngắn. Chàng trông có vẻ hài lòng vì nàng đã lên. Benjy vừa tốt nghiệp trường luật và mới hai mươi bốn tuổi. Chàng là công tố viên trẻ nhất ở ban của nàng. Nhưng họ đều còn trẻ cả - người lớn tuổi nhất trẻ hơn Judith nhiều. Họ hưởng lương kém, nhiệt tình, siêng năng và so với các luật sư bào chữa mà họ đương đầu, họ thiếu kinh nghiệm một cách thảm hại. Trong những phòng xử trống rỗng như thế này, sự có mặt của Judith chứng tỏ cho Benjy và những người khác thấy rằng lãnh đạo quan tâm đến - rằng có ai đấy quan tâm đến là điều quan trọng. Vụ án ở đây liên quan đến chuyện hiếp dâm bằng hậu môn của một cậu bé năm tuổi do một tên đốn mạt năm mươi hai tuổi ở vùng phụ cận, một người đàn ông có một tiền án hai mươi hai năm về tội tình dục. Người đàn bà trên bục chắc là người mẹ. Benjy xử sự với nàng gần như mỗi ngày một khá hơn. Không như nhiều công tố viên trẻ, chàng là một người có năng khiếu tự nhiên. Chàng sẽ trở thành một luật sư tòa án thành công. Chẳng còn gì nhiều để nàng có thể góp ý cho chàng, vấn đề duy nhất của chàng sẽ là chính bản thân đứa bé. Đứa bé năm tuổi có còn nhớ điều đã xảy ra với nó không? Judith đã đưa ra xử càng sớm càng tốt. Tuy nhiên, vấn đề ấy phải mất sáu tháng, đứa bé có chỉ được kẻ tấn công nó không, hay tên đốn mạt sẽ lại tự do. Và sẽ tấn công một cậu bé nào đấy vào ngày mai hoặc tuần sau? Trong lúc đứng trong thang máy xuống văn phòng của nàng, Judith cảm thấy bực dọc. Nàng thấy luật chỉ là điều không hoàn hảo, vô hiệu và hầu như lúc nào cũng hoàn toàn không có hiệu quả dù rằng đấy là tất cả những gì nền văn minh có được. Yêu luật, và nàng quả tình yêu nó, như yêu một người không yêu mình. Cuộc đời nàng chỉ qua được một nửa thôi. Cuộc đời của nàng có lẽ mới một nửa - nàng ba mươi bảy tuổi - và nàng đã hoàn thành được gì? Điều nàng cần thật sự, nàng tự nhủ, là một lúc nào đó được rời bỏ văn phòng và ngay cả rời bỏ thành phố, không bận bịu những việc ở đây. Một buổi chiều một mình ở vùng quê bắt đầu làm cho nàng cảm thấy là một thú vui hiếm hoi nhất của cuộc đời. Khi nàng bước vào phòng trước của nàng, ông Katz đưa thêm cho nàng một số lời nhắn trên điện thoại. Chẳng có cái nào khẩn cấp cả, ông bảo. Judith, với hai hồ sơ vụ án kẹp dưới cánh tay, lật qua các bức điện, nhưng trí óc nàng để ở nơi khác. Nàng đang nghĩ đến cú điện thoại của cảnh sát tiểu bang New Jersey. Tại sao nàng không đến đấy trong một giờ và giúp đại úy Sample về những vụ án hiếp dâm mà ông ta nắm được nhỉ? Đấy là một chuyến đi có lý. Có một loạt cửa hàng mua sắm trên đường số 17. Ngoài ấy sẽ có ao hồ, rừng và không khí trong lành để thở. Nàng bỗng bảo ông Katz điện thoại cho Sample xin hướng dẫn. Hôm nay là thứ ba. Ông ta hẹn nàng vào chiều thứ năm. Nàng có nên đi một mình không, nàng tự hỏi, hoặc nên nhờ một cảnh sát trưởng cùng đi với nàng? Nếu thế thì ai đây? Về chiều, các cuộc xét xử đình lại. Tòa án đã kết thúc ngày làm việc. Các bồi thẩm đi phố. Các luật sư biện hộ đang bám vào những chiếc Cadillac của họ. Các thẩm phán đang treo áo trong phòng mình. Chỉ có những luật sư phụ thẩm quận trẻ, lương ít vẫn còn làm việc. Họ đã xuống lại văn phòng nơi họ sẽ làm việc thêm về các vụ án, một số người trong bọn họ còn làm việc đến khuya nữa. Các cuộc thẩm vấn phải được chuẩn bị, các bản tóm tắt phải được tu sửa lại. Họ như những diễn viên thiếu kinh nghiệm tập dợt lại giữa các màn trình diễn. Các nhân chứng cho ngày mai phải được tiếp xúc và phỏng vấn lại. Trong một số vụ, phải đưa thám tử ra truy lùng một nhân chứng thiếu hoặc một bằng chứng cuối cùng. Trời về chiều đã lâu, bỗng một số công tố viên trẻ được bổ nhiệm đến cho Judith cùng bước vào văn phòng nàng. Mỗi đêm trước khi về nhà, nàng muốn biết mỗi vụ án của họ đang diễn tiến thế nào, và lúc này họ có năm vụ, cộng với một vụ thứ sáu mà bồi thẩm vẫn còn vắng mặt. Tất cả những vụ này đều thuộc trách nhiệm của nàng. Nếu có vấn đề nào xuất hiện trong ngày, nàng muốn biết đây là những vấn đề gì. Do kinh nghiệm vượt trội của nàng, có lẽ nàng có thể ngăn chặn được một vụ án khỏi bị thua. Ít nhất nàng có thể đưa ra lời khuyến khích cho các chàng trai hoặc các cô gái đang khởi tố nó. Judith ngồi ở bàn giấy và họ vây lấy nàng và nàng hài lòng