Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Con Riêng

- Giờ này còn chưa dậy nữa? Có mỗi cái việc ở nhà cơm nước mà cũng không làm cho ra hồn. Đã vô tích sự còn lười biếng, đúng là không được cái nước gì. Khi tôi còn đang nằm trong phòng đã nghe tiếng mẹ chồng tru tréo bên dưới. Tôi nhìn đồng hồ, đột nhiên bật dậy như cái máy. Đêm qua thằng Bo sốt khiến tôi không ngủ được, gần sáng mới chợp mắt một lát mà ngủ quên đến mức gần sáu giờ sáng mất rồi. Tôi không còn nghĩ được gì, chạy một mạch xuống bếp tất ta tất tưởi nấu ăn sáng. Mẹ chồng tôi nhìn thấy vậy thì nhếch mép nói: - Dậy sớm quá cơ, cả nhà đang phải đợi chị đấy. Ăn rồi ngủ trương mắt lên. - Dạ con xin lỗi mẹ, hôm qua cu Bo sốt… Còn chưa kịp nói hết câu bà đã gạt đi: - Vào nấu nhanh nhanh lên, chồng chị với ba chồng chị không chờ được nên ra ngoài ăn sáng rồi. Giờ vào nấu cho thằng Chin với mẹ nó bát bánh đa cua ăn sớm còn đi đón ba thằng Chin. Nhớ phần cua đấy tôi bóc để nấu cho cái Ly với cu Chin ăn thôi đấy. Thừa thì cho vào tủ, mai nấu tiếp. Còn tôi nấu cho tôi bát cháo loãng là được. - Dạ vâng ạ. Mẹ chồng tôi quắc mắt nhìn tôi, có lẽ định chửi thêm vài câu thì trên tầng có tiếng bước chân của chị Ly và cu Chin. Vừa nhìn thấy chị Ly mẹ chồng tôi cũng tiến lại gần sau đó lên tiếng: - Ôi, sao hai mẹ con không ngủ thêm đi. Khi nào được ăn thì mẹ gọi xuống. - Dạ, để con xuống phụ thím Thuỷ nấu ăn – chị Ly đáp lại - Khỏi cần, có gì đâu con, nấu mấy cái món đơn giản ý mà. Nào, đi lên ngồi xuống đây, Chin lại đây bà nội yêu cái. Tôi liếc mắt nhìn lên thấy thằng cu Bo đứng ngay dưới chân cầu thang nhìn mẹ chồng tôi ôm ấp anh Chin mà sống mũi tôi cũng cay xè. Cu Bo cúi mặt đi qua cũng không ai để ý, nó bước xuống dưới gian bếp cùng tôi, nhìn thấy con tôi vừa bóc bánh đa vừa nói: - Bo của mẹ còn mệt không? - Dạ không. Mẹ nấu gì đấy ạ? - Mẹ nấu cháo thịt cho Bo ăn nhé. Cu Bo nghe vậy gật đầu, rồi lại đứng nép vào cánh cửa nhìn lên gian phòng khách đầy thèm thuồng. Tôi thương con, nhưng không biết phải an ủi con thế nào để con đỡ tủi thân. Chị Ly là chị dâu của chồng tôi, hai vợ chồng anh chị sống ở trên Hà Nội nhưng dịp này gần Tết nên chị Ly về trước, một lát nữa anh Cường anh trai ruột của chồng tôi mới về sau. Cây đào ngoài phòng khách đã nhú những nụ hồng chúm chím, năm nào cũng vậy, cứ gần dịp xuân về lòng tôi lại có chút buồn buồn. Nấu xong đồ ăn sáng, tôi liền gọi mọi người xuống. Thằng cu Bo không hiểu chuyện liền leo tót lên gắp vào bát bánh đa cua tôi nấu cho thằng Chin. Còn chưa kịp nói với con ốm thì phải ăn cháo thịt mẹ chồng tôi đã chạy lại dùng đũa gõ lên tay Bo rồi quát lên: - Bánh đa cua là nấu cho anh Chin, sao mày dám đụng vào? Bo nghe vậy khẽ buông ra nhảy xuống ghế cúi mặt không đáp. Chị Ly liền