Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

BÀ CHÚA CHÈ - NGUYỄN TRIỆU LUẬT

Lâu nay, lưu truyền tên gọi Tuyên phi Đặng Thị Huệ – ái phi của chúa Thịnh Vương Trịnh Sâm (1737-1782) – là Bà Chúa Chè. Tên gọi của bà gắn với thú uống trà của người Việt. Vì sao có tên gọi này, đã có nhiều người viết trong các truyện, in thành sách, nhưng xem ra vẫn không thống nhất. Người thì cho quê bà có tên Chè, người lại bảo lúc chưa vào phủ chúa bà đi bán chè tươi, có người còn nói chúa Trịnh Sâm gặp bà lúc đang hái chè. Tất thảy những cách giải thích này đều không hề dẫn ra được cứ liệu. Xin được dẫn cụ thể một số đoạn trong các nguồn và sách, đã viết như sau:

Lâu nay, lưu truyền tên gọi Tuyên phi Đặng Thị Huệ – ái phi của chúa Thịnh Vương Trịnh Sâm (1737-1782) – là Bà Chúa Chè. Tên gọi của bà gắn với thú uống trà của người Việt. Vì sao có tên gọi này, đã có nhiều người viết trong các truyện, in thành sách, nhưng xem ra vẫn không thống nhất. Người thì cho quê bà có tên Chè, người lại bảo lúc chưa vào phủ chúa bà đi bán chè tươi, có người còn nói chúa Trịnh Sâm gặp bà lúc đang hái chè. Tất thảy những cách giải thích này đều không hề dẫn ra được cứ liệu. Xin được dẫn cụ thể một số đoạn trong các nguồn và sách, đã viết như sau:

– Đặng Thị Huệ là cung phi chúa Trịnh Sâm, không rõ năm sinh, quê làng Phù Đổng, tỉnh Bắc Ninh. Bà xuất thân nghèo khổ, nguyên là cô gái hái chè, sau về với chúa Trịnh, nên tục gọi là Bà Chúa Chè (Gia phả Trịnh tộc, www.trinhtoc.com).

– “Dân ta gọi Đặng Thị Huệ là Bà Chúa Chè vì Chúa Trịnh Sâm gặp được nàng trong lúc hái chè trên nương. Thấy nàng đẹp lập tức cho vời vào cung làm Tuyên phi” (Trần Quang Trần, Con rồng Việt Nam với người Giao Chỉ, Nxb Văn hóa dân tộc,1996, tr 112).

– “Đặng Thị Huệ là con một gia đình bình dân tầm thường, xuất thân từ cô gái hái chè ở vùng quê Tiên Du xứ Kinh Bắc (nên về sau người ta vẫn gọi là Bà Chúa Chè. (Quốc Chấn, Những vua chúa Việt Nam hay chữ, Nxb Thanh niên, 2007, tr 120).

– “Sau khi đánh được Thuận Hóa, Trịnh Sâm cho Đặng Thị Huệ từ chức Tiệp dư lên chức Tư dung. Lúc ấy người ta bắt đầu gọi nàng là Bà Chúa Chè (Chè đây là tên núi vùng quê của Nàng)” (Đinh Công Vĩ, Các truyện tình vua chúa hoàng tộc Việt Nam, Nxb Phụ nữ, 2005, tr 264).

– Đặng Thị Huệ người làng Chè, xã Phù Đổng (Hà Nội), vợ của chúa Trịnh Sâm. Vì là vợ chúa, lại người làng Chè nên đời vẫn gọi Đặng Thị Huệ là Bà Chúa Chè (Đặng Thị Huệ tiến thân như thế nào, Nguyễn Ngọc Thuần).

Và còn những sách mà tôi chưa nêu, khi viết về Tuyên phi Đặng Thị Huệ, có liên quan đến tên gọi này. Nhưng với những tư liệu đã nhắc đến, nội dung giải thích tên gọi về Bà Chúa Chè đa phần các “thuyết” chưa xác đáng: Không có chuyện Chúa Trịnh Sâm gặp Thị Huệ khi đang hái chè. Theo cuốn tiểu thuyết lịch sử Hoàng Lê nhất thống chí mô tả cách tự “tiến cử” của Bà: “Một hôm, Tiệp dư Trần Thị Vinh sai nữ tỳ Đặng Thị Huệ bưng một khay hoa đến trước nơi chúa ngồi. Ả họ Đặng này người làng Phù Đổng, mắt phượng mày ngài, vẻ người mười phần xinh đẹp. Chúa nom thấy rất bằng lòng, bèn tư thông với ả”.

