Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Người Khổng Lồ Ngủ Quên

Ở nước Anh thời xa xưa, tại một ngôi làng người Briton nọ, một đôi vợ chồng già ngày qua ngày sống một cuộc đời mơ hồ, lãng đãng giữa làn sương mù không lúc nào khuất dạng. Ngày tháng nối đuôi nhau trôi đi dường như chẳng có gì đổi khác, nhưng cũng cơ hồ có rất nhiều biến động mà người ta không tài nào nhớ ra. Cho đến khi hai vợ chồng họ quyết định lên đường đi tìm người con trai nhiều năm nay không gặp. Chẳng ngờ, chờ đợi họ phía trước là một chuyến phiêu lưu kỳ lạ, cùng những con người kỳ lạ, đưa họ tới miền kỳ ức đã từ lâu bị chôn vùi.Người khổng lồ ngủ quên là một suy ngẫm u sầu nhưng thấm thía về sự lãng quên, tình yêu, cuộc sống, cùng cả chiến tranh và sự hận thù. Cuốn sách đánh dấu sự trở lại của Kazuo Ishiguro sau 10 năm vắng bóng, với một hướng đi hoàn toàn mới khi ông chọn thể loại giả tưởng huyền ảo để thuật lại những chiêm nghiệm hết sức thực tế về cuộc đời. *** “Một cuốn tiểu thuyết lạ thường khiến người ta ngưỡng mộ, tôn trọng và thưởng thức…Người khổng lồ ngủ quên làm được điều những cuốn sách quan trọng đã làm: nó đọng lại trong tâm trí độc giả rất lâu sau khi kết thúc, không chịu nhạt phai”. ———Nell Gaiman——- Một cuốn sách không dày nhưng nội dung nó lại chất chứa khổng lồ những chiêm nghiệm hết sức thực tế về cuộc đời.  Bất cứ ai khi cầm cuốn sách của nhà văn Kazuo Ishiguro đều phải lắng đọng, suy ngẫm về những điều xảy ra trong quá khứ và nhìn nhận thực tại với tinh thần vị tha, nhân đạo. Một bức tranh mang màu sắc của nước Anh thời xa xưa “Người khổng lồ ngủ quên” ra đời đã đánh dấu sự trở lại của Kazuo Ishiguro sau mười năm vắng vóng với một hướng đi hoàn toàn mới. Ông chọn một thể loại văn chương mà hiện nay chưa được xếp vào hàng chính thống, thậm chí còn không được giới hàn lâm đánh giá cao nhưng lại có tầm ảnh hưởng lớn đến tư duy của nhân loại đó là thể loại giả tưởng huyền ảo. Vì vậy từ đầu đến cuối trang sách độc giả luôn bị mê mẩn, cuốn hút trong từng câu chữ. Nó hiện lên sống động, giàu hình ảnh giống như ta đang xem bộ phim huyền thoại về một vùng đất có lãnh chúa. Nơi có những chàng hiệp sĩ chống lại con vật hung bạo như rồng, quỷ sứ… Cuốn tiểu thuyết kể về một chuyến phiêu lưu mạo hiểm, gian nan của đôi vợ chồng già sống trong một ngôi làng người Briton. Vùng đất họ đang sống đã bị hơi thở của rồng trên đỉnh núi cao tạo ra một làn sương mù khiến toàn bộ người dân nơi đây quên đi quá khứ. Ngày qua ngày, đôi vợ chồng già sống cuộc đời mơ hồ, lãng đãng giữa làn sương mù không lúc nào khuất dạng. Những ký ức trở về chỉ là các mảnh vụn nhỏ bé không đầu, không đuôi mà họ không tài nào nhớ ra. Cho đến khi, đôi vợ chồng già quyết định lên đường đi tìm người con trai nhiều năm không gặp. Nhưng ngờ đâu, chờ đợi họ phía trước là một hành trình kỳ lạ, gian nan và nguy hiểm cùng những con người kỳ lạ, đưa họ tìm được những ký ức bị lãng quên từ lâu. Kazuo Ishiguro đã khắc họa thành công hình ảnh u ám của những làng quê nghèo, một bức tranh xã hội với nhiều nhũng nhiễu. Nơi chỉ có những dặm đất hoang tiêu điều, rừng rậm, cây cối chằng chịt cùng những hòn đảo mù sương, bí ẩn. Người dân nghèo sống trong những túp lều tuềnh toàng hay những hầm ngầm tối tăm, lạnh buốt và không ánh sáng.  Họ phải đối mặt với những mối nguy hiểm rình rập đó là lũ quỷ ăn thịt người… Dù nghèo khó nhưng nơi đây từng xảy ra chiến tranh giữa người Briton với người Saxon để tranh giành quyền cai trị giữa các vua. Để rồi đến lớp trẻ đời sau nuôi trong mình sự hận thù “dù quá muộn để giải cứu thì vẫn đủ sớm để trả thù”. Sự mê tín, sợ hãi của những tu sĩ tại nhà thờ. Họ mang bộ mặt của những người lương thiện, nhưng bên trong lại là sự lừa dối và tàn nhẫn.  Khi tình yêu trở thành dấu chấm hỏi cho sự chung thủy Đối lập với sự chung thủy trong tình yêu đó chính là ngờ vực. Thoáng qua sẽ thấy đôi vợ chồng già Axl và Beatrice luôn xuất hiện với cử chỉ thân mật, sự săn sóc, quan tâm trên mọi dọc đường. Thứ tình cảm cao đẹp và rất đỗi bình dị, êm ái ấy như bản nhạc cổ điển Love Story.  