Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chỉ Tại Vợ Tôi Gợi Tình

Đàn ông sinh ra là dành cho đàn bà, sự thật ấy ai dám chối cãi. Thế mà Hector lại không như thế. Gã sinh ra là để... dành cho đồ vật. Bởi gã ấy, từ thuở cha sinh mẹ đẻ, phàm là đồ vật, cái gì gã cũng sưu tầm, từ tem thư, huy hiệu, giấy gói sô cô la đến giấy khai sinh, xiên hoa quả, hộp đựng xà phòng, ngạn ngữ Croatia, vỏ sò Ấn Độ Dương, những thanh âm lúc 5 giờ sáng... Người ta cũng nói thế này: “cố quá thành quá cố”. Gã suýt “quá cố” vì cái thú sưu tầm quái gở ấy. Và gã quyết chí: LẤY VỢ! Cái quyết định được kỳ vọng sẽ hướng cuộc đời gã về bến bờ bình yên của hạnh phúc lứa đôi ai ngờ lại đẩy gã vào những tình huống tai quái mới, tất cả đều cùng một nguyên nhân: “CHỈ TẠI VỢ TÔI GỢI TÌNH!" Nhận định Chỉ tại vợ tôi gợi tình! là một bộ sưu tầm những trang sách buồn cười, nơi cái điên và cái hài tranh chấp nhau từng dòng một. Thậm chí, có lúc còn tằng tịu với nhau!” - (La Libération) “Vẫn luôn hài hước, chưa bao giờ lạc điệu, David Foenkinos nổi bật lên trong làng văn chương theo một cách thật thú vị.”- (Livres Hebdo) “David Foenkinos đã có một bộ sưu tầm những từ đắt và những phản ứng kỳ cục.” - (Télérama) *** Không khí hài hước ngập tràn trong tác phẩm "Chỉ tại vợ tôi gợi tình!", không chừa một nhân vật chính phụ nào, một cái hài rất "dị" nhưng đã được tiết chế một cách logic hơn so với 2 tiểu thuyết đầu tay của David Foenkinos. Chọc cười độc giả không bao giờ là đơn giản đối với một tiểu thuyết, vốn bị tước mất những hiệu ứng sinh động từ điệu bộ hay sự trầm bổng của giọng nói. Một tiểu thuyết đã được coi là “hài hước” khi có thể khiến người đọc mỉm cười hoặc cảm thấy “âm ỉ sướng” chứ chưa cần bắt được người bật cười ha hả. Thế nhưng "Chỉ tại vợ tôi gợi tình!" lại vượt qua được thách thức đó và độc đáo hơn, chỉ bằng lối trần thuật đơn giản. Bởi không việc gì phải cố hiểu ra đầu ra đũa, ta quá thường xuyên lãng phí hạnh phúc khi cố phân tích nó. Trái ngược với hai tiểu thuyết đầu tay, ở "Chỉ tại vợ tôi gợi tình!", David Foenkinos đã chế ngự thành công chất “dị” trong cách viết của mình với một cốt truyện logic, tránh được những lúc dông dài và “mất tự chủ”. Mọi chuyện bắt đầu từ một điều khó tin: nhân vật chính, Hector, quyết định tự kết liễu đời mình! May thay, anh thoát chết và thế là độc giả được tận mắt chứng kiến cái chứng bệnh quái gở của anh: hội chứng cuồng sưu tầm. Để “cai nghiện”, anh quyết định lấy vợ. Bởi người ta không thể sống cả đời với một cái xiên hoa quả. Nhưng sự đời đâu có giản đơn như thế. Hector, một con người vốn quen với nỗi cô đơn, xa lánh người đời, giờ phải sống chung với một người phụ nữ có thể nói là “xa lạ” (họ đã trúng tiếng sét ái tình), phải tập quen với những chuyến viếng thăm định kỳ gia đình đôi bên. Tất nhiên, chuyện rồi sẽ kết thúc tốt đẹp, nhưng theo cách như thế nào thì có thể dám chắc rằng không ai ở đây có thể tưởng tượng nổi những diễn biến quái gở ấy. Cái tài của Foenkinos có lẽ chính là việc tạo dựng được không khí hài hước cho toàn bộ câu chuyện, không chỉ với nhân vật chính Hector, mà còn với dàn nhân vật phụ hùng hậu và “cực chất”. Đầu tiên phải kể đến bố mẹ Hector, một người cha sống chết với bộ ria của mình (để ria là có ý cả, kiểu như một hành động tuyên truyền) còn bà mẹ dành cả đời chỉ tâm huyết với việc nấu sao cho món xúp thật ngon, nhưng đến cuối lại rơi vào một cơn trầm cảm không thể có lối thoát chừng nào chưa trút hơi thở cuối cùng bởi bà nhận ra rằng xã hội hiện đại đã cung cấp những món xúp ăn liền ngon tuyệt. Và tất nhiên, không thể không nhắc đến Ernest, anh trai của Hector, nhà vô địch về hạnh phúc và người anh cao cả với tinh thần anh em như thể tay chân. Đặc biệt là Gérard, ông anh rể khù khờ, cua rơ huyền thoại của giải đua xe đạp Ouarzazate-Casablanca (xin độc giả đừng thắc mắc vội, bởi cái giải này từ trước tới nay chỉ có duy nhất một nhà vô địch là anh ta, người đã bịa ra nó.) Có thể nói "Chỉ tại vợ tôi gợi tình!" là độc đắc trong thể loại của nó, như tiếng chuông lanh lảnh, hoang dại, điên khùng rung lên theo phần nhạc đệm êm đềm nhưng nhí nhố, đôi khi lại vống lên những nhịp cao trào cuồng nhiệt. Đây cũng là tác phẩm mang lại cho David Foenkinos thành công lớn với Giải Roger-Nimier năm 2004. *** Hector rất có tướng người hùng. Nhìn gã, người ta tưởng đâu hừng hực khí phách “giữa đường thấy chuyện bất bằng chẳng tha”, bất chấp mọi hiểm nguy của cõi nhân tình thế thái chúng ta, tưởng đâu phải hớp hồn hết thảy đám đàn bà con gái, phải sẵn sàng tổ chức những kỳ nghỉ gia đình, phải xởi lởi bắt chuyện với bà con chòm xóm đi chung thang máy, hay, cao cấp hơn, phải cảm được phim của David Lynch. Gã ắt hẳn sẽ thuộc hạng người hùng của thời đại chúng ta, nếu có thêm cơ bắp cuồn cuộn. Thế mà bỗng đâu gã quyết định tự tử. Tạ ơn trời, có thế người ta mới nhìn nhận tốt hơn về người hùng. Hẳn là có chút tâm đắc nào đó với