vì có họ ở đấy. Nàng mong muốn có những cuộc họp này hằng đêm. Đây là con cái của mình, nàng tự nhủ. Ông Katz đã mang vào một khay cà phê bằng các tông với những chiếc tách styrofoam. Các tách cà phê được chia ra và khuấy lên, đồng thời cuộc thảo luận bắt đầu. Đèn được bật lên. Bầu không khí trong phòng thân thiện, nhưng cũng căng thẳng. Các cuộc xử đều xúc động. Cuộc sống và nghề nghiệp của dân chúng đang bị đe dọa. Những biến cố kinh khủng đang được xét xử. Đa số các cuộc xét xử có vẻ đang diễn tiến tốt đẹp. Chỉ có Brian Crawford đã gặp phải một vấn đề nghiêm trọng; Chàng đứng tựa lưng vào tường, trông buồn bực. “Nhân chứng chính của tôi, nạn nhân, con bé tóc hoe bẽn lẽn ấy,” chàng thốt lên, “cô ta vừa gây trở ngại cho vụ án của tôi đấy.” Đối với các công tố viên này các cuộc xét xử giống như cuộc đời, hoàn toàn không tiên đoán được. Thủ tục tòa án theo đúng cách, nhưng tư cách các nhân chứng thì không. Phản ứng của các bồi thẩm cũng không. Các điều gây ngạc nhiên đều phổ biến. Các nhân chứng quên các câu của họ và ứng khẩu ra những câu mới. Một số đâm sợ hãi và thay đổi câu chuyện của họ. Một số cứng miệng. Các bồi thẩm tin một số và không tin số khác thì vì những lý do thách đố lương tri. Kết quả các vụ không bao giờ có thể tính trước được. Cuộc phiêu lưu hằng ngày của công việc xét xử đối với các luật sư trẻ này là một sự mê hoặc vô tận, và các đồng nghiệp của Crawford đang chờ để nghe bất kỳ điều kinh khủng nào ở pháp đình mà chàng sắp mô tả ra. “Tôi đã bảo cô ta”, Crawford nói, “chỉ ra người đàn ông đã hãm hiếp cô ta”. Có một sự im lặng bi thảm. “Cô bé tóc hoe e lệ này”, Crawford bảo, “chỉ hắn và la hét om sòm, “thằng chó ấy đấy”. Có một sự im lặng trong văn phòng Judith. Rồi mọi người bắt đầu cười. “Tôi không thể nào tin được tai mình,” Crawford bảo. Tiếng cười chấm dứt. Sự thông cảm của bồi thẩm đoàn là một chuyện mỏng manh. Nhưng không có nó các luật sư bảo là bạn thua vụ án. “Và hãy đợi”, Crawford bảo, “cho đến lúc bạn nghe điều cô ta nói tắt ngang.” Tất cả bọn họ đều biết các vụ án của nhau và bây giờ trong tâm trí họ, họ dừng lại để xem lại vụ án của Crawford. Bị cáo gõ cửa với lý do hắn là người trừ chuột. Cô bé e lệ cho hắn vào. Hắn chộp lấy một con dao ở tủ búp phê và hãm hiếp cô ta. Đấy là câu chuyện của cô ta suốt trong các cuộc phỏng vấn trước khi xét xử. “Không may,” Crawford bảo, “điều mà người trừ chuột làm là hắn đặt con dao xuống và bảo với cô ta là, tôi có thể đặt tay lên ngực cô không? Cô ta nói, cái gì đây, hiếp dâm à? Vì nếu như thế, chúng ta khắc phục nó.” Thế rồi cô ta bắt đầu cởi quần áo mình ra.” Một trận cười, sau đó im lặng. “Ngày mai anh thử thẩm vấn lại cô ta một lần nữa xem sao”. Judith xoa dịu anh ta. “Vâng, nhưng tôi phải nói gì?” Các công tố viên khác bắt đầu khuyên bảo. Câu chuyện được luật sư đoàn gợi ra ngày hôm sau hoàn toàn không tương xứng với điều kinh hoàng. Crawford có thể đưa lên bục một bác sĩ tâm thần để xác nhận điều ấy. Nhiều cái tên được đề nghị với chàng. “Nhưng cô ta đã gọi bị cáo là một tên “đít lừa”, Crawford bảo. “Bồi thẩm đoàn không còn xem cô ta là một cô bé tóc hoe e lệ nữa.” “Người đàn ông đã hãm hiếp cô ta đang đứng cách cô ta chỉ có ba thước,” Judith Adler vỗ về. “Cô ta vẫn còn bị hắn làm hoảng sợ. Trong sự kinh hoàng, cô ta gọi hắn bằng một từ thô lỗ.” Mọi người bắt đầu cười lại. “Đấy không phải là một cô bé tóc hoe đoan trang dùng một từ thô lỗ.” Judith bảo, “đấy là một nạn nhân hãm hiếp bị hoảng sợ.” Nàng nhìn quanh đến những người kia. “Marcy?” nàng bảo. Marcy Miller, người phụ nữ thứ hai duy nhất ngoài nàng hiện diện, đang xét xử một nha sĩ đã gạ gẫm nữ bệnh nhân bằng thuốc mê. Vụ án này diễn tiến tốt đẹp, nàng nói. Và trong vụ xử chuyện hiếp dâm bằng hậu môn của một tội nhân tình dục do thói quen, Benjy Goldberg đã đưa cậu bé năm tuổi lên bục chiều hôm nay và đã bắt đầu thẩm vấn trực tiếp. Đứa bé có được một lúc chú ý độ 60 giây. Nó đã ngồi vào ghế nhân chứng, hớp coca-cola và cười với mẹ nó cuối phòng xử. Các câu hỏi phải được lặp lại đôi ba lần nó mới có thể hiểu được và trả lời. Ngày mai Goldberg định bảo nó nhận diện bị cáo ở phòng xử công khai và chàng lo lắng. “Hãy cho nó đứng xa chiếc ghế nhân