Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Dựa Lưng Nỗi Chết

Dựa lưng nỗi chết là thiên truyện thứ nhì sau Ải trần gian (1970), vẫn lấy đề tài quen thuộc với tác giả là chiến tranh. Tác phẩm gồm 7 chương và một đoạn kết nằm ngoài cấu trúc chung, những lần tái bản ở hải ngoại về sau còn thêm bài tựa của bạn văn Đào Vũ Anh Hùng[2]. Không khí trong truyện là cuộc Chiến tranh Việt Nam đang đà khốc liệt nhất, thế giới trong truyện là thế giới của đàn ông: Người lính, người trí thức trong cơn lửa loạn, người thanh niên bất mãn, nhà tu hành. Cái chết bi thảm của những người bị hệ tư tưởng chia rẽ đưa đến những dấu hỏi về khái niệm thuận nghịch và anh hùng. Rồi trong cảnh chiến tranh tương tàn, đâu là chỗ đứng của một nhà chân tu. Truyện của Phan Nhật Nam được dựng lên trong một không gian gắn thiết thân với tâm trạng của mỗi nhân vật. Sau cùng, thế giới cảm tính của tác giả dần được biểu lộ. Đây là truyện của ba người lính Nhảy Dù. Cả ba tham gia một cuộc hành quân miền Trung đã 78 ngày. Năm hết Tết sắp đến, họ có mặt ở Huế và không ngờ biến cố Mậu Thân sắp ập đến như cơn gió lốc. Minh và Lạc được nghỉ phép hai ngày. Minh về thăm nhà và dự lễ ăn hỏi người chị họ tên Quỳnh Như, anh bèn mời Thuấn lúc đó ở trong trại cùng đến dự cho thân. Quỳnh Như đính hôn với Bằng, nhưng khi gặp Thuấn, cô thốt mê anh đại úy gốc Bắc. Biết rằng rồi đây không còn gặp nhau nữa, Thuấn và Quỳnh Như vội lao vào nhau sống những giờ phút tột đỉnh của yêu đương. Sau đó Thuấn về trại, trong khi Minh ngụ khách sạn chờ Lạc đón vợ con ở Sài Gòn ra ăn Tết. Minh đem được chút nhu yếu phẩm đến cùng ăn Tết với Lạc. Đúng đêm giao thừa, quân miền Bắc tràn vào Huế, khắp đô thành ran súng đạn thay tiếng pháo bông. Minh giúp gia đình Lạc kịp trốn, còn mình sang nhà Quỳnh Như nương tạm. Bằng đã đoán biết tình cảm của Quỳnh Như với Thuấn nên nổi cơn ghen. Anh vốn sinh nhai bằng nghề dạy học, đồng thời sắp hoàn thành chứng chỉ Triết ở Viện Đại học Huế. Bằng chơi rất thân với đại đức Trí Không, người cũng ghi danh học ban Triết. Bằng theo Mặt trận Giải phóng đã được ít lâu, vừa thúc bách vừa đe dọa Trí Không để buộc nhà sư nhận dẫn đầu đoàn sinh viên Phật tử xuống đường biểu tình và xử dụng võ khí làm nội ứng cho bộ đội Việt Cộng. Trong những ngày Mậu Thân sôi sục, Bằng để ý thấy sự hiện diện của Minh và Lạc trong nhà Quỳnh Như. Nom anh thù ghét lính Cộng Hòa ra mặt, Trí Không có linh cảm rằng Bằng sẽ đi cáo giác hai người lính Nhảy Dù bị kẹt ở nội thành này nên tìm cách khuyên can. Cho tới khi biết Bằng rắp tâm hãm hại tới cùng, nhà sư đành ra tay hạ sát anh này, sau đó giúp Minh và gia đình Lạc chạy thoát. Phần Thuấn đem đại đội rút về phi trường Tây Lộc, tại đây xảy ra một trận tử thủ kinh hoàng. Khi Lạc và Minh về lại được tiểu đoàn, cả hai đều bị thương và kiệt sức. Hết chiến dịch, ba người bạn gặp lại nhau trong một bệnh xá Sài Gòn, chuẩn bị cho những ngày sắp tới. *** Dựa lưng nỗi chết của Phan Nhật Nam mang một nét buồn bã khó tả. Ừ, khi đang dựa lưng vào nỗi chết thì làm sao mà vui được. Nỗi buồn của Phan Nhật Nam là nỗi buồn khi nhìn đến cảnh nồi da xáo thịt, cảnh anh em giết nhau: “Nòng súng thượng liên Trung Cộng, tiểu liên Tiệp Khắc, súng báng đỏ của Nga, những cây súng ngoại quốc bắt đầu nhắm chiếc vòng đen sâu hun hút vào đám lính mang giày Nhật nón sắt Mỹ, M16. Những ngón tay Việt Nam chờ đợi trái tim Việt Nam đến gần hơn chút nữa. Chờ nhau hân hoan âm ỉ, chờ thản nhiên lạnh cứng.”   