Song, những ký ức bị lãng quên của họ là một vết thương lòng sâu thẳm, họ lo sợ khi màn sương tan đi thì thứ cảm xúc trong trái tim không còn nguyên vẹn; khi quá khứ trở về tình yêu biến thành thù hận. Trong quá khứ, họ đều phạm những sai lầm trong hôn nhân. Beatrice ngoại tình, còn Axl với tính tự cao tự đại của mình vẫn mong muốn được trả thù cho dù “Tôi nói năng và hành động như thể tha thứ cho bà ấy, nhưng suốt bao năm tháng qua, trái tim tôi vẫn dành riêng góc nhỏ cho khao khát được trả thù”. Với lối viết chậm rãi, Kazuo Ishiguro đã để cho các nhân vật của mình tự bộc lộ những suy nghĩ, lo lắng, trải qua những cảm xúc lẫn lỗn khi đứng giữa ranh giới giữa quá khứ và hiện tại; sự dằn vặt và lỗi lo sợ để họ nhận thấy được sự quan trọng của nhau. Dường như trong tình yêu còn phải chứa đựng cả sự bao dung và vị tha. Chiến tranh và hòa bình  Tác phẩm sử dụng nhiều chất liệu của thể loại văn học giả tưởng. Hình ảnh quỷ ăn thịt người hay rồng Querig và cả những hiệp sĩ cầm kiếm với dáng ngủ ngồi. Một chú rồng luôn bị săn đón bởi những hiệp sĩ dũng cảm. Chiến tranh với sự tàn nhẫn và chết chóc, vị vua chiến thắng vì muốn thực hiện ý đồ của mình và lo lắng sẽ có nhiều cuộc chiến khác xảy ra để trả thù đã quyết định cử hiệp sĩ Gawain lên núi để bảo về rồng Querig, lợi dụng hởi thở của nó để quên đi những kí ức đau thương, mất mát nhằm giữ gìn hòa bình. Tuy nhiên, Wistan – hiệp sĩ trẻ muốn đấu tranh vì công lý và báo thù lại tìm mọi cái cách để giết rồng Querig. Kazuo Ishiguro đã xây dựng một tình huống kịch tính để hai hiệp sĩ vào cuộc chiến để phân thắng bại. Tác giả để công lý và báo thù chiến thắng với cái chết của rồng Querig và hiệp sĩ Gawain. Nhưng chính trong hoàn cảnh đó Wistan – hiệp sĩ trẻ tuổi lại thấy trái tim mình run rẩy, yếu đuối.  Nhà văn đã thành công trong việc xây dựng hình ảnh hiệp sĩ dũng cảm, mạnh mẽ, quyết đoán nhưng ông cũng để nhân vật hiệp sĩ của mình có những giây phút yếu đuối nhìn nhận lại hành động mình đã gây ra. Rõ ràng, một cuốn sách hay bao giờ cũng để lại những giá trị tư tưởng nhất định. “Người khổng lồ ngủ quên” là tác phẩm đáng để bạn đọc suy ngẫm về tình yêu, cuộc sống, sự thù hận và cả lãng quên. Có quá nhiều câu hỏi được đặt ra cho chính bản thân mình và chính ta phải suy ngâm khi đọc xong tác phẩm. Sự khám phá, sáng tạo của nhà văn khi viết theo một thể loại mới khiến cho những người yêu thích văn học giả tưởng như được phiêu lưu cùng trang sách, lạc vào những miền đất thời xa xưa, nơi mọi thứ còn rất hoang sơ và trần trụi. Với lối kể chuyện nhịp nhàng không quá vội vã, văn phong viết chân phương, dễ hiểu nhưng ẩn giấu bên trong là những cảm xúc thầm kín, sâu sắc và những chiêm nghiệm về cuộc đời, Kazuo Ishiguro xứng đáng là nhà văn nổi tiếng thế giới với nhiều giải thưởng danh giá trong đó vinh dự nhất là giải Nobel Văn Chương 2017. *** Kazuo Ishiguro là một trong những nhà văn hàng đầu trong nền văn chương Anh đương đại. Sinh 8/11/1954 tại Nagasaki, gia đình ông chuyển tới Anh sống năm 1960, nơi ông lấy bằng cử nhân rồi thạc sĩ về sáng tác văn học. Năm 1982, Ishiguro chính thức nhập tịch Anh, cho ra đời tiểu thuyết đầu tay A Pale View of Hills, trở thành một cây bút trẻ sáng giá “ngang với Martin Amis, Salman Rushdie và Ian McEwan” (The Guardian). Hai cuốn sách đầu tiên của ông đều lấy bối cảnh ở Nhật, cuốn thứ hai, An Artist of the Floating World (1986), bắt đầu chuỗi giải thưởng dồn dập đổ xuống ông. Bốn trên sáu tiểu thuyết của Ishiguro đã được đề cử Booker, gần nhất là Never Let Me Go (2005, Nhã Nam ấn hành 2008 dưới tên Mãi đừng xa tôi) chỉ đứng sau cuốn Biển của John Banville. Cuốn sách được giải thực sự là The Remains of the Day (1989), được dựng thành phim năm 1993 có Anthony Hopkins và Emma Thompson đóng với 8 đề cử Oscar. Kazuo Ishiguro có viết truyện ngắn rải rác trên các báo, nhưng Dạ khúc là tập truyện ngắn đầu tiên của ông. Đây cũng là cuốn sách mới nhất ông xuất bản năm 2009. Mời các bạn đón đọc Người Khổng Lồ Ngủ Quên của tác giả Kazuo Ishiguro & Lan Young (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Giải Khăn Sô Cho Huế - Nhã Ca
