Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cô Gái Và Màn Đêm

Mùa đông năm 1992 Trong khuôn viên của một trường trung học danh tiếng ở miền Nam nước Pháp, dưới bóng đêm đen, trên màn tuyết trắng, ba người bạn bị số phận đưa đẩy cùng chia sẻ một bí mật khủng khiếp!  Và một cô gái đã bị màn đêm cuốn đi!  Hai mươi lăm năm sau  Nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày thành lập trường, ba người bạn học hội ngộ. Những lá thư nặc danh, những lời đe dọa xuất hiện cùng với nguy cơ quá khứ bị khơi dậy!  Cô gái năm xưa có trở lại? Đâu là bộ mặt thật của màn đêm? Làm thế nào để băng qua đêm đen?  Với đặc quyền cùng tài năng thiên bẩm của một tiểu thuyết gia, Guillaume Musso sẽ giúp độc giả khám phá ra sự thật trong khi không phút nào hết sững sờ. *** Nhi Nguyễn's review Jan 19, 2019 Lời đầu tiên, phải nói là mình cực thích địa điểm diễn ra câu chuyện trong cuốn tiểu thuyết này, vùng Côte d’Azur nằm bên bờ Địa Trung Hải của Pháp, nơi mà tiếng Anh gọi là French Riviera. Vùng đất này, cùng thành phố Nice (một trong những thành phố mình muốn đến thăm nhất nếu có cơ hội được du lịch đến Pháp, sau Lyon, Strasbourg và dĩ nhiên là Paris) đẹp đến nỗi không thốt nên lời được (những lời văn của bác Musso chỉ miêu tả được phần nào vẻ đẹp ấy thôi, còn tốt nhất là các bạn cứ google hình ảnh của vùng này để mà chiêm ngưỡng :D). Vùng đất ấy có ngôi trường quốc tế mang tên St. Exupéry (ơ bác Musso lấy cả tên của bác tác giả “Hoàng Tử Bé” đặt tên cho trường kìa hi hi hi :D), nơi mà 25 năm trước, vào một đêm mùa đông giá lạnh của năm 1992, một cô nữ sinh trẻ tuổi tên là Vinca Rockwell đã được cho là bỏ trốn cùng với tình nhân của mình – thầy giáo dạy Triết học Alexis Clément. Câu chuyện mở đầu bằng một xác chết mặt mũi bầm dập trên một mỏm đá hướng ra biển, để rồi tua lại vài ngày trước đó, khi Thomas – người kể chuyện – trở về mái trường năm xưa để dự lễ kỷ niệm 50 năm ngày thành lập trường. Bên trong con người Thomas là một bí mật động trời đã luôn ám ảnh anh suốt 25 năm qua, bí mật liên quan đến sự biến mất của Cô gái Vinca vào Màn đêm bất tận của năm 1992. Để rồi từng bước từng bước, khi độc giả theo dấu Thomas điều tra, khám phá ra những ngóc ngách còn kinh hoàng hơn nữa của cái tấn bi kịch trong cái đêm định mệnh ấy, theo sau lời đe dọa trả thù của một kẻ thù bí mật, thì sự thật hóa ra còn hơn cả những gì một tiểu thuyết gia như Thomas có thể tưởng tượng ra. Đúng như danh tiếng bấy lâu nay của bác Musso, bác đúng là “the plot twist King” đỉnh của đỉnh, khi những gì Thomas phát hiện ra đã thực sự khiến mình muốn rớt hàm, phải nói là khiến mình rất nhiều lần thốt lên “What da fuck?”, da gà thì nổi khắp người. Và không chỉ có một cú plot twist, tác giả đã cài cắm rất nhiều sự thật, nhiều phát hiện động trời mà đúng là chỉ có bộ não như Musso mới có thể nghĩ ra. Từng khúc quanh, ngã rẽ dẫn dụ người đọc vào một mê cung, trong đó mỗi nhân vật đều có dây mơ rễ má buộc chặt số phận của họ lại với nhau, và chính giữa mê cung ấy là Vinca Rockwell – cô gái tóc hung với đôi mắt hai màu, nữ thần quyến rũ, là tâm điểm chú ý và đối tượng ái tình của rất nhiều người những năm đầu thập niên 90, trong đó có Thomas – chàng trai luôn khác biệt so với những người còn lại. Và như lời một nhân vật trong truyện, hoặc nhận xét của một nhà phê bình đằng sau cuốn sách, câu chuyện của “Cô gái và Màn đêm” thực sự là một cuộc len đỏ, mà chỉ cần tìm đúng đầu dây và kéo ra, thì toàn bộ sự thật sẽ tuôn trào; ghê gớm hơn, sự thật ấy còn như một bọng máu, vỡ bục ở đoạn cuối và đi theo một hướng không ai có thể ngờ. Ái tình có sức mạnh ghê gớm đến vậy sao? Và con người chúng ta, những sinh thể phàm trần ấy, chúng ta sống những cuộc đời nào, che giấu những bí mật gì, bàn tay vấy máu những ai, và làm sao chúng ta có thể sống tiếp mà vẫn mang trong mình những bí mật ấy, những bọc máu ấy? Cách kể chuyện xen lẫn giữa hiện tại và quá khứ của Thomas cùng nhiều nhân vật khác đã phả vào câu chuyện đậm chất trinh thám này một nét hoài cổ mà mình rất thích. Có thể dễ dàng tìm thấy điểm chung giữa “Cô gái và Màn đêm” với một tác phẩm khác nữa của Musso, đó là “Cô gái Brooklyn”. Cả hai đều là câu chuyện về những cô gái với danh tính và số phận bí ẩn, cùng hành trình khám phá sự thật của những chàng trai, hành trình kéo dài chỉ trong vòng 1, 2 ngày, đưa đẩy người đọc cùng nhân vật chính đi từ khám phá này đến khám phá khác (hình như Musso là một trong những tác giả hiếm hoi có thể viết nên những câu chuyện chỉ kéo dài trong 1, 2 ngày ngắn ngủi đó mà lại khiến người đọc không rời mắt được khỏi trang sách). Cá nhân mình thì vẫn thích “Cô gái Brooklyn” hơn, vì nhịp điệu câu chuyện này hồi hộp, mang tính bất ngờ và gây nghiện hơn “Cô gái và Màn đêm”. Tuy nhiên, không thể phủ nhận là Musso đã một lần nữa cực kỳ thành công khi cho ra đời một “Cô gái và Màn đêm” hấp dẫn và xuất sắc đến như thế này. Mình đọc ngấu nghiến những trường đoạn cuối, khi sự thật được hé lộ, những khúc mắc được lý giải và Thomas làm lành với quá khứ chỉ trong sáng nay. Guillaume Musso có lẽ là một trong những tác giả hiếm hoi mà 400 trang sách của bác ấy, mình đọc hết chỉ trong 2 ngày cuối tuần ha ha ha :D :D :D *** Ôi trời đất ơi. Thật sự là một cú lừa. Guillaume Musso từ lâu đã là tác giả yêu thích của tớ, ít nhiều chính là do những quả plot twist không ngờ được ở cuối truyện. Cô Gái Và Màn Đêm cũng là một trò lừa tâm trí của Musso đối với người đọc, bởi độc giả đã bị Musso dẫn dắt vào mê cung ngay từ đầu truyện. Tác giả đã kích thích trí tò mò của người đọc bằng việc mở đầu một vụ án giết người để mà từ đó làm tiền đề, hé lộ ra quá khứ đen tối ẩn sau cuộc đời của ba người bạn cũ: Thomas, Fanny và Maxime. Cô Gái Và Màn Đêm có nội dung xoay quanh Vinca – một cô gái bí ẩn và là bạn học cùng trường của ba người bạn phía trên. Hơn nữa, Vinca cũng chính là giấc mơ, là mối tình thầm lặng của cậu học trò Thomas 18 tuổi ngày ấy. Tuy nhiên vào đêm Mười chín tháng mười hai năm 1992, cuộc sống của tất cả bọn họ đã vĩnh viễn thay đổi: Vinca biến mất một cách bí ẩn, người tình của cô là Alexis cũng không rõ tung tích. Cho đến 15 năm sau ở buổi kỷ niệm 50 năm thành lập trường, bóng ma của Cô gái Màn Đêm một lần nữa trỗi dậy, bủa vây lấy ba người bạn cũ. Những lá thư nặc danh, những lời đe dọa cùng với mối hận của Màn đêm tái hiện, gào thét đòi một sự thật tưởng như đã bị chôn vùi trong bức tường của nhà thể chất. Cái hay ở tiểu thuyết Musso đó là khả năng khơi gợi được sự hồi hộp của người đọc. Một khi đã đọc thì hoàn toàn bị cuốn theo mạch truyện tưởng như không dời mắt ra được luôn. Cô Gái Và Màn Đêm với mạch truyện rõ ràng, tội ác đan xen tội ác, vụ án chồng chất vụ án, và đủ để làm xoắn não độc giả, tung cho họ một hỏa mù. Những khi tưởng như đã biết chắc được thủ phạm nhưng hóa ra hoàn toàn trật lất, và những kẻ mình không thể ngờ lại chính là hung thủ giết người. Người đọc được theo dấu chân của Thomas tìm lại về quá khứ, cùng anh chàng tìm hiểu và khám phá ra dần dần làn sương mù bao phủ lấy sự thật chưa được soi tỏ. Đằng sau vỏ bọc cô gái hoàn hảo, hóa ra Vinca cũng đem theo mình một khía cạnh khác, một khía cạnh mà không có ai biết cũng như cái bí mật mà không ai có thể ngờ. Thực sự tớ rất ấn tượng với Thomas, bởi lẽ anh vốn là một nhà văn nhưng lại điều tra manh mối đỉnh không kém đặc vụ FBI luôn, giỏi thế chứ lị. Cô Gái Và