Câu chuyện xoay quanh ba người sĩ quan lính dù trong thời gian của biến cố Tết Mậu Thân ở Huế. Trong truyện còn có Bằng, vừa sống với nghề dạy học vừa theo học các chứng chỉ triết ở đại học. Ở đó Bằng quen với Đại Đức Trí Không cũng ghi tên học triết. Bằng theo Mặt trận giải phóng miền Nam, vừa gây áp lực vừa đe dọa Đại Đức Trí Không để buộc nhà sư nhận điều hành đoàn sinh viên Phật tử và sử dụng vũ khí trong biến cố Tết Mậu Thân. Truyện của Phan Nhật Nam không tô hồng, không anh hùng hóa như chính tác giả đã viết ở phần cuối: “Chỉ là câu chuyện giản dị của những người lính trong một thời gian dồn dập… Chuyện bình thường, phẳng phiu, không là bản anh hùng ca rực rỡ uy dũng, cũng không đậm nét bi thương làm đọng cứng linh hồn.”. Đọc Dựa lưng nỗi chết không thấy ánh hào nhoáng vinh quang, nó chỉ ghi lại cuộc sống đời thường của những người lính dù với những lo toan hết sức bình dân giản dị, với những buổi nhậu để mua vui hay để nhấn chìm nỗi buồn vào trong đó. Tôi thấy chính giá trị của tác phẩm này là ở đó, để những thế hệ sau này muốn biến đời lính thật sự ra sao, muốn cảm nhận cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn nó cay đắng tàn bạo đến mức nào. Các bạn hãy đọc đi, để hiểu thêm quá khứ một chút, một quá khứ chân thực, giản dị, không tô hồng. Nhưng chính vì vậy mà đó mới là sự thật. *** Tháng Mười, tháng của chuyển động hoài hoài giữa hai điểm ngất ngây đớn đau và hạnh phúc. Tháng của những lạnh tanh bất chợt cứng ngắc và nồng nhiệt tràn đầy thác đổ. Tháng của đỉnh cao và vực sâu. Tháng tiếng động núi lở và im lặng đáy biển. Năm tháng căng thẳng giữa hai điểm không cùng. Làm sao để sống? Giữa những buồn phiền tanh tưởi độc địa, người muốn tan đi theo cơn gió rã rời, trôi vào lượn sóng nhạt thếch vô tri… Bỗng nhiên xôn xao những ý tình rực rỡ, bỗng choáng váng giữa niềm tin chói sáng, như mặt trời khởi đầu những ngày hè ở cực Bắc… Sống thật khó. Khó những ngày lặng lẽ rơi xuống, sáng trưa chiều trôi đi như lá khô, lặng lẽ đốt thêm điếu thuốc, xòe bàn tay, tay nhiều chỉ, tay nát bấy. Chiến tranh sắp chấm dứt và bàn tay chiến đấu cũng đã mỏi mệt. Xếp hai bàn tay, mở hai ngón, kẹp lấy điếu thuốc, thở ra lớp khói tàn tạ. Nhưng tháng Mười không hoàn toàn như thế. Tháng Mười, đêm thức giấc mở đôi mắt chợt xoay người để thấy một tình yêu thần bí hiện rõ từng đường nét khối lượng. Một tình yêu có thật cho người. Nhưng tháng Mười trong lòng hạnh phúc vẫn có những đớn đau câm lặng không ngừng nghỉ – phút rình rập của định mệnh độc ác… Gần cái chết và hạnh phúc, thấy rõ thêm niềm phấn đấu để sống. *** Thuấn lái xe dọc theo con phố. Chiều thứ Bảy, người đông kín. Chiều thứ Bảy, thật lâu Thuấn không biết đến loại thời gian này. Thứ Bảy, Chủ nhật, thứ Hai, những ngày tháng phân biệt đó trôi đi không gợi lên sự chú ý. Sự nghỉ ngơi chỉ có được lúc đêm khuya, khi đại đội đã trả súng vào kho, lính đi ra cổng doanh trại để nghỉ phép sau cuộc hành quân… Nghỉ ngơi – Thuấn thật sự không có. Chỉ có những giờ ngồi trước ly rượu bên con sông, nhìn xuống khoảng sông đào chen chúc thuyền đậu. Những con đò xứ Huế, nặng nề, bề thế, chắc chắn cùng thú vui đẫm ướt dục tình được mở ra thoả thuê trong đêm. Thuấn, người lạ ở xa đến, người Bắc, quê hương xa khuất ở cuối trí nhớ, quê hương trên bát bún thang, chiếc ảnh hồ Hoàn Kiếm, cây cầu gỗ chênh vênh trên mặt nước lung linh vòng cây phượng. Quê hương được nhớ lại ở trang sách bất chợt trong đó nhắc đến dáng dấp của lão Tàu bán lạc rang, mụ Béo bán bánh tôm ở bờ hồ… Những hình ảnh thoáng qua như ngọn lửa đầu que diêm yếu ớt. Thuấn không nhớ nổi. Quê hương, một chốn không còn. Thuấn từ Sài Gòn đến đây theo chiến dịch, nửa đất nước đi qua, đi và đến từ hai tỉnh đối đầu của quê hương bị cắt. Thuấn đã khởi hành và đến hai cực điểm của một đau đớn vô hình. Huế, thành phố không giống một nơi nào đã đi qua. Pha trộn giữa e thẹn câm