chứng,” Judith đề nghị. “Hãy bảo nó diễn lại vụ án - bị cáo đã đưa nó vào hẻm bằng cách nào, và hắn đã làm gì. Hãy bảo nó diễn lại. Tôi đã thử điều ấy trước kia với các em nhỏ. Điều ấy có vẻ hợp với chúng đấy.” Cánh cửa mở ra và ông Katz thò đầu vào phòng. “Vụ Ligouri đã có quyết định rồi,” ông thông báo. Tất cả bọn họ đều biết vụ án này nữa. Bồi thẩm đoàn của vụ Ligouri, đã thảo luận kỹ trong hai ngày. Katz bỗng nở một nụ cười thoải mái. Và hắn đã có bản án của hắn. “Trong vòng ít phút nữa,” Crawford bảo, “hắn sẽ vào đây và khoác lác rằng bản tóm tắt của hắn lớn lao như thế nào đấy.” Mọi người đều mỉm cười. “Tôi không hiểu tại sao bồi thẩm đoàn để lâu thế,” Judith trầm ngâm nói. Ngay lúc ấy cánh cửa bị giật ra sau và Anthony Ligouri, hai mươi bảy tuổi, đứng với vẻ đắc thắng trên ngưỡng cửa, đấm ngực, như Tarzan trong một bộ đồ ba mảnh. Những người kia cổ vũ chàng. “Tôi nghe bồi thẩm đoàn đã muốn kết tội anh thế nào đấy,” Benjy Golberg bảo. “Đấy là kết luận của anh”, Crawford nói. “Theo như tôi nhớ,” Benjy Goldberg bảo, “bị cáo hãm hiếp cô ta đứng dựa vào thành sau của một chiếc thang máy, lúc cửa mở và có hai cảnh sát viên đang đợi vào thang máy. Hiếp dâm có nhân chứng. Vậy tại sao bồi thẩm đoàn phải mất hai ngày nhỉ?” Ligouri, ngồi trên bệ cửa sổ của Judith, lau mồ hôi tưởng tượng trên trán. “Tôi đã nói chuyện với một người trong bồi thẩm đoàn sau đấy. Tôi đã suýt thua vụ án. Nạn nhân xác minh, chuyên viên phòng thí nghiệm và bác sĩ thực tập nội trú xác minh. Âm hộ của cô ta hoàn toàn bị trầy trụa. Còn cả tinh dịch nữa. Chúa ơi. Nhưng bồi thẩm số chín không tin rằng sự hãm hiếp xảy ra ở tư thế đứng như mô tả. Ông ta chống lại trong hai ngày. Không thể được, ông ta bảo. Ông ta là một công nhân bưu điện về hưu. Theo ông ta, sự giao hợp ở tư thế đứng không thể thực hiện được.” “Và anh hỏi tại sao thư từ chuyển quá chậm,” Crawford lên tiếng. Mọi người cười vang. “Các bồi thẩm kia tranh luận với ông ta hai ngày,” Ligouri bảo. Có bốn phụ nữ trong bồi thẩm đoàn ấy, tất cả đều có tuổi cả. Cuối cùng một trong số người ấy đứng dậy và bảo ông nhân viên bưu điện rằng ông ta sai, giao hợp ở tư thế đứng vẫn có thể thực hiện được. “Bà biết cách nào không?”, ông ta tra gạn. Và bà già tóc xám này bảo rằng: “Vì tôi đã đích thân làm như thế ở tư thế đứng.” “Điều ấy chắc gây thương tổn cho bà ta,” Judith lẩm bầm. “Ông nhân viên bưu điện vẫn không chịu,” Ligouri nói, “Nên các bà kia lần lượt đứng dậy và nhận rằng họ cũng đã làm điều ấy ở tư thế đứng. Cuối cùng, ông nhân viên bưu điện chịu thua và tôi có lời buộc tội.” Tất cả bọn họ đều cười vang, nhưng Judith thấy rằng họ cũng không được thoải mái. Dù rằng họ còn trẻ, tất cả đều đã lập gia đình. Ngay cả Marcy cũng có gia đình, còn Judith thì không, nên chuyện đùa cợt về tình dục trước sự hiện diện của nàng làm cho họ không được thoải mái như thể nàng là mẹ của họ. Đấy là con cái của nàng và nàng hãnh diện về tất cả bọn họ. Tuy vậy, đôi khi họ làm nàng có cảm giác nàng là gái già. Khi về nhà, nàng đi tắm ngay. Nàng sống trong một căn hộ phía tây công viên trung ương và đêm nay, như mọi đêm, đi tắm là một hành động hết phiên trực đầu tiên của nàng. Nàng kỳ cọ người kỹ lưỡng. Nàng tẩy rửa bụi bặm trong ngày và mồ hôi ở thân thể hay cố gắng rửa sạch bụi bặm trong tâm hồn nàng đây? Điện thoại reo. Sau khi bước ra nhà tắm, nàng lấy chiếc khăn lớn quạt nhanh lên người ít cái rồi bước vào phòng ngủ và trả lời. Da thịt của nàng vẫn còn bốc hơi yếu ớt, và nàng nắm chặt chiếc khăn ở một tay. “Alô?” Vẫn là một người khác trong số các công tố viên trẻ của nàng. David Reidy. Văn phòng nàng có người, 24/24. David trực đêm nay và một vụ án vừa đến - một nữ luật sư làm việc khuya bị hãm hiếp ngay trên bàn giấy của cô, do người thợ chữa điện của tòa nhà. David muốn được nàng khuyên bảo và nàng cho ý kiến. Rồi nàng đi tắm lại. Nàng đứng dưới vòi nước. Judith mặc pyjama và một chiếc áo khoác ngoài và tự đi sửa soạn bữa tối. Sau đấy nàng xem TV một lúc, rồi lên giường nằm, với tờ New York Times gấp lại ở phần đố ô chữ và đầu một cây bút chì cắn ở răng. Khoảng nửa đêm, nàng tắt đèn.   Mời các bạn đón đọc Bàn Tay Kẻ Lạ Mặt Tập 1 của tác giả Robert Daley.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Phái Viên Mật - Graham Greene
