Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tuyến Hỏa Xa Ngầm

Tuyến hỏa xa ngầm – một bí ẩn lớn trên đất Mỹ vào thời kỳ mà chế độ nô lệ hiện tồn, không chỉ bí ẩn với nhà cầm quyền, giới chủ nô, những tay trùm săn nô lệ mà ngay với chính người nô lệ. Không ai biết rốt cục có bao nhiêu ga, bao nhiêu trưởng ga, những chuyến tàu hoạt động thế nào v.v. cho đến lúc đặt chân lên một toa hành khách. Có thể ví tuyến hỏa xa ngầm như một dấu chấm hỏi khắc rất sâu trong giai đoạn rối ren đó của Hợp chúng quốc – quốc gia bị phân tách làm hai cực: các bang tự do và các bang có chế độ nô lệ. Cũng bởi lý do trên, không ai thống kê được chính xác mà chỉ ước đoán rằng từng có rất nhiều nô lệ đào thoát từ miền nam khắc nghiệt đến những vùng đất tự do nhờ tuyến hoả xa ngầm, như Cora – nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết, một nữ nô lệ tại đồn điền trồng bông ở Georgia. Dù là nhân vật chính, Cora xuất hiện lần đầu tiên không phải trong câu chuyện của chính cô mà trong câu chuyện của bà, của mẹ, Ajarry: người bà bị bắt cóc khỏi quê nhà châu Phi sang Mỹ; Mabel: người mẹ trở thành “huyền thoại” khi được cho là bỏ trốn thành công. Cora tồn tại không như một thân phận đơn lẻ, thân phận cô hoà vào biển-người-đen phải hiến thứ “dầu” đặc biệt cho ngành công nghiệp bông sợi, cho hệ thống xiềng xích mới: mồ hôi và máu. “Truyền thống” của gia đình Cora, hay của biết bao gia đình người Phi khác, là lao động quần quật, đổ máu trên những đồng bông bạt ngàn, chưa kể bị lạm dụng, bị làm nhục, câu chuyện thường ngày đến độ sẽ thật khó dung thứ nếu họ khóc than hay trở nên phẫn nộ. Thứ “truyền thống” đó trở thành duy nhất và tuyệt đối với những nô lệ như Ajarry: chịu phận ở đồn điền, bằng lòng “an cư” bên mảnh vườn vỏn vẹn ba thước vuông tại đó; nhưng cũng bị thách thức quyết liệt bởi chính những nô lệ như Mabel: nhất mực chạy trốn bất chấp hình phạt, bất chấp việc bỏ lại miếng đất “mẹ truyền con nối”, thậm chí bỏ lại đứa con gái bé thơ. Tới lượt mình, Cora cũng hun đúc một kế hoạch riêng, dẫu nó không ngừng làm cô buốt nhói khi chỉ càng chứng minh cho sự thật: cô là con gái của mẹ cô! Hành trình xuyên qua 5 bang: Georgia-Nam Carolina-Bắc Carolina-Tennessee -Indiana, và còn tiếp tục không hồi kết dưới đường hầm “ma” mà Royal tiết lộ cho Cora hay, quả là cuộc rượt đuổi gay go giữa chế độ nô lệ, với một đại diện cốt cán, đầy tham vọng là Ridgeway, và kẻ tử thù của nó – Cora. Ta có thể hình dung một cuộc chiến nảy lửa của cả hai, vì lẽ sinh tồn chẳng những đặt ở thể xác mà còn nằm trong tinh thần. Xích xiềng không chỉ đòi cô mà đòi cả những bạn bè nô lệ của cô, cả những người có lương tri dám bao bọc, giúp đỡ cô, trả giá – chỉ bằng cách ấy, xích xiềng mới chặt. Song Cora luôn là một đối thủ đáng gờm, cô chưa từng thôi chống trả, dù tuyệt vọng và yếu thế, bởi nếu không làm vậy bao giờ người nô lệ mới được tự do. Trong cuốn tiểu thuyết, có một câu nói trở đi trở lại: “Hãy nhìn ra ngoài trong khi tàu đưa các bạn đi, các bạn sẽ thấy khuôn mặt thật của nước Mỹ”. Dường như quốc gia đó vẫn luôn tồn tại trên nền tảng mâu thuẫn, nghịch lý: những con người đến đây vì tự do lại tước đi tự do của người khác. Colson Whitehead đã vẽ khuôn mặt nước Mỹ bằng màu sắc đối lập: đen rồi trắng, trắng rồi đen, luôn luân chuyển, luôn đảo chiều – có những bàn tay da đen sẵn sàng đàn áp các anh chị em của mình không thua gì những bàn tay da trắng, và lại có những bàn tay da trắng sẵn sàng chìa ra cứu giúp những nô lệ khốn cùng. Bằng cây bút giàu cảm xúc nhưng không bị định kiến ảnh hưởng, có lúc còn khá hóm hỉnh trước nghịch cảnh, Colson Whitehead rất chân thành đưa độc giả tới với hình ảnh nước Mỹ trong quá khứ, nhưng đó là điều khó dứt bỏ khỏi hiện tại này. *** “Hãy nhìn ra ngoài trong khi tàu đưa các bạn đi, các bạn sẽ thấy khuôn mặt thật của nước Mỹ”. Đó là lời nhắn gửi những hành khách - những nô lệ da đen trốn thoát khỏi các đồn điền - trước khi lên một chuyến tàu bí mật của tuyến hỏa xa ngầm, một công trình có thật trong lịch sử Mỹ thời chiếm hữu nô lệ còn tồn tại. Không ai xây khi nào, có những ga nào, ai tham gia con đường bí mật đó. Những câu hỏi về tuyến hỏa xa ngầm đó cũng không được giải đáp trong tác phẩm cùng tên được trao giải Pulitzer danh giá vào năm 2017. Vậy nhưng, sức hấp dẫn của “Tuyến hỏa xa ngầm” là ở chỗ chỉ từ câu chuyện của một cá nhân - cô bé Cora - mà đưa người đọc tìm về và hiểu được nhiều khía cạnh của nước Mỹ thời chiếm hữu nô lệ, cũng như con đường bí mật đưa những người nô lệ da màu đến tự do. “Tuyến hỏa xa ngầm” được giải Pulitzer nhờ hòa trộn tài tình chủ nghĩa hiện thực và phúng dụ, cũng như kết hợp được sự tàn bạo của chế độ sở hữu nô lệ và bi kịch trong sự đào thoát của những người nô lệ. Và đúng là như vậy. Quyển sách mô tả chân thực sự tàn khốc của những ngày tháng đọa đày, chịu kiếp nô lệ của Cora và những giờ phút lên kế hoạch chạy trốn, chờ đến giờ G để rồi tiếp tục hồi hộp khi đã chạy đủ xa, những lần lần trốn, trong rừng sâu, hay tầng áp mái, hay lên những chuyến tàu trên tuyến hỏa xa ngầm mà không biết ga dừng lại sẽ là đâu. Tất cả khiến người đọc có thể sốc vì sự tàn bạo của chế độ nô lệ và hồi hộp thay cho nhân vật chính Cora. “Tuyến hỏa xa ngầm” là một bài học lịch sử hay cho những thế hệ sau này, mà có lẽ chưa tìm hiểu hay hiểu tường tận về giai đoạn rối ren được chọn làm bối cảnh chính của câu chuyện: nước Mỹ bị phân tách làm hai cực: Các bang tự do và các bang có chế độ nô lệ. 3 thế hệ nhà Cora cũng là 3 giai đoạn trong lịch sử chiếm hữu nô lệ ở Mỹ và tất cả những ngục tù đối với người Phi châu: bị bắt