TỰA NHỎ : VIẾT ĐỂ CHỊU TỘI Tôi được sinh ra ở Huế, lớn lên với Huế, nhưng khi trưởng thành, đã rời gia đình, bỏ thành phố và ra đi biền biệt. Hồi trước Tết Mậu thân, hôm 23 tháng chạp năm mùi, đang cùng chồng con cúng ông táo, tôi bỗng nhận được điện tín từ Huế : về ngay, ba hấp hối. Với một gói hành lý vội vàng, đứa con hư hỏng của gia đình và thành phố là tôi, đã trở lại Huế để chụi tang người cha thân yêu. Và rồi như bao người khác, đã phải chịu luôn cái tang lớn cho cả thành phố, khi biến cố tết Mậu Thân bùng nổ. Sau cả tháng dài lạn lọn trong địa ngục Huế, khi sống sót trở về Sàigòn, tôi đã thao thức mãi về việc phải thất một giải khăn sô cho Huế, phải viết một hồi ký về những ngày giờ hấp hối của Huế. Nhưng thời sự những ngày sau biến cố Tế Mậu Thân ồn ào quá, bên cạnh cơn khóc than vật vã của Huế, người ta còn bận bịu với việc khai thác những chi tiết ly kỳ của chiến cuộc, những thành tích chiến thắng trên tro tàn, thật chưa phải là lúc viết ra những sót sa, tủi nhục, tuy tầm thường nhất, nhưng cũng lại là sâu sác nhất của một thành phố hấp hói. Chính vì vậy mà sau khi phác họa một vài nét đại cương trên nhật báo Sông hồi ấy, mặc dù được tòa soạn yêu cầu tiếp tục và sau đó được nhiều nhà xuất bản thúc dục, tôi cũng đã cố gắng ngưng lại. Phải ngưng lại, để nếu không nghiền ngẫm được kỹ hơn, thì ít ra cũng tách rời được khỏi những hậu ý xô bồ của thời cuộc, để chờ đợi một giây phút yên lặng hơn, trầm tĩnh hơn, khi viết về Huế. Cái thời gian chờ đợi ấy, đến nay, đã gần hai năm qua, Hai năm, hài cốt cả chục ngàn dân Huế bị tàn sát, vùi nông ở bờ bụi, vứt bỏ xuống đáy sông đáy suối, đã được thu nhặt dần. Những nấm mồ tập thể đã tạm thời xanh cỏ. Những nền nhà đổ nát đã tạm thời dựng lại. Cơn khóc than vật vã của Huế, những tiếng nói xô bồ về Huế, như vậy, cũng đã bớt ồn ào. Đây, chính là lúc chúng ta có thể cùng nhau chít lại giải khăn sô, đốt lại nén hương nhỏ trong đêm tối mênh mông của chiến tranh và tang tóc, để hồi tưởng về Huế. Có nhiều loạt súng đạn, nhiều loại tang tóc, đã nổ và đã tàn phá Huế. Công trình ấy không biết từ đâu, nhưng dù do đâu đi nữa, thì cái tội ác tàn phá một thành phố lịch sử là Huế, chính thế hệ chúng ta, thời đại chúng ta, phải chụi trách nhiệm. Chính trong thế hệ chúng ta đây, đã có Đoan, một cô bạn học cùng lớp với tôi ngày nào, đang ngồi trên ghế đại học ở Sàigòn, bỗng về Huế, đeo băng đỏ nơi tay, dát súng lục bên hong, hâng hái đi lùng người này, bắc người khác, để trở thành một nữ hung thần trên cơn hấp hối của Huế. Chính trong thế hệ chúng ta đây, đã có Đắc một sinh viên trẻ trung, hăng hái. Thời trước Đắc làm thơ, Đắc tranh đấu, rồi bỏ ra khu. Để rồi trở lại Huế lập những phiên tòa nhân dân, kêu án tử hình hàng loặt người, rồi đích tay đào một cái hố, bắt một bạn học cũ có xích mích từ trước ra đứng bên hố, để xử tử. Cậu bạn của Đắc, tên Mậu tý, dơ cái băng đỏ dấu hiệu giải phóng quân lên cao, lạy van Đắc : - Em lạy anh. Bây giờ em theo các anh rồi mà. Em có mang băng đỏ rồi mà. Cách mạng muôn năm... Hồ chủ tịch muôn năm. Nhưng mặc Mậu Tý năn nỉ, hoan hô, Đắc vẫn nhất định nổ súng vào người bạn nhỏ. Chính trong thế hệ chúng ta đây, đã có từng đoàn người, hàng trăm người, cha có, sư có, già có, con trẻ có, mỗi người cầm một lá cờ trắng để ra dấu đầu hàng bất cứ phe nào, đi thất thểu trong một thành phố đầy lửa cháy. Cứ như thế chạy ngược chạy xuôi, cho đến khi gục ngã gần hết. Cũng chính trong thời đại chúng ta, ngày thứ hai mươi mấy trong cơn hấp hối của Huế, đã có một con chó nhỏ kẹt giữa hai lằn đạn, chạy ra sủa bâng quơ ở bên