Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

EINSTEIN (1972) - NGUYỄN HIẾN LÊ

Tôi say mê theo lí tưởng công bằng và trách nhiệm đối với xã hội (…) nhưng hiển nhiên là tôi không thích trực tiếp hợp tác với người khác, đàn ông và đàn bà. Tôi là con ngựa chỉ quen với một cỗ yên cương, không chịu buộc chung với một con ngựa nào khác. Tôi không khi nào hết lòng tuỳ thuộc các bạn bè, ngay cả gia đình của tôi nữa. Những liên hệ đó luôn luôn lơi dần ra và tuổi càng cao, tôi càng muốn rút vào cái vỏ của tôi.

Tôi say mê theo lí tưởng công bằng và trách nhiệm đối với xã hội (…) nhưng hiển nhiên là tôi không thích trực tiếp hợp tác với người khác, đàn ông và đàn bà. Tôi là con ngựa chỉ quen với một cỗ yên cương, không chịu buộc chung với một con ngựa nào khác. Tôi không khi nào hết lòng tuỳ thuộc các bạn bè, ngay cả gia đình của tôi nữa. Những liên hệ đó luôn luôn lơi dần ra và tuổi càng cao, tôi càng muốn rút vào cái vỏ của tôi.

Học giả, tác giả hiệu Lộc Đình, sinh ngày 8 tháng 1 năm 1912 tại Hà Nội (giấy khai sinh ghi ngày 8-4-1912 nhằm ngày 20-11 Tân Hợi 1911) quê làng Phương Khê, phủ Quảng Oai, tỉnh Sơn Tây (nay thuộc tỉnh Hà Tây), gia đình song thân ngụ ở Hà Nội.

Ông xuất thân trong một gia đình Nho học, thân phụ, bác ruột tham gia phong trào Duy tân ở Trường Đông Kinh nghĩa thục, người mất (bác cả) ở nước ngoài, người (bác Ba) bị thực dân truy nã lẻn vào Sài Gòn rồi ẩn mình ở Đồng Tháp Mười. Từ đó, bác Ba ông sống lập nghiệp luôn ở miền Tây Nam Bộ.

Thuở nhỏ, Nguyễn Hiến Lê học ở Trường Tiểu học Yên Phụ, Trường Bưởi, Trường Cao đẳng Công chánh (Hà Nội). Năm 1934 tốt nghiệp được bổ làm việc tại các tỉnh miền tây Nam Bộ; kể từ đó ông làm việc và định cư luôn ở miền Nam cho đến ngày qua đời.

Năm 1935 bắt đầu viết du kí, kí sự, tiểu luận, dịch thuật các tiểu phẩm văn chương đến năm 1954 ông có đến hàng chục cuốn, nhưng đã thất lạc trong những ngày đầu kháng chiến chống Pháp. Vì ông từng làm nhân viên Sở Công chánh thuộc ngành Thủy lợi (Hydraulique) thường đi thực địa ở các tỉnh miền Hậu Giang, Tiền Giang nên biết khá tường tận về đất đai và con nguời ở các địa phương thuộc khu vực này.

Sau Cách mạng tháng Tám, rồi toàn quốc kháng chiến, ông bỏ đời sống công chức tản cư về Đồng Tháp, Long Xuyên đi dạy học. Năm 1952 thôi dạy, lên Sài Gòn sinh sống bằng ngòi bút và chuyên tâm vào công tác văn hóa.

Tác phẩm đầu tay của ông là một cuốn du kí khoa học có tên: Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười, sách mỏng (100 trang) mà tác giả đã bỏ ra nhiều công sức. Nguyên sách được viết nhân một chuyến về Hà Nội thi lấy bằng kĩ sư do đề nghị của bạn học hiện là Chủ nhiệm kiêm chủ bút báo Thanh Nghị (Vũ Đình Hòe), sách viết xong nhưng gởi ra Hà Nội không được (vì chiến tranh), bản thảo bị mất trong Đồng Tháp Mười.

Năm 1954 ông viết lại xuất bản trong năm đó và được tái bản nhiều lần. Từ đó, hằng năm ông có đôi ba tác phẩm ra mắt công chúng độc giả.