những cảnh phim, gã chọn ga tàu điện ngầm. Tất cả mọi người đều sẽ biết đến cái chết của gã, đó sẽ giống như một buổi họp báo giới thiệu một bộ phim không bao giờ khởi quay. Hector đung đưa người khe khẽ khi lắng nghe, vì lịch sự, những lời khuyến cáo sang sảng để không vội mua vé xem phim; rủi gã chết hụt, nhớ lại điều này cũng sẽ hữu ích. Người ta chẳng biết gì về gã, vậy nên người ta ít nhiều mong sự rủi này, ít nhất cũng để biết liệu có nên trông mặt mà bắt hình dong hay không. Cái gã tướng tá người hùng này thế mà điên. Gã bắt đầu nhìn mờ dần, những viên thuốc nhằm mục đích gây ngủ đã được nốc sớm quá. Chết trong lúc ngủ thì vẫn tốt hơn. Rốt cuộc, chuyện đó thành ra may mắn, bởi vì Hector lăn ra ngất. Trong mắt gã, người ta chẳng nhìn thấy điều gì. Gã được phát hiện nằm sõng soài trên hành lang ga tàu điện ngầm, gần Châtelet-Les Halles hơn là gần cái chết. Cơ thể gục xuống của gã trông như một thai nhi bị phá bỏ. Hai người khiêng cáng tướng tá như mấy tay vận động viên dùng đẫy thuốc kích thích (nhưng giờ không thể trông mặt mà bắt hình dong được) vừa giải cứu gã khỏi mọi cái nhìn của đám dân lao động đang âm ỉ sướng khi trông thấy cái tình cảnh còn thảm hơn của họ. Hector chỉ nghĩ độc một điều: vì tự tử hụt, gã vừa bị ép phải sống. Gã được chuyển đến một bệnh viện mới vừa được sơn sửa lại; nên dễ hiểu là người ta có thể thấy khắp nơi dòng chữ “sơn mới”. Vài tháng tới, gã sẽ tha hồ buồn chán trong cái khoa dành cho người hồi sức này. Chẳng mấy chốc, cái thú duy nhất của gã đã định hình: vừa ngắm cô y tá vừa tơ tưởng được vuốt ve bầu ngực nàng. Gã cứ đắm đuối với cái thú này, cho đến khi thừa nhận cô ả quá xấu. Gã lay lắt sống trong cái tình cảnh sự xấu phải nói là huyền thoại. Nói thế có phần nghiệt ngã quá; vì cô ả có thể rất gợi tình giữa hai mũi moóc phin. Và còn có tay bác sĩ, chốc chốc lại lướt qua như thể đi vũ hội. Những cuộc gặp gỡ hiếm khi quá một phút, và nhất định phải ra cái vẻ vội vội vàng vàng để chăm chút cho tiếng tăm của hắn (tiếng tăm, đó đúng là thứ duy nhất hắn chăm chút). Cái tay có nước da rám nắng đáng ngạc nhiên này bắt gã thè lưỡi ra chỉ để kết luận rằng gã có một cái lưỡi đẹp. Kể cũng tốt nếu có một cái lưỡi đẹp, ta cảm thấy thoải mái với một cái lưỡi đẹp, với Hector, thế chẳng khác gì có cặp chân đẹp. Gã không biết chính xác mình đang chờ đợi gì, đó là cơn trầm uất rền rĩ từ sâu thẳm lòng gã. Người ta đề nghị gã liên hệ với gia đình hoặc bạn bè nếu như may mắn còn ai đó (một cách kín đáo, người ta bóng gió về khả năng nên thuê lấy một người). Những gợi ý này đều bị từ chối bằng một sự im lặng kém lịch duyệt, cũng phải châm chước cho gã. Hector không muốn gặp bất kỳ ai. Chính xác hơn, và giống như hết thảy người ốm, gã không muốn để ai thấy gã như lúc này. Gã xấu hổ phải là thằng người mấp mé giữa chả là cái thá gì và còn không bằng cả cái thá gì. Gã đã gọi cho một người bạn và lòe anh ta rằng gã đang ở nước ngoài, khe núi Grand Canyon tuyệt vời, cái vết nứt đáng mặt vết nứt ấy; và gã gác máy, trong khi, chính gã, mới nứt toác như Grand Canyon. Cô y tá thấy gã đáng mến, cô thậm chí đã nói với gã rằng gã là một người đàn ông đặc biệt. Liệu ta có thể ngủ với một người phụ nữ thấy ta đặc biệt? Đấy quả là một câu hỏi lớn. Trước tiên, không nên: cứ cho là phụ nữ có bao giờ ngủ đâu, thế thôi. Cô gái quan tâm đến chuyện của gã; cuối cùng, thứ cô biết về chuyện đời gã, chỉ là hồ sơ bệnh án. Khó có thể nói trong ấy ẩn chứa các chi tiết đắt giá hơn. Liệu có tồn tại cô gái ấy, người sẵn sàng hiến dâng cơ thể cho bạn bởi vì cô nàng yêu cái cách bạn không bao giờ quên đi tiêm nhắc lại một mũi vắc xin 3 trong 1? Ồ, anh làm em hưng phấn đấy, người đàn ông đích thực của vắc xin. Cô y tá gãi cằm, rất thường xuyên. Những lúc ấy, cô nàng tự cho mình là bác sĩ; phải nói là cũng có đất diễn cho vai đó. Khi ấy cô thường tiến sát lại giường Hector. Cô nàng dù gì cũng có cái cách vuốt qua vuốt lại bàn tay một cách đầy nhục cảm trên tấm ga trải giường trắng muốt, những ngón tay cô được chăm sóc cẩn thận như cặp chân trên bậc câu thang, chúng đang sải những bước dài qua sắc trắng. Người ta thả gã ra vào đầu tháng Ba, mà xét cho cùng, ngày tháng đâu có nghĩa lý gì, mà thật ra chẳng cái thá gì có nghĩa lý. Bà gác cổng, một bà cô mà chẳng còn mấy ai có thể đoán được tuổi, làm ra vẻ lo lắng về sự vắng mặt của người khách thuê nhà. Các bạn biết đấy, cái vẻ lo lắng giả tạo, cái kiểu mơ tưởng đang ở năm 1942, với chất giọng the thé chói đến độ nếu đứng cạnh đường ray, hẳn đủ làm trật bánh cả đoàn tàu. “Thưa ngài Balanchiiiine, rất vui lại được thấy ngài. Là tôi, tôi rất lo lắng...” Hector không phải thằng đần; vì gã vắng mặt đã hơn sáu tháng, mụ hẳn cố vòi ít tiền quà cho Giáng sinh vừa rồi. Không muốn dùng thang máy, đặc biệt là ngại chạm mặt một ông bà hàng xóm nào đấy và phải trình bày, kể lể cuộc đời mình, gã lê thân lên thang bộ. Gã thở phì phò thành