nín và xôn xao đột khởi cơn lặng lẽ, bỗng chốc thành giông bão, thành phố của dịu dàng như cảnh giấc mơ và tồi tàn luộm thuộm của đời ẩn ức. Thành phố của lãng mạn và bi phẫn. Thuấn ở Huế được ba tháng, thời gian của những cuộc hành quân ngắn hạn. Từ Huế đi về hướng Bắc, qua chiếc phà, con nước xanh rêu không sông, bên kia bờ sông luỹ tre mờ mịt sương giăng, sáng mùa đông im lìm không mặt trời, con gà nhỏ lông sũng nước cố rít lên tiếng gáy, tiếng gáy của loài gà tre nghe the thé phiền muộn. Quân qua sông, đổ bộ lên bến, cợn đất sét màu vàng ứa ra từ phiến đá khi chân người lính giẫmlên tản theo dòng nước. Lính đi băng qua những khu rừng trống ẩm ướt, chuối, thanh trà, ổi chen chúc đứng khép vào nhau trong im lặng nặng trĩu. Một trái bom vừa nổ, mảnh gang trắng ghim vào thân cây chuối ứa mủ, đống bẹ chuối tươi non nằm hỗn độn trên lớp đất bu nhiều tung tóe, đất dính từng tảng nhỏ trên phiến đá bầm dập như những hạt máu khô đọng trên cánh tay gãy. Mảnh gang của quả bom theo đà bay phá vỡ khoảng tường vôi để lộ phiến gạch tươi, màu đỏ thớ thịt sau nhát dao chưa kịp ứa máu. Ba tháng hay chính xác hơn bảy mươi ngày, Thuấn đi qua những căn nhà kỳ quái, nhà không vách, không cột, không nền. Nhà là căn hầm sát xuống đất, sâu hun hút lạnh lùng, tối thăm thẳm. Nắp hầm được đắp cao bằng đất cứng, chắc chắn như nấm mồ, trên mặt mồ vĩ đại đó người dân úp cái mái bằng lá gồi hay tranh và người ta chui từ hầm lên nhà, bò từ nhà xuống hầm, không ai có thể ngồi thẳng lưng trong loại nhà hoang tàn kỳ lạ này. Người dân ngồi cong lưng đầu kẹp giữa hai gối, người dân ngồi im lìm, trẻ con cũng không khóc, đứa trẻ đã mất thói quen được khóc, khóc vì đói, vì lạnh hay ẩm ướt nước tiểu. Đứa trẻ đã quen với bóng tối, quen im lìm nặng trĩu. Tiếng động chỉ có ở những cánh quạt trực thăng chém gió lượn vòng trên cây cau, hay tiếng nổ của quả đạn súng trọng pháo. Tiếng nổ và sự im lặng trì trợm đã làm tê giác quan đứa trẻ. Không còn tiếng khóc trẻ thơ trong xóm làng Thuấn đi qua. Thuấn đã đi qua một lần, hai lần, những lần sau không đếm được. Đi qua để thấy người dân vùng Thừa Thiên đâu đâu cũng chừng đó thế ngồi, cũng chừng đó lối hò, cũng những âm thanh rít lên khó nhọc, hiu hắt phiền phiền xô đẩy nhau trả lời khi người lính hỏi đến… "Da, dạ…" những tiếng dạ liên hồi mở đầu chen trong câu chuyện, nghe nhức nhối như vết thương nung mủ bị bóp vỡ giữa hai lưỡi dao kẹp chặt. Thế nhưng người dân vẫn tiếp tục sống. Thuấn cũng tiếp tục sống, tiếp tục sống để sau mỗi cuộc hành quân cùng với một lũ bạn chen chúc lên chiếc xe đi về thành phố như hôm nay… "Đi đâu bây giờ?" "Đi đâu?" Thuấn quay đầu sang nhìn Minh, kẻ vừa hỏi, giọng Huế phẳng lì như phiến lá mít. Thuấn ngừng xe, xoay hẳn người ra đằng sau "Đi đâu?" Sáu đôi mắt nhìn nhau không nói. "Hay đi uống cà phê?" Đề nghị rụt rè không thành hình khối. Lạc nói nhỏ. "Cà phê?" Minh hỏi cao giọng. "Tao đã uống sáng nay hai lần cà phê rồi, nhưng thôi, cà phê phát nữa cũng được. Thuấn xoay người trở lại, quanh xe về quán cà phê giữa thành phố. "Đến chỗ Lạc Sơn ngồi nhìn thiên hạ, chiều hôm nay thứ Bảy". Không có tiếng ai trả lời câu nói của Minh. Ba người ngồi quanh chiếc bàn, ba bàn tay khuấy tròn những chiếc muỗng quanh vành ly gây tiếng động dễ chịu trong không khí cứng đặc. "Tụi mình đi hành quân được ba tháng rồi". "78 ngày". "Sao mày nhớ kỹ vậy?" "Nên tao thích ngồi ở đây, nhìn những người gánh củi đi qua, xúc động lúc nhỏ tự nhiên trở về như sống lại thời gian trước". "Mày vớ vẩn thấy mẹ". Lạc vòng tay bó lấy đầu gối ngồi ưỡn người trên nệm xe. "Minh, mày leo lên ngồi với tao, ở đây đâu còn Quân Cảnh, ngồi đằng sau xe xóc, chết cái mông".   Mời các bạn đón đọc Dựa Lưng Nỗi Chết của tác giả Phan Nhật Nam.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Kẻ Hai Mặt - Amélie Nothomb