Màn Đêm cũng giúp bản thân tớ nhận ra đúng là những người điên vì tình có thể làm mọi thứ kể cả những việc kinh khủng nhất. Và cũng chính vì quá khứ sai lầm ấy mà tất cả các nhân vật trong câu chuyện này đã đều phải sống trong sự sợ hãi và nỗi ám ảnh bao phủ lấy cuộc đời mình. Nói luôn đến plot twist, thực sự quả chốt hạ cuối cùng rất ổn luôn. Đúng là Musso rất giỏi trong việc dẫn dắt tâm trí độc giả. Các nhân vật trong Cô Gái Và Màn Đêm tài tình thế nào lại liên quan đến nhau hết. Từ Vinca, Thomas, Fanny, Maxime; cảm tưởng như số phận của họ phải bện xoắn lấy nhau vậy. Lời giải cuối truyện logic, tình tiết và những manh mối rải rác đã được lắp ghép logic với nhau để tạo thành một bức tranh hoàn chỉnh. Đúng là Musso có khác không để độc giả thất vọng bao giờ. Nhìn chung, tớ khá ưng cuốn sách mới nhất Cô Gái Và Màn Đêm của Musso. Từ nội dung, cách dẫn dắt tình huống và cả cách dịch của dịch giả. Ngoài ra tớ còn thích cả cách mà Musso cho thêm vào cuốn sách của mình những câu nói của những tiểu thuyết gia, những tác phẩm,… vv nổi tiếng nữa, đúng là gia vị quen thuộc của Guillaume Musso mà. Cô Gái Và Màn Đêm thích hợp cho mọi người để đọc, và chắc chắn fan Musso thì càng không thể bỏ qua rồi! *** 2017 Mỏm Nam Mũi Antibes. Ngày 13 tháng Năm. Manon Agostini đỗ chiếc xe công vụ ở đầu đường Chemin de la Garoupe. Nữ cảnh sát quận vừa đóng sập cửa chiếc xe Kangoo cũ kỹ vừa thầm nguyền rủa diễn biến các sự kiện đã lôi kéo cô đến tận đây. Khoảng 21 giờ, người bảo vệ của một trong những dinh thự sang trọng bậc nhất Mũi Antibes đã gọi điện đến sở cảnh sát Antibes để báo tin về một tiếng pháo hoặc tiếng súng – dù thế nào thì cũng là một âm thanh lạ – có thể đã phát ra trên con đường mòn lởm chởm đá bên cạnh khuôn viên dinh thự. Sở cảnh sát không mấy quan tâm đến cuộc gọi này, và đã chuyển nó lại cho các phòng cảnh sát quận, và cảnh sát quận không tìm ra cách gì hay hơn là liên hệ với cô, trong khi thời gian làm việc trong ngày của cô đã hết. Khi cấp trên gọi điện yêu cầu cô đến ngó qua con đường mòn ven biển đó, Manon đã diện xong đồ dự tiệc và sẵn sàng xuất phát. Cô những muốn đáp lại là ông hãy tự đi mà xem, nhưng lại không thể từ chối nhiệm vụ này. Mới sáng nay, con người nhân hậu ấy đã đồng ý cho cô giữ chiếc Kangoo sau giờ làm việc. Xe riêng của Manon vừa trút hơi thở cuối cùng, và tối thứ Bảy này, cô nhất thiết phải có phương tiện để đi đến một cuộc hẹn rất quan trọng với mình. Trường trung học Saint-Exupéry, nơi cô từng theo học, tổ chức kỷ niệm năm mươi năm ngày thành lập, và nhân dịp này, đám bạn cũ lớp cô sẽ tụ họp trong một bữa tiệc. Manon thầm hy vọng tại bữa tiệc cô sẽ gặp lại anh chàng từng để ý đến mình trước đây. Một anh chàng khác biệt so với những người khác, mà hồi ấy cô đã ngốc nghếch bỏ qua, vì thích những người lớn tuổi hơn, những gã rốt cuộc đều đã chứng tỏ bọn họ chỉ là những kẻ đần độn ngu xuẩn. Niềm hy vọng đó chẳng hề có căn cứ – thậm chí cô còn không chắc anh chàng ấy sẽ có mặt ở bữa tiệc, và hẳn là anh ta cũng đã lãng quên cả sự tồn tại của cô – nhưng cô cần tin rằng rốt cuộc sẽ có điều gì đó xảy ra trong đời mình. Cắt sửa móng tay, làm tóc, mua sắm: Manon đã sửa soạn suốt cả chiều. Cô đã tặc lưỡi chi ba trăm euro cho một chiếc váy suông bằng đăng ten màu xanh đen pha jersey lụa, mượn chiếc vòng cổ ngọc trai của chị gái và đôi giày cao gót của cô bạn thân – một đôi Stuart Weitzman bằng da đanh khiến chân cô đau nhức. Chênh vênh trên đôi giày cao gót, Manon bật đèn pin điện thoại và bước vào con đường hẹp, chạy dọc hơn hai ki-lô-mét ven bờ biển cho đến tận Biệt thự Eilenroc. Cô biết rất rõ nơi này. Hồi cô còn là một đứa trẻ, bố thường đưa cô đi câu trong những vũng nhỏ ở đây. Ngày xưa, dân khu vực này gọi đây là con đường của hải quan hoặc đường mòn của dân buôn lậu. Sau này, nơi đây xuất hiện trong các cẩm nang du lịch dưới cái danh xưng nên thơ là đường mòn Tire-Poil1. Ngày nay, nó mang cái tên nhạt nhẽo hơn, vô vị hơn, là đường mòn ven biển. Đi được chừng năm chục mét, Manon vấp phải một hàng rào có gắn tấm biển cảnh báo: Khu vực nguy hiểm – cấm vào. Giữa tuần vừa rồi đã xảy ra một cơn bão lớn. Những cơn sóng biển dữ dội đã làm đất đá sụt lở nghiêm trọng, khiến người ta không thể đi dạo ở một số điểm nữa. Manon lưỡng lự một lát rồi quyết định bước qua hàng rào. 1992 Mỏm Nam Mũi Antibes. Ngày 1 một tháng Mười. Tâm hồn vui phơi phới, Vinca Rockwell nhảy chân sáo đi qua trước bãi biển Joliette. Đã 10 giờ tối. Để từ trường trung học đến được tận đây, cô đã phải thuyết phục một cô bạn cùng lớp văn học, người có một chiếc xe máy, chở mình tới đầu đường Chemin de la Garoupe. Khi rẽ vào con đường mòn của dân buôn lậu, cô cảm thấy kích thích ở vùng bụng dưới. Cô sắp gặp lại Alexis. Cô sắp gặp lại tình yêu của mình! Gió thốc dữ dội, nhưng đêm thật đẹp và trời quang đãng đến nỗi cảnh vật nhìn rõ gần như ban ngày. Vinca vẫn luôn yêu mến nơi này, bởi vì nó hoang dã và không giống với hình ảnh mùa hè French Riviera2 bị hiểu sai lệch đi. Dưới ánh mặt trời, ta sững sờ trước sắc trắng và đỏ son chói lọi của những vách đá vôi, và trước vô vàn những biến tấu của sắc xanh bao trùm những vùng vịnh nhỏ. Một lần, khi nhìn về phía quần đảo Lérins, thậm chí Vinca còn thoáng thấy những chú cá heo. Khi có gió lớn, như tối nay, khung cảnh thay đổi hoàn toàn. Những vách đá dốc đứng trở nên nguy hiểm, những cây ô liu và thông dường như đang oằn mình vì đau đớn, như thể chúng đang tìm cách rứt mình khỏi mặt đất. Nhưng Vinca không quan tâm. Cô sắp gặp lại Alexis. Cô sắp gặp lại tình yêu của mình! 2017   Chết tiệt! Một trong hai gót giày của Manon vừa gãy gập. Chết tiệt! Trước khi đến bữa tiệc, cô sẽ phải vòng về qua nhà, và ngày mai, sẽ bị cô bạn thân mắng cho một trận. Cô tháo giày, nhét vào túi xách rồi tiếp tục bước đi trên đôi chân trần. Cô vẫn đi theo vệt đường mòn hẹp nhưng được đổ bê tông vắt chênh vênh trên những vách đá. Không khí trong lành khiến cô phấn chấn hẳn lên. Gió mistral khiến màn đêm trở nên quang đãng và phủ đầy sao lên bầu trời. Tầm nhìn ngoạn mục trải dài từ những bức tường thành của khu Antibes cổ kính đến tận vịnh Nice, vượt qua những ngọn núi làm nền ở hậu cảnh. Ẩn hiện bên dưới, đằng sau những cây thông, là một vài trong số những dinh thự đẹp nhất Côte d’Azur. Người ta nghe thấy tiếng những con sóng tung bọt trắng và cảm nhận được toàn bộ sức mạnh cũng như quyền lực của nước triều. Trong quá khứ, nơi này từng chứng kiến những tai nạn thảm khốc. Sóng lừng đã cuốn đi nhiều ngư dân, du khách hoặc những cặp tình nhân ra hôn nhau nơi mép nước. Dưới sức ép của những lời chỉ trích, chính quyền đã buộc phải cải thiện mức độ an toàn của con đường bằng cách xây dựng những cầu thang kiên cố, cắm cọc tiêu trên lối đi và dựng hàng rào để hạn chế ý thích bốc đồng của những người đi dạo muốn ra quá sát mép nước. Nhưng chỉ cần gió thốc trong vòng vài giờ đồng hồ là nơi này lại trở nên rất nguy hiểm. Manon đi đến đúng chỗ một cây thông Alep bị đổ gục, làm bật tung tay vịn khỏi hàng rào và chắn ngang lối đi. Không thể đi xa hơn nữa. Cô nghĩ mình nên quay trở lại. Nơi này chẳng có lấy một bóng người. Gió mistral thốc mạnh đã làm nhụt chí những người đi dạo. Chuồn thôi, cô mình ơi. Cô đứng sững tại chỗ và lắng nghe tiếng gió gầm gào. Tưởng như nó đang cuốn theo những lời than thở, vừa gần lại vừa xa. Một mối đe dọa ngấm ngầm. Mặc dù đang đi chân trần, Manon