bờ sông Bến Ngự. Con chó thành mục tiêu đùa rỡn cho những mũi súng hờm rẵn từ bên kia sông. Họ bắn cho con vật khốn khổ sợ hãi rơi xuống sông. Rồi lại bắn vào những bờ sông mà con chó nhỏ đang lóp ngóp bơi vào. Những phát súng đùa cợt không có tình bắn chết con chó nhỏ, mà chỉ có trêu chọc cho con chó chới với giữa giòng nước, để có chuyện đùa chơi với máu lửa. Thành phố Huế, và có lẽ cả quê hương khốn khổ của chúng ta nữa, có khác gì thân phận của con chó nhỏ đã chới với giữa giồng nước ấy. Thế hệ chúng ta, cái thế hệ ưa dùng những danh từ đẹp đẽ phô trương nhất, không những chúng ta phải thắt một giải khăn sô cho Huế, cho quê hương bị tàn phá, mà còn phải chịu tội với Huế, với quê hương nữa. Gần hai năm đã qua, hôm nay, nhân ngày giỗ thứ hai của biến cố tàn phá Huế sắp trở lại, tôi xin viết và xin gửi tới người đọc tập giải khăn sô cho Huế này như một bó nhang dèn góp giỗ. Xin mời bạn, chúng ta cùng thấp đèn, châm nhang, chịu tội với quê hương, với Huế.   Sàigon, năm Dậu. NHã CA ***   Nhã Ca, tên thật là Trần Thị Thu Vân (sinh 1939), là một nữ văn sĩ người Việt với nhiều tác phẩm viết thời Việt Nam Cộng hoà, hiện định cư ở Hoa Kỳ. Nhã Ca sinh trưởng tại Huế đến năm 1960 thì vào Sài Gòn nơi bà bắt đầu viết văn. Trong thời gian 1960 - 1975, 36 tác phẩm của bà được xuất bản gồm nhiều thể loại như thơ, bút ký và tiểu thuyết. Một số tác phẩm của bà lấy xứ Huế làm trọng điểm. Theo lời kể của ông Nguyễn Đắc Xuân (nhà văn) thì bà vốn là một nữ sinh Huế (cùng thế hệ với Nguyễn Đắc Xuân), bỏ học Trung học vào Sài Gòn đi theo Trần Dạ Từ - một người Bắc di cư. Trần Dạ Từ viết báo chống các Phong trào tranh đấu chống Mỹ, hai vợ chồng Trần Dạ Từ và Nhã Ca là hai cây viết tâm lý chiến của Đài Tự do của Mỹ (Đài có nhiệm vụ tuyên truyền chiêu hồi và viết bài tấn công về tư tưởng đối với binh lính đối phương) Cũng vì nội dung trong những tác phẩm của bà, sau năm 1975, Nhã Ca bị chính quyền giam hai năm vì tội "biệt kích văn hóa" (có cuốn sách mang tên là ‘Biệt Kích Văn Hoá’ do các học giả, nhà văn ủng hộ Mặt trận giải phóng như Trần Văn Giàu, Lữ Phương, Vũ Hạnh... viết về 10 tác giả miền Nam. Trong sách này, ngoài bà có Hồ Hữu Tường, Nguyễn Mạnh Côn, Nhất Hạnh, Doãn Quốc Sỹ, Võ Phiến...). Trong tù, bà bị biệt giam và chính quyền tiến hành chính sách "khoan hồng, nhân đạo của Đảng" nhằm hạ gục uy tín của bà. Chính cuốn Giải khăn sô cho Huế bị liệt vào hạng tối kỵ, trưng bày trong "Nhà Triển Lãm Tội Ác Mỹ Ngụy" là chứng tích kết tội bà. Chồng bà, nhà văn Trần Dạ Từ, thì bị giam 12 năm. Do sự can thiệp của hội Văn Bút Quốc tế phối hợp với hội Ân xá Quốc tế và thủ tướng Thuỵ Điển Ingvar Carlsson, bà được sang Thuỵ Điển tỵ nạn. Năm 1992 bà cùng gia đình sang California định cư và lập hệ thống Việt Báo Daily News tại Quận Cam. Theo nhà văn Nguyễn Đắc Xuân thì cặp vợ chồng Trần Dạ Từ - Nhã Ca còn từng phụ trách nguyên cả một chương trình của đài Á Châu Tự do (RFA) của Mỹ. Tác phẩm: Nhã Ca mới (1965) Đêm nghe tiếng đại bác (1966) Bóng tối thời con gái (1967) Khi bước xưống (1967) Người tình ngoài mặt trận (1967) Sống một ngày (1967) Xuân thì (1967) Những giọt nắng vàng (1968) Đoàn nữ binh mùa thu (1969) Giải khăn sô cho Huế (1969) đoạt Giải Văn chương Quốc gia Việt Nam Cộng hòa năm 1970[4] (tái bản ở Hoa Kỳ năm 2008) Một mai khi hòa bình (1969) Mưa trên cây sầu đông (1969) Phượng hoàng (1969) Tình ca cho Huế đổ nát (1969) Dạ khúc bên kia phố (1970) Tình ca trong lửa đỏ (1970) Đời ca hát (1971) Lặn về phía mặt trời (1971) Trưa áo trắng (1972) Tòa bin-đing bỏ không (1973) Bước khẽ tới người thương (1974) v.v... Phim Đất khổ do Hà Thúc Cần sản xuất và hoàn tất năm 1973, đã một phần dựa theo cuốn Giải khăn sô cho Huế và Đêm nghe tiếng đại bác, do Nhã Ca viết đối thoại. Tại hải ngoại, bà tiếp tục sáng tác, như: Hồi ký một người mất ngày tháng Đường Tự Do Sài Gòn (2006). Mời các bạn đón đọc Giải Khăn Sô Cho Huế của tác giả Nhã Ca.