Đây không phải là cuốn trinh thám dạng "giải trí", không gay cấn, hồi hộp...mà nặng nề, ám ảnh, day dứt, phiền muộn. *** Graham Henry Greene (2 tháng 10, 1904 - 3 tháng 4, 1991) là tiểu thuyết gia người Anh. Ông sinh tại Berkhamsted, Hertfordshire, Anh quốc, là con của một hiệu trưởng, và theo học Đại học Oxford. Ông làm việc cho tờ báo London Times trong giai đoạn 1926-1929 (từng làm tổng biên tập) rồi hành nghề ký giả tự do. Năm 1935, ông nhận chân điểm phim cho tờ Spectator, và đến 1940 nhận chân chủ bút văn học. Trong thời gian 1942-1943, ông phục vụ Bộ Ngoại giao Anh ở miền đông châu Phi. Sau Thế chiến thứ Hai (1939-1945), ông đi đến nhiều nơi. Ông viết nhiều, là một trong các tác giả tiêu biểu của văn học Anh thế kỷ XX. Tác phẩm đầu của ông được xuất bản năm 1925. Graham Greene khởi đầu sự nghiệp văn chương với những sách thuộc loại “giải trí” vì thuộc thể loại hành động, như truyện gián điệp. Dần dà, ông mới chuyển qua thể loại “tiểu thuyết,” nổi tiếng nhất là The quiet American (Người Mỹ trầm lặng - 1955), gần đây được dựng thành phim hợp tác với điện ảnh Việt Nam (15 tiểu thuyết của ông đã được dựng thành phim). Ông cũng viết một kịch bản dành riêng cho phim truyện, và một số tác phẩm cho trẻ em. Graham Greene có xu hướng viết về những đấu tranh tâm linh trong một thế giới đang mục rữa. Tác phẩm của ông có đặc tính đi vào chi tiết sống động, và lấy bối cảnh đa dạng ở nhiều nơi (Mexico, châu Phi, Haiti, Việt Nam), miêu tả nhiều nhân vật sống dưới những áp lực khác nhau về xã hội, chính trị hoặc tâm lý. Tác phẩm cuối cùng, A world of my own: A dream diary (1994), được viết trong những tháng cuối cùng trong cuộc đời của tác giả, có tính nửa hư cấu nửa tự thuật dựa trên 800 trang tác giả ghi lại qua 24 năm.   Mời các bạn đón đọc Phái Viên Mật của tác giả Graham Greene.
Ngôi Nhà Số 12 - John Milne
Nancy bốn mươi sáu tuổi, một người phụ nữ trầm lặng, cô đơn, sống cô độc trong ngôi nhà và mớ tài sản do cha mẹ cô để lại. Chẳng có người bạn nào bên cạnh, Nancy đến Eastbourne để nghỉ dưỡng và kiếm bạn mới. Và cô đã gặp được Henry John, xấp xỉ ngũ tuần, góa vợ và đang sống cùng người em Isobel Jones trong một thị trấn nhỏ gần London. Cuộc gặp gỡ với Henry đã khiến Nancy nghĩ rằng từ nay cô sẽ không bao giờ phải cô đơn nữa. Nhưng Nancy đâu ngờ rằng, sau hôn lễ lặng lẽ, một cuộc đời bi đát hơn đang chờ đợi cô trong ngôi nhà mang số 12 đại lộ Rừng Sồi... Tình tiết nhanh, ngắn gọn, John Milne một lần nữa mang đến độc giả một bí ẩn mới đậm chất John Milne như đã từng gặp trong các tác phẩm như Con mèo đen, Đường hầm, Oliver Twist,... Liệu văn phòng thám tử Terry Mason và những người bạn của mình có phát hiện ra được bí mật đen tối trong ngôi nhà số 12? Liệu Nancy có thoát khỏi căn nhà u ám đó trước khi quá muộn hay chịu nằm chờ chết trong tuyệt vọng? Tất cả còn chờ các bạn độc giả cùng khám phá. *** Những nhân vật trong truyện Nancy Robert là một thiếu phụ bốn mươi tuổi. Cô ta đã sống cùng gia đình nhiều năm ở Ấn Độ. Đến năm 1970, gia đình cô chuyển sang nước Anh sinh sống. Cha mẹ cô giờ đây đã chết. Nancy trở thành một người phụ nữ trầm lặng và cô đơn. Henry John xấp xỉ tuổi ngũ tuần và góa vợ. Vợ hắn đã mất một năm trước đây. Isobel Jones trạc tuổi Nancy. Cô ta sống với anh trai mình là Henry John trong một thị trấn nhỏ gần London. Terry Mason là một người làm công tác văn phòng nhưng anh ta không thích công việc của mình. Anh ta luôn muốn trở thành thám tử. Một ngày nọ, Terry được hưởng một số tiền từ di chúc của người cậu quá cố, và giờ đây Terry Mason đã lập một văn phòng thám tử tư. Sheila Williams là bạn của Terry Mason trong nhiều năm. Cô ta làm việc cho một văn phòng môi giới bất động sản. Bill Evans là một người giao sữa. Anh ta lái một chiếc xe chở sữa đi đến các căn hộ để giao sữa vào mỗi sáng sớm. Tom Matthews là một cậu bé bán báo mười ba tuổi. Cậu ta cũng giao báo đến các hộ trong khu phố vào mỗi sáng sớm. Bob Wilkinson là một người bạn của Terry. Anh ta làm việc tại Sở Xã Hội. Gordon Burgess là bạn của bạn Terry. Anh ta làm việc tại Tòa Thị Chính.   Mời các bạn đón đọc Ngôi Nhà Số 12 của tác giả John Milne.