tiếng, và người ta xúm lại bên các cửa sổ. Gã đi đến đâu, người ta mở cửa chính ra đến đấy. Thậm chí hôm đó còn không phải là Chủ Nhật, tòa nhà này toàn người vô công rồi nghề đến phát sợ. Và thể nào cũng có một gã hàng xóm say khướt nào đó - giữa họ và chúng ta hẳn có nhiều điểm chung như là hai đường thẳng song song - sẽ nằng nặc đòi bạn phải tạt qua nhà. Tất cả chỉ để được hỏi ba lần “Thế nào, đằng ấy khỏe chứ?” và trả lời đủ ba lần “khỏe cả, đằng ấy thì sao?” Tình thân ái khó mà chịu nổi; khi người ta vừa hết thời kỳ dưỡng bệnh, có lẽ người ta sẽ thích sống ở Thụy Sĩ1. Hay, nếu được, tốt nhất là làm một cung phi trong lãnh cung. Gã viện cớ một cơn đau gan để cáo lui về nhà, vậy là chắc mẩm nhận được câu hỏi: “Không phải anh mang theo bệnh xơ gan về từ chuyến đi nghỉ đấy chứ?” Hector nở một nụ cười và tiếp tục đoạn đường vòng. Cuối cùng, gã mở cửa và ấn lên công tắc để bật điện. Chẳng có thứ gì thay đổi, tất nhiên. Chỉ có điều, với Hector dường như nhiều cuộc đời đã trôi qua; người ta ngửi thấy mùi thác sinh. Bụi đã toàn quyền chăm sóc căn hộ, trước khi buồn chán quá mà sinh sôi nảy nở thêm. Đêm buông xuống, giống như mọi tối. Gã pha một tách cà phê, cốt để mang lại ít không khí bình thường cho chứng mất ngủ của mình. Ngồi trong bếp, gã lắng nghe tiếng chân mèo đi trên máng xối; gã chỉ biết làm thế. Gã nghĩ về tất cả thư tín đã không nhận được. Ánh mắt gã dừng lại trên tấm gương nhỏ mua tại một tiệm đồ cũ, gã vẫn còn nhớ như in cửa tiệm này và kỷ niệm đó nhanh chóng làm gã khiếp sợ. Cơn sốt sình sịch vào cái ngày gã mua nó lại ập về, giống như người ta cảm nhận được mùi của một con người chỉ bằng cách nhìn ngắm bức ảnh của họ. Gã nhất định không được nghĩ về nó, tất cả đã kết thúc; gã đã khỏi bệnh. Không đời nào còn chuyện gã bước chân vào một tiệm đồ cũ mua một tấm gương nữa. Gã tự ngắm mình chốc lát. Khuôn mặt gã, sau sáu tháng dưỡng bệnh, có vẻ đã khác. Tương lai, lần đầu tiên trong đời, gã hình dung nó sẽ ổn định; dĩ nhiên, gã nhầm. Nhưng chẳng ai ở nơi đây - còn - hơi đâu làm phiền lòng gã trong ảo mộng về sự phát triển này. Và trước khi tiến tới cái tương lai đó, ta có thể lùi lại nhìn về quá khứ chưa xa lắm. Mời các bạn đón đọc Chỉ Tại Vợ Tôi Gợi Tình của tác giả David Foenkinos

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Một Phút Một Đời - Pearl S. Buck
Từ hai thế giới khác biệt nhau, William và Ruth đã đến với nhau. Chàng tốt nghiệp đại học Mỹ thuật, là một thanh niên nhạy cảm con một gia đình giàu sang nhưng ích kỷ, chủ một hệ thống hỏa xa tại Hoa Kỳ. Nàng là cô gái nông thôn ít học, khỏe mạnh, đầy sức sống, con của một trại chủ ở Pennsylvavia. Trong một buổi đi du họa ở cùng quê, William đã gặp Ruth. Và ngay khi nhìn thấy nàng, chàng biết rằng đó là người đàn bà của mình, mặc dầu chàng đã có bạn gái là Elise - người mà gia đình chàng đinh ninh sẽ là con dâu tương lai của mình. Bất chấp sự phản đối kịch liệt của gia đình, William đã mạnh dạn bỏ nhà đi theo Ruth, một cô gái ăn nói dịu dàng và đầy hấp dẫn, một cô gái quê chẳng biết gì về nghệ thuật và cuộc sống sang giàu, nhưng là một cô gái hoàn toàn biết cách tận hiến cho tình yêu. *** Pearl Buck (tên thật là Pearl Comfort Sydenstricker, có tên Trung Quốc là Trại Chân Châu) là con một nhà truyền giáo người Mỹ. Sau khi ra đời chưa đầy 5 tháng, bà đã được cha mẹ đưa sang Trung Quốc sinh sống. Từ nhỏ và suốt cả cuộc đời bà yêu mến và thích tìm hiểu cuộc sống của người dân Trung Quốc, cảm thông với những người dân địa phương bị nhiều tầng áp bức. Năm 1938 Pearl Buck nhận giải thưởng Nobel vì các tác phẩm mô tả đời sống nông thôn Trung Hoa một cách phong phú và xác thực (chủ yếu với tiểu thuyết Đất Lành và hai cuốn tự truyện Người Tha Hương (1936) viết về người mẹ và Thiên Thần Chiến Đấu (1936) viết về cha của bà). Sau khi nhận giải, Pearl Buck tiếp tục sáng tác rất nhiều, ngoài văn xuôi bà còn viết kịch, kịch bản phim, tiểu luận và sách cho thiếu nhi. Bà cũng là người đã dịch Thủy Hử (All men are brothers) và một số tác phẩm văn học Trung Quốc sang tiếng Anh. Cuối đời, bà quan tâm đến đề tài các nhà bác học nguyên tử buộc phải chế tạo vũ khí giết người hàng loạt. Đồng thời, bà tích cực tham gia các hoạt động từ thiện, xã hội như: sáng lập ra tổ chức không vụ lợi Hiệp hội Đông Tây (The East and West Association, 1941) nhằm truyền bá những hiểu biết giữa các dân tộc trên thế giới; cùng chồng lập nên tổ chức Căn nhà tình nghĩa (Welcome Home, 1949) giúp trẻ mồ côi; lập ra Quỹ Pearl S. Buck (The Pearl S. Buck Foundation, 1963) và tặng cho quỹ này 7 triệu đôla. • Tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt: Gió Đông, gió Tây; Ảo vọng; Sống vì đất; Tiếng gọi đồng quê; Lá thư Bắc Kinh; Tình yêu sau cùng; Người mẹ; Nhớ cảnh nhớ người; Yêu muộn; Nạn nhân buổi giao thời; Mấy người con trai Vương Long; Đứa con người yêu; Một phút một đời; Một lòng với em; Một cuộc hôn nhân; Lưu đày; Lưu đày