vẫn leo lên một vách đá để vòng qua chướng ngại vật và tiếp tục hành trình, với nguồn sáng duy nhất là đèn pin của điện thoại. Một khối sẫm màu hiện lên dưới chân vách đá. Manon nheo mắt. Không, cô đứng quá xa nên không nhìn rõ. Cô thử tìm cách đi xuống, hết sức cẩn trọng. Có tiếng rách xoạc. Gấu váy đăng ten vừa rách, nhưng cô không để ý. Lúc này, cô đã nhìn rõ hình dáng khiến cô tò mò. Đó là một cái xác. Cái xác của một phụ nữ, bị vứt trên mỏm đá. Càng lại gần, cô càng cảm thấy kinh hoàng. Đây không phải một vụ tai nạn. Khuôn mặt người phụ nữ đã bị dập nát đến nỗi chỉ còn là một đám bầy nhầy đẫm máu. Lạy Chúa. Manon cảm thấy hai chân bủn rủn, và tưởng mình sắp xỉu xuống đến nơi. Cô mở khóa điện thoại để gọi cứu hộ. Không có sóng, nhưng màn hình vẫn hiển thị dòng chữ: Chỉ gọi số khẩn cấp. Đang định ấn nút gọi thì Manon nhận ra nơi này không chỉ có mình cô. Một người đàn ông giàn giụa nước mắt đang ngồi cách đó một chút. Có vẻ suy sụp, ông ta khóc nức nở, hai tay bưng mặt. Manon hoảng hồn. Đúng lúc này, cô hối tiếc vì đã không mang theo súng. Cô cẩn thận tiến lại gần. Người đàn ông đứng dậy. Khi ông ta ngẩng đầu lên, Manon nhận ra đó là ai. “Chính tôi đã gây ra chuyện này,” ông ta vừa nói vừa giơ ngón tay chỉ vào cái xác. 1992   Duyên dáng và nhẹ nhàng, Vinca Rockwell nhảy nhót trên các vách đá. Gió thổi càng lúc càng mạnh. Nhưng Vinca thích thế. Sóng lừng, hiểm nguy, sự ngất ngây vì gió biển, những vách đá dốc đứng khiến người ta chóng mặt. Chẳng thứ gì trên đời lại khiến cô ngất ngây như cuộc gặp với Alexis. Một cảm giác choáng váng trọn vẹn, choáng váng đến tột bậc. Sự hòa trộn của cả thể xác và tâm hồn. Cho dù cô có sống đến trăm tuổi, cũng chẳng thứ gì có thể sánh được với ký ức này. Viễn cảnh được gặp lại Alexis trong bí mật, được cùng Alexis yêu nhau trong hõm vách đá khiến cô ngây ngất. Cô cảm thấy làn gió ấm bao bọc toàn thân, thổi quanh hai chân, tốc vạt váy cô, chẳng khác nào khúc dạo đầu của màn yêu đương mà cô đang chờ đợi. Trái tim đập thình thịch, luồng hơi nóng bốc lên cuốn ta đi trong niềm ngây ngất, máu dồn lên, những phập phồng khiến từng xăng-ti-mét trên thân thể ta run rẩy. Cô sắp gặp lại Alexis. Cô sắp gặp lại tình yêu của cô! Alexis chính là bão tố, là màn đêm, là thời khắc hiện tại. Tự đáy lòng, Vinca biết rằng cô đang làm một chuyện ngu ngốc, và tất cả sẽ kết thúc theo cách tồi tệ. Nhưng có lẽ cô sẽ không đánh đổi niềm phấn khích lúc này lấy bất cứ thứ gì trên đời. Chờ đợi, yêu đương điên cuồng, cảm giác ngọt ngào đau đớn khi được màn đêm cuốn đi. “Vinca!” Đột nhiên, vóc dáng Alexis hiện ra giữa bầu trời quang đãng, dưới bóng trăng tròn vành vạnh. Vinca bước thêm vài bước để đến sát bên bóng người ấy. Trong chớp mắt, dường như cô có thể cảm nhận được niềm lạc thú sắp đến. Mãnh liệt, nóng bỏng, không thể kiểm soát. Hai thân thể trộn lẫn và tan biến vào nhau cho đến khi hòa cùng sóng gió. Những tiếng hét hòa vào tiếng kêu của lũ hải âu. Những cơn co thắt, đợt bùng nổ quật ngã ta, ánh chớp trắng sáng và chói lòa lan tỏa bao trùm lấy ta và khiến ta có cảm giác toàn bộ thân thể mình tan tác khắp nơi. “Alexis!” Cuối cùng, khi Vinca ôm siết lấy chủ thể tình yêu của mình, một giọng nói bên trong lại thì thầm với cô rằng tất cả những chuyện này sẽ kết thúc theo cách tồi tệ. Nhưng cô gái trẻ không đếm xỉa đến tương lai. Tình yêu là tất cả hoặc chẳng là gì hết. Chỉ có thời khắc hiện tại là quan trọng. Sự quyến rũ cháy bỏng và độc địa của Màn đêm. Nghĩa là: Nhíp nhổ lông. (Mọi chú thích nếu không có lưu ý gì thêm đều của người dịch.) Phần bờ biển Địa Trung Hải thuộc Pháp, tiếng Pháp là Côte d’Azur.   Mời các bạn đón đọc Cô Gái Và Màn Đêm của tác giả Guillaume Musso & Bình An (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Trùm Phản Chúa
Review của Quang Huy Nguyễn.​ "Tình, có cha vốn là địa chủ bị du kích cộng sản bắn chết. Bản thân hắn trốn vào Nam theo Chúa năm 1954. Lúc này Cục Tình báo Trung ương Mỹ CIA muốn triển khai chiến dịch "Phá Cộng sản ngay trong lòng Cộng sản". Chúng dự định tung gián điệp vào "mật khu" để chống phá từ bên trong. Và Tình được chúng tung về xây dựng "mật khu", dưới chiêu bài rước Chúa ra Bắc, mang bí danh N1. Bắt đầu từ đây diễn ra trận chiến thầm lặng nhưng gian nan, không kém phần khốc liệt giữa 1 bên là CIA và Chi Cục Tình báo Trung ương Mỹ ở miền Nam và 1 bên là Ty Công an Ninh Bình và Cục Phản gián Bộ CA. Với lợi thế 30 năm làm công an, tác giả đã dựng nên bối cảnh cuộc chiến đấu trí ác liệt giữa hai bên. Qua đó cho thấy tài trí của các chiến sĩ tình báo Việt Nam. Cái hay là bên cạnh nghiệp vụ tình báo được miêu tả nhuần nhuyễn, tác giả còn tập trung phân tích chiều sâu tâm tư, tâm lý nhân vật trong truyện rất sắc sảo. Nhất là những dằn vặt, đấu tranh tâm lý của Tình. Lần trước trốn vào Nam hắn cố gắng mang vợ con theo. Nhưng rồi con thì chết, vợ cũng không theo cùng được. Lần này quay về Tình đấu tranh dữ dội giữa hai lựa chọn. Theo vợ, theo Việt Minh thì hắn sẽ phản bội Chúa. Theo CIA thì vợ chồng hắn có thể sẽ chết. Thân phận làm kẻ gián điệp đứng giữa ngã ba đường, Tình rơi vào cuộc chiến khủng khiếp trong chính con người hắn. Hẳn sẽ làm gì đây? Làm theo lời Chúa hay làm kẻ phản Chúa? Trả thù cha hay quên đi mối hận thù và đi theo cách mạng? Sự giằng xé của Tình càng tăng thì kịch tính của truyện cũng càng căng thẳng và gay cấn. Liệu Tình có chiến thắng được con ác quỷ phục thù xấu xa trong trái tim hắn, liệu hắn có xứng đáng với tình yêu vô bờ bến vợ hắn dành cho hắn? Liệu chiến dịch "Phá Cộng sản ngay trong lòng Cộng sản" của CIA có thành công? Lâu lắm mới được đọc một tác phẩm trinh thám phản gián tuyệt vời đến thế. Tác phẩm đậm chất tình báo Việt Nam ngày xưa. Tác giả đã tái hiện một thế giới tình báo không tiếng súng, nhưng sự gian nan, khốc liệt và hiểm nguy của nó không thua gì súng đạn trên chiến trường. Tuy nhiên, tác giả không chỉ chứng tỏ thế mạnh ở vốn kinh nghiệm trinh thám tình báo, mà còn cho thấy tài năng khi tập trung mô tả những suy nghĩ, giằng xé trong con tim Tình. Phải nói đọc những trang đấu tranh nội tâm của Tình mình rất phê, những trang viết miêu tả tận cùng đớn đau, tận cùng đau khổ và dằn vặt của cả hai vợ chồng hắn. Thêm vào đó tác giả đã lột tả được mâu thuẫn dai dẳng, nhức nhối giữa chính quyền cách mạng và đồng bào theo Công giáo. Một bên là cách mạng, một bên là Chúa. Bức tranh một xóm đạo trong thời buổi loạn ly hiện lên sinh động và rõ nét. Tác phẩm Trùm Phản Chúa là một trong ba tiểu thuyết nằm trong Tập 1 Tuyển tập của Nhà văn Trần Diễn. Mình sẽ cố gắng đọc thật nhanh và review hết các tập truyện còn lại trong tập này, cũng như trong hai tập khác còn lại. Chỉ tiếc rằng tác phẩm xuất bản từ năm 2003, đến nay có lẽ không còn trên hiệu sách." *** Trần Diễn (sinh 14 tháng 10 năm 1944) là một nhà văn công an Việt Nam, Đại tá Công an Nhân dân Việt Nam, hội viên Hội Nhà báo Việt Nam và Hội Nhà văn Việt Nam, nguyên Giám đốc, Tổng biên tập Nhà xuất bản Công an nhân dân[1], Tổng biên tập Tạp chí Sách và đời sống. Trần Diễn được độc giả Việt Nam biết đến với nhiều cuốn tiểu thuyết hình sự - tâm lý xã hội về đề tài Vì an ninh Tổ quốc và bình yên cuộc sống, thuộc số ít nhà văn Việt Nam viết về đề tài tình báo, phản gián, trinh thám (ở đề tài này Việt Nam có các tên tuổi như Phạm Cao Củng, Trần Diễn,...). Trần Diễn sinh năm 1944 tại Hà Nam, lớn lên tại Ninh