cóc, mang đến Mỹ, sinh ra các thế hệ nối tiếp trong xiềng xích, cả cuộc đời không biết gì ngoài làm việc tại các đồn điền, cho nên ngày cũng như đêm luôn mơ đến tự do. “Khi chết người da đen trở thành con người, chỉ khi đó họ mới ngang bằng với người da trắng”. “Ngày hôm trước một đứa trẻ da đen còn hạnh phúc, thế nhưng ngày hôm sau ánh sáng đã biến mất khỏi cuộc sống của nó; giữa khoảng thời gian đó nó được giới thiệu với một thực tế mới - cảnh nô lệ”. Cora, sinh ra đã là nô lệ và có một cuộc đời đầy những chuỗi bất hạnh, nhưng không phải vì tính cách hay cách hành xử của cô, mà là vì “da cô màu đen và đây là cách thế giới đối xử với người da đen”. Cora biết rằng đời mình có thể kết thúc hoặc giống bà của em - người bị bắt cóc khỏi quê nhà châu Phi sang Mỹ và mãi mãi là nô lệ, hay mẹ em - một nô lệ trở thành “huyền thoại” khi được cho là bỏ trốn thành công. Cora tin mình cũng có thể được như mẹ; em đã chạy trốn, nhưng những cuộc chạy trốn liên hồi và cuộc đời không thể nào yên ả được lâu. Như những chuyến tàu có lúc ngoặt vào những lối quanh co rải rác trên hành trình, cuộc đời Cora là liên tiếp những khúc cua như thế, từ địa ngục trốn chạy được đến bình yên, rồi lại phải chạy tiếp vì nơi đó không hẳn như mình nghĩ và mong muốn. Dẫu được tuyến hỏa xa ngầm hỗ trợ, Cora và những người nô lệ có quá nhiều thứ để phải tránh: nhà cầm quyền, giới chủ nô, những tay trùm săn nô lệ, và cả những người từng là nô lệ đã được tự do, sợ cái tự do quý giá của mình vì người da đen nô lệ mà lại mất đi 1 lần nữa, đành phải phản lại chính anh em của mình. Tuyến hỏa xa ngầm nhiều lần nhắc lại thông điệp ‘bộ mặt của nước Mỹ’, và đó là một đất nước hóa ra đầy những điều tương phản. Tuyên ngôn độc lập được ký khi chế độ chiếm hữu nô lệ vẫn còn; trong xã hội có những người da trắng ủng hộ bãi nô đánh đổi an nguy của gia đình và bản thân để tham gia cứu giúp người da đen, nhưng cũng lại có người da đen sẵn sàng đàn áp các anh chị em của mình. *** Mâu thuẫn trong tuyên ngôn của Hoa Kỳ “Mọi người sinh ra đều bình đẳng, họ được tạo hoá ban cho một số quyền tất yếu bất khả xâm phạm, trong đó có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc“, đó là một trong những nội dung được đưa ra trong bản tuyên ngôn độc lập của Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ. Ấy thế, chính trong đất nước  mà “mọi người sinh ra đều bình đẳng” ấy lại không có chỗ cho những người da đen. Họ không được xem là con người, chỉ có sự bình đẳng dành cho người da trắng. Để phản ánh về nỗi thống khổ của những người da màu và tội ác man rợ của những người “thượng đẳng” da trắng, nhiều tác phẩm thơ văn đã được viết lên, trong đó có Tuyến Hỏa Xa Ngầm. Với ngòi bút tinh tế, lôi cuốn, mạnh mẽ của mình, Colson Whitehead đã cho người đọc cảm nhận được tội ác của những người da trắng dưới chế độ chủ nô tàn ác. Colson Whitehead như một ngọn lửa thổi bùng lên sự căm phẫn đối với phân biệt chủng tộc tàn ác hà khắc của đất nước Mỹ. Những người da đen không được xem là con người họ là súc vật, là giống loài hạ đẳng, họ được Thượng đế  tạo ra để trở thành những công cụ biết nói của người da trắng. Tội ác và nỗi thống khổ Cuốn sách là những con chữ biết nói, Tuyến Hỏa Xa Ngầm đã nói lên cuộc sống của người da đen và tội ác man rợ của bọn chủ nô một cách rất chân thực, “những người đàn ông bị treo cổ trên cây”, “Những thân thể còn sống và  đã chết bị nướng trên giàn thiêu”. Chúng sẵn sàng hãm hiếp bất cứ người phụ nữ da đen nào, chúng chặt lìa tay,chân. Chúng thẳng tay sát hại mà không một chút do dự. Tuyến Hỏa Xa Ngầmkhông chỉ nói về hành trình trốn thoát mà nó còn bức tranh về thời kỳ nô lệ tàn ác. Đại diện cho chính quyền, chế độ chiếm hữu nô lệ, nạn phân  biệt chủng tộc trong câu chuyện là  tên địa chủ Terrance. Dưới góc nhìn của Colson Whitehead, Terrance hiện lên như một con quái vật với đôi mắt cú vọ, ánh mắt hắn như muốn ăn tươi nuốt sống những tên nô lệ, hắn hành hạ, đưa ra những hình phạt tàn nhẫn đối với những nô lệ bỏ trốn. Sự đấu tranh Qua ngòi bút tinh tế của Colson Whitehead đã vẽ lên như những nỗi đau khó tả của người da đen. Tác giả đã phải thốt lên rằng “Khi chết người da đen trở thành con người, chỉ khi đó họ mới ngang bằng với người da trắng”, “Ngày hôm trước một đứa trẻ da đen còn hạnh phúc, thế nhưng ngày hôm sau ánh sáng đã biến mất khỏi cuộc sống của nó; giữa khoảng thời gian đó nó được giới thiệu với một thực tế mới – cảnh nô lệ”, vốn dĩ từ khi sinh ra họ đã không nhận được sự công bằng, họ phải sống dưới sự đàn áp của người da trắng. Chính vì lẽ đó, ngọn lửa đấu tranh luôn luôn nhen nhóm trong tâm trí họ. Họ mạo hiểm bất chấp tính mạng chạy trốn để tìm cho mình sự tự do dù biết sẽ bị thiêu sống, bị đánh đập nhừ tử nếu bị bắt. Cora cũng vậy, gia đình cô là một gia đình nô lệ và có truyền thống trốn chạy, mẹ cô đã trở thành huyền thoại khi đã trốn thoát thành công.  Tuy vậy, nhưng hành trình đi tìm tự do ấy chưa bao giờ là yên bình đối với cora. Hành trình trốn thoát của cô trên chuyến tàu ấy có biết bao khúc cua, ngã rẽ, khiến chúng ta phải lặng thinh hồi hộp theo dõi. Với cách kể chuyện lôi cuốn tác giả không ít lần khiến ta  mỉm cười vì hạnh phúc rồi nụ cười đó lại vụt tắt đi trên môi khi sóng gió lại đến với cora. Những cảm xúc… Dẫu có những Tuyến Hỏa Xa Ngầm hay những người bãi nô giúp đỡ nhưng những nô lệ như cora và Caesar vẫn sẽ rơi vào tay của những tên “Terrance”,của những kẻ truy lùng nô lệ bỏ trốn. Dẫu họ có lên được con thuyền “tự do” thì con thuyền đó vẫn sẽ bị thủng và rồi họ lại lênh đênh giữa chế độ chiếm hữu nô lệ hà khắc của đất nước Mỹ. Cuộc đời của những người da đen là những chuỗi ngày đen tối nổi trôi, đau khổ. Không thể rời mắt khỏi câu chuyện, con tim cứ nhói lên từng hồi đó chính là cảm xúc của tôi khi  theo dõi câu chuyện, đây có lẽ là câu chuyện gây ấn tượng sâu sắc với tôi và nhiều người khác. Trong cuốn tiểu thuyết, có một câu nói trở đi trở lại: “Hãy nhìn ra ngoài trong khi tàu đưa các bạn đi, các bạn sẽ thấy khuôn mặt thật của nước Mỹ”. Phải chăng đó là sự mâu thuẫn đến nghịch lý: những con người đến đây vì tự do lại tước đi tự do của người khác.  