biệt xứ; Cánh hoa e ấp; Đông phương huyền bí qua truyện cổ thần tiên; Truyện Đông phương; Người vợ tiên; Những người đàn bà tuyệt vời trong gia đình Kennedy; Những người đàn bà trong gia đình Kennedy; Tà áo xanh; Nỗi buồn nhược tiểu; Người yêu nước; Ngoài chân mây; Hứa hẹn; Bão loạn; Mẫu đơn; Quỷ địa ngục chẳng bao giờ ngủ; Yêu mãi còn yêu; Ba người con gái của Lương phu nhân; Trái tim kiêu hãnh; Một trái tim tự hào; Biên giới tình yêu; Tình cõi chân mây; Nô tì Mẫu Đơn; Đóa hoa ẩn mình; Trang; Người thành phố; Bí mật đời nàng; Người yêu nước; Thiên Hậu; Người cung nữ; Từ Hi Thái hậu; Con rồng linh diệu; Hạt giống của rồng; Vương Nguyên; Đất lành; Chuyện Kinh Thánh; Những người con của tiến sĩ Lương; Tiếng nói trong nhà; Tử thần và rạng đông; Người mẹ; Những mảnh hồn sầu xứ. Khi người con gái lên núi Mời các bạn đón đọc Một Phút Một Đời của tác giả Pearl S. Buck.
Khúc Quanh Của Dòng Sông - V. S. Naipaul
Cuốn sách miêu tả những vết thương lâu năm, khó lành lẫn vết thương mới của một châu Phi ngây thơ và già cỗi, có độc lập rồi vẫn còn nguyên mặc cảm tự ti. Ở một khúc quanh mới trong kỷ nguyên tự trị, cay đắng thay, châu Phi ngơ ngác tìm kiếm những hình bóng cũ châu Âu, nơi đã giam hãm mình trong nhiều thế kỷ nô lệ thuộc địa. Salim từ vùng biển phía Đông châu Phi đi sâu vào lục địa, đến một thành phố nằm bên khúc quanh của một dòng sông lớn, để tìm cách kinh doanh, để tìm kiếm chỗ đứng cho mình trong thế giới và để tìm hiểu bản thân mình. Ở thành phố đó, Salim phải sống trong bầu không khí ngột ngạt của một chế độ hậu thực dân, bàng hoàng trước nền độc lập lạ lẫm, loay hoay không biết phải bắt đầu từ đâu, chủ động hay thụ động trước những biến chuyển, và bạo loạn chắc chắn sẽ xảy ra. Anh tiếp xúc với người dân bản địa, như cô Zabeth và đứa con trai Ferdinand, như cặp vợ chồng Mahesh và Shoba… Anh tìm hiểu thành phố, từ Quảng trường đến trường Trung học, từ khách sạn Van der Wyeden đến bến tàu…Rồi không gian được mở rộng ra với việc xây dựng Khu mới bên ngoài thành phố, sự xuất hiện trở lại của người da trắng, sự thay da đổi thịt của giới trẻ châu Phi, sự biến động chính trị của vị Tổng thống vĩ đại. Không gian được tiếp tục mở rộng khi Indra, người bạn thời thơ ấu của Salim xuất hiện, thoạt tiên trong hào quang của một người học ở Oxford về, sau đó dưới hình dạng thảm hại của một kẻ hoang mang trước tất cả, không chắc chắn về điều gì hết. Không gian còn mở rộng tới châu Âu, nhưng đến đó thì Salim đã hiểu ra mình không thể chạy thoát những ràng buộc vô hình. Thế giới dù rộng lớn vẫn không có chỗ cho anh, anh vẫn phải đóng đinh vào cái thành phố bên khúc quanh của dòng sông. *** Vidiadhar Surajprasad Naipaul mang quốc tịch Anh, sinh năm 1932 ở Chaguanas gần Port of Spain thuộc Trinidad, trong một gia đình di cư từ miền Bắc Ân Độ, song không ít tác phẩm của ông lại lấy bối cảnh Châu Phi. Con người V.S. Nailpaul bao gồm nhiều nền văn hóa, cuộc đời ông trải rộng trên cả bốn châu lục lớn - ông từng du lịch khắp Châu Á, châu Phi, châu Mỹ. Sự đa dạng đó khiến Naipaul luôn băn khoăn về vị trí, gốc gác của mình. Khi còn trẻ ông đã từng chán nản với sự nghèo nàn về tinh thần ở Trinidad, bỏ sang Anh học đại học, nhưng khi đã định cư tại đó ông lại thấy mình không thể hòa đồng được với lối sống bản địa, trong khi đó dòng máu Án Độ vẫn chảy mạnh trong huyết quản. V.S. Naipaul, với tư cách nhà văn, thường đặt ra những câu hỏi về đa dạng văn hóa, đặc tính tâm lý phức tạp của các nhóm và tộc người, sự hòa trộn và đặc điểm tiêu biểu không thể nhầm lẫn, cả đến những mặc cảm mang tính bộ tộc, dân tộc… tất cả đều được miêu tả kỹ lưỡng và tinh tế trong Khúc quanh của dòng sông. V.S.Naipaul bắt đầu cầm bút từ rất sớm, sau khi học xong Universtity College of Oxford. Cả đời ông gần như không làm công việc nào khác ngoài viết văn. Sau tiểu thuyết đầu tay, The Mystic Masseur (Người thợ mát xa bí ẩn - 1957), Naipaul trở nên nổi tiếng với cuốn A House for Mr. Biswas (ngôi nhà của ngài Biswas - 1961), tiểu thuyết thứ nhất của ông. Những tác phẩm đầu tay này thường lấy bối cảnh vùng Tây Ấn, sau đó Naipaul mở rộng địa lý văn chương của mình, hướng tới chủ đề hậu thuộc địa nóng bỏng, nhất là tại châu Phi. Hai tiểu thuyết của ông về đề tài này là Guerillas và nhất là A bend in the River, một phẫu thuật tài tình trưng bày những ung nhọt, từ các vết thương lâu năm khó lành lẫn các vết thương mới của châu Phi già nua mà ngây thơ, đã giành được độc lập nhưng vẫn còn nguyên vẹn mặc cảm nô lệ - tự ti và thấp kém. Lẫn trong sự miêu tả tinh vi, thấu đáo là một niềm thương cảm kín đáo, một day dứt cho số phận một châu lục đang trong giai đoạn bế tắc. Việc ông giành được giải Nobel văn chương năm 2001 (chưa kể trước đó 30 năm, ông đã đoạt giải Booker 1971) không nằm ngoài dự đoán của các nhà nghiên cứu văn học thế giới. Naipaul đã đóng góp to lớn cho một dòng văn học đau đớn nhưng có ích, dòng văn