Đường Tự Do - Sài Gòn - Nhã Ca
Một đầu, dòng sông Saigon lấp lánh. Một đầu khác, tượng Đức Mẹ trắng toát trước Vương Cung Thánh Đường. Lòng đường hẹp mà vỉa hè rộng. Con đường ấy, một thời ngắn ngủi thôi, mang tên là Tự Do. Tên cũ của nó, thời Pháp: Catinat. Tên mới, thời sau 1975: Đồng Khởi. Không biết đã hoặc sẽ còn những tên nào khác nữa? Với tôi, mãi mãi, con đường ấy mang tên là Tự Do. Đủ loại gót giày, từ Nam chí Bắc, từ năm châu bốn biển, đã nện trên vỉa hè Tự Do. Không chỉ giày dép đâu, mà con người, cả tôi nữa, khi đi đứng, hít thở, hòa mình vào sinh hoạt ở trên con đường này, đã hòa hợp với mạch sống của mọi thời đại, mọi hoàn cảnh. Bắt đầu từ một buổi trưa nắng sau khi Saigon đã thay tên đổi đời... ***   Nhã Ca, tên thật là Trần Thị Thu Vân (sinh 1939), là một nữ văn sĩ người Việt với nhiều tác phẩm viết thời Việt Nam Cộng hoà, hiện định cư ở Hoa Kỳ. Nhã Ca sinh trưởng tại Huế đến năm 1960 thì vào Sài Gòn nơi bà bắt đầu viết văn. Trong thời gian 1960 - 1975, 36 tác phẩm của bà được xuất bản gồm nhiều thể loại như thơ, bút ký và tiểu thuyết. Một số tác phẩm của bà lấy xứ Huế làm trọng điểm. Theo lời kể của ông Nguyễn Đắc Xuân (nhà văn) thì bà vốn là một nữ sinh Huế (cùng thế hệ với Nguyễn Đắc Xuân), bỏ học Trung học vào Sài Gòn đi theo Trần Dạ Từ - một người Bắc di cư. Trần Dạ Từ viết báo chống các Phong trào tranh đấu chống Mỹ, hai vợ chồng Trần Dạ Từ và Nhã Ca là hai cây viết tâm lý chiến của Đài Tự do của Mỹ (Đài có nhiệm vụ tuyên truyền chiêu hồi và viết bài tấn công về tư tưởng đối với binh lính đối phương) Cũng vì nội dung trong những tác phẩm của bà, sau năm 1975, Nhã Ca bị chính quyền giam hai năm vì tội "biệt kích văn hóa" (có cuốn sách mang tên là ‘Biệt Kích Văn Hoá’ do các học giả, nhà văn ủng hộ Mặt trận giải phóng như Trần Văn Giàu, Lữ Phương, Vũ Hạnh... viết về 10 tác giả miền Nam. Trong sách này, ngoài bà có Hồ Hữu Tường, Nguyễn Mạnh Côn, Nhất Hạnh, Doãn Quốc Sỹ, Võ Phiến...). Trong tù, bà bị biệt giam và chính quyền tiến hành chính sách "khoan hồng, nhân đạo của Đảng" nhằm hạ gục uy tín của bà. Chính cuốn Giải khăn sô cho Huế bị liệt vào hạng tối kỵ, trưng bày trong "Nhà Triển Lãm Tội Ác Mỹ Ngụy" là chứng tích kết tội bà. Chồng bà, nhà văn Trần Dạ Từ, thì bị giam 12 năm. Do sự can thiệp của hội Văn Bút Quốc tế phối hợp với hội Ân xá Quốc tế và thủ tướng Thuỵ Điển Ingvar Carlsson, bà được sang Thuỵ Điển tỵ nạn. Năm 1992 bà cùng gia đình sang California định cư và lập hệ thống Việt Báo Daily News tại Quận Cam. Theo nhà văn Nguyễn Đắc Xuân thì cặp vợ chồng Trần Dạ Từ - Nhã Ca còn từng phụ trách nguyên cả một chương trình của đài Á Châu Tự do (RFA) của Mỹ. Tác phẩm: Nhã Ca mới (1965) Đêm nghe tiếng đại bác (1966) Bóng tối thời con gái (1967) Khi bước xưống (1967) Người tình ngoài mặt trận (1967) Sống một ngày (1967) Xuân thì (1967) Những giọt nắng vàng (1968) Đoàn nữ binh mùa thu (1969) Giải khăn sô cho Huế (1969) đoạt Giải Văn chương Quốc gia Việt Nam Cộng hòa năm 1970[4] (tái bản ở Hoa Kỳ năm 2008) Một mai khi hòa bình (1969) Mưa trên cây sầu đông (1969) Phượng hoàng (1969) Tình ca cho Huế đổ nát (1969) Dạ khúc bên kia phố (1970) Tình ca trong lửa đỏ (1970) Đời ca hát (1971) Lặn về phía mặt trời (1971) Trưa áo trắng (1972) Tòa bin-đing bỏ không (1973) Bước khẽ tới người thương (1974) v.v... Phim Đất khổ do Hà Thúc Cần sản xuất và hoàn tất năm 1973, đã một phần dựa theo cuốn Giải khăn sô cho Huế và Đêm nghe tiếng đại bác, do Nhã Ca viết đối thoại. Tại hải ngoại, bà tiếp tục sáng tác, như: Hồi ký một người mất ngày tháng Đường Tự Do Sài Gòn (2006). Mời các bạn đón đọc Đường Tự Do - Sài Gòn của tác giả Nhã Ca.