Xem ra, có thể tin ở lý do gọi tên theo quê quán Bà. Cuốn Lê quý dật sử của Bùi Dương Lịch (1757-1828) cho biết rõ: Bà người làng Trà Hương, Phù Đổng, trấn Kinh Bắc (nay thuộc Hà Nội). Tên làng “Trà” đọc Nôm thành “Chè”. Điều này cũng giống như trường hợp Bà Chúa Mía (tên Nguyễn Thị Ngọc Diệu, một bà phi của Chúa Thanh Đô vương Trịnh Tráng (1623-1652), đã lập chùa và có đền thờ ở làng Đông Sàng, xã Đường Lâm – trước có tên Cam Giá, tên Nôm là Mía – Thị xã Sơn Tây, Hà Nội).

Nhưng có phải chỉ có một lý do đó?

Xin nêu ra một nguồn cứ liệu khác, để có thể gợi mở, suy lý thêm về tên gọi của Đặng Thị Huệ. Trong một bài phú chữ Hán của Ngô Thì Nhậm (1746-1803) là “Thưởng liên đình phú”, có tả cảnh lò luyện thuốc tiên và hái sen ướp trà trong phủ của Quốc sư Hoàn Quận công (Nguyễn Hoàn, người Nông Cống, Thanh Hóa, từng làm Thái phó dạy Trịnh Sâm, sau giữ chức Tham tụng), dâng lên Trịnh Sâm. Chúa khen việc làm đó, đã ban cho 30 lạng bạc, để thưởng cho việc ướp trà sen. Mỗi lần thưởng thức trà đều cho vời Đặng Thị Huệ. Đoạn dịch nghĩa bài phú như sau: “Hái nhụy bạc và tơ vàng chừ, rồi chạy về nhanh tựa biến/ Đem về bếp trà nơi phủ Chúa chừ, mời bà Lệ Hoa sangThái điện/ Khen Tướng sư giỏi trồng sen chừ, ngợi tiên nga tài hái chọn/…”. Dưới đoạn này, tác giả Ngô Thì Nhậm còn chú rõ: “Mỗi lần hái được nhị sen, Quận công liền cho chạy ngựa dâng tiến phủ Chúa. Chúa Trịnh vương mỗi khi pha trà đó, thế nào cũng mời Tuyên phi (Đặng Thị Huệ) cùng thưởng thức. Tuyên phi rất thích trà sen,…” (Tuyển thơ văn Ngô Thì Nhậm, quyển II, Nxb Khoa học xã hội, Hà nội, 1978, tr 91- 92). Với cứ liệu này, tin ở sự chứng kiến của người cùng triều đình, thậm chí là thân thiết với Bà, là Ngô Thì Nhậm, ta có thể biết thêm rằng: Tuyên phi Đặng Thị Huệ còn có tên Lệ Hoa (lệ: mỹ lệ; hoa: tinh hoa, văn sức – đây chắc là tên hiệu của bà), thường cùng thưởng trà với Chúa Trịnh Sâm. Đến đây, có thể nói thêm rằng, bà rất sành thưởng thức trà nên người ta còn gọi biệt danh là Bà Chúa Chè. Tên gọi này không phải chỉ lưu truyền trong dân gian, nó được nhắc hai lần trong cuốn Lê quý dật sử. Qua đây rõ thêm, biệt danh Bà Chúa Chè của Tuyên phi Đặng Thị Huệ đã có một tầng nghĩa nữa.