học nhìn trực diện vào các xã hội lạc lõng giữa thế giới, đứng bên lề sự phát triển chung và còn lâu năm nữa mới thoát được vũng lầy đó. *** Công dân Théotime đến vào buổi sáng, mắt đỏ mọng và trông như bị tra tấn, lơ lửng với ly bia uống vào bữa sáng, với vài quyển truyện cười hoặc tiểu thuyết minh hoạ bằng ảnh để giết thời gian ở văn phòng. Có một hệ thống trao đổi tạp chí không chính thức ở thị trấn. Théo luôn luôn có cái gì mới để xem. Và thật lạ, những truyện cười hoặc tiểu thuyết – ảnh của ông ta, lăn lóc, đã khiến ông ta có cái vẻ bận rộn, giống như những thương gia khi ông ta đến cửa hiệu. Ông ta đi thẳng vào phòng kho, và có thể ở lại đó không hề đi ra suốt cả buổi sáng. Thoạt tiên tôi nghĩ bởi vì ông ta muốn không bị quấy rầy. Nhưng rồi tôi hiểu không phải vậy. Ông ta thích ở trong phòng kho tối tăm chẳng làm việc gì cụ thể, chỉ nhìn vào những quyển tạp chi của mình trong khi tâm trạng say sưa lan toả con người ông ta. Sau đó khi ông ta đã thoải mái và bớt rụt rè hơn với tôi , cuộc sống trong căn phòng kho trở nên phong phú hơn. Ông bắt đầu có đàn bà đến viếng thăm. Ông thích họ nhìn thấy ông thực sự là một directeur – giám đốc – với một nhân viên và một văn phòng, và điều đó cũng làm những người đàn bà thích thú. Một chuyến viếng thăm có thể mất cả một buổi chiều, mà chỉ là Théotime và người đàn bà chuyện gẫu theo cách người ta vẫn chuyện gẫu khi đang trú mưa – với những lần dừng lại rằng lâu và những cái nhìn thôi miên dài theo những hướng khác nhau. Đó là một cuộc sống dễ dàng với Théotime, dễ dàng hơn bất cứ gì ông ta có thể tưởng tượng khi còn là một thợ máy ở sở y tế. Nhưng khi ông ta có được sự tự tin, và không còn sợ hãi việc Tổng thống lại sẽ tước mất cửa hiệu từ tay ông ta, ông ta trở nên khó tính. Ông ta bắt đầu nghĩ rằng là một directeur ( Giám đốc )mà không có xe thì không thể được. Có lẽ một người đàn bà nào đó đã khiến ông ta nghĩ vậy, hoặc có thể là tấm gương từ những người chủ Nhà nước khác, hoặc có thể là điều gì đó ông ta rút được từ những cuốn truyện cười. Tôi có một chiếc xe, ông ta bắt đầu hỏi mượn tôi, và rồi đòi tôi chở ông ta đi đây đó khỏi nhà và về nhà. Tôi có thể từ chối. Nhưng tôi tự nhủ đó là một việc nhỏ để làm ông ta trật tự. Những lần đầu tiên ông ta ngồi hàng ghế trên, rồi ông ta chuỷên xuống ngồi hàng ghế sau. Đó là công việc bốn-lần-một-ngày. Ông ta không im lặng được lâu. Có thể là do tôi tỏ ra thoải mái, chỉ mong muốn không bị làm nhục. Théotime tìm thấy những cách mới để tự thể hiện mình. Giờ đây điều rắc rối là ông ta không biết phải làm gì. Ông ta có thể thích sống bên ngoài vai trò thực của mình – chiếm đoạt sự điều hành của cửa hiệu, hoặc cảm thấy (trong khi vẫn vui thú với cuộc sống trong nhà kho) rằng ông ta đang điều hành cửa hiệu. Dù vậy ông ta cũng biết rằng ông ta chẳng biết gì cả, ông ta biết rằng tôi biết ông ta không biết gì cả, và ông ta giống như một người giận dữ với sự không biết gì của mình. Ông ta lặp đi lặp lại một vài trò. Ông ta say sưa, tức tối và đe doa, và là một kiểu tức tối có tính toán như là một quan chức đã quyết định phải malin. Thật là lạ. Ông ta muốn tôi công nhận ông ta là chủ. Và cùng lúc ông ta lại muốn tôi phải đoái hoài đến ông ta, một người đàn ông không được giáo dục. Ông ta muốn có cả sự kính trọng lẫn sự bao dung của tôi, thậm chí cả lòng thương xót của tôi. Nhất là khi ông ta muốn tôi cư xử như một thuộc hạ và ủng hộ ông ta. Nếu như đáp lại, tôi làm vậy, nếu tôi mang một thứ giấy tờ đơn giản nào đó của cửa hiệu đến cho ông ta, quyền lực của ông ta hẳn là sẽ có thật lắm. Ông ta thêm điều đó vào ý tưởng về vai trò của mình, và ông ta có thể sử dụng quyền lực đó sau này để nặn ra một sự nhượng bộ. Như là ông ta đã làm với chiếc xe. Còn tệ hơn là làm việc với một quan chức malin. Vị quan chức vờ như bị xúc phạm – và gào vào bạn, chẳng hạn, rụt tay khỏi bàn ông ta – chỉ đơn giản là đòi tiền mà thôi. Théotime, nhanh chóng chuỷên từ một sự tự tin đơn giản vào vai trò của mình đến chỗ hiểu ra sự vô dụng của mình, muốn bạn phải vờ coi ông ta là một kiểu người khác. Điều này không có gì đáng buồn cười. Tôi đã giải quyết nó để được yên tĩnh với việc riêng của mình, để đặt đầu óc vào mục tiêu riêng của mình. Nhưng thật không dễ để có thể được yên ổn. Cửa hiệu trở thành một nơi thật đáng ghét với tôi. Còn tệ hơn với Metty. Những công việc nhỏ nhặt nó làm cho Théotime thoạt tiên đã trở thành những việc nó bị đòi hỏi phải làm và bị nhân lên rất nhiều. Théotime bắt đầu bắt Metty đi làm những công việc lặt vặt rất đáng ngán. Buổi tối muộn, khi nó trở về nhà sau khi ở chỗ gia đình nó, Metty vào phòng tôi và nói "Cháu không chịu được nữa rồi, patron. Rồi một ngày cháu sẽ làm điều gì đó khủng khiếp. nếu Théo không chịu dừng lại, cháu sẽ giết lão. Cháu thà cày cuốc ở ngoài đồng còn hơn là làm người hầu cho lão". ... Mời các bạn đón đọc Khúc Quanh Của Dòng Sông của tác giả V. S. Naipaul.