Bước Chạy Thanh Xuân - Miura Shion
ĐIỀU TUYỆT VỜI NHẤT CỦA THANH XUÂN LÀ KHÔNG BAO GIỜ BỎ CUỘC! Chúng ta nghĩ rằng chúng ta không thể. Mãi mãi không thể chạm vào vạch đích đó. Như tuổi thanh xuân lỡ mơ mộng và chỉ mơ mộng mà thôi. Không dám thử sức, không dám hết mình. Trong những năm tháng tuổi trẻ ấy, ở khu trọ Chikusei, có 9 chàng trai trẻ tuổi, mang trong mình những trăn trở, những sở thích và tính cách hoàn toàn khác biệt, cùng nhau ngày qua ngày sống một cuộc đời giản đơn, nhạt nhẽo. Ngỡ như tuổi trẻ của họ sẽ trôi qua mà chẳng có gì đáng nhớ. Cho đến khi chàng trai Kakeru như ngọn lửa sáng xuất hiện khiến đóm tàn trong ý chí của Kiyose – người say mê điền kinh và khao khát trở lại đường đua cháy bừng rực rỡ trong phút chốc. Hai người họ, bằng cách nào đó đã khiến 8 chàng trai khác trong khu trọ Chikusei, những người ban đầu vốn không mấy ưa chuyện vận động và chẳng hề có chút kinh nghiệm nào trong bộ môn điền kinh, bỗng nhiên cũng nuôi mộng Hakone - đường đua được cả Nhật Bản dõi theo và bao người mơ ước được đặt chân đến một lần trong đời. Thanh xuân của họ bắt đầu với ngọn lửa đam mê nhen nhóm rồi rực sáng như thế. Những giờ tập đẫm mồ hôi, những đánh đổi trong thói quen sinh hoạt và sở thích, những tranh cãi nảy lửa, một quá trình đầy rẫy khó khăn và thiếu thốn. Nhưng những chàng trai trẻ đầy nhiệt huyết ấy chưa bao giờ từ bỏ, ngược lại ngày một khao khát mãnh liệt hơn để chạm đến vạch đích trên đường đua Hakone. *** “Cậu có biết lời khen tặng quý giá nhất đối với một người chạy trên đường đua là gì không? Nhanh. Không phải, là mạnh mẽ.” Phải rồi, tuổi trẻ cũng giống như đường đua. Sự quý giá nhất không phải nhanh hay chậm, giỏi hay tệ mà là sự mạnh mẽ. Mạnh mẽ đối đầu với thử thách, mạnh mẽ theo đuổi những thứ mình đặt ra, mạnh mẽ vươn đến những ranh giới mà mình nghĩ mình không thể chạm vào. Đó chính là điều tuyệt vời nhất của thanh xuân, những bước chạy không ngừng nghỉ để phá vỡ giới hạn của bản thân. Những bước chạy ấy, có thể sẽ không hoàn hảo, có thể sẽ không phải là nhanh nhất, nhưng quan trọng là họ đã dám vượt lên chính bản thân, dám đánh đổi để thành công, dám mơ ước để đạt đến những ranh giới cao hơn, xa hơn và rực rỡ hơn trong tuổi trẻ của mình! *** Bước chạy thanh xuân - cuốn sách tràn đầy nhiệt huyết dành cho những người trẻ của Miura Shion, tác giả tiểu thuyết xuất sắc của Nhật Bản. Cuốn sách sẽ khiến bạn nhận ra rằng chẳng có giới hạn nhất định nào cho con người. Chỉ cần chúng ta đủ kiên nhẫn, đủ can đảm và đủ tin tưởng vào chính bản thân mình, mọi chuyện nhất định sẽ thành công. *** Đi bộ từ tuyến đường số 8 đến khu vực này mất chừng 20 phút. Không khí ban đêm thật trong lành. Đèn đường trong khu phố đơn điệu chỉ còn sáng vài cây. Xung quanh trở về với vẻ tĩnh lặng. Vừa bước đi trên con đường hẹp một chiều dành cho người đi bộ, Kiyose Haiji vừa ngước nhìn bầu trời đêm. Màn sao ở đây không thể so với quê nhà Shimane của anh được, nhưng rõ ràng Tokyo vẫn có riêng của mình vài đốm sáng yếu ớt. Anh ước gì bây giờ có thể thấy được sao băng. Nhưng nền trời vẫn lẳng lặng chẳng hồi đáp. Gió gợn qua cổ anh. Sắp tới tháng tư rồi mà trời vẫn còn rét căm căm. Làn khói bốc lên từ nhà tắm "Tsurunoyu" bay về phía những mái nhà thấp lè tè. Kiyose không nhìn trời nữa, mà vùi cằm vào cổ chiếc áo khoác kiểu Nhật, chân bước nhanh hơn. Nước nóng của nhà tắm công cộng ở Tokyo nóng thật. Hôm nay kiyose cũng đứng lên ngay sau khi trầm hết cơ thể trong bồn. Bác thợ xây - khách quen của"Tsurunoyu" nhìn thấy cảnh đó liền bật cười: "Vẫn nhát như mọi khi nhỉ, Haiji? Dân Edo chính gốc hồi ấy tắm nước nóng đến nỗi bỏng mông luôn đó." Giọng của bác thợ xây vọng lại từ trần nhà lát gạch men. Chẳng có bóng người nào phía nhà tắm nữ. Có lẽ trong đây chỉ có mỗi kiyose và bác thợ xây. "Cháu lúc nào cũng thắc mắc, không biết có nên hỏi chuyện này không..." "Gì đó?" "Khu này không phải vùng ngoại ô mà là nằm trên đồi bác nhỉ?" Cạo râu xong, kiyose lại bước đến bên bồn. Vừa nhìn vào ánh mắt bác thợ xây anh vừa vặn vòi nước. Nhiệt độ của nước lần này khác với lần trước. Kiyose yên tâm bước chân vào. "Có thể phân biệt đâu là khu ngoại ô đâu là khu trên đồi, xem ra cậu cũng quen với cuộc sống ở đây rồi?" "Cũng được bốn năm rồi mà ạ." "Chikusei thế nào rồi? Năm nay nhắm hết phòng nổi không?" "Còn một người nữa. Cháu