Đời Tổng Thống K. Thứ Tư - Mario Puzo
Bạn đọc Việt Nam đã từng làm quen với Mario Puzo qua các tác phẩm Bố già, Sicily miền đất dữ. Đời tổng thống K. thứ tư là tác phẩm mới nhất của ông. Đời tổng thống K. thứ tư là một tác phẩm văn học hư cấu, viết về tấn bi kịch trong đời tư của một Tổng Thống Hoa Kỳ... Vừa phát hành, tác phẩm đã được báo chí và các phương tiện thông tin đại chúng ở Hoa Kỳ hết lời ca ngợi và đươợ in ở nhiều nước với nhiều thứ tiếng khác nhau. Bản dịch này, chúng tôi dịch theo bản gốc do Bantam Books tái bản năm 1992 và đồng thời in, phát hành tại Hoa Kỳ và Canada. Tác phẩm mới nhất của Mario Puzo, người đã “sinh” ra từ BỐ GIÀ đến SICILY MIỀN ĐẤT DỮ... ĐỜI TỔNG THỐNG K. THỨ TƯ, tuy có dựa vào một vài sự kiện có thật, có mang dáng dấp của một vài nhân vật có thật, nhưng như chính tác giả tuyên bố, nó vẫn là một tác phẩm hư cấu, vẫn là một tiểu thuyết văn học trăm phần trăm. Nó VIẾT VỀ TẤN BI KỊCH TRONG ĐỜI RIÊNG CỦA MỘT TỔNG THỐNG MỸ. Và cũng như hầu hết các tác phẩm của MARIO PUZO, vừa ra đời năm 1992, ĐỜI TỔNG THỐNG K. THỨ TƯ đã được các phương tiện thông tin đại chúng phương Tây chào đón rầm rộ như một sự kiện văn học trọng đại nhất trong năm. *** Oliver Oliphant đã tròn trăm tuổi và tâm trí vẫn sáng trong như tiếng chuông. Thật bất hạnh cho lão! Đấy là một tâm trí sáng trong, còn tinh nhạy tới mức khi phá bỏ rất nhiều phép tắc đạo lý, nó tẩy sạch trơn lương tâm lão. Một tâm trí xảo quyệt tới mức Oliver Opliphant chưa lần nào bị vấp những cái bẫy hầu như khó tránh khỏi trong cuộc sống hàng ngày, lão chưa hề lấy vợ, chưa từng là một ứng cử viên giữ chức vụ mang màu sắc chính trị và chưa hề có người bạn tin tưởng tuyệt đối. Oliver Opliphant, người giàu có nhất Hoa Kỳ và có lẽ là công dân ẩn dật có uy quyền nhất, đang đón đợi Christian Klee, con trai đỡ đầu của lão, chưởng lý Tối cao pháp viện Hoa Kỳ, tại dinh cơ đồ sộ có đội vệ sĩ tuyển lựa kỹ canh gác cẩn mật chỉ nằm cách Nhà trắng mười dặm. Sức quyến rũ của Oliphant không thua kém gì sự tài giỏi của lão: quyền lực của lão dựa vào cả hai điểm này. Tuy đã tròn trăm tuổi, các vĩ nhân tin tưởng khả năng phân tích của lão lũ lượt kéo tới lắng nghe lời khuyên bảo của Oliphant đông đến nỗi lão được mệnh danh là “Oracle” (1). Với tư cách cố vấn Tổng thống, Oracle đã dự đoán trước các cuộc khủng hoảng về kinh tế, các vụ sụp bể ở Wall Street, đồng đô la mất giá, cuộc tháo chạy của tư bản nước ngoài, những mức tăng vọt không thể tưởng tượng nổi của giá dầu. Lão dã sự đoán trước những bước thăng trầm về chính trị ở Liên Xô, những đường lối bất ngờ của các đối thủ trong Đảng Dân chủ và Cộng hoà. Nhưng cái chính là lão đã tích luỹ được mười tỷ đô la. Lời khuyên của một người giàu nứt đố đổ vách như vậy, thậm chí dù sai trái, cũng đều như vàng ngọc là lẽ tự nhiên. Nhưng Oracle thường dự đoán gần đúng. Bây giờ, vào Ngày Thứ Sáu Thánh Thiện này, Oracle đang bận tâm tới mỗi một điều: tổ chức lễ sinh nhật mừng ngày một trăm năm có mặt trên Trái đất này của lão. Buổi lễ sẽ được tổ chức vào Chủ Nhật Lễ Phục Sinh tại Rose Garden trong Nhà trắng, đích thân Tổng thống Hoa Kỳ là Francis Xavier Kennedy chủ trì lễ tiệc... Tâm trạng phấn chấn vui mừng trước một việc thu hút sự chú ý của mọi người là một sự phù hoa chấp nhận được đối với Oracle. Thế giới lại nhớ tới lão trong giây phút ngắn ngủi. Lão buồn rầu nghĩ bụng, có lẽ đây là sự xuất hiện cuối cùng của lão trên vũ đài. Tại Rome, vào Ngày Thứ Sáu Thánh Thiện, bảy tên khủng bố đã hoàn tất công việc chuẩn bị vụ ám sát Giáo hoàng. Bọn chúng gồm bốn gã đàn ông và ba phụ nữ, chúng tin rằng chúng là những kẻ giải thoát cho nhân loại. Chúng tự mệnh danh là Đức Chúa của Bạo Lực. Trưởng nhóm đặc biệt là một tên thanh niên người Italia dày dặn kỹ thuật khủng bố. Mật danh của hắn khi tham gia chiến dịch đặc biệt là Romeo: cái tên gọi này gây hào hứng cho tính châm biếm trẻ trung của hắn và nó thật gợi cảm mơn dịu tình yêu đầy trí tuệ đối với loài người. Chiều tối Ngày Thứ Sáu Thánh Thiện, Romeo đã nằm nghỉ trên chiếc giường cũ kỹ trải khăn hoen ố trong căn nhà an toàn do International One Hundred bố trí. Miệng ngậm thuốc lá, lòng bồn chồn một nỗi lo ám ảnh suốt bao ngày đêm, hắn đọc cuốn anh em nhà Karamazov loại in phổ thông bán rẻ. Cơ bắp chân hắn bị chuột rút vì căng thẳng, có lẽ vì sợ hãi, nhưng chẳng sao. Thường thì rồi đâu sẽ vào đấy cả. Thế nhưng nhiệm vụ lần này thật đặc biệt, thật phức tạp, kéo theo bao nguy hiểm cho thể xác và tinh thần trong lần thi hành nhiệm vụ này, hắn thực sự là Đức Chúa của Bạo Lực, một cái tên nghe đích thực Thiên chúa giáo nên mỗi khi nhớ tới nó hắn lại phá lên cười. Romeo