Blanche, 16 tuổi, nhút nhát, chưa từng có bạn bất ngờ được Christa, xinh đẹp, quyến rũ, nổi trội nhất khoa đến kết bạn. Không chỉ Blanche, cả cha mẹ cô cũng bị cuốn vào “cơn lốc” Christa. Từ một người xa lạ, Christa bốc chốc trở thành bạn, người ở nhờ rồi nhân vật trung tâm trong gia đình Blanche. Nhưng rồi Blanche nhanh chóng nhận ra một cái bẫy đang được giăng ra với mình và cha mẹ. Cô đã hành động và tìm ra được sự thật về Christa. Một sự thật đáng buồn và bất ngờ tuyệt đối… Bằng lối dẫn chuyện giản dị, ngôn ngữ hiện đại, Amélie Nothomb đưa độc giả đến gần hơn với những thực tế đôi khi quá trần trụi trong tình bạn, tình yêu và những vấn đề của thanh niên Bỉ hiện nay. Amélie Nothomb là nhà văn Bỉ viết tiếng Pháp nhưng lại chào đời ở Kobe (Nhật Bản) ngày 13 tháng 8 năm 1967. Xuất thân trong một gia đình quý tộc có cha làm đại sứ, tuổi thơ bà được rong ruổi qua nhiều nước từ Nhật Bản, Trung Quốc cho đến Mỹ, Myanmar,… Tác phẩm đầu tay Hồi ức kẻ sát nhân (1992) đã gây tiếng vang lớn và mang lại cho bà giải thưởng Alain-Fournier. Ngoài ra, bà còn giành Giải thưởng lớn của Viện Hàn Lâm Pháp cho tác phẩm Sững sờ và run rẩy (1999). Kẻ hai mặt (2003) là tác phẩm thứ mười một của cô. *** Amélie Nothomb sinh ngày 13/8/1983 là người Bỉ, nhưng Amélie Nothomb lại chào đời và trải qua một phần tuổi thơ tại Nhật Bản. Từ sau cuốn tiểu thuyết đầu tay Hồi ức kẻ sát nhân xuất bản năm 1992 đến nay, mỗi năm cô cho ra mắt bạn đọc thế giới một tác phẩm mới. Trong đó phải kể đến Phá ngầm tình tứ (1993) với các Giải thưởng Vocation và Chardonne; Sững sờ và run rẩy (1999) với Giải thưởng Lớn của Viện Hàn lâm Văn học Pháp; Không Adam cũng chẳng Eva (2007) với Giải thưởng Flore. CÙNG MỘT TÁC GIẢ: - Phá ngầm tình tứ, 1993. - Những chất dễ cháy, 1994. - Những bài châm biếm, 1995. - Xiêm y, 1996. - Mưu sát, 1997. - Thủy ngân, 1998. - Sững sờ và run rẩy, 1999. (Tác phẩm đoạt giải thưởng lớn của Viện Hàn lâm Pháp). - Lý luận trừu tượng về điện thoại, 2000. - Thuốc xức tóc của kẻ thù, 2001 - Từ điển Robert về danh từ riêng, 2002. - Kẻ phản Chúa, 2003. - Tiểu sử của cơn đói, 2004. - Axit sunfuric, 2005. - Không Adam cũng chẳng Eva (2007) *** Ngày đầu tiên, tôi thấy nó mỉm cười. Lập tức tôi muốn làm quen ngay. Tôi biết rõ sẽ chẳng bao giờ quen được nó. Lại gần nó, tôi không thể. Tôi luôn chờ người khác đến bắt chuyện: chẳng bao giờ có ai đến cả. Trường đại học là thế. Ta nghĩ sẽ mở lòng với thế giới quanh ta và rồi chẳng gặp được ai hết. Một tuần sau, đôi mắt nó nhìn tôi. Tôi tưởng đôi mắt ấy sẽ nhanh chóng chuyển hướng. Nhưng không, chúng vẫn ở đó mà dò xét tôi. Tôi chẳng dám nhìn ánh mắt ấy. Mặt đất như sụt lở dưới chân, tôi cảm thấy khó thở. Vì tình trạng ấy cứ tiếp diễn nên sự đau khổ càng trở nên khủng khiếp. Với lòng can đảm chưa từng có, tôi nhìn thẳng vào mắt nó. Nó khẽ đưa tay ra hiệu với tôi rồi cười. Sau đó, tôi thấy nó nói chuyện với đám con trai. Ngày hôm sau, nó lại gần và chào tôi. Tôi chào lại rồi imlặng. Tôi ghét sự ngượng nghịu của bản thân. - Cậu trông trẻ hơn những bạn khác, nó nhận xét. - Là vì tôi trẻ hơn thật. Tôi mới tròn mười sáu tuổi được một tháng. - Tôi cũng vậy. Tôi tròn mười sáu cách đây ba tháng. Hãy thú nhận là cậu không tin tôi trẻ thế đi. - Đúng vậy. Sự tự tin làm nó trông già hơn tôi hai đến ba tuổi. - Cậu tên là gì? nó hỏi tôi. - Blanche. Còn cậu? - Christa. Cái tên ấy thật đặc biệt. Tôi lại im lặng vì kinh ngạc. Nó nhìn thấy sự ngạc nhiên của tôi và nói thêm: ... Mời các bạn đón đọc Kẻ Hai Mặt của tác giả Amélie Nothomb.