lên tiếng: - Ai ăn cũng được mà mẹ. Cháu nó thèm cứ để nó ăn. Nói rồi chị Ly định san bớt bát bánh đa cua ra, nhưng tôi đã ngăn lại: - Thằng Bo nhà em đêm qua sốt cả đêm. Em cho nó ăn chút cháo thịt loãng rồi uống thuốc thôi chứ không dám cho ăn cua. - Thế em cũng ngồi vào đây mà ăn đi. - Dạ mẹ với chị và Chin cứ ăn trước đi, em đút cho Bo xong em ăn sau. Mẹ chồng tôi hẩy hẩy tay chị Ly gật gù: - Thôi, ăn đi con, ăn đi còn ra đón thằng Cường. - Dạ vâng. Con mời mẹ. Tôi ngồi xuống bên kia ghế, kéo Bo lại gần rồi đút cho bát cháo. Thằng bé ngoan ngoãn ăn hết sạch sành sanh. Ăn xong mẹ chồng tôi với chị Ly và thằng Chin cũng đánh xe ra ngoài bến xe khách Bãi Cháy đón anh Cường. Tôi để cu Bo chơi trên phòng khách còn mình thì dọn dẹp bên dưới sau đó bỏ thức ăn ra để nấu cơm chưa. Khi vừa nhặt mấy cọng rau, tôi cũng nghe trên nhà có tiếng còi xe ô tô, tiếng mẹ chồng tôi cười nói: - Mau vào nhà đi con. Đấy, lại không về cùng cái Ly cơ, đi xe khách mệt chửa. Lúc này tôi biết anh Cường đã từ Hà Nội về liền đứng dậy rửa tay lên chào một câu cho phải phép. Vậy mà vừa bước lên đến nơi mẹ chồng tôi đã nguýt dài: - Đang bóc tôm hay gì mà hôi thế, lên đây làm gì tý lại rớt cả ra nhà. Tôi nhìn mẹ chồng, tự dưng không biết nói gì đánh đáp: - Con định bảo cu Bo lên nhà uống sữa cho đúng giờ. Nói rồi tôi quay sang anh Cường khẽ chào: - Anh mới về à? Em chào anh. - Ừ, nấu cơm hả em? - Vâng ạ. Anh Cường thấy vậy quay sang chị Ly: - Em xuống phụ thím ấy đi, để anh xếp đồ lên thắp hương ông bà. Mẹ chồng tôi hơi chau mày cau có trả lời: - Bếp núc chật chội kéo đông xuống đấy làm gì, thôi để mình nó nấu đi, hai đứa lên mà thắp hương cho ông bà rồi còn sang bên nhà chú Ban chào hỏi chú ấy một tý. Tôi không đợi mẹ chồng nói hết đã lui xuống bếp. Anh Cường cũng không để ý lời mẹ chồng tôi mà gọi cu Bo lại khẽ nói: - Bo, lại đây bác cho cái này này. Kẹo dẻo đấy, mau lên. Tôi không nghe tiếng Bo đáp chỉ thấy tiếng mẹ chồng mỉa mai: - Kìa, đứng đực ra đấy làm gì, bác gọi thì vào đi, không biết giống ai mà cứ đần đần độn độn. - Cháu nó còn nhỏ mẹ đừng nói nó vậy chứ, Bo ngoan lại đây với bác. - Ôi dào mẹ nói thật chứ thằng này nó đần thật đấy. Mà đến bây giờ mẹ vẫn không thấy nó giống ai trong nhà này. Không có một cái nét gì giống ba, giống ông nội chả bù cho cu Chin i sì đúc con. Chẳng biết có lai tạp giống của ai không chứ làm gì nhà này có ai có đôi tai giống nó. - Mẹ, đừng nói vậy, đâu phải cứ giống mới là cháu mình đâu. Mẹ nói vậy rồi người ta nghe thấy lại nghĩ không hay đâu. - Mẹ nói thật chứ mẹ có nói dối cái gì đâu? Con xem, ba con, rồi đến con, thằng Dũng, thằng Chin tai đều khoằm lại, mắt đứa nào cũng đen láy tại sao mỗi mình nó lại bè ra thế kia, mắt thì nâu nâu vàng vàng. Những lời này không phải vợ chồng anh Cường về mẹ chồng tôi mới nói, bình thường bà cũng hay nói với ba chồng như vậy, thậm chí nói trước mặt cả chồng tôi luôn. Tôi đưa tay lên mặt, lúc này mới phát hiện khoé mắt ướt cả lại liền vội mở nước lớn át đi tiếng nấc sắp phát ra. Mời các bạn đón đọc Con Riêng của tác giả Phạm Vũ Anh Thư.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cay Đắng Mùi Đời - Hồ Biểu Chánh