Bình.Nhà văn Trần Diễn từng làm nhiều công việc khác nhau trước khi làm việc tại Nhà xuất bản Công an nhân dân. Tại Nhà xuất bản Công an nhân dân, ông làm biên tập viên, rồi lần lượt giữ cương vị Trưởng phòng, Phó Giám đốc rồi Giám đốc - Tổng biên tập Nhà xuất bản cho đến lúc nghỉ hưu vào năm 2005. Trần Diễn đến với văn chương một cách tự nhiên, như một người có nhu cầu giãi bày tâm sự, ông viết từ những thúc bách của nghề nghiệp, từ những điều ông được chứng kiến, viết văn là cách hay nhất để ông có thể nói ra được những điều mình muốn nói. Ông được học qua hơn 10 trường lớp dài hạn, ngắn hạn với nhiều ngành nghề khác nhau, nhưng chưa từng học về văn chương. Tháng 11 năm 2011, nhà văn Trần Diễn bị đột quỵ, liệt nửa người bên trái nhưng trí tuệ của ông không bị ảnh hưởng, ông vẫn đảm nhiệm chức vụ Tổng biên tập Tạp chí Sách và đời sống, lấy nhà riêng làm tòa soạn. *** Mật điện. (khẩn) Gửi Trưởng ty Công an Ninh Bình. Theo mật điện số 5 của Ty, hồi 13 giờ hôm nay báo cáo về chiếc thuyền lạ, Bộ nhận định đó là thuyền của bọn gián điệp biệt kích Mỹ-ngụy đã xâm nhập vào vùng biển Kim Sơn. Ty cho dùng ngay phương án truy lùng. Một giờ một lần báo cáo kết quả về Bộ. Cục trưởng Cục Phản gián. Nguyễn Quý Dương Sau khi nhận được chỉ thị của Bộ, các tổ truy lùng của tỉnh và Công an huyện Kim Sơn bắt tay ngay vào chiến dịch. Họ đã lùng sục suốt đêm trên tất cả các đồng cói, kênh rạch, nhưng vẫn chưa có kết quả. Thiếu uý Đặng Văn Thành, tổ trưởng tổ truy lùng số 8, vóc người tầm thước, da ngăm đen, dừng tay chèo, ngắm nhìn những hạt sương trên tàu cói, cành sú vẹt. Phía trước anh, màu đỏ hồng cả một vùng trời và biển gặp nhau. - Báo cáo đồng chí, chắc nó đã trốn vào nơi nào đó chứ không thể nằm ngoài đồng cói này được đâu! - Có thể, nhưng chúng ta phải chấp hành mệnh lệnh. Trung sĩ Lân, khoảng hai mươi mốt tuổi, hai má bầu bầu, đưa tay phải dụi mắt, nói: - Đi suốt đêm rồi. Nghỉ vài tiếng được không anh? Thượng sĩ Mạnh nước da xanh, khép áo bạt cho đỡ lạnh vì gió biển và hơi sương, nheo đôi mắt ngái ngủ. Thiếu uý Thành rút hai điếu thuốc lá đưa cho hai người: - Nghỉ một lúc rồi đi tiếp! Cả ba người ngả lưng xuống thuyền. Thiếu uý Thành cởi áo khoác ngoài, xoải tay vươn vai rồi ngồi lên mũi thuyền nhường cho Lân và Mạnh nằm. Họ ngủ được hơn một tiếng, Thành đánh thức hai người dậy. Mạnh xoải tay vươn vai rồi lấy khăn hứng từng giọt sương lau mặt. Thành cầm nắm cơm nguội to như quả bưởi bẻ từng miếng đưa cho Mạnh và Lân rồi mở gói thức ăn. - Muối vừng để ở thành thuyền này này. ​​Mời các bạn đón đọc Trùm Phản Chúa của tác giả Trần Diễn.​
Bao Thanh Thiên
Những vụ án li kỳ, hấp dẫn, hài hước, lôi cuốn người đọc Tài trí thông minh, bảo vệ chính nghĩa, phá án nhanh gọn Chấp pháp nghiêm, không khiếp sợ uy quyền hay vị nể tư tình Thanh liêm, chính trực, chí công vô tư, yêu nước, thương dân như con Hình ảnh vị quan Bao Hắc Tử - chuyên gia phá án đời Tống sẽ được khắc họa trong tập truyện thú vị này. Các bạn cùng đón đọc để thử tài phá án cùng Bao Thanh Thiên. *** Bao Tam Hắc từ nhỏ đã thông minh, lanh lợi được thầy giáo vô cùng yêu quý. Thầy đặt tên cho cậu là Bao Chửng, có nghĩa là cậu nhất định sẽ trở thành dường cột trong việc trị an. Năm 28 tuổi, Bao Chửng đỗ tiến sĩ và bước chân vào con đường làm quan. Ông từng giữ các chức: tri huyện, quan châu, phủ doãn, từng làm sứ giả sang vương quốc Khiết Đan ở Trung - Bắc Á thời đó. Ông cũng nắm những vị trí quan trọng trong lĩnh vực tài chính, giám sát và làm quan tới chức Tể phụ (quan cố vấn riêng của Hoàng đế). Bao Chửng làm quan rất công bằng, không bao giờ tư lợi, ông thanh liêm, thẳng thắn, rành mạch, rõ ràng, phá án như thần, yêu thương dân chúng, được mọi người ca ngợi là “Bao Thanh Thiên” (Ông Bao Trời Xanh). *** Bao Chửng người Hợp Phì, Lư Châu (nay là thành phố Hợp Phì, tỉnh An Huy, Trung Quốc). Cha ông là Bao Nghi, từng giữ chức đại phu trong triều. Sau khi qua đời, Bao Nghi được phong Hình bộ thị lang. Lúc còn bé, Bao Chửng đã nổi tiếng là đứa con hiếu thảo, đôn hậu, sống mực thước. Năm 1027, ông thi đậu tiến sĩ, được cử đến nhậm chức Tri huyện Kiến Xương (nay thuộc tỉnh Giang Tây), nhưng vì song thân già yếu, ông không thể làm quan xa nên xin khoan nhận việc, để ở nhà chăm sóc cho cha mẹ. Sau khi cha mẹ qua đời, Bao Chửng đi nhậm chức Tri huyện Thiên Trường (nay thuộc tỉnh An Huy), sau đó là Tri châu Đoan Châu[4] (nay thuộc Thành phố Triệu Khánh, tỉnh Quảng Đông). Nghe tiếng Bao Công tận tụy và thanh liêm, nhà vua cho triệu ông về kinh giao cho chức Trung thừa, rồi lần lượt thăng các chức Giám sát ngự sử, Trực học sĩ Long đồ các, Tam tư Hộ bộ Phó sử, đến Thiên Chương các Đãi chế (nên người đời sau còn gọi ông là Bao Đãi chế). Năm 1050, vì đàn hặc quốc trượng Trương Nghiêu Tá làm phật lòng hoàng đế Nhân Tông, ông bị thuyên chuyển đến Hà Bắc làm Nhậm đốc chuyển vận sứ. Bốn năm sau, ông mới được triệu về kinh nhậm chức Phủ doãn phủ Khai Phong. Đây là chức vị rất quan trọng, tương đương thị trưởng Bắc Kinh ngày nay, lo việc trị an kinh thành. Lúc ở phủ Khai Phong, Bao Công thường ngồi hướng Nam để tỏ lòng tôn kính hoàng đế, nhưng khi thăng đường ông lại ngồi theo hướng Bắc, do vậy trong các phim về Bao Công có câu "Bao Công đồ đảo tọa Nam nha Khai Phong phủ". Bao Công làm quan phủ doãn phủ Khai Phong chỉ trong vòng 1 năm. Thời gian còn lại, ông được thăng chức Thừa tướng, Ngự sử đài. Chức vụ cao nhất mà Bao Công đảm nhận ở cuối đời là Khu mật Phó sứ, tương đương với chức Phó Tể tướng. Thống kê ghi lại, những người bị Bao Chửng trừng trị không dưới 30 người là đối tượng quyền quý, hoàng thân quốc thích trong xã hội đương thời. Thậm chí ngay cả quốc trượng Trương Nghiêu Tá – cha đẻ của Trương quý phi được vua Nhân Tông sủng ái cũng bị Bao Chửng đàn hặc mà mất chức. Nhà văn đời Tống Âu Dương Tu đã dành cho Bao Chửng những lời bình luận: “Thuở nhỏ hiếu thuận, tiếng thơm khắp xóm làng, cuối đời chính trực, lưu danh khắp triều đình”. Trong 27 năm làm quan, vị trí công việc rất đa dạng: làm Tri huyện Thiên Trường; Tri phủ Đoan Châu, Doanh Châu, Dương Châu, Lư Châu, Triệu Châu; Tri phủ Giang Ninh rồi Phủ doãn phủ Khai Phong, nắm giữ toàn bộ việc hình pháp, trị an trong kinh thành. Bao Công nhận mệnh đi sứ Khiết Đan, rồi về kinh làm Lễ bộ Thị lang, Tam ti Hộ bộ… Trước sau gánh vác công việc ở các bộ Công, Hình, Binh, Lễ. Chức vụ lớn nhất của Bao Công trước khi qua đời là Khu mật Phó sứ, tương đương phó tể tướng. Sau ông được phong hàm Thiên Chương các đãi chế, Long Đồ các trực học sĩ, Khu mật trực học sĩ. Năm 1062, ông lâm bệnh mất ở nơi làm việc, hưởng thọ 63 tuổi, điều đáng nói ở đây, là thời gian từ lúc lâm bệnh cho đến khi mất chỉ có 13 ngày, nên người ta nghi ngờ rằng ông mất một phần do thuốc của hoàng đế ban cho, do lúc sinh thời Bao Chửng từng xử những vụ án vạch mặt bọn thái y, nên bị bọn chúng căm ghét (từ lúc uống thuốc đến khi phát bệnh mất chỉ là 9 ngày). Sau này, các nhà khoa học thuộc Phòng Nghiên cứu năng lượng vật lý cao Học viện Khoa học Trung Quốc đã phối hợp với Viện Bảo tàng tỉnh An Huy tiến hành xét nghiệm những mảnh xương của Bao Công. Kết quả cho thấy: Hàm lượng các nguyên tố thủy ngân, sắt và canxi trong xương Bao Công cao hơn nhiều so với xương của người hiện đại, trong khi đó hàm lượng chì và arsen (thạch tín) lại thấp hơn người thường. Ngày xưa, độc dược được sử dụng chủ yếu là tì sương (thạch tín) và chu sa (thủy ngân), chúng có độc tính cực mạnh. Kết quả này sơ bộ loại trừ khả năng Bao Công bị trúng độc cấp tính do uống phải thuốc có chứa thạch tín.