Mở rộng hiểu biết xung quanh nhân vật lịch sử này, một sự tôn vinh, sau khi bà qua đời, ngay trong thời đại của Bà. Ấy là câu chuyện được các tác giả Ngô gia văn phái dựng lại trong tiểu thuyết chương hồi. Hoàng Lê nhất thống chí có chép việc Nguyễn Hữu Chỉnh khi chạy vào với Nguyễn Nhạc, con rể của Chỉnh làm thuyết khách cho Triều đình Lê – Trịnh, khi gặp nhau, trong cuộc hỏi đáp, người con rể Chỉnh kể chuyện Đặng Tuyên phi bị Thái phi hành tội. Có phải các tác giả mượn lời của nhân vật này để “chiêu tuyết” cho Đặng Tuyên phi! Qua lời người kể bộc lộ một bản lĩnh cứng cỏi: dù bị hai thị nữ túm tóc rập đầu xuống đất, không chịu lạy cũng không nói nửa nhời; rồi còn bị Thái phi nhổ vào đầu, mặt; đem giam vào nhà Hộ lăng. Khi đó xảy ra hiện tượng biến dị: những “đồ thờ bằng gỗ, bằng vàng, hễ động tay vào là nát mủn như bùn”. Thái phi nghe việc biến, cho đòi cô đồng vào hỏi; đồng phán: “Chúa thượng làm trái ý Tiên vương: tội bất hiếu có hai điều: Chúa vừa lên ngôi, đã ngờ Đặng thị làm bùa yểm trong tử cung, rồi tự ý mở tử cung, thay đổi quần áo khâm liệm, khiến xương ngọc không yên. Đó là một! Đặng thị là người mà Tiên vương yêu dấu, bây giờ bị chúa làm cho tủi nhục đủ đường, khiến vong linh tiên vương phải áy náy. Đó là hai! Nếu không mau hối lỗi tạ tội, tai biến sẽ còn nhiều nữa”. Tuyên phi được trở lại hầu hạ lăng tẩm, nhưng đêm ngày chỉ gào khóc xin chết theo tiên vương. Đến ngày giỗ “đại tường” của tiên vương, Tuyên phi bèn uống thuốc độc mà chết. Chúa sai quan trấn thủ Thanh Hoa, làm theo lễ cung nhân, táng Tuyên phi ở cách Vọng lăng một dặm”. Nghe xong chuyện, Chỉnh cảm thán: “Chết được đấy! Ta tưởng Tuyên phi chỉ có nhan sắc, không ngờ lại tiết liệt như vậy” (Hoàng Lê nhất thống chí, tập I, Nxb Văn học, 1987, tr 95-96)

Như vậy, Bà Chúa Chè – Tuyên phi Đặng Thị Huệ, một nhân vật lịch sử, một bậc kỳ nữ đáng để hậu thế ghi nhớ, luận bình. Sao cái thời đầy biến động, trong thế kỉ 18, lại có người tài sắc đến vậy!