Cuộc Phiêu Lưu Kỳ Lạ Của Đoàn Barsac - Jules Verne
Trong một chuyến thám hiểm và lòng Châu Phi, đoàn thám hiểm với người đứng đầu là Barsac đã cóchuyếnduhành vào một thành phố bí ẩn giữa lòng sa mạc Sahara.  Thành phố phát triển này là do một nhà khoa học thông minh nhưng đầy tham vọng đen tối xây nên. Sức tưởng tượng của Jules Verne kết hợp với kiến thức khoa học đã tôn vinh những thành tựu tuyệt diệu của con người, và cũng cho thấy những thành tựu ấy chỉ nở hoa và trường tồn khi phục vụ cho mục đích tốt đẹp. *** Jules Gabriel Verne sinh ngày 8 tháng 2 năm 1828 tại Pháp và được coi là cha đẻ của thể loại Khoa học viễn tưởng. Để theo đuổi việc viết văn, Jules Verne đã bỏ học luật, nghề cha ông định hướng. Cuốn tiểu thuyết đầu tay thành công Năm tuần trên khinh khí cầu (1863) đã mở đầu cho hàng loạt các tác phẩm nổi tiếng về sau của Jules Verne như Cuộc Thám Hiểm Vào Lòng Đất (1864), Hai vạn dặm dưới biển (1870), 80 Ngày Vòng Quanh Thế Giới (1873)… Các  tác phẩm của ông được dịch khắp nơi trên thế giới. Jules Verne mất ngày 24 tháng 3 năm 1905. Sau khi ông qua đời, nhiều tiểu thuyết chưa in của ông vẫn được tiếp tục xuất bản. *** Sau khi đã khóa chặt cửa, những người trốn chạy lo săn sóc các thương binh. Với sự giúp đỡ của Barsac và Amédée Florence – chính anh cũng bị thương nhẹ. – Jane chăm sóc những người mà số phận trớ trêu đã đưa đẩy họ đến chỗ ở của kẻ thù tàn bạo của họ. Khi việc băng bó đã xong, thì cô gái lại phải lo cho những người bất hạnh, bị cái đói hành hạ mấy ngày nay, ăn uống. Sau hồi lùng sục thức ăn ở khắp tất cả các tầng, mọi người cũng đã được ăn uống chút đỉnh. Nhưng tình thế vẫn hết sức nghiêm trọng, giờ cáo chung không thể tránh khỏi dường như chỉ kéo dài thêm mấy tiếng đồng hồ. Mười một giờ trưa. Các vụ nổ vẫn tiếp tục, trên bãi đáp nghe rõ tiếng la hét của các Chàng trai Vui tính, thỉnh thoảng chúng lại phí công công phá cánh cửa, còn từ trên sân hiên thì vọng xuống tiếng chửi bới của William Ferney và đồng bọn của hắn, song những người chạy trốn ý thức được rằng pháo đài của họ gần như là bất khả xâm phạm. Vừa mới được rảnh tay là Jane Buxton hỏi ngay Amédée Florence lý do họ rời khỏi nhà máy và đánh nhau trong điều kiện không cân sức như thế ngoài bãi đáp. Chàng phóng viên kể lại những gì đã xảy ra sau khi nàng đi khỏi. Anh kể rằng cuối cùng Tongané đã phát tín hiệu hằng mong đợi và Marcel Camaret đã chuyển sang khu giữa một vài gói thuốc nổ cùng với nhiều gươm đao, giáo mác. Sau đó những người bị bao vây tập trung đến cửa chính, sẵn sàng lao vào trận đánh khi nó bắt đầu. ... Mời các bạn đón đọc Cuộc Phiêu Lưu Kỳ Lạ Của Đoàn Barsac của tác giả Jules Verne.
Báo Cáo Chính Phủ - Hàn Thiếu Công
Bất ngờ bị bắt khi vô tình dính líu vào một vụ án, “tôi” buộc phải đối diện với một cuộc đời hoàn toàn xa lạ – cuộc sống trong nhà tù tăm tối chỉ có một mảnh trời nhỏ hình vuông. “Tôi” ước sao thời gian quay ngược lại, những quản giáo, đầu gấu, đòn trừng phạt dã man kia chỉ là một giấc mơ. Ba năm sau, được trả lại tự do hằng khao khát, “tôi”, giống như khi đã xếp hàng quá lâu, cuối cùng mới tới được quầy mua hàng, lại không biết mình phải mua cái gì, không biết đồ trong quầy có giá trị gì. “Tôi” lạc lõng trong chính thứ tự do ấy. Dũng cảm rời xa văn phong tinh tế, ngôn từ đậm chất trí thức quen thuộc trong Từ điển Mã Kiều, Hàn Thiếu Công dùng danh xưng ngôi thứ nhất, lấy giọng điệu kể truyện của chính nhân vật chính, một người tù bình thường, để thuật lại một cách tự nhiên cuộc sống tù ngục tăm tối, xót thương, và làm rúng động sâu sa. Báo cáo chính phủ là sự thử nghiệm một cách viết khác của tác giả, trình hiện một cái nhìn mới mẻ đối với thế giới của những con người bị kết tội. *** Tối hôm đó trời oi bức. Cảnh sát đưa bạn tôi vào phòng giam số 2, và dẫn tôi tới trước cửa phòng số 9. Còn đang mường tượng ánh mắt sợ hãi vừa rồi khi bạn tôi quay đầu lại, thì đã nghe một tiếng quát: “Vào đi!” Tiếng khóa cửa loảng xoảng sau lưng đẩy tôi loạng choạng vào bóng tối. Tôi mò mẫm trong tối tăm, mất một lúc lâu đồng tử mới quen với ánh sáng nhờ nhờ, những bức tường gạch dần dần hiện rõ. Buồng giam cao như một cái giếng vuông, một vài sinh vật chìm đọng nơi đáy giếng bừng tỉnh, xôn xao ngồi dậy hoặc đứng hẳn lên. Trong số đôi ba chục thân người ở trần, người trẻ đông hơn, cũng có vài gương mặt đã nhăn nheo. Bọn họ phần đông đầu cạo trọc lóc, ánh mắt đổ dồn vào tôi, cái nhìn lộ vẻ khoái trá thèm khát như phát hiện ra con mồi. “Lại tới một món nữa.” Có người ngáp. “Có mang gì nguy hiểm không?” Câu này hình như hỏi tôi. Tôi lắc lắc đầu. “Mày là người của lão Bí đao à?” Tôi vẫn lắc đầu. Một người giằng mất mảnh chăn chiên đang kẹp dưới nách tôi. Một người bắt đầu lục lọi túi quần áo, lần hai bên hông và đũng quần tôi, nắn đến tận gót chân. Chắc chắn bọn họ rất thất vọng, giống như cảnh sát viên khám người tôi hồi nãy, vừa khám vừa chửi rủa. Quả tình tôi cũng muốn mình phức tạp hơn một chút, tỉ dụ có cả đống tiền bạc biển thủ bị họ khui ra, hay bét nhất cũng phải có tí hung khí hoặc bột trắng gì đấy khiến họ thêm phần mãn ý chứ. Đương nhiên, tôi trong sạch vô tội, nhưng như thế thì tội nghiệp khác nào một gã ăn mày đây? Đáng tiếc, tôi quả là giống gã ăn mày, chả có thể diện, chả có gì, mới lĩnh được mảnh chăn chiên cũ, chiếc bàn chải đánh răng mất cả cán cầm. Cảnh sát cảnh giác với mọi thứ đồ vật kim loại, sợ cái cán bàn chải đánh răng có thể đem mài nhọn, độ dài vừa đủ chạm tới tim, nên chỉ cho tôi một cái bàn chải không cán. ... Mời các bạn đón đọc Báo Cáo Chính Phủ của tác giả Hàn Thiếu Công.