Tuyến Hỏa Xa Ngầm được xây dựng rất nhiều nhân vật, cả một tuyến nhân vật dày đặc. Điều này có thể khiến bạn đọc khó nắm bắt, theo mạch của câu chuyện nếu chỉ đọc một lần. Mặc dù vậy, nhưng những câu chuyện về người da màu khi được miêu tả qua  những góc nhìn khác nhau của nhiều nhân vật thì được trở nên rõ ràng, sắc nét hơn. Điều này cũng là một điểm đặc biệt, dẫn dắt người đọc nhìn nhận tới nhiều khía cạnh, nhiều cảm xúc hơn để dễ dàng hiểu được tác phẩm trọn vẹn. Tuy nhiên đây vừa là điểm trừ, cũng vừa là điểm cộng. Xuyên suốt câu chuyện, có lẽ hình ảnh in sâu nhất trong tâm trí bạn đọc chính là những chuyến ga tàu, trưởng ga và cả những hành khách. Ở đó có những phương tiện chuyên chở giúp đỡ những người da màu trốn chạy đến những vùng đất tự do, chạy xa khỏi ách nô lệ. Chính vì thế Tuyến Hỏa Xa Ngầm là một hình ảnh hết sức nhân văn, mang tính biểu tượng lớn. Với cách kể chuyện hấp dẫn, cuốn hút của Colson Whitehead, ” Tuyến hỏa xa ngầm” đã ghi được dấu ấn đậm nét sâu sắc về lịch sử đẫm máu đối với người da đen, đồng thời cuốn sách cũng lên án chế độ chiếm hữu nô lệ và phân biệt chủng tộc man rợ. *** Review sách Tuyến Hoả Xa Ngầm   Binh Boog đã review       25 tháng 5, 2019 #Review #Tuyến_hoả_xa_ngầm Ai sinh ra cũng có quyền bình đẳng. Ấy thế mà họ sinh ra mang da màu thôi mà cớ sao lại trở thành nô lệ? Cora, cô gái thế hệ thứ 3 sinh ra làm nô lệ. Từ đời bà cô đã bị những người da trắng bắt cóc từ lục địa đen Châu Phi đem sang các cánh đồng ở Mỹ để làm nô lệ. Tới mẹ cô và cô cũng được sinh ra và lớn lên để làm nô lệ. Người da trắng tự cho mình cái quyền chiếm đất, đuổi người da đỏ da đỏ khỏi mảnh đất của họ để mở rộng những đồn điền, bắt những người da đen về làm nô lệ. Không thể tin nổi là những người da đen bị bắt làm nô lệ không khác gì loài vật. Họ bị bắt cóc từ quê hương của mình, bị bán như một món hàng. Bị đóng dấu sắt nung lên người không khác gì con bò, con lợn. Hàng ngày họ lao động cực nhọc trên các cánh đồng bông, cánh đồng mía, trong các đồn điền. Họ bị roi quất, đánh đập, treo cổ, cưỡng bức, giết chết bất cứ lúc nào. Cuộc sống của họ là một nỗi ám ảnh cho dù được tự do thì nó vẫn là nỗi sợ hãi trong giấc mơ hàng ngày. Mặc dù biết bỏ trốn nếu bị bắt lại bởi chủ nô, bọn tuần tra hay những kẻ săn nô lệ (mà những kẻ săn nô lệ là nỗi sợ hãi của nô lệ bỏ trốn bởi bọn chúng có thể tóm lại bất cứ nô lệ nào bỏ trốn dù họ có đi tới tận đâu. Chúng quyết tâm bắt lại bằng được những nô lệ bỏ trốn để kiếm khoản tiền thưởng và để cho nô lệ biết rằng họ không thể trốn thoát khỏi chủ nô, để dập tắt ý định bỏ trốn của họ. Mà nô lệ bỏ trốn bị bắt lại thì bị tra tấn khủng khiếp, chỉ còn con đường chết. Nhưng Cora vẫn quyết định bỏ trốn. Cora đã bỏ trốn khỏi chủ nô của mình. Trải qua hành trình tìm đến với tự do, được sự giúp đỡ của những người lái tàu trên tuyến hoả xa ngầm mà trên chuyến hoả xa đó họ nói với Cora rằng: “Hãy nhìn ra ngoài trong khi tàu đưa các bạn đi, các bạn sẽ thấy khuôn mặt thật của nước Mỹ”. Quả thật, không chỉ là những bi kịch của thân phận nô lệ mà Tuyến hoả xa ngầm còn là mâu thuẫn trong chính nước Mỹ. Có những người da trắng đã đứng lên đấu tranh cho phong trào giải phóng nô lệ. Họ kết hôn, sinh con với người da màu. Và chính họ đã làm nên những đường hầm bí mật, những tuyến hoả xa bí mật để giúp đỡ những người nô lệ bỏ trốn tới vùng đất mà họ được tự do. Mặc dù họ bị chính những người da trắng vì lợi ích của họ không muốn giải phóng nô lệ chèn ép hoặc bị giết nhưng chính họ đã khơi dậy ý chí đấu tranh đòi quyền tự do cho chính mình của người da màu. Con đường đấu tranh đòi tự do, chống phân biệt chủng tộc còn nhiều gian nan, hy sinh, cần nhiều thời gian để thay đổi nhưng những Tuyến hoả xa ngầm không biết điểm cuối ở đâu đã góp phần vào phong trào đó. Có lẽ vì chính mâu thuẫn về giải phóng nô lệ mà nước Mỹ đã xảy ra cuộc nội chiến. Tác phẩm Tuyến hoả xa ngầm được hai giải thưởng sách quan trọng tại Mỹ là giải sách quốc gia năm 2016 và giải Pulitzer năm 2017. Nhìn hình tác giả ở bìa sách cũng nghệ sĩ lắm: tóc dài tết lọn nhỏ kiểu người Châu Phi họ hay tết ý. Ngắn gọn lại là quyển này hay. Không phải tự dưng mà nó lại được 2 giải thưởng sách quan trọng đâu.   Mời các bạn đón đọc Tuyến Hỏa Xa Ngầm của tác giả Colson Whitehead & Nguyễn Bích Lan (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Kẻ Tử Đạo Cuối Cùng