[5] Hoàng đế Tống Nhân Tông đích thân làm chủ lễ truy điệu, phong cho Bao Công là Lễ bộ Thượng thư, ban cho thụy hiệu "Hiếu Túc", có nghĩa là hiếu đạo và thiết diện vô tư và còn phái một đoàn ngự lâm quân hộ tống linh cửu ông về mai táng ở quê nhà ông. *** Chuyện xảy ra đúng vào mùa thu hoạch. Trời hãy còn tờ mờ sáng, trong ánh sáng yếu ớt của ban mai thoang thoảng mùi hương cỏ cây và mùi nhựa thông. Phía đông đầu thôn, một nông phu cường tráng ra đồng cắt lúa. Trong tiếng soàn soạt của chiếc liềm, từng hàng từng hàng lúa ngã rạp ngay ngắn trên mặt bùn. Chăm chú làm việc, nhưng lòng chàng lại cảm thấy bất ổn, nên chốc chốc lại ngừng tay liềm, ngẩng nhìn về thôn trang. “Cù – cú,” tiếng cú kêu như báo trước có điềm chẳng lành xảy ra. Năm Bắc Tống khánh lịch⦾, vùng đất Trung Châu là nơi vừa phồn thịnh lại hỗn loạn, bọn người tranh loạn phát tài mọc lên như nấm, khiến thiên hạ mất đi cảnh an vui thái bình. Thôn này tên gọi Bảo Thạch, cách huyện thành Khải Khánh 30 dặm, là một bồng lai tiên cảnh ngoài thế sự loạn lạc. Do đất đai màu mỡ phì nhiêu, nguồn nước sung túc, bóng cây râm mát, thoạt nhìn đã tạo cho ta cảm giác đây là nơi tốt nhất để trăm họ an cư lạc nghiệp. Bảo Thạch thôn có nhiều đồng lúa rộng lớn, sinh sản ra giống gạo thơm nổi tiếng khắp xa gần, ngay cả Tống Hoàng đế cũng biết tiếng. Thế nhưng, người đời vốn sợ nổi tiếng là giàu có, bởi càng giàu có thì bọn đạo chích càng để ý đến. Chàng nông phu cuối cùng đành phải dừng tay, một phần có thể là vì ra đồng sớm nên bụng đói, một phần vì lòng chàng thấp thỏm không yên nên đành phải quay về nhà. Chàng là một phú nông, tên gọi Vương Thế Bân cả nhà từ đời này qua đời khác bám ruộng lúa, cha truyền con nối vì thế mà giàu có. Phụ thân chàng là Vương Thiện Nhân, tuổi đã cao không thể lo liệu việc đồng áng, nên toàn bộ công việc đều giao cho con trai. Chàng nổi tiếng khắp thôn về tính cần cù, một tay lo liệu trong ngoài. Tuy mướn người làm, nhưng chàng không để họ ra đồng sớm, mà muốn chính mình là người đầu tiên đổ mồ hôi trên cánh đồng yêu quý. Vợ của Vương Thế Bân là Quỳnh Nương, con gái nhà họ Trần trong huyện thành, tính nết dịu dàng, dáng người đẹp đẽ, từ khi gả về nhà họ Vương, sớm hôm lo phụng sự cha mẹ chồng, nhất mực hiếu thuận, ngoại trừ cách đây vài năm có xảy ra một nhầm lẫn nhỏ, mọi người trong nhà đều sống hết sức thân mật, thương yêu nhau. Còn cách nhà không xa mấy, Vương Thế Bân đã vội lên tiếng gọi: “Nương tử! Nương tử!” Đáp lời chàng chỉ là tiếng gà vịt kêu. Chàng đẩy cửa bước vào phòng, mền gối đã được xếp gọn gàng ngăn nắp, nhưng Quỳnh Nương thì không có ở đó. Chàng chạy vội vào bếp, hy vọng vợ mình đang chuẩn bị bữa sáng, nhưng vẫn không thấy. “Nương tử! Nương tử!” Vương Thế Bân lo lắng kêu to, cảm giác bất ổn càng lúc càng vây chặt lấy chàng. Lúc bấy giờ trời đã sáng tỏ, người làm đều đã dậy, đang rửa mặt ngoài giếng, nghe thấy chủ nhân tìm vợ, bọn họ đều vây lấy chủ nhân để hỏi xem đã xảy ra chuyện gì. “Các ngươi có nhìn thấy phu nhân ta đâu không?” Mọi người đều lắc đầu đáp: “Không thấy, không thấy, chúng tôi thức dậy đã không thấy phu nhân. Mà lạ thật! Bình thường phu nhân luôn dậy sớn hơn chúng tôi, chuẩn bị cơm nước sẵn sàng, hôm nay vẫn ngỡ phu nhân chưa dậy!” Đúng lúc mọi người đang bàn luận xôn xao, Vương Thế Bân bỗng nhìn thấy bóng người lảo đảo đi trên con đường nhỏ trước cổng. Khắp người đầy máu, đến ngạch cửa, người đó như không còn sức chịu đựng. “Ầm!” – y đổ nhào xuống đất. Vương Thế Bân chạy bổ về phía trước, chàng nhận ra đây chính là Tiến An, tên gia đồng của nhà Quỳnh Nương vừa đến hôm qua. Phụ thân của nàng bệnh nặng nên sai Tiến An đi mời nàng về chăm sóc. “Tiến An! Tiến An! Ngươi sao vậy?” Vương Thế Bân đỡ y lên, lay nhẹ đầu hỏi. “Chủ nhân! Chủ nhân, phu nhân…” Tiến An kinh hoàng đáp. “Quỳnh Nương ở đâu, nàng làm sao? Ngươi nói mau!” Vương Thế Bân trợn trừng mắt nhìn y. “Phu nhân, phu nhân bị người ta giết chết rồi!” Tiến An đưa bàn tay đầy máu che mặt bật khóc. “Sao?” Vương Thế Bân như sét đánh ngang mày, ngã ra bất tỉnh. Mọi người vội đặt chủ nhân lên giường, vấy nước cho chàng tỉnh dậy. Vương Thế Bân tỉnh lại, rất lâu vẫn không nói được lời nào, một lúc sau mới cất giọng khàn đặc lẩm bẩm: “Không nghe lời ta, sao không nghe lời ta!” Một người tỉnh táo nói: “Thưa chủ nhân, hay là mau đi tìm thi thể của phu nhân về?” Vương Thế Bân bấy giờ như tỉnh cơn mê, gật đầu vội nhảy ra khỏi giường, lấy trúc cột lại thành bó, dẫn theo một người làm, cùng với Tiến An đi tìm Quỳnh Nương. Tiến An lảo đảo chạy vội về phía rừng Hắc Phong. Đây là khu rừng tự nhiên nằm trên đường nối giữa Bảo Thạch thôn và huyện thành, trong rừng đồi núi nhấp nhô, thông xanh dày đặc, địa hình cực kỳ phức tạp, dã thú thoắt ẩn thoắt hiện khiến khu rừng vốn âm u càng tăng thêm phần nguy hiểm. Ngoài ra mấy năm gần đây, nơi này thường có đạo tặc hoành hành cướp phá khách bộ hành, nên sự sợ hãi của dân chúng đối với khu rừng càng lúc càng tăng. Trên một đám cỏ bị quần nát, Vương Thế Bân lờ mờ nhìn thấy thi thể bầm nát lẫn lộn thịt và máu của vợ mình. Vai trái của nàng bị chém đứt chỉ còn dính lại sợi gân trắng, tay phải đã rớt lìa nằm bên cạnh, bu quanh là đàn kiến, thân dính đầy máu, khuôn mặt càng thương tâm hơn, bị vô số những nhát chém, hầu như không còn hình dạng… “Nương tử! Nương tử!” Vương Thế Bân quỳ xuống bên cạnh thi thể Quỳnh Nương khóc nức nở. Một lúc sau chàng mới từ từ bình tĩnh, một mặt lo kêu người đào huyệt mộ, mặt khác cởi lấy chiếc áo đầy máu của vợ mình, quyết tâm đến nha huyện kêu oan. Trước cửa nha huyện, bên phải có treo một cái trống to, Vương Thế Bân vội cầm lấy dùi trống đánh ba tiếng. Quỳ ở công đường, chàng ngẩng nhìn lên. Kỳ lạ thay! Vị đại quan ngồi trước Điêu Hoa án không phải là quan huyện lệnh, mà là vị lão gia mặt đen, thân hình to lớn, ông đưa đôi mắt đầy uy lực nhưng không hung ác nhìn chàng. Ô! Sao mà quen thuộc đến thế? Vương Thế Bân nghĩ. Chàng sực nhớ ra, suýt chút nữa thì bật kêu lên: Đây có phải là Thanh Thiên đại lão gia Bao Công? Đúng vậy, Đại Tống Thiên Chương Các đặc chế, Long Đồ Các học sĩ, Bao Chưởng phủ doãn phủ Khai Phong, tuần sát đến huyện Khải Khánh, nghe báo có vụ án giết người nên đã thân hành đứng ra điều tra. Vương Thế Bân tạ ơn trời đất. Có Bao đại nhân đứng ra xét xử thì nỗi oan của Quỳnh Nương nhất định sẽ được điều tra ra! Hung thủ nhất định trốn không thoát. Bao Công như đọc được ý nghĩ của chàng bèn hỏi: “Vương Thế Bân phu nhân của ngươi hà cớ gì mà phải rời nhà để đi qua rừng Hắc Phong? Ngươi hãy thành thật khai rõ.” “Vâng, thưa đại nhân.” Vương Thế Bân bắt đầu kể lại: Hôm qua, lúc chập choạng tối thì Tiến An, tên gia đồng của nhà Trần đại nhân vội vội vàng vàng đến, báo cho Quỳnh Nương hay lão quan mấy ngày nay bị cảm phong hàn, muốn con gái về lo thuốc thang, săn sóc cha già cho đỡ nỗi nhớ thương. Quỳnh Nương nghe nói cha bị nhuốm bệnh, trong lòng không yên, hận mình không có đôi cánh để bay về báo hiếu. Nhưng muốn đi thì phải bàn bạc cùng chồng, đợi chàng đồng ý mới được. Lúc bấy giờ Vương Thế Bân vẫn chưa về, không thể quyết định ngay, nên nàng bảo Tiến An hãy ăn cơm trước, đợi chàng về.   ​​Mời các bạn đón đọc ​Bao Thanh Thiên của tác giả Trương Hiểu Nhiên & Ngô Bảo Hòa.