là con trai của gia đình Armando Giangi một gia đình cao sang giàu có. Bố mẹ hắn muốn con trai trở thành một người thuần tính, giàu sang, ngoan đạo, nhưng những ước muốn đó trái ngược hắn bản chất khổ hạnh của hắn nên đến năm Romeo mười sáu tuổi, hắn đã khước từ mọi của cải vật chất và không chịu đi lễ nhà thờ. Và bây giờ, vào năm hai mươi ba tuổi, chẳng hiểu sao hắn lại nảy ra cái ý nổi loạn ghê gớm là ám sát Giáo hoàng? Hắn bị một sự mê tín kinh hãi luôn ám ảnh. Lúc còn nhỏ, một hồng y giáo chủ mà hắn căm ghét đã làm lễ kiên tín cho hắn. Romeo thường bị ám ảnh cái mũ màu đỏ báo điềm gở của vị Hồng y Giáo chủ nọ rất giống màu lửa hun ở dưới địa ngục. Do đó, hình ảnh lửa hun nơi địa ngục ấy cứ khắc sâu dần trong tâm trí hắn theo từng buổi đi lễ, Romeo tự chuẩn bị cho bản thân để gây một tội ác khủng khiếp làm hàng ngàn người sẽ phải nguyền rủa tên tuổi hắn, rồi người ta sẽ biết rõ tên thật của hắn. Hắn sẽ bị bắt. Hắn đã trù tính như vậy. Nhưng lại vào dúng lúc hắn, Romeo, được tôn sùng là vị anh hùng đã ra tay cứu giúp làm thay đổi trật tự xã hội tàn ác hiện đang tồn tại. Những điều bỉ ổi kéo dài suốt trăm năm qua sắp được tẩy rửa sạch tinh. Nhưng nếu ngược lại, Romeo mỉm cười thầm nghĩ. Hàng thế kỷ trước đây, vị Giáo Hoàng đầu tiên được khoác cái tên “Innocent” (2) đã ban bố sắc lệnh cho phép tra tấn hành tội và ra rả truyền bá niềm tin thực sự và cứu rỗi những linh hồn dị giáo. Nhà thờ sắp phong thánh cho vị Giáo chủ mà Romeo sẽ giết, điều đó càng khơi gợi tính châm biếm trẻ trung của hắn. Hắn sẽ dựng lên một vị thánh mới. Hắn vô cùng căm ghét họ, tất cả các vị giáo chủ đó. Những vị Innocent IV, Giáo chủ Pius, Giáo chủ Bennedid, ôi, quá nhiều các vị thánh, các vị này cóp nhặt của cải, các vị này đàn áp niềm tin thực sự của con người được tự do lựa chọn, các vị này dùng phép thuật ngu dân và lời lăng nhục gay gắt gây khủng hoảng niềm tin để khoe trương tài cán che giấu những nỗi bất hạnh trên đời. Hắn, Romeo, một trong số Một Trăm Đầu Tiên của Đức Chúa của Bạo Lực sẽ vạch trần cái trò ma thuật thô bạo ấy. Một Trăm Đầu Tiên này được gọi một cách thông tục là bọn khủng bố, toả ra khắp các nước Nhật Bản, Đức, Italia,Tây Ban Nha... Kể cũng lạ là không hề thấy một tên nào trong số Một Trăm Đầu Tiên xuất hiện ở Hoa Kỳ. Tại cái đất nước dân chủ này, trong chiếc nôi của tự do này chỉ toàn thấy những nhà cách mạng trí thức hễ thấy máu đổ là mặt mày tái mét. Như vậy biết kiếm đâu ra kẻ đánh bom các toà cao ốc đã xua hết mọi người rời ra ngoài, biết kiếm đâu ra kẻ cho rằng thông dâm công khai ngay tại trên bậc thềm cửa nhà là một hành động chống đối mang tính duy tâm. Chúng thật đáng khinh. Do đó, không một tên người Hoa Kỳ nào dám ra nhập vào nhóm Một Trăm Đầu Tiên là điều chẳng lấy gì phải ngạc nhiên. Romeo tạm bứt khỏi dòng suy nghĩ mơ mộng. Hắn chẳng rõ quái quỷ thế nào mà lại phải là một trăm. Có thể năm chục hoặc sáu chục cũng được chứ sao, đây chẳng qua chỉ là một con số tượng trưng. Nhưng, những điều tượng trưng như vậy mới tập hợp được quần chúng và lựa chọn ra được những người thích hợp. Điều duy nhất, hắn, Romeo, thực sự hiểu rõ: hắn là một trong số Một Trăm Đầu Tiên, cũng như Yabril, bạn và kẻ sẽ hỗ trợ hắn. Một trong số cơ man nhà thờ ở Rome đang kéo chuông. Gần sáu giờ tối Ngày Thứ Sáu Thánh thiện... Một tiếng nữa Yabril sẽ tới để xem xét, kiểm tra lại toàn bộ các bước trong chiến dịch phức tạp này. Kẻ giết Giáo hoàng có thể sẽ là kẻ đi một nước cờ rất vẻ vang, nên cả một loạt hành động phiêu lưu trào tới kích thích cái đầu lãng mạn của Romeo. Yabril là tên đàn ông duy nhất không hề run sợ Romeo, cả thể xác lẫn tinh thần. Gã biết rõ những trò gian dối của các nhà cầm quyền, những bộ mặt đạo đức giả của các nhà chức trách do luật pháp dựng lên, những mối nguy hiểm do tính lạc quan của những kẻ cuồng tín gây nên, những sơ suất bất ngờ về niềm tin thậm chí cả ở những tên khủng bố mù quáng nhất. Nhưng điều nổi bật nhất của Yabril thể hiện rõ ở điểm gã là một tài năng hiếm có trong cuộc chiến tranh cách mạng. Gã coi khinh lòng nhân từ tầm thường và tình thương hại ấu trĩ gây mủi lòng người. Yabril chỉ có một mục tiêu duy nhất: giải phóng tương lai. Do đó Yabril tàn nhẫn hơn Romeo nhiều. Romeo giết hại người dân vô tội, bất hiếu với bố mẹ và phản bội bè bạn, giết viên luật sư đã từng chở che bảo vệ hắn. Nhưng có lần Yabril bảo hắn: “Nếu mày không dám liệng một trái bom vào vườn trẻ thì mày chưa phải là một kẻ khủng bố thực sự”. Romeo đã đáp: - Cái đó thì tao chịu. Nhưng Romeo lại có thể giết chết một vị Giáo hoàng. ... Mời các bạn đón đọc Đời Tổng Thống K. Thứ Tư của tác giả Mario Puzo.