Khi Người Con Gái Lên Núi - Pearl S. Buck
Pearl Buck (tên thật là Pearl Comfort Sydenstricker, có tên Trung Quốc là Trại Chân Châu) là con một nhà truyền giáo người Mỹ. Sau khi ra đời chưa đầy 5 tháng, bà đã được cha mẹ đưa sang Trung Quốc sinh sống. Từ nhỏ và suốt cả cuộc đời bà yêu mến và thích tìm hiểu cuộc sống của người dân Trung Quốc, cảm thông với những người dân địa phương bị nhiều tầng áp bức. Năm 1938 Pearl Buck nhận giải thưởng Nobel vì các tác phẩm mô tả đời sống nông thôn Trung Hoa một cách phong phú và xác thực (chủ yếu với tiểu thuyết Đất Lành và hai cuốn tự truyện Người Tha Hương (1936) viết về người mẹ và Thiên Thần Chiến Đấu (1936) viết về cha của bà). Sau khi nhận giải, Pearl Buck tiếp tục sáng tác rất nhiều, ngoài văn xuôi bà còn viết kịch, kịch bản phim, tiểu luận và sách cho thiếu nhi. Bà cũng là người đã dịch Thủy Hử (All men are brothers) và một số tác phẩm văn học Trung Quốc sang tiếng Anh. Cuối đời, bà quan tâm đến đề tài các nhà bác học nguyên tử buộc phải chế tạo vũ khí giết người hàng loạt. Đồng thời, bà tích cực tham gia các hoạt động từ thiện, xã hội như: sáng lập ra tổ chức không vụ lợi Hiệp hội Đông Tây (The East and West Association, 1941) nhằm truyền bá những hiểu biết giữa các dân tộc trên thế giới; cùng chồng lập nên tổ chức Căn nhà tình nghĩa (Welcome Home, 1949) giúp trẻ mồ côi; lập ra Quỹ Pearl S. Buck (The Pearl S. Buck Foundation, 1963) và tặng cho quỹ này 7 triệu đôla. • Tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt: Gió Đông, gió Tây; Ảo vọng; Sống vì đất; Tiếng gọi đồng quê; Lá thư Bắc Kinh; Tình yêu sau cùng; Người mẹ; Nhớ cảnh nhớ người; Yêu muộn; Nạn nhân buổi giao thời; Mấy người con trai Vương Long; Đứa con người yêu; Một phút một đời; Một lòng với em; Một cuộc hôn nhân; Lưu đày; Lưu đày biệt xứ; Cánh hoa e ấp; Đông phương huyền bí qua truyện cổ thần tiên; Truyện Đông phương; Người vợ tiên; Những người đàn bà tuyệt vời trong gia đình Kennedy; Những người đàn bà trong gia đình Kennedy; Tà áo xanh; Nỗi buồn nhược tiểu; Người yêu nước; Ngoài chân mây; Hứa hẹn; Bão loạn; Mẫu đơn; Quỷ địa ngục chẳng bao giờ ngủ; Yêu mãi còn yêu; Ba người con gái của Lương phu nhân; Trái tim kiêu hãnh; Một trái tim tự hào; Biên giới tình yêu; Tình cõi chân mây; Nô tì Mẫu Đơn; Đóa hoa ẩn mình; Trang; Người thành phố; Bí mật đời nàng; Người yêu nước; Thiên Hậu; Người cung nữ; Từ Hi Thái hậu; Con rồng linh diệu; Hạt giống của rồng; Vương Nguyên; Đất lành; Chuyện Kinh Thánh; Những người con của tiến sĩ Lương; Tiếng nói trong nhà; Tử thần và rạng đông; Người mẹ; Những mảnh hồn sầu xứ. Khi người con gái lên núi *** Viên phi công bay lượn vòng chầm chậm để tìm kiếm, vì bây giờ họ ở ngay trên đỉnh núi. Ðó là một dãy núi trơ trụi, chỉ có một vài bụi cây xanh. Viên phi công gật đầu, và nàng nhìn xuống. Kìa, ở giữa hai mỏm núi là một thung lũng thấp, và trong thung lũng có nhiều căn nhà thấp xây bằng đá. Một bức tường bao quanh những căn nhà này. Ðây đúng là trại của đảng cướp Sói Xanh. Quanh gần đấy chẳng có gì cả. Hơn nữa, viên phi công đã tới văn phòng của tòa án và hỏi địa điểm chính xác của ngọn núi. Họ đã cho viên phi công một bản đồ. Mọi người đều biết nơi những tên cướp sống, vì các thương gia đã được cảnh cáo không được đi qua cái đèo của ngọn núi. Viên phi công bắt đầu bay thấp xuống. Gió bắt đầu giảm và bây giờ nàng có thể hét to vào tai viên phi công: “Anh phải chờ tại đây và để máy nổ sẵn sàng. Ngay lúc chúng tôi ra, anh phải sẵn sàng cất cánh ngay! Chúng tôi có lẽ phải chạy ra thật nhanh mới thoát chết.” Viên phi công gật đầu. Bên dưới họ, những hình dáng người nhỏ bé đang tụ tập bên ngoài những căn nhà đá. Nàng có thể trông thấy mặt họ ngẩng lên, những cánh tay giơ lên chỉ trỏ. Chiếc phi cơ bỗng nhiên hạ xuống, và những người đang tụ tập bên dưới hoảng hốt tản mát ra. Nàng bảo viên phi công, “Họ sợ đấy. Họ chưa bao giờ trông thấy phi cơ. Nhớ để máy lúc nào cũng sẵn sàng!” Viên phi công lại gật đầu, và nàng cảm thấy phi cơ đụng vào mặt đất một hai lần rồi dừng lại và tiếp tục rung chuyển. Những người đàn ông nhìn ra cửa và bước lại phía họ, nửa tò mò nửa sợ sệt. Nàng nhảy xuống đất một cách nhẹ nhàng, bước lại phía họ, và mạnh dạn hỏi họ. “Chủ tướng của các ngươi đâu? Ta tới gặp ông ta.” Nàng định không nói gì tới tên Thiếu Hổ, sợ có thể bị bắt làm tù binh. Không, hãy để mặc họ đoán xem nàng là ai.     Không một người nào trả lời. Họ nhìn lẫn nhau. Nếu nàng chưa bao giờ trông thấy loại người như họ thì nàng đã sợ hãi họ rồi. Nhưng nàng biết họ - họ cùng là một loại người thô lỗ, những người hung dữ bất mãn, sẵn sàng đi theo bất cứ tướng cướp nào. Nàng nhắc lại, nhỏ nhẹ, “Các người nên nói đi. Ta tới đây với tin tức quan trọng cho ông ta. Các ngươi thấy đó, ta tới đây một cách vội vàng, bằng một con tầu, bay trong không khí.” Một tên tò mò hỏi, “Cái đó là gì thế? Khi tôi trông thấy nó, tôi tưởng nó là một con chim đại bàng.” Một tên khác nói, “Chúng tôi từng nghe nói đến tầu bay, nhưng chưa bao giờ nhìn thấy.” Cả bọn giống như những đứa trẻ lớn con, chỉ muốn sờ vào cái vật lạ mà chúng sợ hãi. ... Mời các bạn đón đọc Khi Người Con Gái Lên Núi của tác giả Pearl S. Buck.