Chân Dung Chàng Nghệ Sĩ (Chân Dung Một Chàng Trai Trẻ)
Nguyên tác : A Portrait Of The Artist As a Young Man Tác giả : James Joyce Dịch giả : Nguyễn Thế Vinh Thể loại : Tiểu thuyết Văn Học Nước Ngoài Nhà xuất bản : Thế giới Ngày xuất bản : 06/2005 Số trang : 320 Kích thước : 14 x 20,5 cm Số quyển / 1 bộ : 1 Số ấn bản : 300 cuốn Chân Dung Chàng Nghệ Sĩ (Chân Dung Một Chàng Trai Trẻ) là câu chuyện kể về cuộc sống và môi trường xung quanh của Stephen Dedalus - một chàng trai trẻ người Ireland. Stephen Dedalus hiện lên là người tràn đầy sức mạnh của tuổi trẻ, nhân cách, sự thông minh, tâm hồn nhạy cảm một cách khác thường. Stephan Dedalus được sinh ra và lớn lên tại Ireland, chịu sự ảnh hưởng của Giáo hội Công giáo, chính trị Ireland nhưng luôn gặp phải sự mẫu thuẫn giữa nghệ thuật và luân thường đạo lý. Chàng trai đã đặt ra rất nhiều câu hỏi, đứng lên chống lại những công ước Công giáo và sau đó quyết định rời Ireland lên đường sang châu Âu, bước chân ra thế giới để rèn giũa lương tâm và tâm hồn mình. Điểm đặc biệt của tiểu thuyết này còn ở chỗ tác giả cũng chính là một người dân Ireland và tiểu thuyết được viết theo hình thức bán tự truyện. *** James Augustine Aloysius Joyce là một nhà văn và nhà thơ biệt xứ Ireland, được đánh giá là một trong những nhà văn ảnh hưởng nhất thế kỷ 20. Ông nổi tiếng nhất với tiểu thuyết bước ngoặt Ulyxơ. Các tác phẩm chính khác của ông là tập truyện ngắn người Dublin (1914), các tiểu thuyết Bức họa người nghệ sĩ là thanh niên (1916) và Finnegans Wake (1939). J. Joyce còn là tác giả của các tập thơ Nhạc thính phòng (Chamber Music, 1907), Thơ một xu một bài (Poems Pennyeach, 1927), Colleted Poems, 1936. Dù số lượng không nhiều nhưng thơ của James Joyce có sự ảnh hưởng rất lớn đến các nhà thơ Anh phái Hình tượng. Có thể coi Joyce là một trong những nhà văn hàng đầu của lối viết "dòng ý thức" với bút pháp độc thoại nội tâm chân thật nhất trong văn học hiện đại. Chủ nghĩa hiện đại hay chính là James Joyce - không chấp nhận lối sáng tác giống các thể loại văn học truyền thống. Nhà văn phá bỏ hoặc tưởng tượng lại các cấu trúc đã được nhận thức và nỗ lực tạo ra chính xác những dòng suy nghĩ theo quy luật hàng ngày với những gì xảy ra. Trong bài viết của nhà nghiên cứu Paul Gray về James Joyce đăng trong tuyển tập 100 con người tạo nên thế kỷ XỬ do báo Time (the Time 100, ngày 6 tháng 8 năm 1998) bình chọn, ông cho rằng chính Ulysses đã mở đường và in dấu sâu đậm trong tác phẩm của nhiều nhà văn lớn của thế giới sau đó như William Faulkner, Albert Camus, Samuel Beckett, Saul Bellow, Gabriel Garcia Marquez và Toni Morrison. Các tác giả này, Paul Gray viết một cách châm biếm, không như Joyce, đều đoạt giải Nobel văn học. James Joyce từng nói "Một trong những điều khi còn trẻ tôi không tài nào quen được là sự khác biệt tôi nhận thấy giữa cuộc sống và văn chương" (trích từ bài của Paul Gray). Joyce dường như đã dành cả sự nghiệp của mình để xóa bỏ sự khác biệt này, đồng thời cách mạng hóa cả nền văn chương thế kỷ XX. Cuộc sống trong tác phẩm của Joyce phần lớn là cuộc đời của chính ông. *** James Augustine Aloysius Joyce (tiếng Ireland: Seamus Seoighe; 2 tháng 2 năm 1882 – 13 tháng 1 năm 1941) là một nhà văn và nhà thơ biệt xứ Ireland, được đánh giá là một trong những nhà văn ảnh hưởng nhất thế kỷ 20. Ông nổi tiếng nhất với tiểu thuyết bước ngoặt Ulyxơ (1922). Các tác phẩm chính khác của ông là tập chuyện ngắn người Dublin (1914), các tiểu thuyết Bức họa người nghệ sĩ là thanh niên (1916) và Finnegans Wake (1939). J. Joyce còn là tác giả của các tập thơ Nhạc thính phòng (Chamber Music, 1907), Poems Pennyeach, 1927, Colleted Poems, 1936. Dù số lượng không nhiều nhưng thơ của James Joyce có sự ảnh hưởng rất lớn đến các nhà thơ Anh phái Hình