Đây là một câu chuyện hoàn toàn hư cấu, gần như không tưởng, không thể tồn tại trong cõi đời này. Thế nhưng có một câu chuyện tương tự như thế đã từng xảy ra trong xã hội loài người ngót một trăm năm nay, có thể kể từ năm 1917, khi Lênin tiến hành cái gọi là "Cách mạng Tháng mười Nga", lập nên nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Xô-viết. Cuộc cách mạng ấy cũng đã bắt đầu bằng một chủ nghĩa hoàn toàn hư cấu, không tưởng và không thể thực hiện được. Tuy vậy nó đã thắng lợi, đã giành được chính quyền, và trong suốt gần một thế kỷ, nó đã chia đôi nhân loại thành hai thế giới mà nó là kẻ thống trị cái phần thế giới man rợ nhất, quái đản nhất và cũng khốc liệt nhất, cho đến ngày 26/12/1991 khi Liên Xô tan rã. Giờ đây, không còn ai tin vào cái "cuộc cách mạng" hoang đường ấy, kể cả Việt Nam, nhưng tàn dư của nó vẫn còn thống trị một góc tối của hành tinh chúng ta như một thứ chất thải độc hại chưa thể tẩy sạch hết. Câu chuyện giả tưởng này cũng thế. Nó bắt đầu bằng một truyền thuyết hoang đường về một đạo cô xinh đẹp, nhiều phép lạ, nhưng đã có những trí thức, những nghệ sỹ, những chàng trai ưu tú… tôn thờ, ca ngợi và sẵn sàng chết vì nhân vật huyền thoại ấy.  Và cũng có những cuộc trả thù man rợ nhất của bọn cuồng tín để giành quyền độc tôn. Đó là cuộc quyết đấu điên rồ, cuộc tương tàn ngu xuẩn, mà cho đến ngày nay vẫn còn tiếp diễn. ĐÀO HIẾU *** Đào Hiếu (sinh năm 1946), tên khai sinh: Đào Chí Hiếu. Các bút danh khác: Biển Hồ, Đào Duy. Hiện ông là hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Đào Hiếu, sinh ngày 10 tháng 2 năm 1946 tại Tây Sơn, tỉnh Bình Định. Ông sớm gia nhập phong trào sinh viên cách mạng tại Quy Nhơn. Năm 1968 ông gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Năm 1970 ông bị bắt quân dịch và trở thành binh nhì sư đoàn 22 Quân lực Việt Nam Cộng hoà. Sau sáu tháng, ông trốn vào Sài Gòn bắt liên lạc với Tổng hội sinh viên hoc sinh để tiếp tục hoạt động chống Mỹ đến ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ông tốt nghiệp cử nhân văn chương trước 1975 tại Sài Gòn. Từng làm phóng viên báo Tuổi Trẻ và Nhà xuất bản Trẻ. Hiện Đào Hiếu sống và viết tại TP. Hồ Chí Minh. Truyện dài Giữa cơn lốc, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1978. Một chuyến đi xa, Nhà xuất bản Măng Non, 1984, nxb Trẻ 1994. Qua sông, Nhà xuất bản Văn Nghệ, 1986. Vùng biển mất tích, Nhà xuất bản Đồng Nai 1987. Vượt biển, Nhà xuất bản Trẻ 1988, 1995. Vua Mèo, Nhà xuất bản Trẻ 1989. Người tình cũ, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1989. Kẻ tử đạo cuối cùng, Nhà xuất bản Trẻ 1989. Thung lũng ảo vọng, Nhà xuất bản Trẻ 1989. Hoa dại lang thang, Nhà xuất bản Văn Học 1990. Trong vòng tay người khác, Nhà xuất bản Tác phẩm Mới 1990. Kỷ niệm đàn bà, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1990. Nổi loạn, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn 1993. Lạc Đường (tự truyện), Nhà xuất bản Giấy Vụn 2008, Nhà xuất bản Kim Thư Production USA 2008. Tuyển tập Đào Hiếu (tập 1 và tập 2) Nhà xuất bản Kim Thư Production USA 12. 2009. Mạt lộ, Nhà xuất bản Lề Bên Trái (tự xuất bản)[1], 03. 2009. Truyện ngắn và tạp văn Bầy chim sẻ, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1982. Những bông hồng muộn, Nhà xuất bản Trẻ 1999. Tình địch, Nhà xuất bản Trẻ 2003. Thơ Đường phố và thềm nhà, Nhà xuất bản Trẻ 2004. Mời các bạn đón đọc Kẻ Tử Đạo Cuối Cùng của tác giả Đào Hiếu.
Hoa Dại Lang Thang
Cuối năm 1976, có lần tôi cùng một số văn nghệ sĩ trẻ khác, được ông Võ Văn Kiệt, bí thư thành uỷ TP Hồ Chí Minh, mời lên một chiếc du thuyền nhỏ đi ra huyện Duyên Hải (Cần Giờ). Chính tại cái vùng đồng chua nước mặn này, tôi đã gặp một anh bí thư xã cũng trẻ như tôi hồi đó. Tuy chỉ trò chuyện với anh chừng một tiếng đồng hồ, nhưng tôi thật sự kinh ngạc khi nhận ra rằng mình đã gặp một existentialiste, một anh chàng hiện sinh chính hiệu, trơ trụi như bụi cây đơn độc giữa bưng biền. Từ giây phút ấy, tôi biết rằng anh bí thư xã này sẽ là  nhân vật chính trong một tác phẩm mà sau này nhà xuất bản Văn Học đã ấn hành với nhan đề HOA DẠI LANG THANG. Năm 2008 tác phẩm này được chọn in trong "Tuyển Tập Đào Hiếu - Tập 2" do Kim Thư Production ấn hành tại Hoa Kỳ. ĐÀO HIẾU *** Đào Hiếu (sinh năm 1946), tên khai sinh: Đào Chí Hiếu. Các bút danh khác: Biển Hồ, Đào Duy. Hiện ông là hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Đào Hiếu, sinh ngày 10 tháng 2 năm 1946 tại Tây Sơn, tỉnh Bình Định. Ông sớm gia nhập phong trào sinh viên cách mạng tại Quy Nhơn. Năm 1968 ông gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Năm 1970 ông bị bắt quân dịch và trở thành binh nhì sư đoàn 22 Quân lực Việt Nam Cộng hoà. Sau sáu tháng, ông trốn vào Sài Gòn bắt liên lạc với Tổng hội sinh viên hoc sinh để tiếp tục hoạt động chống Mỹ đến ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ông tốt nghiệp cử nhân văn chương trước 1975 tại Sài Gòn. Từng làm phóng viên báo Tuổi Trẻ và Nhà xuất bản Trẻ. Hiện Đào Hiếu sống và viết tại TP. Hồ Chí Minh. Truyện dài Giữa cơn lốc, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1978. Một chuyến đi xa, Nhà xuất bản Măng Non, 1984, nxb Trẻ 1994. Qua sông, Nhà xuất bản Văn Nghệ, 1986. Vùng biển mất tích, Nhà xuất bản Đồng Nai 1987. Vượt biển, Nhà xuất bản Trẻ 1988, 1995. Vua Mèo, Nhà xuất bản Trẻ 1989. Người tình cũ, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1989. Kẻ tử đạo cuối cùng, Nhà xuất bản Trẻ 1989. Thung lũng ảo vọng, Nhà xuất bản Trẻ 1989. Hoa dại lang thang, Nhà xuất bản Văn Học 1990. Trong vòng tay người khác, Nhà xuất bản Tác phẩm Mới 1990. Kỷ niệm đàn bà, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1990. Nổi loạn, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn 1993. Lạc Đường (tự truyện), Nhà xuất bản Giấy Vụn 2008, Nhà xuất bản Kim Thư Production USA 2008. Tuyển tập Đào Hiếu (tập 1 và tập 2) Nhà xuất bản Kim Thư Production USA 12. 2009. Mạt lộ, Nhà xuất bản Lề Bên Trái (tự xuất bản)[1], 03. 2009. Truyện ngắn và tạp văn Bầy chim sẻ, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1982. Những bông hồng muộn, Nhà xuất bản Trẻ 1999. Tình địch, Nhà xuất bản Trẻ 2003. Thơ Đường phố và thềm nhà, Nhà xuất bản Trẻ 2004. Mời các bạn đón đọc Hoa Dại Lang Thang của tác giả Đào Hiếu.