Kinh Thánh Của Một Người - Cao Hành Kiện
Cao Hành Kiện trò chuyện tại New York City: Hỏi: Vì sao cuốn tiểu thuyết có tên gọi là "Kinh Thánh Của Một Người", vì sao trong hồi ức khủng khiếp về những đau khổ, buồn bã và bạo tàn xuyên suốt ba thập niên đầu của nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa này ông lại dùng phụ nữ, nhất là những chuyện tình dục với phụ nữ, làm cách lấy lại ký ức đã mất, thu góp lại những kinh nghiệm đã mất? Trả lời: Câu hỏi rất hay và rất đáng chú ý, và tác giả phải nói rằng đó tất nhiên là kinh thánh của một người. Nhưng mặt khác, nó không giới hạn ở kinh thánh của một người. Đó còn là nói về một cá nhân, một dân tộc nói chung, về cách nhân dân đã sống qua được những khủng hoảng và sống qua được những tai hoạ và bạo tàn. Điều tác giả quan tâm hơn nhiều là họ không phải là những anh hùng, như vậy câu hỏi là: làm thế nào sống qua được các thảm hoạ và khủng hoảng lại là anh hùng được, bởi vì đây là cách phát hiện chỗ yếu của con người? Nếu ai cũng là anh hùng thì các thảm hoạ mà loài người phải đương đầu mới có ý nghĩa được. Vì thế một mặt tác giả trần thuật, mô tả các cuộc khủng hoảng chính trị và tình hình chính trị, và mô tả nó thật chi tiết và cẩn trọng. Mặt khác, tác giả cũng mô tả các đặc điểm và chỗ yếu của cá nhân, và cũng muốn nắm bắt chúng thật cặn kẽ. Và khi đó vấn đề đặt ra là anh dùng tiêu chuẩn nào để phán xét những con người này, dùng loại tiêu chuẩn đạo đức hay luân lý nào để phán xét họ. "Không phải anh không nhớ rằng mình đã từng có một cuộc đời khác, giống như vài tấm ảnh của gia đình chưa bị tiêu huỷ nay đã ố vàng, nghĩ lại khiến người ta ít nhiều âu sầu thương cảm, nhưng vời vợi quá và tựa hồ cách xa nhau cả kiếp sống. Tất cả đã mãi mãi tiêu vong. Nhà anh ở Bắc Kinh bị cảnh sát lục soát niêm phong, nơi ấy đã lưu giữ một tấm ảnh chụp chung cả gia đình mà người cha quá cố còn để lại, đó là tấm hình đầy đủ nhất các thành viên trong đại tộc. Lúc ấy ông nội anh còn sống, đầu bạc phơ, vì bị trúng gió không thể nói năng gì nữa, nằm trên một chiếc ghế xoay. Anh là con cả, cháu đích tôn, là đứa trẻ duy nhất trong tấm ảnh, đứng chen giữa ông bà nội, mặc quần hở đáy, bày cả chim ra ngoài, nhưng trên đầu lại đội mũ calô kiểu Mỹ. Đó là cái thời kháng chiến tám năm vừa chấm dứt và một cuộc nội chiến khác sắp bắt đầu, nở rộ cúc vàng hoàng kim và mào gà đỏ tím, ánh nắng một ngày cuối hạ còn vô cùng rực rỡ chiếu rọi khắp thế gian. Những gì gọi là kí ức của anh về hoa viên là như vậy, tấm ảnh bị dính nước đã ngả sang màu vàng xám. Cảnh phông của tấm ảnh là toà lầu hai tầng kiểu Anh quốc nằm phía sau cổng tròn, dưới có hành lang vòng, trên có lan can và cả đại gia đình anh đã sống ở nơi ấy. Anh nhớ số người trong tấm ảnh là mười ba, một con số không lấy gì làm may mắn cho lắm, có cha mẹ anh, đầy đủ các cô, chú và một người thím. Ngoại trừ cô cả đang ở Mỹ và anh ra, toàn bộ những người trong ảnh, cùng toà lầu phía sau cổng tròn ấy đều đã bị xoá hết dấu vết trên thế gian này... Ngân Xuyên dịch từ tiếng Anh *** Cao Hành Kiện (4/1/1940) là một nhà văn, nhà viết kịch, nhà phê bình người Trung Quốc đầu tiên và là công dân Pháp thứ 13 được trao Giải Nobel Văn học trong suốt 100 năm qua. Ông cũng còn được biết đến với tư cách là một dịch giả, đạo diễn sân khấu và họa sĩ. Ông sinh ra và lớn lên ở Cống/Cám Châu, Giang Tây, Trung Quốc. Ông tốt nghiệp trường Đại học Ngoại ngữ Bắc Kinh năm 1962 ngành tiếng Pháp. Sau khi tốt nghiệp ông được phân công đến Cục xuất bản ngoại văn làm phiên dịch. Trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa (1966-1976) ông đã bị đưa vào trại học tập cải tạo và phải âm thầm thiêu hủy cả một va-li đầy bản thảo tác phẩm của mình, trong đó có một vài cuốn tiểu thuyết chỉ chờ ngày xuất bản và 15 vở kịch. Sau đó, ông bị gửi vào trại cải tạo giáo dục mất 7 năm. Năm 1975 ông trở về Bắc Kinh, làm việc tại Cục xuất bản Ngoại văn. Đến năm 1978 ông nhận chức phiên dịch cho Hiệp