Bánh Xe Nghiệt Ngã
Tiểu thuyết “BÁNH XE NGHIỆT NGÔ của tác giả PHI TRƯỜNG đưa bạn đọc đi sâu vào một cơ sở sản xuất của nền công nghiệp hiện đại Hoa Kỳ, hé cho ta thấy bí quyết thành công của nó : những giám đốc năng nổ, tháo vát làm việc mười hai mười bốn tiếng một ngày, những kỹ sư tận tụy yêu nghề luôn tìm cách ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới nhất để nâng cao chất lượng sản phấm, tổ chức lao động chặt chẽ trong nhà máy mẹ kết hợp với hệ thống xí nghiệp vệ tinh qui tụ những tay nghề cao, bộ máy quảng cáo và dịch vụ thương mại rộng khắp thuận tiện cho người tiêu dùng… Đồng thời tác giả cũng phanh phui những mâu thuẫn đang ngáng trở nền sản xuất lớn tư bản. Chủ nghĩa phát triển thậm chí có nguy cơ sa sút : sự cạnh tranh tàn nhẫn giữa các công ti cá mập, nạn ô nhiễm môi trường sống, tệ phân biệt chủng tộc và nạn mafia có mặt khắp nơi dùng khủng bố tàn bạo để bòn rút công nhân, số đông người lao động bần cùng nổi giận… Qua câu chuyên xoay quanh một nhà máy sản xuất ôtô lớn với nhiều gương mặt rất khác nhau, chủ tịch công ty, quản đốc phân xưởng, công nhân bình thường, da trắng và da đen, những cặp vợ chồng chung thủy và những cô nhân tình quí phái… bạn đọc có thể cảm nhận được ánh hào quang kỳ diệu nhưng đầy lo lắng của một hình thái kinh tế xã hội đang tìm cách thích nghi để tồn tại. *** Arthur Hailey (người Anh có quốc tịch Canada) (1920 - 2004) là tác giả của mười một cuốn best-sellers, trong đó có "Bản tin chiều" đã được dựng thành phim. Ông có 11 tiểu thuyết bán rất chạy được in ở 40 quốc gia với 170 triệu bản. Hailey được coi là người trường vốn trong sự nghiệp sáng tác. Những cuốn truyện ông viết đã vượt khỏi quê hương, được xuất bản trên 40 nước với hơn 170 triệu bản. Điểm nổi bật trong tác phẩm của ông là những nhân vật có xuất xứ rất tầm thường nhưng khi bị đẩy vào hoàn cảnh bi hùng đã vượt lên thành một số phận khác.  Sinh ngày 5/4/1920, Hailey sớm phải bỏ học ở tuổi mười bốn, bởi cha mẹ không đủ tiền chu cấp ăn học cho con trai. Sau đó, chàng trai Arthur trở thành phi công trong quân chủng Hoàng gia Anh trong đại chiến 2. Năm 1947, nhà văn tương lai rời bỏ xứ sở sương mù đến Canada và nhập quốc tịch tại đây. Thời gian đầu nơi đất khách, Hailey phải kiếm sống như một nhân viên tiếp thị cho nhà máy sản xuất máy kéo. Được một thời gian thì việc viết lách đã cám dỗ Hailey. Cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông là The Final Diagnosis, xuất bản năm 1959, kể về một bác sĩ chẳng may gây ra cái chết với một bé sơ sinh.  Mải mê với những con chữ trong một thập kỷ, rồi ông trở về công việc kinh doanh, chỉ ngồi vào bàn viết như một thú vui. Bà vợ của Hailey cho biết, nhà văn rất khiêm tốn và giản dị, nhưng ông có một niềm hân hoan đặc biệt khi đọc những bức thư của độc giả tán dương tác phẩm mình. Hậu duệ của ông dự định sẽ tổ chức một bữa tiệc tưởng nhớ ông vào tháng giêng theo đúng nguyện ước của người quá cố. Mười bốn tuổi đã nghỉ học vì cha mẹ không đủ tiền cho ông đi học tiếp, Arthur Hailey tham gia thế chiến thứ 2 với tư cách là phi công trong không lực hoàng gia Anh và trở thành nhà văn khi xuất bản tác phẩm đầu tay The final diagnoisis vào năm 1959.  Arthur Hailey có cách viết tiểu thuyết rất hấp dẫn, mô tả những người bình thường trong hoàn cảnh bất thường. Năm 2001 ông nói với hãng tin AP: "Tôi không thật sự tạo ra ai cả. Tôi chỉ lấy từ đời thật". Một số tác phẩm của ông đã được ra tiếng Việt như: Bản Tin Chiều Lời Chẩn Đoán Cuối Cùng Phi Trường Tập 1 Phi Trường Tập 2 Nhà Băng Khách Sạn Phi Trường (Người dịch: DgHien) Bánh Xe Nghiệt Ngã ... *** Chủ tịch hãng Động Cơ Thông Dụng bực mình, cả đêm qua mất ngủ : chiếc chăn điện trở chứng liên tục và mỗi lần như thế ông lại thức giấc vì lạnh. Lúc này vẫn mặc bộ đồ ngủ, choàng áo khoác, ông rón rén đi lục tìm khắp ngôi nhà vắng lặng rồi mang bầy lên nửa còn lại của chiếc giường lớn nhiều thứ dụng cụ đồ nghề, bắt đầu tháo bộ phận điện trong khi Côrali vợ ông vẫn còn ngủ. Ông phát hiện ngay chỗ tiếp xúc kém. Vừa cằn nhằn các tay sản xuất chăn điện làm ẩu, ông mang xuống xưởng riêng dưới hầm để sửa. Người vợ vươn vai. Chỉ vài phút nữa đồng hồ báo thức sẽ đánh chuông. Lúc ấy bà mới dậy lo bữa điểm tâm trong khi vẫn còn ngái ngủ. Ở thị trấn Blumfin Hin cách Đitơroi mười lăm kilômét này bây giờ vẫn còn tối. Sáng sớm hôm đó chủ tịch hãng ĐCTD, người khô khan, cử chỉ lanh lẹn nhưng bản tính nói chung điềm tĩnh có hai cớ để bực mình : chiếc chăn điện tất nhiên là một, còn một nữa là cách xử sự rất đáng giận của Imơcxơn Vên. Mấy phút trước đây qua chiếc đài bán dẫn đặt trên bàn ngủ mở thầm đủ nghe ông đã nhận ra giọng nói chua ngoa quen thuộc và dễ ghét của nhà “phê phán xe hơi” cỡ lớn này. Bữa qua trong cuộc họp báo ở Oasinhtơn một lần nữa Imơcxơn Vên lại công kích ba người đáng ghét nhất xưa nay của lão : Động Cơ Thông Dụng, Fo và Craixlơ. Lên án ba ông Lớn về tội “tham lam, tụ tập bè đảng lưu manh, bội tín, cưỡng đoạt tiền của dân chúng”. Vì ba Ông Lớn đã hoàn toàn thỏa thuận cùng nhau ngăn cản việc phát triển loại xe “sạch sẽ” thay cho xe chạy xăng, loại xe chạy hơi nước hoặc chạy điện là những loại Vên cho rằng “đã sẵn sàng lăn bánh”. Lời buộc tội chẳng có gì mới. Nhưng Vên vốn rất khôn khéo trong sự giao tiếp với công chúng và giới báo chí nên đã lồng vào lời tuyên bố những tư liệu mới làm nó có giá trị thông tin, thu hút được người đọc. Vị chủ tịch hãng công nghiệp lớn nhất thế giới tốt nghiệp kĩ sư một trường nổi tiếng ngồi sửa bộ phận hâm nóng của chiếc chăn điện với niềm vui thích thường thấy khi có thì giờ làm các việc trong gia đình. Rồi ông đi tắm, cạo mặt, bận quần áo, tới dùng bữa sáng với Côrali. Trên bàn ăn có tờ Đitơroi Tự Do. Vừa trông thấy tên và ảnh Imơcxơn Vên in trên trang nhất ông chửi thề và quăng tờ báo xuống đất. Côrali đặt trước mặt chồng các món của bữa điểm tâm theo chế độ “chống tăng côléttêrôn” : bánh mì nướng không phết bơ, lòng trắng một quả trứng luộc, cà chua xắt khoanh, fomát trắng. Sáng nào vợ ông chủ tịch ĐCTD cũng tự tay soạn bữa ăn đầu tiên này và cùng ăn với chồng mặc dầu chồng phải đi làm sớm. Côrali ngồi xuống trước mặt chồng, nhặt tờ báo mở ra và nói : “Theo Imơcxơn Vên, chúng ta đã có đủ trình độ kỹ thuật để đưa người lên mặt trăng hoặc sao Hỏa thì ngành kỹ nghệ xe hơi cũng phải cho ra được loại xe hoàn hảo, không có khuyết điểm gì và không gây ô nhiễm không khí”. Người chồng đặt khăn xuống. “Định làm tôi ăn mất ngon đấy à ? Bữa ăn đã chẳng có gì lại còn…” Người vợ tủm tỉm cười. “Em thấy hình như anh đã hết ngon miệng rồi thì phải ! Ông Vên còn trích dẫn Kinh thánh nói về ô nhiễm nữa cơ. - Lay Chúa Kitô ! Kinh thánh nói gì về cái đó được ! - Không phải Chúa Kitô đâu. Đoạn này trích trong kinh Cựu Ước. - Thì đọc đi vậy. Đằng nào bà cũng định đọc”. Người chồng lầu bầu, vẻ tò mò muốn biết. “Thánh Giêrêmi: Ta cho ngươi tới xứ sở xanh tươi như một khu vườn để các người được ăn những trái quả tươi ngon nhất. Nhưng sau khi đến các người đã làm ô trọc xứ sở của ta, biến gia tài của ta thành thứ ghê tởm.” Bà rót cà phê vào tách. “Em thấy tay ấy viết khá tài tình”. - Chẳng ai cho cái thằng đểu ấy là kém thông minh. Người vợ đọc tiếp. “Ngành kỹ nghệ xe hơi và dầu mỏ đồng tình kìm hãm sự tiến bộ kỹ thuật đáng lẽ từ lâu đã dẫn đến việc phát minh ra xe chạy điện hoặc hơi nước. Lập luận của họ rất đơn giản : loại xe này sẽ biến thành số không toàn bộ khoản tiền khổng lồ đầu tư vào loại động cơ đốt trong đang đầu độc khí quyển”. Bà đặt báo xuống. “Bài này có gì đúng sự thật không ? - Rõ ràng Vên cho tất cả những điều ấy là đúng. - Anh