Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Triết Học Hiện Sinh

Triết Học Hiện Sinh

Triết Học Hiện Sinh

Trong lịch sử triết học, từ cổ chí kim, triết hiện sinh là trường hợp duy nhất người ta thấy “triết học đã xuống đường”: triết học đã xâm nhập vào văn học quần chúng vào đời sống của giới trẻ.

Nói như thế để thấy được sức ảnh hưởng sâu rộng của triết học hiện sinh đối với đời sống nhân loại trong thời kì bùng nổ của nó, và cho tơi cả thời đại của chúng ta.

Ở Việt Nam, Chủ nghĩa hiện sinh du nhập vào từ nửa sau thập kỉ 50 và đã tạo thành một trào lưu tư tưởng rất lớn, cùng với những ảnh hưởng tới sinh hoặt văn hoá, chính trị, đặc biệt là ở miền Nam nước ta.

Triết Học Hiện Sinh cho thấy đây không những là một cuốn sách quan trọng trong việc nghiên cứu triết hiện sinh, đồng thời cũng thể hiện tính thời sự của nó trong giai đoạn hiện nay.

Triết Học Mỹ Tiền Không Bao Giờ Là Đủ Bàn Về Khế Ước Xã Hội

Thực chất, đây chính là một cuốn sách rất quý không những cho những ai muốn tìm hiểu nền triết học hiện đại thế kỉ XX, mà còn có giá trị rất lớn trong cho ai muốn tìm một cách sống, một cách suy nghĩ sâu sắc, truy tìm chính mình và vượt lên.

Triết Học Hiện Sinh mở cửa cho chúng ta vào nền tư tưởng chủ yếu của thế kỷ XX, với những khám phá, khẳng định, đòi hỏi của nó về con người.