Chị Đào Chị Lý
Đây là một tác phẩm không quá bi kịch hay nổi bật so với nhiều tác phẩm khác. Nhưng câu chuyện toát lên một vẻ rất riêng. Một bà Ngọc tao nhã nhưng u buồn, một cô Đào vui vẻ, xởi lởi, một cậu Khánh điển trai, trí thức, một cô Lý nhạy cảm, dịu dàng và nhiều nhiều nhân vật mang màu sắc sinh động vô cùng. Tính triết lí trong truyện nói lên hệ luật nhân-quả, những gì mà bất cứ ai, ở bất cứ thời điểm nào cũng đều sẽ hành động như thế, cũng đều sẽ cảm nhận những hỉ nộ ái ố mà nhân vật trong truyện. Có lẽ “Chị Đào chị Lý” của Hồ Biểu Chánh là một trong số những truyện hiếm hoi mà tác giả viết màu sắc khá sinh động, không quá buồn như các tác phẩm khác và cũng không quá mang tính hài hước, một tác phẩm khá bình dị và mộc mạc về người Nam Bộ. Truyện là một chuỗi những sắc thái khác nhau của các nhân vật: bà Ngọc, cô Đào, cô Lý…Truyện là một bài học về cách đối nhân xử thế và để chúng ta hiểu thêm rằng “Gieo nhân nào, gặp quả nấy” vẫn là quy luật muôn đời. *** Có buồn rồi mới có được vui; có cực rồi, mới biết sướng. Bà Ngọc trải qua những nỗi buồn rầu cực khổ. Từ đây bà mới vui sướng mà sống với cảnh đời thân ái giữa con trai con gái với dâu rể hòa thuận một nhà. Có một điều làm cho người không hiểu tâm sự của con rể bà, họ có hơi thắc mắc, là Khánh kêu vợ là chị Đào mà Hoài cũng kêu vợ là chị Lý. Ai muốn hiểu sao tự ý, bà Ngọc cứ vui cười tối ngày." Hồ Biểu Chánh tên thật là Hồ Văn Trung, là một trong những nhà văn tiêu biểu nhất của Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900 - 1930. Tiểu thuyết của ông bao quát những mảng hiện thực, những nét văn hóa đặc trưng của Nam bộ vào những thập niên đầu thế kỷ 20. Đó là sự tha hóa của con người trước sự lớn lên vùn vụt của đầu óc trọng thương, là số phận đáng thương của những thường dân rơi vào cảnh cùng quẫn, là những câu chuyện thế sự giàu chất nhân văn của những con người trên vùng đất mới... Lối viết bình dị, ngôn ngữ gần với lời nói thường ngày là một ưu thế khiến tác phẩm của Hồ Biểu Chánh chiếm được cảm tình đặc biệt của người dân Nam Bộ. *** Thường nghe người ta nói "vật hoán tinh di, tang điền thương hải" 1 : mấy lời ấy thiệt không sai. Khúc đường từ chợ Thị Nghè sang chợ Bà Chiểu mới có mấy năm nay mà nó nổi danh xóm Hàng Sanh rộn rực tưng bừng. Quang cảnh đìu hiu ngày trước đã biến thành quang cảnh náo nhiệt không thua gì Phú Nhuận, Hòa Hưng, Vườn Lài hay Xóm Chiếu. Hai bên đường nhà phố cất liên tiếp giáp hết không còn chỗ trống mà chen vô ở được nữa. Tối ngày thiên hạ qua lại dập dìu, lại thêm đủ thứ xe tranh nhau chạy rần rần không ngớt. Đến đây ai cũng nhớ cách lối ba mươi năm về trước những người giàu có với những khách tầm hoa, chiều chiều hay mướn xe cyclo đi hứng gió. Hễ đi vòng chợ Bà Chiểu mà qua khỏi chợ Thị Nghè, thì từ mũi tàu, là chỗ sở Trường Tiền dượt thi đặng phát giấy phép lái xe hơi, vòng qua tới Cầu Mới, là ranh Châu Thành Bà Chiểu, hai bên đường đều là ruộng rẫy sình lầy, quang cảnh vắng vẻ im lìm, giống như quang cảnh thôn quê đồng bái. Nếu ở Thị Nghè mà ngó thẳng xuồng cầu kinh Thanh Đa thì thấy mấy đám dừa nước xơ rơ, gió chiều thổi tàu lá xổng lên rồi oặt xuống như chào khách nhàn du, lại có mấy cây bần rạch đứng chần ngần theo mé xẻo 2 , dưới gốc lác mọc bao chung quanh như lác trìu mến không nở bỏ bần, còn bần như tiếc nước ròng nên đứng ngóng trông nước mau lớn lại. Xóm bây giờ người ta gọi là xóm Hàng Sanh đó thì ngày trước chỉ có vài ba cái chòi lá nhỏ, lại nằm cách xa nhau, có lẽ chủ cố ý giấu kín đời sống nghèo khổ của mình nên không chịu ở gần nhau, tránh cho khuất mắt dòm ngó của thiên hạ. Cái chòi dựa bên đuờng; gần ngã ba quanh qua Bà Chiểu tuy có một căn lúm túm, song coi cao ráo sạch sẽ hơn mấy cái ngoài xa kia. Trước chòi có cái sân nhỏ trồng rau dừa 3 hai bên, trổ bông đủ bốn mùa, bông trắng chen với bông đỏ, coi có vẻ vui vui một chút. Bên hè có cây đu đủ ngọn lên cao gần ngang đầu song, cổ có tới vài chục trái, dưới lớn bằng cái chén ăn cơm, trên nhỏ như trái cau ăn trầu, chủ nhà bữa nào cũng thăm chừng, chồng trông mau chín mà ăn, vợ tính để dành mà bán. Chòi nầy là chòi của anh Lê Văn Thái, cất với vợ là Nguyễn Thị Hòa hơn ba năm rồi, phía trong có lót cái chõng để vợ chồng ngủ, có bếp để nấu cơm ăn và có một cặp thúng một đôi gióng và một đôi quang gánh, để cho chị Hòa mỗi ngày đi kiếm mua thơm, mít, ổi, gánh ra chợ bán. Phía ngoài một bên có lót một bộ ván dầu 4 nhỏ để nằm chơi, còn một bên để bàn lóc nhóc, với hai cái ghế đẩu để có ai tới thì mời ngồi nói chuyện. Cái chòi như vậy mà vợ chồng anh Thái hãnh diện, nói chuyện với ai anh cũng khoe "nhà của tôi". Mà vợ chồng anh khoe cũng phải, chòi dầu lớn dầu nhỏ, dầu tốt dầu xấu, không phải cướp giựt của ai, cũng đủ cho vợ chồng ảnh đụt nắng đụt mưa mấy năm rồi, cũng là cái tổ êm ấm cho vợ chồng ảnh hẩm hút giữa thân yêu hòa thuận. Anh Thái