Đỗ Tiến Bảng

Nguồn: dantocking.com

Đọc Sách

Sách học chữ Nho [pdf]
Phàm người Nam ta, ai cũng cần biết chữ nho, vì trong tiếng ta, trong quốc-văn, nhan nhản những tiếng, những chữ gốc ở chữ nho.Có nhiều bạn đọc muốn học chữ nho mà không tiện thay tiện sách, nên chúng tôi đem hiến các bạn một phương pháp học chữ nho rất giản dị dễ dàng, các bạn đề ra mỗi ngày mươi lăm phút, chuyên-lâm học trang ít lâu, sẽ biết được kha khá. Cái phương pháp ấy ở bộ Tân Quốc Văn của Tàu, chúng tôi sẽ lần lượt dịch đăng vào chỗ này, Những bài học, trước dễ sau khó, trước ít chứ, sau nhiều chủ - bài đầu có một chữ A - các bạn nên học kỹ bài trên, rồi hãy học qua bài dưới. Các bạn nên dùng bút chì tập viết những chữ đã học cho nhớ mặt chữ. Nên hạc cho kỹ và học ôn luôn.Sách HỌC CHỮ NHO này chúng tôi soạn ra từ năm 1930. Vì việc in có nhiều chữ nho và cần nhiều kiểu chữ, công phu lắm lắm, nên nấn ná mãi không xuất bản được. Tới đầu năm 1936 chúng tôi cho in dần vào báo Ích Hữu. Khi báo Ích Hữu đình bản, chúng tôi lại cho đăng nối vào Phổ Thông Bán Nguyệt San cho tới nay vẫn tiếp tục đăng chưa hết. Vì PTBNS mỗi tháng xuất bản có 2 kỳ, mỗi kỳ đăng được 4 trang Học Chữ Nho, không đủ cho các bạn học tập, cho nên nhiều bạn yêu cầu chúng tôi xuất bản thành sách. Sách Học Chữ Nho Theo Tân Quốc Văn Quyển INXB Tân Dân 1941Nhiều Tác Giả364 TrangFile PDF-SCAN
TRUYỀN KỲ MẠN LỤC - NGUYỄN DỮ
Truyền kỳ mạn lục (chữ Hán: 傳奇漫錄, nghĩa là Sao chép tản mạn những truyện lạ), là tác phẩm duy nhất của danh sĩ Nguyễn Dư (thường được gọi là Nguyễn Dữ), sống vào khoảng thế kỷ 16 tại Việt Nam. Đây là tác phẩm được Hà Thiện Hán viết lời tựa, Nguyễn Bỉnh Khiêm (thầy dạy tác giả) phủ chính, Nguyễn Thế Nghi, dịch ra chữ Nôm, và đã được Tiến sĩ Vũ Khâm Lân (1702-?), đánh giá là một "thiên cổ kỳ bút". Ngay từ khi tác phẩm mới hoàn thành đã được đón nhận. Về sau, nhiều học giả tên tuổi như: Lê Quý Đôn, Bùi Huy Bích, Phan Huy Chú, Bùi Kỷ, Trần Văn Giáp, Trần Ích Nguyên (Đài Loan)... đều có ghi chép về Nguyễn Dữ và đánh giá tác phẩm này. Ngay từ khi tác phẩm mới hoàn thành đã được đón nhận. Về sau, nhiều học giả tên tuổi như: Lê Quý Đôn, Bùi Huy Bích, Phan Huy Chú, Bùi Kỷ, Trần Văn Giáp, Trần Ích Nguyên (Đài Loan)... đều có ghi chép về Nguyễn Dữ và đánh giá tác phẩm này.Nhiều bản dịch ra chữ quốc ngữ, trong đó bản dịch của Trúc Khê năm 1943 được coi như đặc sắc nhất. Nhiều bản dịch ra chữ quốc ngữ, trong đó bản dịch của Trúc Khê năm 1943 được coi như đặc sắc nhất.Theo lời Tựa của Hà Thiện Hán (người cùng thời) viết năm 1547, thì Nguyễn Dữ viết ra tập lục này để ngụ ý trong thời gian ông ẩn cư ở rừng núi xứ Thanh. Theo lời Tựa của Hà Thiện Hán (người cùng thời) viết năm 1547, thì Nguyễn Dữ viết ra tập lục này để ngụ ý trong thời gian ông ẩn cư ở rừng núi xứ Thanh.Trong Từ điển Văn học (bộ mới), nhà nghiên cứu Bùi Duy Tân cho biết trong thế kỷ 16, tình hình xã hội không còn ổn định như ở thế kỷ trước; mâu thuẫn giai cấp trở nên gay gắt, quan hệ xã hội bắt đầu phức tạp, các tầng lớp xã hội phân hóa mạnh mẽ, trật tự phong kiến lung lay, chiến tranh phong kiến ác liệt và kéo dài, đất nước bị các tập đoàn phong kiến chia cắt, cuộc sống không yên ổn, nhân dân điêu đứng, cơ cực... Muốn phản ánh thực tế phong phú, đa dạng ấy, muốn lý giải những vấn đề đặt ra trong cuộc sống đầy biến động ấy thì không thể chỉ dừng lại ở chỗ ghi chép sự tích đời trước... Cho nên Nguyễn Dư đã dựa vào những sự tích có sẵn, tổ chức lại kết cấu, xây dựng lại nhân vật, thêm bớt tình tiết, tu sức ngôn từ... tái tạo thành những thiên truyện mới. Truyền kỳ mạn lục vì vậy, tuy có vẻ là những truyện cũ nhưng lại phản ánh sâu sắc hiện thực thế kỷ 16... Trong Từ điển Văn học (bộ mới), nhà nghiên cứu Bùi Duy Tân cho biết trong thế kỷ 16, tình hình xã hội không còn ổn định như ở thế kỷ trước; mâu thuẫn giai cấp trở nên gay gắt, quan hệ xã hội bắt đầu phức tạp, các tầng lớp xã hội phân hóa mạnh mẽ, trật tự phong kiến lung lay, chiến tranh phong kiến ác liệt và kéo dài, đất nước bị các tập đoàn phong kiến chia cắt, cuộc sống không yên ổn, nhân dân điêu đứng, cơ cực... Muốn phản ánh thực tế phong phú, đa dạng ấy, muốn lý giải những vấn đề đặt ra trong cuộc sống đầy biến động ấy thì không thể chỉ dừng lại ở chỗ ghi chép sự tích đời trước... Cho nên Nguyễn Dư đã dựa vào những sự tích có sẵn, tổ chức lại kết cấu, xây dựng lại nhân vật, thêm bớt tình tiết, tu sức ngôn từ... tái tạo thành những thiên truyện mới. Truyền kỳ mạn lục vì vậy, tuy có vẻ là những truyện cũ nhưng lại phản ánh sâu sắc hiện thực thế kỷ 16...