thì không ? - Nhất định không. - Không có một tí nào ? - Đôi khi có thể thoang thoảng tí chút sự thật trong một lời tuyên bố ngoa ngoắt. Chính bằng cách đó mà những kẻ như Imơcxơn làm ra vẻ mình có lý”. Người chồng đáp lại, vẻ bực bội. - Anh sẽ bác bỏ những điều lão nói chứ ? - Có lẽ không. - Sao vậy ? - Vì nếu Động Cơ Thông Dụng nện Imơcxơn, người ta sẽ lên án cái Hãng lớn như thế mà đi đè bẹp một cá nhân tầm thường. Nếu không đập lại thiên hạ cũng sẽ nguyền rủa bọn anh, nhưng dù sao họ không thể trích dẫn lời bọn anh để xuyên tạc. - Sao không để một người nào khác đập lại ? - Nếu có tay nhà báo kha khá nào đó đụng đến Hăngri Fo xem, có lẽ ông ta sẽ trả miếng - ông mỉm cười - có điều là Hăngri sẽ nói toạc móng heo và sẽ không công bố lời ông ta được. - Ở địa vị anh, có lẽ em sẽ nói một cái gì. Tất nhiên nếu em tin chắc mình có lý. - Cám ơn lời khuyên của em. Vị chủ tịch ĐCTD chấm dứt bàn cãi ngồi ăn xong bữa. Nhưng cuộc tranh luận với những lời châm chọc cố tình mà Côrali cho là thỉnh thoảng đưa ra sẽ bổ ích cho ông, đã làm tiêu tan nỗi bực dọc từ sáng. Ông nghe phía ngoài cửa bếp bước chân người hầu gái đang vào. Như vậy là lái xe đón cô ta dọc đường đã về và đang đợi ông dưới kia. Ông đứng lên, ôm hôn vợ. Mấy phút sau, khoảng sáu giờ sáng chiếc Cađilắc chở ông theo đường Têlêgráf đi về phía đường FriUê và khu trung tâm. Vào một sáng tháng mười trong trẻo có từng cơn gió tây bắc báo hiệu mùa đông đang về. Thành phố Đitơroi bang Misigân, thủ đô thế giới của công nghiệp xe hơi bắt đầu tỉnh giấc. Ở Blumfin Hin, cách nhà ông chủ tịch ĐCTD mười phút đi bộ, phó chủ tịch hãng Fo cũng đang sửa soạn ra sân bay Mêtrôpôlitên của thành phố. Ông đã dùng xong bữa sáng, một mình. Người nữ nhân viên phục vụ bưng khay thức ăn vào tận văn phòng chiếu sáng yếu ớt trong đó ông ngồi đọc các bản báo cáo từ năm giờ sáng (phần lớn các báo cáo đều viết trên loại giấy xanh đặc biệt mà văn phòng phó chủ tịch dùng cho các văn kiện về thực hiện đề án mới) và ghi vào băng từ những chỉ thị rõ ràng, chính xác. Gần như ông không ngẩng lên nhìn khi bữa điểm tâm được mang vào và cũng chẳng nhìn xem mình đang ăn gì. Trong có một giờ ông làm xong khối công việc người khác phải làm trong cả một ngày hoặc hơn nữa mới xong. Phần lớn các quyết định xoay quanh việc xây dựng thêm xưởng máy mới hoặc mở rộng những nhà máy hiện có, tốn kém hàng mấy tỉ đô la. Phó chủ tịch ngoài nhiều nhiệm vụ khác, có trách nhiệm phê chuẩn hoặc bác bỏ các đề án được đệ trình và định thứ tự ưu tiên. Hôm có người hỏi ông phê duyệt những khoản lớn như vậy có thấy run tay không, ông đáp lại : “Không, bởi vì bao giờ tôi cũng thầm bỏ bớt ba chữ số cuối. Thành ra cũng không khó hơn khi cân nhắc mua một ngôi nhà”. Câu trả lời rõ ràng, bật ra rất nhanh, nói lên bản lĩnh của người vốn là anh bán xe xoàng xĩnh chỉ trong thời gian kỉ lục đã trở thành một trong mười hai ông chủ có quyền quyết định trong vương quốc xe hơi. Cũng chính cách làm ăn kiểu đó giúp ông trở thành siêu triệu phú. Vấn đề cần xem xét là sự tiến bộ và sự giàu sang có đáng với cái giá phải trả không. Phó chủ tịch làm việc mỗi ngày mười hai có khi mười bốn tiếng, thường là bẩy ngày trong một tuần với nhịp độ dồn dập. Như ngày hôm nay, trong lúc phần đông dân thành phố còn đang ngủ ông đã phải lên máy bay riêng của hãng bay đi NiuYoóc, trong lúc ngồi trên máy bay ông tranh thủ nghiên cứu thị trường với các nhân viên dưới quyền, vừa đến nơi phải chủ tọa ngay cuộc họp với các giám đốc địa phương cũng về vấn đề đó. Cuộc họp vừa xong ông phải tranh cãi gay gắt với hai mươi đại lý bang NiuGiơdi về việc bảo hành và các dịch vụ hậu mãi. Sau dó đến Manhattan dùng bữa trưa với một nhóm chủ ngân hàng, đọc một bài diễn văn. Rồi họp báo, đương đầu với các phóng viên. Buồi trưa trở về Đitơroi cũng bằng chiếc máy bay đó, ông có nhiều cuộc gặp gỡ để giải quyết công việc thường lệ cho đến bữa chiều. Trong ngày, vào một lúc nào đó chưa sắp xếp được, phải đưa đầu cho thợ đến tận nơi cắt tóc. Bữa tối ăn trên sân thượng sẽ được điểm xuyết bằng cuộc trò chuyện với người phụ trách các ban quan trọng về kiểu xe mới. Cuối cùng sẽ đến vĩnh biệt một đồng nghiệp mới từ trần tối qua vì nghẽn động mạch vành, (tại nhà thờ tang lễ Hêminhtơn, một chặng trên con đường đưa các ông Lớn ngành xe hơi tới nghĩa trang Út Lên). Sau tất cả những việc đó cuối cùng phó chủ tịch mới được về nhà ôm theo chiếc cặp căng phồng hồ sơ phải nghiên cứu để chuẩn bị cho ngày mai. Lúc này ông đẩy khay điểm tâm ra xa, thu gom giấy từ rồi đứng lên. Bốn bức tường của phòng làm việc đều có giá xếp đầy sách. Đôi khi, vào những buổi không bận rộn tối tăm mắt mũi như sáng nay ông ném lên chúng một cái nhìn tiếc nuối và thèm muốn. Vì nhiều năm trước đây có một thời ông đọc rất nhiều. Có thể ông đã trở thành sinh viên nếu đời ông đi theo hướng khác. Bây giờ thì không có thì giờ đọc sách nữa. Ngay cả việc đọc tờ báo hàng ngày cũng phải rình chộp thời cơ tranh thủ liếc thật nhanh. Nên ông cầm tờ báo còn nguyên nếp gấp khi nhân viên phục vụ mang tới và nhét luôn vào cặp. Vì thế mãi sau ông mới biết những lời công kích mới nhất của Imơcxơn Vên và nguyền rủa hắn như những người khác trong ngành xe hơi đã nguyền rủa từ sớm. Tại sân bay ban tham mưu cùng đi với ông đã tề tựu trong phòng đợi của đoàn Vận chuyển hàng không Hăngri Fo. Ông ra lệnh giọng khô khan. “Lên đường”. Động cơ chiếc Jết Xta bắt đầu chạy, trong lúc cả đoàn tám người lên máy bay. Những người lên sau chưa kịp đeo dây an toàn máy bay đã lăn bánh. Chỉ những người thường đi máy bay riêng mới thấy rõ cái lợi về tiết kiệm thì giờ so với đi máy bay công cộng. Máy bay lăn nhanh ra đường băng cất cánh trong lúc mọi người mở cặp đặt trên đầu gối. Phó chủ tịch mở đầu ngay cuộc thảo luận. “Kết quả thu được ở khu vực đông bắc mấy tháng gần đây không được khả quan. Các ông đều đã nắm được số liệu, cũng như tôi. Tôi đòi hỏi sự giải thích tình hình đó. Và muốn biết những biện pháp nào đã được thi hành”. Ông vừa nói xong thì máy bay cất cánh. Phía chân trời vầng dương đỏ quạch nhô dần, sáng lên giữa những đám mây xám trôi rất nhanh. Dưới cánh máy bay đang nâng độ cao, ánh sáng ban mai làm nhìn rõ thành phố và các vùng phụ cận trải dài. Khu trung tâm Đitơroi, ốc đảo vuông mỗi cạnh một cây số giống như một Manhattan thu nhỏ; tiếp liền sau đó là những héc ta đường phố buồn tẻ, nhà cao tầng, nhà máy, nhà ở, phần lớn cáu bẩn. Một thành phố công nghiệp dơ dáy phát sợ vì không chịu vung tiền cho công việc quét dọn vệ sinh. Phía tây thành phố, Điếcbơn sạch sẽ xanh tươi hơn, tận cùng bằng tổ hợp công nghiệp khổng lồ của LơRu. Ngược lại ở đầu phía đông, khu Mũi Lớn, phô những rặng cây thẳng tắp : đó là thiên đường của những kẻ giầu có. Phía Nam là khu công nghiệp Vianđốt mù mịt khói; đảo Bel-In nép sát bờ sông Đitơroi như chiếc sà lan mầu rỉ đồng chở khẳm. Bờ sông bên kia là lãnh thổ Canada, thành phố Oaixo cũng xấu xí cũng gớm ghiếc không kém Đitơroi trên đất Mĩ. Và trên khắp mọi miền, ánh sáng ban ngày làm nổi rõ mật độ giao thông dầy đặc trên mạng đường sá. Hàng vạn con người như đàn kiến cỏ (hoặc đàn chuột len-mút tùy theo cách nhìn từng người) gồm thợ thuyền, nhân viên, viên chức lũ lượt kéo nhau bước vào một ngày sản xuất mới trong vô vàn xí nghiệp lớn nhỏ. Đitơroi kiểm soát và điều khiển nền sản xuất xe hơi của cả nước, nên khi ngày làm việc bắt đầu thì nhịp xuất xưởng lập tức hiện trên tấm bảng lớn đặt tại điểm giao thông lộ các con đường đi tới Fo và tới Craixlơ, những con đường đầy ứ xe. Nhờ sử dụng một hệ thống thống nhất trong cả nước, từng phút một số lượng xe xuất xưởng