làm bên sở Ba Son. Vì anh không phải là thợ chuyên môn về nghề nào hết, nên không lãnh tiền công theo thầy hay thợ đuợc. Anh biết chữ Việt rành. Anh viết chữ tốt, lại biết nói tiếng Pháp cột quẹt. Người ta mới giao cho anh phát thẻ cho thợ thuyền, kiểm điểm số công nhân đi làm mỗi buổi đặng biên rồi giao cho xếp rồi xớ rớ coi dọn dẹp nhà giấy vậy thôi. Công việc của anh làm thì nhẹ nhàng, khoẻ khoắn, nhưng tại như vậy người ta cho anh lãnh tiền công có 9 cắc một ngày mà chúa nhựt nghỉ thì không được ăn tiền. Anh cực có một việc là mỗi buổi anh phải có mặt trước giờ sở mở cửa và mãn giờ anh phải chờ thợ thuyền ra hết rồi anh sẽ về sau. May anh là người biết lo, lại anh nhờ có chiếc xe máy cũ cỡi đi làm, bởi vậy không bao giờ anh đi trễ. Còn chị Hòa là vợ anh thì chị bãi buôi nhậm lẹ, chị giỏi nghề mua bán, tay bằng miệng miệng bằng tay. Hễ xế chồng đi làm rồi thì chị khóa cửa quảy thúng đi mua trái cây gánh về để sáng đem ra chợ Thị Nghè ngồi bán, kiếm lời mỗi bữa 5-7 cắc hoặc 1 đồng phụ với chồng mà sống cho no ấm. Vợ chồng đồng tâm hiệp ý sống với nhau trót ba năm trong cảnh đời tuy không phải trưởng giả song luôn no ấm an vui. Thời may chị Hòa có thai, vợ chồng đều mừng, mừng vì có dấu tích về tình yêu của vợ chồng khắng khít. Tuy nhiên mà rồi lại phải lo, lo dành cho có sẵn một số tiền để cho vợ ăn đẻ. Chị Hòa lại lo hễ có con thì chị mắc nuôi con, làm sao đi mua bán mà kiếm tiền thêm. Thái lo tiện tặn đến nỗi khuya ăn cơm nguội hoặc mua xôi hay bắp ăn đi làm, chớ không dám ngồi quán ăn hủ tiếu uống cà phê như trước nữa. Chiều cũng vậy, hễ làm việc mãn giờ thì tuốt về nhà ăn cơm, chớ không dám ta bà ăn nhậu với chúng bạn. Đến chừng chuyển bụng, may có anh Thái ở nhà anh đưa vợ vào nhà bảo sanh Thị Nghè mà nằm. Chị sanh một đứa con gái mạnh mẽ. Mới được một đứa con đầu lòng, dầu gái hay trai không cần, vợ chồng đều mừng rỡ, đặt cho con tên Đào, là tên một trái quí. Nhờ vợ chồng lo trước, nên chị Hòa đi sanh trong túi có sẵn 40 đồng bạc, khỏi bối rối chi hết, nhà nghèo nếu sanh mạnh giỏi thì nằm ba bốn bữa rồi thường người ta bồng con về. Tuy Hòa khoẻ khoắn, ăn cơm biết ngon, đủ sữa cho em bú, Thái muốn vợ nằm lâu cho có người săn sóc lại cô mụ cũng nài ép nằm cho đủ tám bữa, em rụng rún rồi sẽ về lại càng tốt hơn, bởi vậy Hòa ráng nằm cho đủ 6 bữa đi đứng cứng cát rồi chị cứ đòi về nhà nằm cho thong thả và lo cơm nước cho chồng. Thái phải chiều theo ý vợ mà thiệt anh cũng muốn vợ con về nhà đặng sum hiệp cho vui. Anh mới đóng tiền nhà thương và đền ơn cô mụ rồi kêu xe kéo rước vợ con về, trong túi còn được 9, 10 đồng bạc lại còn 6 bữa nữa tới kỳ lãnh tiền nên không lo gì lắm. Trót một tuần đầu vợ chồng vui vẻ cực điểm. Thái đi làm về hễ thấy con thức thì giành với vợ đặng bồng mà nựng nịu; còn nếu con ngủ thì đứng chống tay mà nhìn, thấy vợ còn non ngày anh không cho làm việc chi hết, mỗi bữa đi làm về anh ghé chợ mua thịt cá hoặc khô mắm đem về rồi phụ kho nấu đặng vợ chồng ăn với nhau. Mắc mừng vui với đứa con nằm ngoa ngoe, ngủ thì mụ bà dạy cười, thức thì huơi tay chòi cẳng, vợ chồng say sưa hạnh phúc, quên hết cảnh hẩm hiu, bần hàn. Vui được chừng mươi bữa, rồi không hiểu tại sao mà chị Hoà ăn cơm không biết ngon, lại còn thêm chứng nóng lạnh. Thái mua thuốc hoàn thuốc tán cho vợ uống mấy bữa không thấy công hiệu chút nào. Anh biểu vợ phải bồng em ra tiệm thuốc cho thầy coi mạch đặng hốt thuốc thang mà uống. Chị Hòa nói sợ tốn tiền nên nói đau sơ sịa ít bữa rồi mạnh, cần gì phải uống thuốc. Đã không có thuốc bổ để tiếp dưỡng sức khoẻ lại thêm nóng lạnh, miệng đắng nên mỗi bữa ráng lắm mới ăn được một chén cơm mà thôi, tự nhiên chị Hòa phải ốm, nước da phải mét. Mà đàn bà cho con bú hễ thiếu sức khoẻ thì sữa phải giảm. Sữa của Hòa lại giảm nhiều. Con nhỏ sanh tuy mới 20 ngày, nhưng không có đủ sữa cho nó bú nên ban đêm nó thức khóc hoài, làm cho Hòa phải bồng nó ngồi mà dỗ. Thái thấy vợ bịnh mà nghỉ không được nên mặc dầu không có tiền nhiều, đến chúa nhựt anh ép vợ bồng con đi với anh ra tiệm thuốc đặng thầy coi mạch hốt thuốc thang cho vợ uống. Uống liên tiếp ba bốn thang mà bịnh vẫn còn bịnh. Anh Thái đem toa ra than phiền với ông thầy thuốc. Ông đổi toa mới và uống luôn ba thang nữa, bịnh cũng trơ trơ, trưa cũng en en lạnh trùm mền rồi nóng ăn cơm không biết ngon, không đủ sữa con bú. Mỗi buổi đi làm về, Thái thấy vợ đau rề rề con khóc nhề nhệ, anh châu mày nhăn mặt, đi vo gạo nấu cơm, mà bận lòng rối trí muốn điên. Trong túi còn có mấy đồng bạc, nhưng ăn cơm rồi anh tuốt ra chợ mua một hộp sữa bò, một cái ve với cái núm vú rồi đem về khuấy sữa đổ vô ve cho con bú. Con nhỏ khát sữa nên nó chầm bú no bụng rồi nằm êm mà ngủ. Thái khuấy luôn một chén nữa rồi bưng ra ép vợ uống, anh ta nói ăn cơm không được thì uống sữa nó bổ cũng như cơm. Mời các bạn đón đọc Chị Đào Chị Lý của tác giả Hồ Biểu Chánh.