Tay Lái Súng Đa Cảm - Hugh Laurie
Nhân vật chính trong Tay lái súng đa cảm là viên quân nhân về hưu Thomas Lang. Lang có một cuộc sống không mấy dư dả ở Luân Đôn với nguồn thu nhập chính từ công việc vệ sĩ, lính đánh thuê... dựa vào những kỹ năng cũng như các mối quan hệ anh ta có được trong thời gian tại ngũ. Khi ở Amsterdam, Lang bất ngờ được một người đàn ông giấu mặt thuê để theo dõi tay doanh nhân Alexander Woolf. Trong quá trình làm nhiệm vụ, Lang phát hiện ra chính mình lại là đối tượng bị theo dõi bởi cả Bộ Quốc Phòng và Cơ quan Tình báo trung ương - những người đồng thời đang điều tra Woolf vì hành vi buôn lậu ma túy ở quy mô quốc tế. Lang đã cố gắng tìm cách tiếp cận kẻ lạ mặt đã thuê mình theo dõi Woolf để làm rõ mọi chuyện, nhưng thực không ngờ rằng người đàn ông ấy lại chính là Woolf, và hắn ta cùng với con gái hiện đang có mặt tại Luân Đôn. Theo đó, một sự thật đáng sợ được vạch trần: tất cả mọi việc xảy đến với Lang đều nằm trong kế hoạch tinh vi của Woolf, và đằng sau đó còn cả một âm mưu khủng khiếp đang chờ Lang đối mặt... *** Tác giả Hugh Laurie (sinh 1959) là diễn viên, nhạc sĩ, nhà văn nổi tiếng người Anh, hai lần đoạt giải Quả Cầu Vàng và sáu lần được đề cử giải Emmy. Năm 2011 ông được sách kỷ lục Guinness ghi nhận là diễn viên truyền hình được trả thù lao cao nhất, 250.000 bảng Anh một tập trong bộ phim nhiều tập House. Mặc dù văn chương không phải là “nghề tay phải” của Laurie, song Tay lái súng đa cảm (The Gun Seller), tiểu thuyết đầu tay (cũng là tiểu thuyết duy nhất cho đến nay) của ông, lập tức trở nên nổi tiếng và được tái bản nhiều lần. *** Nhận định “Một tiểu thuyết thriller hạng nhất… một cỗ máy giải trí tuyệt diệu vô song” - The Plain Dealer (Cleveland) “Một cuốn tiểu thuyết rất đỗi thông minh tinh tế… tươi mới và lôi cuốn không cưỡng được.” - Christopher Buckley, The New York Times Book Review *** Thử hình dung anh phải bẻ gãy tay ai đó. Phải hay trái không quan trọng. Quan trọng là phải bẻ, bởi vì nếu không bẻ... ờ thì thực ra cũng chẳng vấn đề gì. Cứ cho là nếu anh không bẻ thì sẽ có hậu quả xấu đi. Vậy câu hỏi của tôi là: anh sẽ bẻ thật nhanh - rắc, ối chà, xin lỗi, để tôi giúp anh với cái xương gãy ngay tức thì kia - hay anh sẽ nhẩn nha trong vòng tám phút, thi thoảng mới mạnh tay lên một tí, cho tới khi tất cả những hoa cà hoa cải, những nóng và lạnh quyện vào nhau khó chịu đến vô cùng? Đúng vậy. Tất nhiên rồi. Lựa chọn đúng đắn, lựa chọn duy nhất hẳn là làm cho xong đi càng nhanh càng tốt. Bẻ cái tay, nốc vài ngụm rượu, và lại trở thành công dân tốt. Chẳng thể có câu trả lời nào khác. Trừ khi. Trừ khi, trừ khi, trừ khi. Nếu như anh căm ghét cái kẻ bị bẻ tay kia thì sao? Ý tôi là thực sự ghét hắn ta, vô cùng ghét hắn ta. Đó chính là điều mà lúc này tôi phải tính tới. Tôi nói “lúc này”, có nghĩa là khi đó, là cái khoảnh khắc mà tôi đang miêu tả; cái khoảnh khắc nhỏ, nhỏ khốn kiếp ấy, trước khi cổ tay tôi bị kéo quặt tới gáy và xương cánh tay trái tôi gãy ra ít nhất thành hai đoạn lủng lẳng, rất có khả năng là nhiều hơn. Cái tay mà chúng ta vừa nói đến, anh thấy đó, là tay tôi. Nó không phải là một cánh tay trừu tượng, triết học. Những xương đó, da đó, những lông tay, rồi cả cái sẹo nhỏ màu trắng ở đúng cùi tay do quệt vào góc lò sưởi từ hồi ở trường tiểu học Gateshill, tất cả đều thuộc về tôi. Và giờ là lúc tôi phải cân nhắc khả năng kẻ đứng đằng sau tôi, kẻ đang bóp chặt cổ tay tôi mà bẻ ngược dọc sống lưng theo một tư thế gần như tình tứ, hắn căm ghét tôi, vô cùng căm ghét tôi. Hắn cứ giữ cái tay thế mãi. Họ hắn là Rayner. Tên không rõ. Dù sao tôi đã không thể biết và bởi thế tôi đoán chắc là anh cũng không nốt. Tôi đồ rằng hẳn phải có ai đó, ở đâu đó biết tên của hắn - đã từng rửa tội cho hắn bằng cái tên đó, đã từng gọi hắn xuống ăn sáng bằng cái tên đó, đã từng dạy hắn phải đánh vần nó như thế nào - và một người nào khác