cũng chẳng biết phải tính sao." "Thế tức là nổi chứ gì?" "Vâng." Kiyose thật lòng nghĩ thế. Đây là năm cuối cùng rồi. Cơ hội ngàn năm có một sắp sửa cận kề. Chỉ một người nữa thôi. Kiyose theo bác thợ xây bước ra khỏi nhà tắm. Bác dắt xe đạp, còn anh thong dong rảo bước bên cạnh. Nhờ tắm nước nóng nên kiyose hoàn toàn không thấy lạnh. Lúc anh tính cởi áo khoác ra thì đằng sau lưng chợt vang lên tiếng chân chạy, rồi tiếng la hét. Ngoái đầu lại, Kiyose trông thấy con đường hẹp phía trước có hai bóng người. Để thoát khỏi bóng người đàn ông đang hét toáng lên, bóng đen còn lại đang phóng về phía Kiyose và bác thợ xây. Trong chớp mắt, cái bóng ấy đã áp sát hai người bọn họ. Là một thanh niên, vẫn còn quá trẻ, Kiyose vừa nghĩ thế thì cậu ta đã kịp chạy biến. Nhân viên cửa hàng tiện lợi đuổi theo sau với tốc độ chậm hơn nhiều. Cậu thanh niên vừa này tông qua vai Kiyose không có lấy một nhịp thở dốc. Kiyose theo phản xạ định đuổi theo, nhưng bác thợ xây đã lên tiếng càm ràm. "Mấy thằng ăn cắp dạo này kinh thật." Nói mới nhớ, người nhân viên khi nãy cũng có kêu lên "Ăn cắp" thì phải. Nhưng Kiyose lại chẳng để ý đến chuyện đó vì trong phút chốc, anh đã bị thu hút bởi sức lực và đôi chân linh hoạt của cậu thanh niên kia. Kiyose vớ lấy chiếc xe đạp của bác thợ xây rồi leo lên. "Cho cháu mượn." Bỏ lại bác thợ xây với gương mặt ngơ ngác, Kiyose dốc toàn lực đạp xe đuổi theo vết tích cậu thanh niên đã biến mất vào đêm tối. Chính là cậu ta. Mình phải tìm cậu ta cho bằng được. Con tim Kiyose như bị nuốt chửng bởi dòng dung nham đặc quánh. Không có lý nào anh lại để mất dấu cậu ta. Trên con đường hẹp tối tăm này, thứ toả sáng duy nhất chỉ có hình dáng cậu thanh niên nọ. Áo khoác của Kiyose no gió. Cuối cùng thì xe đạp cuối cùng cũng chiếu đến cậu thanh niên kia. Thăng bằng tốt lắm. Kiyose cố gắng nén sự phấn khích để quan sát bước chạy của cậu ta. Lưng thẳng theo trục. Chân từ đầu gối trở xuống duỗi thẳng. Bờ vai thả lỏng, cổ chân nhịp nhàng nhận lấy sung động mỗi lần bàn chân chạm đất. Bước chạy vừa mềm mại vừa đầy uy lực. Có vẻ cậu ta đã phát hiện ra có người đang đuổi theo nên đến chỗ có ánh đèn đường liền ngoảnh đầu lại. Trông thấy khuân mặt nhìn nghiêng ấy, Kiyose không khỏi à lên một tiếng. Là cậu sao? Lòng anh dâng lên một cảm xúc, chẳng biết là niềm vui hay nỗi sợ hãi. Kiyose có linh cảm rằng đây nhất định là khởi đầu cho điều gì đó. Anh tăng tốc, lao lên chạy song song với cậu thanh niên. Như thể bị ai đó xui khiển, Kiyose vuột miệng hỏi: "Cậu thích chạy bộ à?" Cậu thanh niên đột ngột dừng lại rồi nhìn Kiyose với vẻ mặt không phải bối rối, cũng chẳng phải tức giận. Con ngươi đen láy ẩn chứa nhiệt huyết mãnh liệt soi ngược vào anh. Khoảnh khắc đó chính là lúc Kiyose nhận ra: Hạnh phúc và những điều tốt đẹp có lẽ tồn tại trên thế gian này thật. Đối với mình, tất cả những thứ ấy chính là chàng trai này.   Mời các bạn đón đọc Bước Chạy Thanh Xuân của tác giả Miura Shion.
Hành Trình Đến Tận Cùng Đêm Tối - Louis Ferdinand Céline
Louis Ferdinand Céline (1894-1961) tên thật: Louis-Ferdinand Destouches, vừa là nhà văn vừa là thầy thuốc. Ông lấy tên bà ngoại, Céline, làm bút danh. Năm 1912, ông tình nguyện nhập ngũ và giải ngũ năm 1914 với 75% thương tật. Sau đó, ông sang châu Phi tham gia việc chiếm đóng một thuộc địa cũ của Đức là Cameroun; trở về nước năm 1916, với bệnh sốt rét mạn tính. Năm 1918, ông theo học đại học y khoa, từng làm thầy thuốc cả ở New York, Mỹ lẫn Paris, Pháp. Đây là những chi tiết sẽ xuất hiện trong tiểu thuyết đầu tay của ông năm 1932 với tựa đề Hành trình đến tận cùng đêm tối. Đây là một trong những cuốn sách hiếm hoi vừa ra mắt đã lập tức trở thành một sự kiện lịch sử văn học. Céline đã dựa vào thứ ngôn ngữ truyền khẩu và bình dân mà văn học Pháp đã không biết đến suốt ba thế kỷ, để kịch liệt tố cáo thực trạng xã hội, từ đó tạo ra một sức mạnh chưa từng có và dùng nó đế đặt một nghi vấn siêu hình về con người và thân phận làm người. Nhiều từ điển bách khoa Pháp đặt Hành trình đến tận cùng đêm tối ngang với các tác phẩm văn học kinh điển và thường dành một mục từ riêng cho tác phẩm và cho rằng tác phẩm đã "được viết với một văn phong méo mó, tràn ngập những lộng ngôn", nhưng cũng phải thừa nhận "tác phẩm đã ảnh hưởng sâu sắc đến văn học Pháp hiện đại". Năm 1995, tờ tuần báo Pháp L’Évènement du