George Sand
Dịch giả : Đặng thị Hạnh và Lê Hồng Sâm Dịch nguyên bản tiếng Pháp George Sand   Cuốn sách này xuất bản trong khuôn khổ «  Chương trình hợp tác xuất bản, đưọc sự giúp đỡ của Trung tâm Văn hóa và Hợp tác Đại sứ quán Pháp tại nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ nghĩa Việt Nam (Cet ouvrage, publié dans le cadre du Progamme de participation à la publication, bénéficie du soutien du Centre Culturel et de Coopération de l’Ambassade de France en République Socialiste du Vietnam) Béatrice Didier là một giáo sư trường Đại học Sư phạm ( Phố Uhm, Paris) ; tác giả của nhiều tiểu luận ( Nhật ký thầm kín, văn viết - phụ nữ… ) về văn học Pháp thế kỷ XVII và thế kỷ XIX, đặc biệt về Stendhal và George Sand. Năm 1998 bà đã xuất bản ở PUF một tác phẩm, đầu đề lấy nguồn cảm hứng từ Flaubert : George Sand. Một giòng sông lớn châu Mỹ. bà là người chủ trì việc xuất bản toàn tập George Sand ở Honoré Champion, một công việc từ trước tới nay chưa bao giờ được thực hiện. George Sand «Với tư cách người sáng tạo ra kiệt tác, bà là người thứ nhất trong giới phụ nữ, bà có thứ hạng độc nhất đó, trên phương diện nghệ thuật, không phải chỉ của thời đại chúng ta mà của mọi thời đại; bà có trí tuệ mạnh mẽ nhất và cũng đáng yêu nhất đã được trao tặng cho giới của bà. Thưa Bà, bà làm vẻ vang cho thế kỷ và cho đất nước chúng ta […] Tôi xin cảm tạ bà vì đã là một tâm hồn lớn lao đến thế”. VICTOR HUGO, Thư gửi George Sand, Paris 19 tháng sáu năm 1875 ° ° ° Beatrice Didier là giáo sư trường Đại học Sư phạm (phố Uhm, Paris); tác giả của nhiều tiểu luận (Nhật ký thầm kín, Văn viết - phụ nữ...) về văn học Pháp thế kỷ XVII và thế kỷ XIX, đặc biệt về Stendhal và George Sand. Năm 1998 bà đã xuất bản ở PUF một tác phẩm, đầu đề lấy nguồn cảm hứng từ Flaubert: George Sand. Một giòng sông lớn châu Mỹ. Bà là người chủ trì việc xuất bản toàn tập George Sand ở Honoré Champion, một công việc từ trước tới nay chưa bao giờ được thực hiện.   Mở đầu Ai sợ George Sand ? Các phản ứng khó thương của một Baudelaire có lẽ là bắng chứng rõ ràng nhất về nỗi lo âu do bà gây nên. Trong một thời gian dài người phụ nữ - tác giả đã khiến người ta sợ, đặc biệt nếu người ấy chẳng chịu thôi làm phụ nữ. Ngay từ đầu vinh quang của bà đã có vầng hào quang tai tiếng bao quanh.  Điều này có vẻ đáng ngạc nhiên, bởi rốt cuộc thì trong thế kỷ XVIII của chúng ta, đông đảo nữ văn sĩ từng có tình nhân ; nhưng giữa thời gian ấy đã diễn ra cuộc Cách mạng, rất ít chú ý đến nữ quyền, cần phải thừa nhận như vậy : sau đó nền Đế chế, thời Trùng Hưng và triều đại Louis –Philippe biểu thị bước thoái bộ rất rõ trong việc giải phóng phụ nữ. Và dư luận công chúng, ở thế kỷ XIX, với sự phát triển của báo chí, các phương tiện trung gian để làm rùm beng vụ tai tiếng, những phương tiện mà thế kỷ trước không có. Trong một thời gian dài nền phê bình văn học, chịu ảnh hưởng của dư luận này, cứ khăng khăng thấy George Sand là người tình của Musset hay của Chopin, thay vì thấy bà là một đại văn hào, như chúng ta hiện nay. Điều đó lý giải tình trạng tương đối thất sủng của sáng tác George Sand. Tuy nhiên, sinh thời bà, một Balzac, một Flaubert và nhiều bậc khác coi bà là đồng đẳng với mình. Tại nước ngoài ảnh hưởng của bà hết sức lớn lao, thí dụ như với Dostoievski và với tiểu thuyết Nga, cả với tiểu thuyết Ý. Bà từng được việndẫn bởi tất cả những phụ nữ nhìn thấy ở bà một ngưòi giải phóng. Trong những năm đầu thế kỷ XX, Alaine và đặc biệt Marcel Proust coi bà là một đại văn hào. Sau đó, nhờ nhiều công trình từng in dấu ở nửa sau thế kỷ, hình ảnh của George Sand và công trình của bà đã định hình rõ rệt. Trước hết chúng ta hãy tỏ bày niềm kính trọng đối với việc xuất bản Thư Tín do Georges Lubin phụ trách, gồm hai mươi sáu tập dày, cho phép chúng ta xem xét cuộc sống của George Sand ngày này qua ngày khác, cuộc sống khác hẳn với những sự đơn giản hóa mà bà là nạn nhân, cho ta thấy khả năng làm việc khó tin nổi và theo dỏi công việc sáng tác của bà trong những nét lớn. Chúng ta cũng lưu ý cả nỗ lực đã được thực hiện trong lĩnh vực xuất bản, tuy vẫn còn chưa đủ. Cho đến nay chưa nhà xuất bản nào ấn hành một bộ tổng tập : Honoré Champion là nhà xuất bản đầu tiên khởi sự công trình này, sẽ phải được tiến hành trong nhiều năm. Các trường đại học đã đi vào nghiên cứu văn hào một cách nghiêm túc : trường Đại học Grenoble, với các công trình của..Cellier và L.Guichard, được học trò của các ông tiếp nối, trường Đại học Vérone, với A. Poli, các trường Đại học Paris VII, Amsterdam, Hanovra, các trường Đại học Mỹ … Tuy vậy vẫn còn rất nhiều việc cần làm.   Tiểu thuyết của George Sand, được viết với sự dung dị mà người ta thường chê trách bà, dễ đọc ; tuy nhiên nắm bắt toàn thể công trình của bà lại khó, trước hết do tầm rộng lớn của nó. Rất hiếm người có thể tự phụ là đã đọc chín mươi cuốn tiểu thuyết, các tác phẩm tự thuật, kịch, các bài báo, thư từ trao đổi của bà : giá như muốm làm, phải bỏ vào đó cả cuộc đời. Cho nên người ta thích tái bản những gì tất cả mọi người đều biết, thí dụ như các tiểu thuyết gọi là « đồng nội », và bỏ qua phần kịch, bị đánh giá nhầm lẫn là khó diễn. Tự giới hạn ở vài hình ảnh về George Sand do các thế hệ trước truyền lại thì dễ hơn: người đàn bà định mệnh, rồi « bà phu nhân hiền hậu của Nohant ». Trong chừng mực bà từng gây ra và còn đang gây ra những cách lý giải say sưa sôi nổi, lại cũng khó có được một cái nhìn tương đối khách quan và đừng phóng chiếu lên bà các sơ đồ của thế kỷ XXI chúng ta. George Sand nhà đấu tranh vì phụ nữ ư ? Một số người sẽ cho rằng bà đấu tranh chưa đủ. Sáp nhập bà với các nhà đấu tranh vì phụ nữ những năm 1970 là một việc làm nguy hiểm : sự giải phóng phụ nữ mà bà yêu cầu xét cho cùng khá hạn chế, khi sẵn sàng chấp nhận là những người phụ nữ thuộc mọi đẳng cấp xã hội không có cùng một phận vị. Nhưng cần đặt cuộc đấu tranh của bà vào thời đại bà, chứ không phải thời đại chúng ta. Georges Sand xã hội chủ nghĩa, bạn của Pierre Leroux, ủng hộ 1848, thậm chí tham gia hoạt động trong đó ? Nhưng người ta sẽ thấy chủ nghĩa xã hội ấy là rụt rè, người ta sẽ chê trách thái độ của bà trong thời kỳ Công xã. Cả ở đây nữa, cũng cần xác lập lại các viễn cảnh : năm 1848 và năm 1871 tuổi bà đã khác đi: bà đã sống ngày này qua ngày khác những biến cố mà chúng ta biết một cách tổng quát và theo phương pháp quy nạp, đối với những biến cố đó chúng ta có thể có một cách nhìn khác với những người đương thời. Một điều cũng gây khó nghĩ, đó