hội tác gia Trung Quốc. Năm 1980 ông về làm công tác biên kịch tại Kịch viện Nghệ thuật Nhân dân Bắc Kinh. Cao Hành Kiện là một trong những văn nghệ sĩ tiền phong của Trung Quốc đã cổ vũ, đấu tranh cho quyền sáng tác văn nghệ tự do và đích thực. Chính phủ Trung Quốc đã từng coi ông là một phần tử chống đối và các tác phẩm của ông đã bị cấm lưu hành từ năm 1986. Ông đã bỏ Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 1989 sau vụ thảm sát Thiên An Môn. Năm 1988, ông sang Pháp sinh sống và nhập quốc tịch Pháp từ 1998, hiện cư ngụ tại ngoại ô Paris, khu Bagnolet. Mười chín năm sống ở Pháp, ông đã tập trung vào viết sách, soạn kịch và triển lãm nghệ thuật. Vào năm 1992 ông đã giành được giải Chevalier de l'Ordre des Arts et des Lettres (Huân chương về Văn học và Nghệ thuật) của Chính phủ Pháp. Sau khi ông đoạt giải Nobel năm 2000, báo chí Trung Quốc không rầm rộ về việc này, nhưng tờ báo ra hằng ngày Tin tức buổi chiều Dương Thành, vào năm 2001, trong một cuộc chỉ trích về Linh Sơn đã gọi ông là một "nhà văn dở tệ" và nói rằng việc ông đoạt giải Nobel thật là lố bịch. Linh Sơn là một tác phẩm nổi tiếng của ông, tổng hợp nhiều hình thái và thể loại văn chương gồm hồi ký, chuyện tình, phóng sự xã hội, thực tế, hư cấu, triết lý, đối thoại, độc thoại... hoà quyện vào nhau. Giáo sư Lee Mabel, người dịch tác phẩm Linh Sơn sang tiếng Anh (Soul Mountain) đã nhận định: "Linh Sơn là câu chuyện của người đi tìm sự an bình và tự do bên trong". Cao Hành Kiện còn là một họa sĩ vẽ tranh thủy mặc độc đáo. Ông đã cho tổ chức khoảng 30 cuộc triển lãm tranh khắp nơi trên thế giới và nhận được nhiều lời khen ngợi. *** Một mùa đông nữa lại đến. Đêm đã về khuya, anh vặn nhỏ đèn bàn, chui vào chăn thì nghe tiếng gõ nhẹ lên kính cửa. - Ai ngoài đó? - Dạ em. Anh đoán không ra giọng người con gái ấy là ai, vẫn quần đùi, chân trần anh vội mở cửa, rồi để mặc cho cô ta khép lại, gài then, còn mình thì lao vào ổ chăn vì lạnh và xấu hổ. Cô gái đó là Tiêu Tiêu, nữ sinh trung học. Tiêu Tiêu tháo khăn len trùm kín đầu làm lộ rõ khuôn mặt trắng bạch, giá lạnh. Anh hốt hoảng hỏi gấp: - Có chuyện gì phải không, Tiêu Tiêu? - Dạ không - Tiêu Tiêu ngẩng đầu nhìn anh, lúc này anh vẫn ngồi trên giường và đôi chân giấu kín trong chăn. - Mở lò sưởi đi, chết cóng rồi kìa. Tiêu Tiêu cùng một toán học sinh trung học tự nguyện đến cơ quan anh đi thực tế tham gia phong trào, và nhanh chóng cũng phân chia thành hai phái. Cô bé này và một vài bạn nữa ngã về phe anh, nhưng rồi như gió thổi, dao động không kiên định, ồn ào được mấy hôm là chuồn thẳng, chỉ mỗi Tiêu Tiêu còn ở lại. Khác với bạn học của mình hung hăng sôi nổi, Tiêu Tiêu rất tĩnh lặng ngồi nghe, xem báo, hoặc sao chép đại tự báo; cô gái viết bút lông cũng khá, và nhẫn nại, chịu khó. Lần ấy chép xong loạt bài đại tự báo, căng dán đây đó hoàn tất thì đã chín giờ đêm, Tiêu Tiêu bảo nhà cô ta ở Cổ Lâu, thuận đường về anh đã đèo Tiêu Tiêu luôn một thể, anh bảo Tiêu Tiêu cùng vào phòng mình nấu tí mì lót dạ. Anh tiếp tục đèo Tiêu Tiêu đến một con hẻm thì cô ta nhảy xuống, chưa kịp nghe hai chữ “đến rồi”, anh chẳng còn thấy Tiêu Tiêu đâu nữa. - Em ăn uống gì chưa? Tiêu Tiều gật đầu, lửa lò sưởi làm ấm căn phòng và làm đôi má cô ta ửng đỏ. Cũng đã lâu anh và Tiêu Tiêu không có dịp gặp nhau nên rất nóng lòng muốn biết lí do vì sao giữa đêm hôm khuya khoắt thế này mà cô bé phải đường đột xuất hiện. - Dạo này đang làm việc gì? - Dạ không làm gì cả. - Thế ở nhà trường cũng không nốt hay sao? - Tất cả các cánh cửa kính đều bị đập vỡ tan tành, gió lùa vào lạnh ngắt, chẳng ai buồn đến lớp; chỉ chạy lung tung đây đó, không còn biết làm gì. - Như vậy lại càng tốt, được nghỉ học, không thích à? Tiêu Tiêu im lặng, anh rướn lên kéo cái quần dài định mặc vào để xuống giường thì cô gái ngăn anh: - Anh cứ nằm thế, chẳng có việc gì đâu, đến nói chuyện với anh cho đỡ buồn. ... Mời các bạn đón đọc Kinh Thánh Của Một Người của tác giả Cao Hành Kiện.