Đền Hùng và tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương [pdf]
Vua Hùng là Tổ của dân ta - Thủy tổ của người Việt. Ông Vua đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, “Thánh vương ngàn đời của cổ Việt”. Các thế hệ người Việt Nam đương đại đều hãnh diện và tự hào được mang trong mình dòng máu Lạc Hồng, con cháu Rồng Tiên. Hàng năm cứ đến ngày mồng 10 tháng 3 Âm lịch lại cùng nhau nỗ nức hành hương về miền Đất Tổ để viếng mộ thăm đền, thắp hương cúng giỗ Tổ tiên. Thông qua các hoạt động văn hóa tâm linh, biểu tượng Vua Hùng và tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương đã trở thành điểm hội tụ tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam. Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương không có biên giới riêng mà là biên giới cộng đồng. Ngày giỗ Tổ Hùng Vương đã vượt ra khỏi tín ngưỡng dân gian để trở thành Quốc tế (Quốc lễ). Hùng Vương đã trở thành Quốc Thánh, là vị Tổ chung cho tất cả mọi người đang cùng sống trên dải đất Việt Nam hình chữ S này.Người Việt Nam trọng tình nghĩa, lấy chữ hiếu làm đầu. Họ luôn quan niệm Tổ tiên của mình; ông bà, cha mẹ mình khi chết đi chưa phải là đã hết, mà là sang thế giới bên kia; song vẫn luôn trở về nhà phù hộ cho con, cho cháu mạnh khỏe, hạnh phúc, an lành.
Đồ thờ trong di tích của người Việt [pdf]
Trong một tấm bia của chùa Bối Khê (Thanh Oai - Hà Tây ) có ghi rằng : Anh tú của trời đất tụ thành sông núi. Sự linh thiêng của sông núi đúc ra thành thần. Thánh thần linh thiêng hóa làm mây gió sấm mưa để nhuần tưới cho sinh dân và còn mãi muôn đời cùng non nước đất trời vậy. Câu nói minh triết ấy là tinh thần dẫn người xưa vào đạo. Ngày nay chúng ta quan niệm rằng tôn giáo tín ngưỡng là văn hóa. Bất kể dòng tư tưởng lớn nào của thế giới cho tới những tư tưởng bình dân nhuốm màu tôn giáo đều lấy thiện tâm làm đầu, từ đó mới bàn đến tư tưởng và tâm linh để cuối cùng hội tụ vào thần linh. Đồ thờ như "giấy thông hành" để tầng dưới tiếp cận tầng trên, con người tiếp cận với đấng vô biên (mà suy cho cùng đấng vô biên chỉ là sản phẩm thuộc tư duy liên tưởng của loài người). Mỗi thời có một nhận thức khác nhau, tư duy liên tưởng khác nhau sẽ dẫn đến có cách ứng xử và mối liên hệ với thần linh khác nhau. Không một di tích tôn giáo nào không có đồ thờ. Đồ thờ xác định tư cách cho những kiến trúc cùng với hệ thống tượng liên quan để trở thành di tích tôn giáo tín ngưỡng. Ngược lại, nếu không có đồ thờ thì cùng lắm di tích đó chỉ mang hình thức một nhà trưng bày. Như vậy đồ thờ đã góp phần thiêng hóa kiến trúc thờ tự, nó đã hướng tâm con người đến lẽ huyền vi của đạo, hướng đến chân, thiện, mỹ, tránh thoát những dục vọng thấp hèn, góp phần làm cân bằng những tâm hồn luôn bị giày vò bởi tục lụy. Đồ thờ là sản phẩm văn hóa hữu thể, nó chứa đựng những ước vọng truyền đời của tổ tiên, qua nó như qua thần linh để cầu nguồn hạnh phúc trần gian.ở nước Việt, đồ thờ mang vẻ đẹp tâm linh thánh thiện phản ánh tâm thức của người nông dân trồng lúa nước. Chúng vượt lên trên cả tính tích cực và tiêu cực của người đời, vượt lên trên cả những yếu tố sùng bái thuộc tín ngưỡng và dị đoan để tồn tại như một chứng tích lịch sử, một lời nhắn nhủ của tổ tiên... Thông qua đổ thở chúng ta có thể tìm về bản thể chân như thuộc vẻ đẹp của người xưa, để con người nhờ đó mà nâng cao thêm được tinh thần yêu nước, yêu quê hương xứ sở, yêu quý lẽ nhân bản, đồng thời có ý thức trọng đức đẹp của cả đạo và đời.