Tiểu thuyết Cay Đắng Mùi Đời của ông bao quát những mảng hiện thực, những nét văn hóa đặc trưng của Nam bộ vào những thập niên đầu thế kỷ 20. Đó là sự tha hóa của con người trước sự lớn lên vùn vụt của đầu óc trọng thương, là số phận đáng thương của những thường dân rơi vào cảnh cùng quẫn, là những câu chuyện thế sự giàu chất nhân văn của những con người trên vùng đất mới... *** Hồ Biểu Chánh là một nhà văn lớn của Nam Bộ, người có công mở đường cho nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Người đương thời và nhiều thế hệ về sau đã đón nhận tác phẩm Hồ Biểu Chánh với tất cả sự nồng nhiệt, trân trọng. Lịch sử văn học Việt Nam không thể phủ nhận đóng góp to lớn của Hồ Biểu Chánh. Một trong những yếu tố làm nên sự thành công ấy chính là tác phẩm của ông có được một hình thức ngôn ngữ đầy ấn tượng, thể hiện phong cách ngôn ngữ văn xuôi Nam bộ những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Hồ Biểu Chánh sinh năm 1884 (trong giấy khai sinh ghi ngày 1 tháng 10 năm 1885) tại làng Bình Thành, tỉnh Gò Công (nay thuộc huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang). Ông xuất thân trong một gia đình nông dân, thuở nhỏ học chữ Nho, sau đó chuyển qua học quốc ngữ, rồi vào trường trung học ở Mỹ Tho và Sài Gòn. Năm 1905, sau khi đậu Thành chung, ông thi vào ngạch ký lục của Soái phủ Nam Kỳ; làm ký lục, thông ngôn, thăng dần đến đốc phủ sứ (1936), từng giữ chức chủ quận (quận trưởng) ở nhiều nơi. Ông vốn có tiếng thanh liêm, yêu dân, thương người nghèo khổ. Tháng 8 năm 1941, sau khi ông về hưu, được Pháp mời làm cố vấn với danh hiệu Nghị viện Hội đồng Liên bang Đông Dương và Phó Đốc lý thành phố Sài Gòn, đồng thời làm giám đốc những tờ báo tuyên truyền cho chủ nghĩa Pháp-Việt. Sau khi tái chiếm Nam Bộ năm 1946, Cộng hòa tự trị Nam Kỳ được thành lập, ông được mời làm cố vấn cho chính phủ Nguyễn Văn Thinh. Nhưng chỉ được mấy tháng, khi chính phủ Nguyễn Văn Thinh sụp đổ, ông lui về quê ở ẩn và giành trọn những năm tháng còn lại cho sự nghiệp văn chương. Ông mất ngày 4 tháng 9 năm 1958 tại Phú Nhuận, Gia Định; thọ 74 tuổi. Lăng mộ ông hiện nay được đặt ở đường Thống Nhất, phường 11 quận Gò Vấp. Tác phẩm: Nợ Đời Bỏ Chồng Bỏ Vợ Dây Oan Đóa Hoa Tàn Đoạn Tình Nặng Gánh Cang Thường Cay Đắng Mùi Đời Con Nhà Giàu ... Mời các bạn đón đọc Cay Đắng Mùi Đời của tác giả Hồ Biểu Chánh.