Nguồn: sachmoi.net

Đọc Sách

NGHIÊN CỨU CHỮ HÁN - THI ĐẠT CHÍ
Nghiên Cứu Chữ Hán là tập sách mỏng song ngữ Hán Việt (45 trang, trong đó phần tiếng Việt 25 trang) của Thi Đạt Chí, năm xb không rõ (bìa sách bị mất, có lẽ cuối  195x), do tiệm sách Thống Nhất (Chợ Lớn) tổng phát hành.  là tập sách mỏng song ngữ Hán Việt (45 trang, trong đó phần tiếng Việt 25 trang) của Thi Đạt Chí, năm xb không rõ (bìa sách bị mất, có lẽ cuối  195x), do tiệm sách Thống Nhất (Chợ Lớn) tổng phát hành. Sau phần nói về giá trị của chữ Hán, nguồn gốc chữ Hán, tác giả trình bày 6 cách cấu tạo chữ Hán (Lục thư: tượng hình, chỉ sự, hội ý, hình thanh, chuyển chú và giả tá) Trong khi 4 loại đầu, tác giả phân loại rất chi li (loại  tượng hình có 7 biến thể: đơn thể, song thể, hợp thể, trọng thể, .. ; loại  chỉ sự chia thành 4 thể: thuần thể, gia thể, hợp thể, biến thể) một cách không mấy hữu ích thì hai loại sau viết quá gọn, đặc biệt loại  chuyển chú, sau khi dẫn ý Thuyết Văn Giải Tự, phần giảng thêm khá tối và rối. Sau phần nói về giá trị của chữ Hán, nguồn gốc chữ Hán, tác giả trình bày 6 cách cấu tạo chữ Hán (Lục thư: tượng hình, chỉ sự, hội ý, hình thanh, chuyển chú và giả tá) Trong khi 4 loại đầu, tác giả phân loại rất chi li (loại  có 7 biến thể: đơn thể, song thể, hợp thể, trọng thể, .. ; loại  chia thành 4 thể: thuần thể, gia thể, hợp thể, biến thể) một cách không mấy hữu ích thì hai loại sau viết quá gọn, đặc biệt loại , sau khi dẫn ý Thuyết Văn Giải Tự, phần giảng thêm khá tối và rối.
TRUNG DUNG TÂN KHẢO - NHÂN TỬ NGUYỄN VĂN THỌ
Trung Dung (中庸 ) là một trong bốn cuốn của bộ Tứ Thư. Ba quyển còn lại là Đại Học (大學 ), Luận Ngữ (論語 ), Mạnh Tử(孟子 ). Trung Dung (中庸 ) là một trong bốn cuốn của bộ Tứ Thư. Ba quyển còn lại là Đại Học (大學 ), Luận Ngữ (論語 ), Mạnh Tử(孟子 ).Sách Trung Dung do Tử Tư làm ra  trên cơ sở một thiên trong Kinh Lễ. Tử Tư là học trò của Tăng Tử, cháu nội của Khổng Tử, thọ được cái học tâm truyền của Tăng Tử. Mục đích của sách Trung Dung là biểu thị rằng theo Trung Đạo có thể giúp chúng ta đạt được một trình độ cao của đạo đức. Trong sách Trung Dung, Tử Tư dẫn những lời của Khổng Tử nói về đạo "trung dung", tức là nói về cách giữ cho ý nghĩ và việc làm luôn luôn ở mức trung hòa, không thái quá, không bất cập và phải cố gắng ở đời theo nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, cho thành người quân tử, để cuối cùng thành thánh nhân. Sách Trung Dung chia làm hai phần: Phần 1: từ chương 1 đến chương 20, là phần chính, gồm những lời của Khổng Tử dạy các học trò về đạo lý trung dung, phải làm sao cho tâm được: tồn, dưỡng, tĩnh, sát; mức ở được gồm đủ: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín cho hòa với muôn vật, hợp với lòng Trời để thành người tài giỏi. Phần 2: từ chương 21 đến chương 33, là phần phụ, gồm những ý kiến của Tử Tư giảng giải thêm cho rõ ràng ý nghĩa và giá trị của hai chữ trung dung. Cả hai quyển sách Đại Học và Trung Dung trước đây là những thiên trong Kinh Lễ, sau các Nho gia đời Tống tách riêng ra làm hai quyển để hợp với sách Luận Ngữ và Mạnh Tử thành bộ Tứ Thư. Sách Trung Dung do Tử Tư làm ra  trên cơ sở một thiên trong Kinh Lễ. Tử Tư là học trò của Tăng Tử, cháu nội của Khổng Tử, thọ được cái học tâm truyền của Tăng Tử. Mục đích của sách Trung Dung là biểu thị rằng theo Trung Đạo có thể giúp chúng ta đạt được một trình độ cao của đạo đức.Trong sách Trung Dung, Tử Tư dẫn những lời của Khổng Tử nói về đạo "trung dung", tức là nói về cách giữ cho ý nghĩ và việc làm luôn luôn ở mức trung hòa, không thái quá, không bất cập và phải cố gắng ở đời theo nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, cho thành người quân tử, để cuối cùng thành thánh nhân.Sách Trung Dung chia làm hai phần:Phần 1: từ chương 1 đến chương 20, là phần chính, gồm những lời của Khổng Tử dạy các học trò về đạo lý trung dung, phải làm sao cho tâm được: tồn, dưỡng, tĩnh, sát; mức ở được gồm đủ: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín cho hòa với muôn vật, hợp với lòng Trời để thành người tài giỏi.Phần 2: từ chương 21 đến chương 33, là phần phụ, gồm những ý kiến của Tử Tư giảng giải thêm cho rõ ràng ý nghĩa và giá trị của hai chữ trung dung.Cả hai quyển sách Đại Học và Trung Dung trước đây là những thiên trong Kinh Lễ, sau các Nho gia đời Tống tách riêng ra làm hai quyển để hợp với sách Luận Ngữ và Mạnh Tử thành bộ Tứ Thư.
ẤU HỌC KHẢI MÔNG - THẾ-TẢI TRƯƠNG MINH KÝ (1893)
 LỜI KHUYÊNLàm người đi học phải cho thông,Nghĩa lý đông tây nam bắc đồng,Diễn dịch rõ ràng coi dễ hiểu,Khuyên đoàn sỉ tử khá gia công. ĐẶNG-QUẤC-THOẠI.Văn pháp, lục thơ, điển cố, thôngKể mười người một, tới nên đồng,Yên trên trị dưới, ai không chịu?Vậy thảo là hay, phải gắn công.Thế tải TRƯƠNG-MINH-KÝ.Ngoài năm kinh có Hiếu kinh thông,Dạy dỗ người trong đạo nghĩa đồng,Song phải nhớ thời, Phu tử trước,Mới hay công diễn rất nên công.ĐẶNG-THÚC-LIÊN.
THUẬT NGỮ HUYỀN HỌC - TRẦN VĂN KHÁ
Huyền là một thuật ngữ được đặt ra để gọi tên cho những hiện tượng nằm ngoài phạm vi hiểu biết bình thường hoặc khoa học hiện tại không thể giải thích hay đo lường được. Khác với một số sự tồn tại giả định ví dụ như vật chất tối hay năng lượng tối, những hiện tượng siêu linh không phù hợp với thế giới như đã được hiểu thông qua quan sát thực nghiệm kết hợp với phương pháp khoa học.Hàng ngàn Thuật Ngữ liên quan đến hiện tượng huyền bí được tìm thấy trong văn hoá, văn học dân gian, và những hồi ức của các đối tượng cá nhân sẽ được liệt kê đầy đủ trong cuốn sách này, qua đó giúp cho bạn đọc muốn tìm hiểu về bộ môn Huyền Học sẽ có trong tay công cụ tra cứu tuyệt vời nhất.