tượng. Mặc dù phần lớn quãng đời trưởng thành của ông là ở nước ngoài, kinh nghiệm Ailen của Joyce vẫn rất tinh tế trong các bài viết của ông và nó cung cấp tất cả nền tảng cho tưởng tượng của ông và các vấn đề chủ thể nó. Không gian tưởng tượng trước tiên khởi điểm tại Dublin và phản ánh cuộc sống gia đình của ông và các sự kiện và bạn bè (và kẻ thù) từ những ngày ở trường phổ thông và trường đại học. Dù vậy, ông trở thành người chủ nghĩa toàn cầu nhất và là một trong số những người địa phương nhất của tất cả phạm vi tiếng Anh hiện đại. Kinh nghiệm Ailen của Joyce tạo thành một phần tử tinh tế trong các tác phẩm của ông và cung cấp nền tảng cho trí tượng tượng của ông và rất nhiều các vấn đề chủ thể. Tập truyện ngắn trong ấn bản đầu tay Người Dublin đã tập trung phân tích sự đình trệ và sự tê liệt của xã hội Dublin. Các câu truyện kết hợp chặt chẽ The stories incorporate sự hiện thân, một từ được sử dụng riêng bởi Joyce, với ý nghĩa là ý thức bất chợt của "tâm hồn" một thứ gì đó. Câu truyện cuối cùng và nổi tiếng nhất trong tập truyện, "Cái chết", được John Huston đạo diễn như là phim đặc trưng cuối cùng của ông vào năm1987.   Chân Dung Chàng Nghệ Sĩ (Chân Dung Một Chàng Trai Trẻ) xếp thứ 3 trong bảng xếp hạng 100 cuốn tiểu thuyết hay nhất , và xếp thứ  57 trong bảng xếp hạng do độc giả bình chọn "Đọc các tác phẩm của Joyce đã thay đổi cuộc đời tôi như thế nào?” là tên một cuộc thi dành cho học sinh năm cuối bậc phổ thông của thành phố New York do những người bạn Mỹ của James Joyce tổ chức năm 2005. Đây cũng là một trong những hoạt động dành cho lễ kỷ niệm Bloomsday năm 2005 vừa qua để tưởng nhớ James Joyce.  Đây là bài tiểu luận đạt giải nhất với tựa đề “Chân dung nghệ sĩ” của một học sinh có tên là Mara Wishingrad. eVăn đặt lại đầu đề. Khi cố gắng lý giải sự hình thành của tài năng, nền văn hóa của chúng ta đã mang ra hình ảnh thần thoại Hy Lạp của Aphrodite1 , tượng trưng cho nữ thần của Tình yêu và Cái đẹp. Nếu như ai đó tin tưởng vào các phương tiện truyền thông đại chúng, họ sẽ cho rằng người nghệ sĩ, cũng giống như Aphrodite được tạo thành từ miếng bọt biển với một tài năng đã phát triển đầy đủ và chỉ cần có một cơ hội đúng thời điểm là có thể bộc lộ năng khiếu bẩm sinh sẵn có đó. Trái lại, James Joyce miêu tả sự phát triển và hình thành nên một người nghệ sĩ trong cuốn tiểu thuyết Chân Dung Chàng Nghệ Sĩ (Chân Dung Một Chàng Trai Trẻ) và minh họa rằng ý thức của người nghệ sĩ phát triển theo thời gian và cần phải có rất nhiều năm để trưởng thành. Do đó, Joyce chọn một thần thoại khác để tượng trưng cho câu chuyện của mình, đặt tên người hùng của mình là Stephen Dedalus - cái tên được lấy từ một anh hùng trong thần thoại Hy Lạp - Daedulus2 , người đã khôn khéo sử dụng tài năng để tìm được tự do cho chính mình.    Trong Chân Dung Chàng Nghệ Sĩ (Chân Dung Một Chàng Trai Trẻ), Joyce miêu tả một quan sát những bước phát triển trong trí óc của một nghệ sĩ bằng cách mô tả sự đấu tranh và phát triển nội tâm của một chàng trai trẻ, Stephen Dedalus. Thông qua kỹ thuật “dòng ý thức”, Joyce trực tiếp ghi lại những cảm xúc, suy tư, trăn trở của Stephen thay bằng mô tả thông qua quan điểm của một người khác.           Bằng cách sử dụng ngôn từ mà ngày càng trở nên lưu loát và trí tuệ khi Stephen trưởng thành, Joyce chỉ ra cách tư duy của Stephen phát triển khi cậu là một thanh niên đã chín hơn. Và kết quả là, người đọc cảm nhận rằng Joyce đang chia sẻ cuộc sống nội tâm của Stephen, hơn là chỉ quan sát anh ta từ bên ngoài. Mặc dù hoàn cảnh sống xung quanh và các sự kiện xảy ra với cuộc đời của Stephen không có nhiều điểm chung với tôi, thế nhưng đời sống nội tâm của tôi và cậu ấy lại giống nhau đến bất ngờ. Cũng giống như Stephen, tôi luôn luôn cảm nhận rằng tôi nhìn nhận thế giới bên ngoài một chút khác biệt so với những người xung quanh.          