Chỉ Một Lần Yêu - Bà Tùng Long
Khi được tin Sơn bị thương ở mặt trận Tây Nam, Tuyết lo lắng đứng ngồi không yên:  - Không biết anh bị thương ra sao, có hề gì không, đang nằm điều trị ở đâu? Tuyết hồi hộp chờ Lan, em gái Sơn, đem tin về cho Tuyết biết nơi Sơn nằm điều trị là Tuyết sẽ xin phép cha mẹ đi thăm Sơn. Tuyết cho đó là bổn phận mà mình phải làm. Người ta không quen nhau, chưa có cảm tình với nhau, mà các em gái hậu phương còn đem quà ủy lạo các thương binh nằm ở Quân y viện, thì lẽ nào Tuyết lại làm ngơ khi nghe Sơn bị thương? Tuyết và Sơn là bạn học từ khi còn ngồi "ê, a" trên ghế trường làng. Tình bạn thời thơ ấu đã đưa họ đến tình yêu khi cả hai khôn lớn. Biết bao lần Tuyết và Sơn bàn đến chuyện tương lai, hy vọng được cha mẹ chấp thuận để tình yêu họ được kết thúc bằng một đám cưới. Nhưng rồi cũng như bao thanh niên khác trong khi nước nhà có chuyện binh đao, Sơn nhập ngũ đi làm nghĩa vụ đối với Tổ quốc và Tuyết ở nhà đỡ đần cha mẹ, may vá thêu thùa chờ ngày Sơn hoàn thành nghĩa vụ trở về. Hai năm nay, cha mẹ Tuyết nhiều lần khuyên Tuyết nên lập gia đình có nhiều người đến dạm hỏi, nhưng Tuyết vẫn một lòng chờ đợi Sơn. Cha mẹ Tuyết cũng biết Tuyết đã yêu Sơn nên không muốn lấy quyền làm cha mẹ ép buộc Tuyết phải quên Sơn. Bà Hương, mẹ của Tuyết, không khỏi ái ngại cho con gái. Thêm một năm trôi qua là bà thêm sợ Tuyết phải ế ẩm hoặc dở dang. Bà thường nói:  - Đời con gái như cánh hoa sớm nở tối tàn, khi còn hương sắc thì o­ng bướm dập dìu, nhưng đến khi hoa phai phấn lạt thì biết tìm đâu ra người yêu thương mình? Tuyết không nghĩ vậy. Tuyết tin ở tình yêu của Sơn, một mối tình dệt những mười mấy năm, ngày tháng chỉ làm thêm bền chặt chứ không thể làm phai lạt. Tuyết thuộc hạng người yêu chỉ một lần, vì thế dù phải đợi Sơn đến bao giờ, Tuyết cũng đợi được. Những ngày được về phép, Sơn đến thăm Tuyết và nhắc Tuyết lời hẹn ngày nào. Sơn luôn giữ gìn cho Tuyết, lúc nào cũng yêu thương trong sự tôn trọng, quý mến. Sơn nói với Tuyết:  - Anh phải giữ cho em là vì đời lính không có gì chắc chắn. Nếu mai đây anh có bề gì thì em vẫn còn được tấm thân trong trắng để về với người chồng sau này. Như thế anh sẽ không ân hận... *** Làng văn, làng báo Sài Gòn những năm 50-60 thế kỷ 20, Bà Tùng Long là một cái tên nổi tiếng. Tên thật của bà là Lê Thị Bạch Vân (1915-2006). Bà từng đi dạy Pháp văn, Việt văn ở các trường Tân Thịnh, Đạt Đức, Les Lauriers ở Sài Gòn, làm thư ký tòa soạn một số tờ báo và bắt đầu viết văn từ những năm 1953. Bà nổi tiếng với những tiểu thuyết về đề