ắt đã từng gọi tên hắn trong quán bar để mời hắn làm vài cốc, hay đã từng thì thào cái tên đó trong lúc làm tình, hoặc giả đã viết nó vào một ô trong tờ khai bảo hiểm thân thể. Tôi biết chắc chắn họ đã làm tất cả những điều đó. Chỉ có điều khó mà hình dung ra, thế thôi. Tôi áng chừng Rayner hơn tôi mười tuổi. Thế tốt thôi. Chuyện đó chẳng vấn đề gì cả. Tôi có quan hệ tốt, thân mật - không liên quan tới chuyện bẻ tay - với rất nhiều người hơn tôi mười tuổi. Những người lớn hơn tôi mười tuổi nhìn chung là đáng kính trọng. Nhưng Rayner còn cao hơn tôi bảy phân, nặng hơn khoảng hai chục ký, và ít nhất hơn tôi tám đơn vị trong thang bạo lực. Hắn xấu xí hơn cả cái bãi đỗ xe, với cái sọ to trụi tóc chỗ hóp vào chỗ phình ra như một quả bóng nhét đầy que trong ruột và cái mũi chiến binh phẳng dẹt, trông như thể một dải đồng bằng quanh co khúc khuỷu do ai đó cầm bút chì bằng tay trái, hoặc tệ hơn, bằng chân trái, vẽ lên mặt hắn vậy. Và Chúa ơi, cái trán mới đã làm sao. Bao nhiêu gạch, dao,chai lọ và những thứ vụ ẩu đả đầy đủ lý do khác, theo thời gian đã táng vào cái mặt phẳng căng đét đó mà không hề gây hư hại gì, chỉ để lại những vệt lõm mờ giữa các lỗ chân lông sâu hoắm, lưa thưa. Chúng là những lỗ chân lông sâu nhất và thưa nhất mà tôi đã từng thấy trên da người, khiến tôi nhớ đến khu lỗ gôn của sân gôn địa phương ở Dalbeattie vào cuối mùa hè khô hạn, dài dặc năm 76. Giờ chuyển sang hai bên đầu. Tai của Rayner rõ đã bị cắn rời từ lâu và rồi lại được phết vào cái thành đầu ấy, bởi vì cái tai trái toàn toàn bị lộn ngược trên xuống dưới hay trong ra ngoài, hoặc là một kiểu gì đó khiến ta phải nhìn chăm chú vào hồi lâu rồi mới nghĩ ra “ồ, đó là cái tai”. Và trên hết, Rayner mặc áo khoác da màu đen bên ngoài áo đen cổ lọ, nói thế cho rõ nếu anh vẫn chưa hình dung rõ. Nhưng hẳn anh đã mường tượng rõ được hắn. Kể cả khi Rayner quấn lụa mỏng quanh người và cài hoa lan sau mỗi vành tai, người qua đường yếu bóng vía cũng vẫn sẽ nộp tiền cho hắn trước, sau đó mới băn khoăn tự hỏi liệu mình đã từng nợ hắn hay chưa. Thực tế là tôi chẳng hề nợ tiền hắn. Rayner thuộc một nhóm riêng mà tôi chẳng nợ nần gì cả, và giá như chuyện giữa chúng tôi tốt đẹp hơn một chút thì có lẽ tôi đã gợi ý cho hắn và nhóm của mình đeo chung một loại cà vạt đặc biệt giúp nhận diện nhau. Kiểu hoa văn hình dấu thánh chẳng hạn. Tuy nhiên, như tôi đã nói, chuyện giữa chúng tôi không tốt đẹp gì. Có lần, huấn luyện viên chiến đấu cụt một tay tên là Cliff (vâng , đúng vậy - ông ta huấn luyện đánh nhau tay không , và chỉ có một tay thôi - đời lắm khi thế đấy), đã bảo tôi rằng sự đau đớn là điều mà người ta tự gây ra cho bản thân mình. Người khác làm mọi thứ với anh - họ đánh anh, họ đâm anh, họ cố bẻ tay anh - nhưng nỗi đau là do chính anh. Bởi thế,Cliff ông huấn luyện viên đã từng ở Nhật hai tuần và luôn cảm thấy mình có bổn phận phải nhồi nhét những thứ vớ vẩn kiểu như vậy trong các giờ học, khẳng định, chúng ta luôn có sức mạnh để kiềm chế nỗi đau đớn của bản thân. Ba tháng sau, Cliff bị một mụ góa năm mươi lăm tuổi giết chết trong một vụ ẩu đả tại quán rượu, bởi thế tôi không còn cơ hội cùng ông ta kiểm chứng điều đó. Đau đớn là một sự kiện. Nó xảy tới với anh, và anh đương đầu với nó theo mọi cách có thể. Điều duy nhất tốt cho tôi là, cho tới giờ, tôi chưa hề rên la. Chẳng phải là dũng cảm gì, anh hiểu không, đơn giản là tôi chưa đạt được mức đó. Cho tới lúc này, Rayner và tôi đã quần nhau giữa các bức tường và đồ đạc, trong im lặng đẫm mùi mồ hôi của giống đực, chỉ thỉnh thoảng có một tiếng gằn gừ để thấy rằng cả hai đều đang tập trung. Nhưng giờ đây, cùng lắm là năm giây nữa thôi tôi sẽ xỉu đi hoặc cuối cùng cái xương sẽ rã ra - giờ là thời khắc lý tưởng để tôi tung ra một chiêu thức mới. Và âm thanh là tất cả những gì tôi có thể nghĩ ra. ... Mời các bạn đón đọc Tay Lái Súng Đa Cảm của tác giả Hugh Laurie.