Ngay từ khi tôi còn bé, đời sống nội tâm cũng như thế giới bên ngoài luôn luôn thực và quan trọng đối với tôi. Tất cả những gì cuốn hút tôi đều là những hoạt động dựa trên trí tưởng tượng của tôi hơn là các thử thách về sức mạnh hay hình thể. Trong lúc những người khác hài lòng và thích thú để trở thành những người tham gia tích cực và năng động, thì tôi lại thường xuyên đứng ở ngoại biên nghiên cứu họ và các sự việc diễn ra xung quanh tôi. Thông qua chân dung Stephen mà Joyce vẽ ra, tôi nhận ra rằng những gì làm tôi khác với mọi người là cái gì đó tôi nên chấp nhận chứ không phải cái gì đó tôi cần phải xa lánh. Tuy nhiên, cũng không dễ dàng gì để tin vào bản thân mình khi lớn lên với một ý thức trong đầu rằng người nghệ sĩ được sinh ra vốn dĩ đã hình thành đầy đủ tài năng. Khi so sánh bản thân mình với những thần tượng văn học, những nỗ lực của tôi thường không đạt tới cái gì cả. Không ai chỉ cho tôi biết rằng những nhà văn tài năng đó không phải lúc nào cũng có những trang viết tuyệt vời. Không ai nói cho tôi biết rằng họ đã phải dành hàng giờ đồng hồ, nỗ lực viết, viết và viết lại nhằm tạo nên những câu chữ tưởng chừng như chỉ cần rất ít nỗ lực. Trong khi đó, có những ngày tôi cảm tưởng rằng mình không thể làm được một việc gì cả và thường xuyên tôi cảm thấy những mục đích của mình thật quá xa xôi. Tuy nhiên, hình ảnh sự phát triển của Stephen trong Chân Dung Chàng Nghệ Sĩ (Chân Dung Một Chàng Trai Trẻ) đã truyền cho tôi nguồn cảm hứng, đưa đến cho tôi một lựa chọn khác với vị thần Aphrodite. Trong thần thoại Hy Lạp mà Joyce lựa chọn, người anh hùng Daedalus lại trái ngược với con trai của mình - Icarus. Daedalus, một bậc thầy lành nghề, tạo cho chính mình và con trai mình những đôi cánh để họ có thể bay và trốn thoát khỏi hòn đảo Crete nơi họ bị vua Minos giam trong ngục tù. Icarus, trẻ tuổi, nông nổi, cẩu thả, say sưa tự do tới quá mức tự chủ đến nỗi đã không nghe lời cha dặn rằng không được bay quá gần với mặt trời và kết quả là đã bị mặt trời thiêu cháy đôi cánh và chết đi. Không giống như Icarus, Stephen chuẩn bị trí tuệ, kinh nghiệm và tinh thần cho chính mình để cất cánh. Thông qua cả giáo dục chính thống và sự tự vấn nghiêm túc, Stephen đã có thể xây dựng cho mình một hệ thống niềm tin, đạo đức, và triết lý về mỹ học của riêng mình. Cậu đã phát triển và nhận ra mình là ai và mình muốn gì. Khi cuốn tiểu thuyết gần khép lại, có người cảm nhận rằng Stephen đã sẵn sàng rời bỏ mảnh đất an toàn của nhà trường, gia đình và tổ quốc để đề ra kế hoạch của chính mình như là một nghệ sĩ. Có người thì cho rằng Stephen đã đạt tới sự trưởng thành về mặt trí tuệ và óc thẩm mỹ qua sự giằng xé nội tâm, và rằng đó không phải là một con đường thẳng tắp mà là một con đường ở phía trước với rất nhiều khúc quanh và chướng ngại vật. Hình ảnh Stephen phát triển để trở thành một nghệ sĩ dưới ngòi bút của James Joyce đã động viên tôi trên hành trình đi tìm cái đẹp của chính mình. Bằng văn phong miêu tả đầy thuyết phục và hấp dẫn của Joyce, những cảm xúc, suy nghĩ của Stephen đã thay đổi lối tư duy để trở thành người nghệ sĩ và người sáng tạo cái đẹp trong tôi. Khi tôi tìm kiếm và tạo nên thần thoại của chính mình, ý thức của tôi chấp nhận một điều rằng chúng ta sinh ra không phải là nghệ sĩ mà chúng ta trở thành nghệ sĩ. 1 : Trong thần thoại Hy Lạp, Aphrodite là vị thần biểu tượng cho tình yêu và sắc đẹp. 2 :  Trong thần thoại Hy Lạp, Daedalus bị vua Minos giam trong hòn đảo Crete. Nhưng bằng tài năng và trí thông minh, Daedalus đã tự tạo cho mình đôi cánh và thoát ra khỏi nhà tù đó. Mời các bạn đón đọc Chân Dung Chàng Nghệ Sĩ (Chân Dung Một Chàng Trai Trẻ) của tác giả James Joyce.