tài xã hội có nhân vật chính là người phụ nữ. Bà Tùng Long cũng là cây bút quen thuộc trên các báo như Sài Gòn Mới, Tiếng Vang, Phụ nữ Ngày mai, Phụ nữ Diễn đàn, Văn nghệ Tiền phong… Trong cuốn hồi ký của mình, bà viết: “Tôi chưa bao giờ dám tự hào xưng mình là văn sĩ, nữ sĩ. Tôi chỉ nói tôi viết văn là để nuôi con, chỉ thế thôi”. Dù chỉ nhận viết văn là nghề tay trái, nhưng bà đã cho ra đời 400 truyện ngắn, và 68 tiểu thuyết - một lượng tác phẩm lớn với sức làm việc đáng nể, nếu không muốn nói là sức lao động phi thường. Với Bà Tùng Long, viết văn là niềm vui lớn nhất đời. Sau năm 1975, nhiều tiểu thuyết của Bà Tùng Long được in và đông đảo công chúng đón nhận. Một số tác phẩm của tác giả Bà Tùng Long: Đường tơ đứt nối Bên hồ Thanh Thủy Một vụ án tình Những ai gieo gió Bóng người xưa Người xưa đã về Đời con gái Duyên tình lạc bến Con đường một chiều Hồi ký Bà Tùng Long Một lần lầm lỡ Mẹ chồng nàng dâu Nẻo về tình yêu Nhị Lan Giang San Nhà Chồng Chúa tiền Chúa bạc Định mệnh ... Mời các bạn đón đọc Chỉ Một Lần Yêu của tác giả Bà Tùng Long.
Đời Con Gái - Bà Tùng Long
Mười hai tuổi, Xuân Lan bắt đầu nhận thấy mình không được yêu thương như các anh chị em khác trong nhà. Mẹ Xuân Lan, bà Phương, dường như ghét bỏ nó. Chỉ có cha và chị Mai Lan, người chị đã đi tu, con riêng của bà Phương với chồng trước, là thương con bé. Những buồn tủi, nghi ngờ trong Xuân Lan lớn lên cùng với sự bất hòa, hục hặc trong gia đình, để rồi khi tất cả bùng nổ đã hé lộ bí mật đầy trái ngang, tội lỗi về sự ra đời của con bé. Đời con gái chỉ cần được yêu thương, nhưng yêu thương cũng chính là nguồn cơn bất hạnh… *** Xuân Lan bắt đầu hiểu chút ít về chuyện đời và nhận xét những sự việc xảy ra trong gia đình từ khi lên mười hai tuổi. Năm ấy nó thi đậu vào lớp đệ thất trường Gia Long, một trường nữ trung học lớn nhất ở miền Nam. Trong khi nó đậu thì Ngọc Hương, chị nó, lớn hơn nó một tuổi, lại rớt và phải ghi tên học ở một trường tư. Vì lẽ ấy mà sự thi đậu của nó không được gia đình đón tiếp một cách vui vẻ. Nó đậu không ai khen, không ai mừng, trái lại cha nó, mẹ nó, các chị nó đều thương Ngọc Hương vì không may bằng nó. Xuân Lan biết suy nghĩ từ lúc đó. Tại sao cũng là con mà nó lại không được yêu thương như các chị nó? Tại sao mỗi sáng chủ nhật, trong khi cha mẹ nó và các chị các anh, cả mấy em nữa, đều được lên chiếc xe sang trọng để đi Thủ Đức, hoặc về quê hay ra Vũng Tàu đổi gió, thì nó lại được mẹ dặn: – Con ở nhà trông nhà nhé. Chóng ngoan mẹ về sẽ thưởng. Khi mọi người đi rồi, chị bếp, người