là trong cuộc sống thọ của bà, George Sand đã tự đổi mới, đã ứng dụng những thể loại rất khác biệt và thật khó đưa bà vào các phạm trù đã định giới hạn. Bà từng được một công chúng hết sức rộng rãi đọc trong suốt thế kỷ XIX. Bà có là nhà sáng tạo những hình thức mới hay không ? Nhiều hơn người ta nghĩ. Bà có quan tâm đến bút pháp, hay như người ta từng khẳng định, bà viết những gì lướt qua óc mình ? Việc nghiên cứu các bản thảo chứng tỏ rằng, dù không chữa kỹ lưỡng như một Flaubert, song bà dụng công, chỉnh sửa, nâng cao, hơn người ta thường bảo rất nhiều. Các bạn đã đọc George Sand chưa? Cuốn sách nhỏ này muốn xui bạn hãy làm điều đó và đặc biệt là hãy phiêu lưu ngay (nếu việc đọc toàn bộ hầu như bất khả thực hiện) đến với những tác phẩm ít nổi tiếng hơn. Như thế bạn sẽ có được một khái niệm về sự phong phú, về tính đa dạng, về chất quảng đại trong văn chương của người được Flaubert ví với “một dòng sông lớn châu Mỹ”. Chú ý đến tác phẩm hơn là cuộc đời, chúng tôi sẽ theo trật tự thời gian trên những nét lớn, nhưng đồng thời có những tập hợp về thể loại để giúp nắm bắt đồng thời cả tính phức hợp cả sự nhất quán của công trình.   *** George Sand ưa nhấn mạnh sự kiện là do chính nguồn gốc gia đình mà bà thuộc về hai giới hết sức khác biệt. Giới quý tộc về bên nội, giới bình dân về bên ngoại. Vào thời kỳ hậu – cách mạng mà người ta mơ hòa giải xã hội, bà thấy nguồn gốc của mình như một biểu trưng cho sự liên kết các cực, cho phép bà thừa kế mọi tiềm năng của một  dân tộc. Amandine – Aurore – Lucile Dupin sinh ngày 12 tháng Messidor năm XII (1 tháng Bảy năm 1840) ở số nhà 15 (ngày nay là nhà số 46) phố Meslée hay Meslay, tại Paris.  Về bên nội, Aurore là dòng dõi của Maurice de Saxe, vị anh hùng trận Fontenoy và của nhiều chiến thắng khác, sau thành Thống chế nước Pháp. Ông có với Marie Rainteau một con gái ngoài giá thú: đó là bà nội của George Sand; được nuôi dạy tại nữ học hiệu Saint – Cyr, bà kết hôn với Louis Claude Dupin de Francueil, sáu mươi mốt tuổi khi bà hai mười chín, và sống với ông rất hạnh phúc, như sau này bà tâm sự với cháu gái. Xuất thân từ giới đại tài chính, ông qua đời trước Cách Mạng ba năm, để lại cho bà một gia sản khá lớn. năm 1793, bà tậu cơ ngơi Nohant, nhưng có bị giam giữ ít lâu dưới thời Khủng bố. Con trai bà, Maurice Dupin, sinh năm 1778, ước mơ vinh quang trong ngành quân sự và gia nhập đội Cộng Hoà. Anh lập công trong cuộc viễn chinh sang Ý, đặc biệt ở Marengo. Cũng ở bên ý, Maurice gặp Antoinette Sophie – Victoire Delaborde, bấy giờ đang là tình nhân của một chuẩn tướng. Nguồn gốc tầm thường, quá khứ hơi lộn xộn của thiếu phụ khiến Maurice giữ bí mật việc kết hôn tiến hành ngày 5 tháng Sáu năm 1804, một tháng trước khi George Sand tương lai chào đời. Sự nghiệp quân sự của Maurice Dupin tiếp tục cùng Đại quân: các cuộc viễn chinh sang Bavière, sang Phổ, sang Ba Lan và Tây ban Nha (ở đó Maurice là trợ lý cho hoàng thân Murat). Người vợ, lại có mang, sang Tây Ban Nha với chồng cùng cô bé Aurore 4 tuổi. Vậy là George Sand, cũng như Victor Hugo, có tuổi thơ in dấu của bản anh hùng ca Napoléon và của cuộc chiến khủng khiếp tại Tây Ban Nha. Những hình ảnh không thể nào quên đã khắc sâu vào ký ức những đứa trẻ còn rất non nớt về sau sẽ trở thành các đại văn hào lãng mạn chủ nghĩa. Cuối tháng 7 năm 1808, trở về Nohant, tiếp theo là hai biến cố đau thương: tháng 9, em trai George Sand chết, được một tháng tuổi, rồi đến người cha, vì ngã ngựa ở gần La Châtre. (vùng Creusse) Sau này nhà văn sẽ dành một phần lớn trong Truyện đời tôi để kể câu chuyện của cha mẹ, nhất là người cha? Sự hòa hợp các tầng lớp xã hội mà Sand mơ ước, bà đã cảm nhận những khó khăn ngay từ thời thơ ấu, và cảm nhận một cách đau đớn. Bà Daupin de Francueil, muốn đảm trách việc giáo dục cô bé, đã khiến người mẹ từ bỏ quyền giám hộ. George Sand tương lai sống thời thơ ấu ở Nohant, với các cuộc đến thăm ngắn ngủi của mẹ, và những khi bà nội nghỉ đông tại Paris thì cô bé gặp mẹ nhiều hơn. Cô bé thấy mình bị giằng xé giữa hai người thể coi là hai bà mẹ, cô yêu mến cả hai, nhưng cảm nhận được sự thù địch sâu xa giữa họ. Cho nên bộ tự truyện sau này sẽ bị lôi kéo bởi những nẻo đường khác nhau: lý tưởng hóa mối tình của bố mẹ, thiên tình sử bên Ý và sự ra đời của mình (“Ngày hôm ấy mẹ tôi mặc một tấm áo dài đẹp màu hồng, còn cha tôi đang chơi vĩ cầm Crémone của ông”, một truyện thần tiên), nhưng cũng diễn tả cả nỗi đau thực sự sau này của mình và biện hộ cho mẹ về việc hầu như bỏ rơi con, sự bỏ rơi có lẽ do ưu thế kinh tế của bà nội nhiều hơn là do điều mà Sand không thể hình dung nổi như thái độ thờ ơ. George Sand, nhìn chung thường ít gạch xóa bản thảo, để lộ niềm bối rối này qua cách viết đầy khăn khoăn dằn vặt ở những đoạn liên tưởng đến mẹ. Nhà văn cũng muốn, một cách hết sức công bằng, bộc bạch món nợ đối với người bà mà tính cách mạnh mẽ đã in dấu lên mình. Nhờ bà nội; George Sand được biết chế độ cũ, về mặt thời gian hãy còn rất gần, nhưng sự đứt đoạn là Cách mạng đã đột ngột đẩy lùi thật xa vào dĩ vãng. Ngoài ra, Nohant là chốn buông neo đích thực của Sand. Bà sẽ du hành, bà sẽ ở Paris, nhưng giống như Antée, bà luôn cảm thấy cần lấy lại sức mạnh từ mảnh đất của thời thơ ấu nơi mà sau này bà muốn sẽ là chốn yên nghỉ cuối cùng cho mình. Chính từ Nohant mà bà cảm thấy niềm say mê đối với miền quê và chính xác hơn là đối với miền Berry, sẽ là khung cảnh cho nhiều tiểu thuyết của bà. Cũng từ nơi đây mà bà có được sức khoẻ cường tráng ít khi suy giảm. Jean Louis François Deschartres, trước kia là gia sư của người cha, trở thành gia sư cho cô con gái, và sự đào tạo về trí tuệ của Aurore, mặc dù lộn xộn đôi chút, về tổng thể vững vàng hơn sự đào tạo mà đa số các cô gái thời đó được hấp thụ. Thư viện của bà nội, người từng quen biết Jean Jacques Rousseau, có nhiều sách, và cô bé thỏa mãn được niềm đam mê đọc sách sẽ bền vững nơi cô. Bà nội chơi phong cầm và hát; chính nhờ bà mà Sand có được cơ sở của một sự giáo dục về âm nhạc nghiêm chỉnh hơn sự giáo dục của rất nhiều nhà văn lãng mạn. Nhưng trong Truyện đời tôi, bà chú ý nhắc nhở rằng mẹ bà thuộc một gia đình bán chim, rằng con chim như một vật tổ của bà: bà nội, đó là âm nhạc bác học, mẹ, đó là âm nhạc của thiên nhiên, cả âm nhạc dân gian nữa; chúng ta sẽ gặp lâi hai phương diền này của lĩnh vực âm nhạc trong sáng tác của bà, và chúng ta sẽ thấy Consuelo hoà giải các phương diện đó ra sao. Mời các bạn đón đọc George Sand của tác giả Beatrice Didier.