Jeudi cùng Đài Phát thanh và Trung tâm văn hóa Pompidou ở Paris đã tổ chức một cuộc trưng cầu ý kiến để chọn lấy 10 cuốn sách hay nhất trong văn học Pháp cho thế hệ năm 2000. Kết quả là, cuốn Hành trình đến tận cùng đêm tối được xếp thứ hai, sau cuốn Đi tìm thời gian đã mất của Marcel Proust, nhưng đứng trên các tác phẩm xưa nay nổi tiếng của Albert Camus, André Malraux, Marguerite Yourcenar hay Jean- Paul Sartre. Hoàng Phong​ *** Chuyện ấy đã bắt đầu như thế đấy. Tôi thì tôi chẳng bao giờ nói gì đâu. Chẳng nói gì cả. Nhưng Arthur Ganate lại gợi cho tôi nói. Arthur, một thằng bạn sinh viên, cùng khoa y với tôi. Hai đứa gặp nhau ở quảng trường Clichy. Lúc ấy đã sau bữa trưa. Cậu ta có chuyện gì đó muốn nói với tôi. Tôi nghe cậu ta. “Thôi, không ngồi ngoài này nữa, chúng mình về đi”, cậu ta bảo. Tôi về với cậu ta. Thế đấy. Rồi cậu ta bắt đầu câu chuyện. “Ngoài hiên này dành cho khách ăn trứng la-coóc. Chúng mình lại đằng kia đi!” Lúc ấy đường phố vắng tanh, chẳng có ma nào, vì trời nóng bức; xe cộ cũng không, chẳng có gì hết. Trời lạnh thì cũng chẳng ma nào ngoài phố; tôi nhớ rằng chính cậu ta nói với tôi cái ý này: “Dân Paris cứ làm ra vẻ lúc nào cũng bận bịu, nhưng thật ra họ dong chơi suốt từ sớm đến tối. Chứng cớ là khi nào thời tiết không đẹp để họ đi chơi, hoặc lạnh quá hoặc nóng quá thì có thấy họ quái đâu, tất cả còn chúi mũi vào quán cà phê hay quầy bia hơi. Là thế đấy! Họ bảo rằng thế kỷ của chúng ta là thế kỷ tốc độ! Đâu nào? Rồi lại nói đến những thay đổi lớn! Nói thế thôi, thay đổi gì nào? Thật ra chẳng thay đổi cái quái gì cả. Họ chỉ bốc nhau lên đó thôi. Mà cái chuyện bốc nhau thì cũng chẳng mới mẻ gì. Toàn chuyện ngôn từ, mà ngôn từ thì cũng có đổi mới được bao nhiêu đâu! Hai ba cái ở chỗ này, chỗ kia, toàn những đồ nhỏ nhoi, vặt vãnh”. Khoái trí vì gióng được lên những hồi chuông tưởng như là chân lý hữu ích, cả hai đứa chúng tôi ngồi lỳ ở đó, thích thú, nhìn ngó các cô hàng cà phê. Sau đó, câu chuyện quay về với tổng thống Poincaré vừa cắt băng khai mạc, đúng vào sáng hôm ấy, cuộc triển lãm chó cún; và thế rồi, chuyện tán róc rỉ rả trên tờ Thời báo (Le Temps). Arthur nói chọc tôi: “Thằng cha Thời báo quả là bậc thầy làng báo. Không thể có lấy hai tờ báo như thế để mà bênh vực cái giòng giống Pháp này!” Tôi bảo: “Rõ ràng là cần có một giòng giống Pháp, nhưng làm quái gì có!” Trả miếng hắn ta như thế để tỏ ra rằng tôi cũng là thằng nói năng có sở cứ lắm chứ. “Có đấy! Có một giòng giống Pháp, mà lại là giòng giống tốt nữa cơ - hắn nhấn mạnh - thậm chí còn là giòng giống tốt nhất thế giới cơ đấy. Chỉ tội một nỗi là rất khỏe bị cắm sừng mà lại cứ nói ngược!” Thế là hắn ta bắt đầu nổi khùng với tôi. Tất nhiên tôi phải tự trấn tĩnh và vững vàng. “Không đúng đâu. Cái mà cậu gọi là giòng giống, chỉ là một mớ táp nham những kẻ khố rách áo ôm như loại tớ thôi, toàn là một bầy chấy rận, toét mắt, run rẩy trôi giạt vào đất này, lại còn bị đủ thứ đói rét, dịch hạch bám đuổi, những kẻ thất thế khắp bốn phương trời đổ về đây. Họ không còn đi xa hơn được nữa vì biển cả đã ngăn bước chân họ lại. Đấy, nước Pháp và dân Pháp là thế đấy”. Trầm hẳn giọng xuống và đượm vẻ buồn, cậu ta bảo tôi: -     Bardamu ơi, ông cha mình đáng tự hào lắm, chớ có nói bậy! -     Cậu có lý, Arthur ạ. Cái ấy thì cậu có lý! Luôn luôn hằn học và dễ bảo, bị xâm phạm, bị đánh cắp, bị moi ruột và ngốc nghếch... Ông cha ta đáng tự hào lắm chứ! Cậu có thể nói là thế! Chúng ta có gì thay đổi nào? Giầy tất, không thay đổi; chúa tể, không thay đổi, chính kiến cũng không, hay có chăng thì cũng quá muộn mằn, chẳng còn đáng để trông đợi nữa. Chúng ta bẩm sinh đã là những kẻ trung thành, điều ấy thì rõ quá đi rồi! Lính tráng không lương, anh hùng cho tất cả mọi người, cho tất cả những con khỉ biết nói tiếng người... Những từ ngữ đã làm khổ tai nhau quá rồi. Chúng ta chỉ là những thần dân của Đức Vua Khốn khổ. Ngài chính là chúa tể của chúng ta. Chừng nào mà ta không ngoan ngoãn thì ngài siết chặt lại. Những ngón tay ngài siết chặt cổ tất cả chúng ta, nói đã chẳng ra lời, còn phải liệu, thần hồn nếu muốn ăn nuốt cho trôi... Ngài bóp hầu bóp cổ ta chẳng cần có nguyên cớ gì hết... cứ thế thì còn cóc gì là đời nữa... -     Còn chứ, còn tình yêu, Bardamu ơi! ... Mời các bạn đón đọc Hành Trình Đến Tận Cùng Đêm Tối của tác giả Louis Ferdinand Céline.