giúp việc trung thành của gia đình, đã nhìn nó với tối mắt đầy thương xót, rồi lắc đầu nói một mình: – Tội nghiệp con bé! ... *** Làng văn, làng báo Sài Gòn những năm 50-60 thế kỷ 20, Bà Tùng Long là một cái tên nổi tiếng. Tên thật của bà là Lê Thị Bạch Vân (1915-2006). Bà từng đi dạy Pháp văn, Việt văn ở các trường Tân Thịnh, Đạt Đức, Les Lauriers ở Sài Gòn, làm thư ký tòa soạn một số tờ báo và bắt đầu viết văn từ những năm 1953. Bà nổi tiếng với những tiểu thuyết về đề tài xã hội có nhân vật chính là người phụ nữ. Bà Tùng Long cũng là cây bút quen thuộc trên các báo như Sài Gòn Mới, Tiếng Vang, Phụ nữ Ngày mai, Phụ nữ Diễn đàn, Văn nghệ Tiền phong… Trong cuốn hồi ký của mình, bà viết: “Tôi chưa bao giờ dám tự hào xưng mình là văn sĩ, nữ sĩ. Tôi chỉ nói tôi viết văn là để nuôi con, chỉ thế thôi”. Dù chỉ nhận viết văn là nghề tay trái, nhưng bà đã cho ra đời 400 truyện ngắn, và 68 tiểu thuyết - một lượng tác phẩm lớn với sức làm việc đáng nể, nếu không muốn nói là sức lao động phi thường. Với Bà Tùng Long, viết văn là niềm vui lớn nhất đời. Sau năm 1975, nhiều tiểu thuyết của Bà Tùng Long được in và đông đảo công chúng đón nhận. Một số tác phẩm của tác giả Bà Tùng Long: Đường tơ đứt nối Bên hồ Thanh Thủy Một vụ án tình Những ai gieo gió Bóng người xưa Người xưa đã về Đời con gái Duyên tình lạc bến Con đường một chiều Hồi ký Bà Tùng Long Một lần lầm lỡ Mẹ chồng nàng dâu Nẻo về tình yêu Nhị Lan Giang San Nhà Chồng Chúa tiền Chúa bạc Định mệnh ... Mời các bạn đón đọc Đời Con Gái của tác giả Bà Tùng Long.
Lầu Tỉnh Mộng - Bà Tùng Long
Lầu tỉnh mộng là câu chuyện mang nhiều ý nghĩa về tình yêu, cuộc sống hôn nhân – gia đình. Lấy bối cảnh ngôi nhà mang tên Lầu Tỉnh Mộng ở vùng cố đô Huế. Gia đình bà Hoàng là một gia đình giàu có, có gốc gác hoàng tộc. Nhưng ngôi nhà ấy không sang trọng, xa hoa mà chứa đựng sự đói nghèo, kham khổ của bà Hoàng và bốn con gái cùng niềm mong mỏi đứa con trai duy nhất đang du học bên trời Tây. Vì bản di chúc kỳ lạ mà gia đình bà phải sống trong đói rách, khó nghèo dù di sản để lại rất lớn. Bức di chúc ấy muốn được đảm bảo bằng tình yêu chân thành, không vụ lợi bằng chính những kinh nghiệm về cuộc đời của người ông quá cố. Bản di chúc ấy cũng cho ta thấy một gia đình có nguồn gốc quyền quý trong cơn nghèo khó họ sống và đối xử với nhau như thế nào. Một người mẹ hết lòng vì con cái, không nỡ để các con cực khổ kiếm sống nhưng cũng chỉ bất lực ngồi nhìn; Mỹ Kim xấu hổ, bực bội vì cái nghèo, Lan Chi thì tìm quên trong những trang sách, Bích Diệp mơ mộng theo làn khói thuốc lá, chỉ có Bích Ngọc là chấp nhận cái nghèo, cố gắng để lo lắng, quán xuyến cho cả gia đình...  