trong năm hiện lên bằng những con số cao một mét rưỡi trên bảng. Mỗi khi có thêm một dây chuyền khởi động thì tổng số lại tăng lên. Lúc này đã có hai mươi chín nhà máy trong vùng đông bắc làm việc, gửi số liệu lên bảng, số liệu tăng vọt sau khi mười ba xưởng lắp ráp của trung tâm tây và sáu xưởng của Califoócnia khởi động. Những người chạy xe trên đường nhìn tấm bảng với tâm trạng của người bác sĩ nhìn số đo huyết áp, của kẻ đầu cơ chứng khoán khi nhìn bảng giá ở ngân hàng. Có những người còn cá cược nhau về tổng số lúc sáng, lúc chiều. Những xưởng gần nhất cách đây khoảng 1,5km là của Craixlơ, nói chính xác là các xưởng Đốt và Plai-mao mỗi giờ cho ra hơn trăm xe. Trước đây viên chủ tịch hội đồng quản trị của Craixlơ thỉnh thoảng đến giám sát việc bắt đầu chế tạo một sản phẩm mới và tự mình thử khi sản phẩm ra đời. Gần đây ít khi ông làm thế. Buổi sáng hôm đó ông vẫn còn ngồi nhà đọc từ nhật báo Phố Uôn và uống ly cafê do vợ pha trước khi bà đi dự cuộc họp Hiệp hội Nghệ thuật. Hồi đó ông tổng giám đốc hãng Craixlơ (mới nhậm chức chủ tịch gần đây) tất bật chạy ngược chạy xuôi khắp nhà máy không hề mệt mỏi, phần vì nhà máy thiếu máu đang rất cần một giám đốc năng nổ, phần khác là vì bản thân ông đang muốn dứt khoát dứt bỏ cái nhãn “kế toán” người ta thường gán cho những người ngoi lên theo con đường của ngành tài vụ chứ không qua ngạch kỹ sư hoặc chuyên viên thương mại. Dưới quyền ông, hãng đã trải qua nhiều bước thăng trầm : sáu năm thịnh vượng gây được lòng tin cho các cổ đông tiếp theo là sáu năm sa sút đến mức báo động. Sau đó bằng những cố gắng ghê gớm và những tiết giảm khắc nghiệt hãng đã vượt qua cơn hiểm nghèo, khiến có người cho rằng chưa bao giờ hãng hoạt động tốt bằng trong thời kì khó khăn. Tuy nhiên thời khó khăn đã qua, không ai cho rằng chiếc Pentátta đời mới nhất của Craixlơ có thể lại mất cái vị trí nó đã chiếm được. Vị chủ tịch có thể rảnh rang một chút, suy nghĩ nhiều hơn, đọc những thứ thấy thích đọc. Lúc này ông đang đọc bài của Imơcxơn Vên; bài đăng trên nhật báo Phố Uôn có phần kín đáo hơn trên từ Đitơroi Tự do. Nên làm ông chán ngấy, ông thấy lời chỉ trích của lão cùn mòn, không có bản sắc. Nên ông chỉ lướt qua rồi chuyển qua mục bất động sản có sức thuyết phục hơn. Không mấy người biết ít lâu nay Craixlơ đang chăm lo xây dựng một vương quốc bất động sản, trước mắt làm cho hoạt động kinh doanh của công ti phong phú hơn, và sao lại không ? trong vài thập kỷ nữa sẽ đưa “số ba” lên ngang hàng hoặc cao hơn Động Cơ Thông Dụng. Trong khi chờ đợi ngày đó, vị chủ tịch hài lòng ghi nhận nhịp độ sản xuất trên mức khả quan của các nhà máy Craixlơ. Như vậy đó, sáng nay cũng như tất cả các buổi sáng, Ba Ông Lớn vật lộn ráo riết để giữ vững ngôi thứ của mình trong khi một hãng khác ở bang Uýtcơnxin, hãng Động Cơ Mĩ bé nhỏ hơn cũng góp vào dòng lũ xe hơi này một phần tuy ít ỏi hơn nhưng hiện đại hơn. Mời các bạn đón đọc Bánh Xe Nghiệt Ngã của tác giả Arthur Hailey.
Nicôlai Cudơnhétxốp - Người Tình Báo Anh Hùng
A. LUKIN - T. GLATCỐP NICOLAI CUDƠNÉTXỐP NGƯỜI TÌNH BÁO ANH HÙNG Thùy Dương và Thế Anh dịch SỞ VĂN HÓA VÀ THÔNG TIN HẬU GIANG - 1983 - TRONG những tập báo cũ số ra ngày 22 tháng Sáu năm 1941 chỉ có những tin tức bình thường nhất, hoàn toàn thanh bình về cuộc sống của đất nước. Những số báo ấy được xếp chữ và in hồi đêm, bản hết vào sáng sớm, khi tất cả biên giới phía Tây đã ngập chìm trong khói lửa, những quả bom đầu tiên đã rơi xuống Kiep, Minxcơ, Xêvaxtôpôn. Người Mátxcơva chỉ đến nửa buổi mới hay tin chiến tranh qua thông báo khẩn cấp của Chính phủ trên đài phát thanh. Trong những phút đen tối ấy Nicôlai Cudơnétxốp cũng giống như mọi người xô-viết khác: tức giận và căm thù bọn xâm lược tráo trở xâm phạm tự do và sự tồn tại của Nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới, Nhưng anh không ngạc nhiên. Anh đã quá biết nước Đức Hitle. Anh hiểu rằng chiến tranh là không thể tránh được. Một cuộc chiến tranh khủng khiếp, đẫm máu: Một cuộc chiến tranh chưa từng có trong lịch sử. Và anh biết anh sẽ phải đứng vào vị trí nào trong đội ngũ chiến sĩ chống phát-xít. Ý định đầu tiên của Cudơnétxốp là được ra mặt trận đã đạt được. Là một vận động viên nhảy dù, thạo dùng súng, một tay trượt tuyết cừ, lại thêm biết tiếng Đức, anh liền được đưa vào đơn vị biệt kích dù, Chẳng còn bao lâu nữa anh được tới mặt trận - chỉ đợi phiên chế xong các phân đội là lên đường. Sau đó ít lâu Cudơnétxốp được tập nhảy dù và nhảy nhiều lần, nhưng anh không trở thành chiến sĩ biệt kích và thực sự anh chỉ nhảy dù có một lần duy nhất vào hậu cứ địch, mà lại qua mãi một năm sau kia. Mệnh lệnh của một đồng chí cấp trên vội vã phiên chế Cudơnétxốp vào đơn vị biệt kích, đã bị một đồng chí cấp trên khác cao hơn và cái chính là nhìn xa trông rộng hơn, hủy bỏ vô điều kiện. Đồng chí này tính rằng một người có kiến thức tiếng Đức như vậy mà đưa vào biệt kích dù bình thường thì không thích đáng. Do đó tên họ Cudơnétxốp từ đơn vị biệt kích dù đã được chuyển sang một danh sách khác, trong đó số lượng ít hơn nhiều. Người thuộc danh sách đặc biệt này không được tung ra mặt trận. Những người này được ném vào sau mặt trận. Không cử đi từng phân chi đội, mà từng người một, trường hợp đặc biệt – từng nhóm nhỏ là cùng. Những phẩm chất riêng, kiến thức kinh nghiệm của họ cho phép sử dụng họ trong những điều kiện phức tạp hơn nhiều và khá đặc biệt. Lính lái xe tăng, phi công, các chuyên viên quân sự khác, sau ngày 22 tháng Sáu năm 1941 đều cần cho Tổ quốc không kém gì anh em trinh sát, tình báo. Nhưng dạy cho một người lái xe tăng hay máy bay dù sao cũng dễ hơn là biến người ấy thành một người lính của mình mà lại ở trong hàng ngũ địch. Gần một năm trời... Những ngày tháng dài đằng đẵng, mệt mỏi, vô công rồi nghề chờ đợi (mặc dù cũng đâu phải ngồi yên). Hết đề nghị này đến đề nghị khác gửi đi nhưng không được chấp thuận, cấp trên một mực từ chối, Cudơnétxốp lang thang hàng giờ khắp thành phố và tự thấy hổ thẹn vì tuổi trẻ và sức lực của mình - đàn ông lứa tuổi anh lúc này ở thủ đô chỉ có thể gặp trong quân phục hoặc đi nạng. Nicolai bất giác có lần giật mình thấy sợ không dám ngồi xuống chỗ trống trên xe điện để tránh những cái nhìn trách móc, thậm chí khinh rẻ của cả toa xe. Em trai Vichto của anh đã đi chiến đấu, còn anh là anh cả, vậy mà vẫn giậm chân tại chỗ trên đường phổ Mátxcơva. Mátxcơva... Ai có mặt ở thủ đô vào mùa thu đầu tiên của chiến tranh, hẳn không bao giờ quên bộ mặt nghiêm khắc mới mẻ của thủ đô. Cửa sổ các nhà đều dán những mảnh giấy chéo nhau, mặt các cửa hiệu được chắn cao những chồng bao tải cát, những quả khinh khí cầu xam xám lờ mờ bay trên trời đêm, những mũi tên trắng viết trên tường nhà với chữ đề: «Hầm tránh bom», những khẩu đội cao xạ bốn nòng thường trực trên các nóc nhà. Hầu như đêm nào còi báo động cũng rền rĩ réo vang, những luồng ánh sáng đèn chiếu hừng hực sục sạo xoáy vào bầu trời tối om, đạn cao xạ giận dữ vút bay lên liên tiếp, lả tả trút xuống mặt đường trận mưa mảnh thép sắc cạnh. Và mỗi sáng các bác nhân viên vệ sinh sân phố lại đổ đầy nước vào các bồn gỗ để trên gác áp mái tất cả các nhà trong thành phố. Khi họ còn chưa đến, mấy chú bé còn lại trong thành phố (chúng chẳng vội đi đâu mùa đông nhà trường đóng cửa cả) đã len lỏi đến trước, moi từ đây các bồn gỗ lên những kíp pháo sáng sơn đen lấp lánh và những cái ống pháo sáng của địch bị cháy. Các em lớn, trước đó, trong những đợt máy bay địch, đã dập tắt những pháo sáng này trong các bồn nước.   Mời các bạn đón đọc Nicôlai Cudơnhétxốp - Người Tình Báo Anh Hùng của tác giả A. Lukin & T. Glatcốp.