Câu chuyện cũng là những bài học về tình cảm nam nữ, vợ chồng đầy ý nghĩa, mang đậm phong cách Á Đông. Đó là những ước vọng tình yêu không vụ lợi, không phân biệt sang hèn; là sự thấu hiểu, tin tưởng, chung thuỷ và đức hy sinh cao đẹp của người phụ nữ Việt Nam sống ở thời phong kiến và đất nước đang mở cửa cho những nền văn hoá, tư tưởng mới từ phương Tây du nhập. Qua chuyện tình của Bích Ngọc và Ấm Mạnh, của Lan Chi và Thiện, rồi tình cảm vợ chồng qua bao nhiêu thử thách của Bích Ngọc và Huyện Tích… tác giả đã khẳng định những đức tính cao quý của người phụ nữ Việt Nam, về luật nhân quả, yêu thương ở đời. Bằng lối viết văn xưa mộc mạc, giản dị, những tình tiết không gay cấn, căng thẳng mà thắt nút mở nút nhẹ nhàng, không hấp tấp vội vàng cũng khồng rề rà, kể lể. Lầu Tỉnh Mộng giúp ta thức tỉnh một cơn mộng về cuộc đời, về tình yêu và cuộc sống, để biết trân trọng những giá trị cao quý của tình cảm gia đình, cuộc sống hôn nhân và tin tưởng vào những điều tốt đẹp của tình yêu. *** Làng văn, làng báo Sài Gòn những năm 50-60 thế kỷ 20, Bà Tùng Long là một cái tên nổi tiếng. Tên thật của bà là Lê Thị Bạch Vân (1915-2006). Bà từng đi dạy Pháp văn, Việt văn ở các trường Tân Thịnh, Đạt Đức, Les Lauriers ở Sài Gòn, làm thư ký tòa soạn một số tờ báo và bắt đầu viết văn từ những năm 1953. Bà nổi tiếng với những tiểu thuyết về đề tài xã hội có nhân vật chính là người phụ nữ. Bà Tùng Long cũng là cây bút quen thuộc trên các báo như Sài Gòn Mới, Tiếng Vang, Phụ nữ Ngày mai, Phụ nữ Diễn đàn, Văn nghệ Tiền phong… Trong cuốn hồi ký của mình, bà viết: “Tôi chưa bao giờ dám tự hào xưng mình là văn sĩ, nữ sĩ. Tôi chỉ nói tôi viết văn là để nuôi con, chỉ thế thôi”. Dù chỉ nhận viết văn là nghề tay trái, nhưng bà đã cho ra đời 400 truyện ngắn, và 68 tiểu thuyết - một lượng tác phẩm lớn với sức làm việc đáng nể, nếu không muốn nói là sức lao động phi thường. Với Bà Tùng Long, viết văn là niềm vui lớn nhất đời. Sau năm 1975, nhiều tiểu thuyết của Bà Tùng Long được in và đông đảo công chúng đón nhận. Một số tác phẩm của tác giả Bà Tùng Long: Đường tơ đứt nối Bên hồ Thanh Thủy Một vụ án tình Những ai gieo gió Bóng người xưa Người xưa đã về Đời con gái Duyên tình lạc bến Con đường một chiều Hồi ký Bà Tùng Long Một lần lầm lỡ Mẹ chồng nàng dâu Nẻo về tình yêu Nhị Lan Giang San Nhà Chồng Chúa tiền Chúa bạc Định mệnh ... Mời các bạn đón đọc Lầu Tỉnh Mộng của tác giả Bà Tùng Long.