Ngòi bút Nguyễn Hiến Lê đề cập đến nhiều lĩnh vực, mà ở lĩnh vực nào cũng có căn cứ khoa học, am tường cặn kẽ về các đối tượng, sâu sắc về các vấn đề được nhắc tới và không thiếu tính nghệ thuật, từ triết học, sử học đến các chuyên ngành khác Sử học: gồm một số cuốn về lịch sử và văn minh sử thế giới: Lịch sử thế giới (4 cuốn), Đông Kinh nghĩa thục (1954), Sử Trung Quốc (1996), Lịch sử văn minh Trung Hoa, Tô Đông Pha...

Nguồn: dantocking.com

Đọc Sách

Lịch Sử Nhân Loại PDF (NXB Quan Hải Tùng Thư 1928) - Ngộ Nhân
Loài người phát sinh đến ngày nay đã được bao lâu, các nhà khoa-học nói cũng không nhất trí, nhưng lấy số bình quân thì mức độ hơn 50 vạn năm. Một khoảng thời gian như vậy, đối với cái đời ngắn ngủi của ta đã là lâu lắm, thế mà đối với cái niên-kỷ của địa-cầu là bốn trăm triệu năm (kể từ khi mới có phần biệt nước và đất) thì 50 vạn năm đó có thấm là bao! Ta lại sánh 50 vạn năm của loài người với cái thời gian vô thủy vô chung thì lại ngao ngán nữa, Song lấy loài người mà sẽ cùng vũ trụ thì không kê vào đâu, đó là một lẽ đương nhiên. Ta chỉ xét riêng cái lịch-sử loài người, mà không phải so-sánh với vũ-trụ cũng đủ biết cái giá-trị của nó thế nào.Lịch Sử Nhân LoạiNXB Quan Hải Tùng Thư 1928Ngộ Nhân36 TrangFile PDF-SCAN
Lược Khảo Việt Ngữ PDF (NXB Mai Lĩnh 1942) - Lê Văn Nựu
Vấn đề tiếng Nam ở vào trong phạm vi một vấn đề rộng rãi hơn, phức tạp hơn - sự tiến hóa của dân tộc Việt Nam. Ngày nay vấn đề ấy tuy không khẩn cấp cho mọi vấn đề về kinh tế, hay chính trị, nhưng trái lại nó có tính cách phổ thông hơn hết. Thật vậy, đang khi những phong trào tư tưởng mới phôi thai, cùng những quyền lợi kinh tế, hầu gây nên những mối phân tranh mâu thuẫn trong xã hội, vấn đề ngôn ngữ vẫn giữ được tính cách quốc gia hoàn toàn.Lược Khảo Việt NgữNXB Mai Lĩnh 1942Tác giả: Lê Văn NựuSố trang: 89Kiểu file: PDF-SCANNgôn ngữ: Tiếng Việt
Một Sức Khỏe Mới PDF (NXB Hàn Thuyên 1941) - Phạm Ngọc Khuê
Người các nước Âu-Mỹ, vì phải lo chu toàn một cuộc tranh sống rất gay-go, trong đó sức khoẻ là một lực-lượng quan hệ ngang với học-vấn và trí-khôn nên rất chăm-chú đến những phương-pháp khoa học – và ngoại khoa nữa – đề luyện-tập cho bắp thịt được cứng rắn, cơ-thể được kiện-toàn, và cho bộ thần kinh - nhất là bộ thần-kinh - được vững vàng đanh thép.Một Sức Khỏe MớiNXB Hàn Thuyên 1941Phạm Ngọc Khuê92 TrangFile PDF-SCAN
Lịch Sử Nam Tiến Của Dân Tộc Ta PDF (NXB Long Quang 1929) - Ngô Văn Triện
Thời kỳ đầu mới giành được độc lập tự chủ, lãnh thổ Đại Việt bao gồm khu vực đồng bằng châu thổ sông Hồng, các đồng bằng nhỏ ven biển Bắc Trung Bộ. Sông Gianh là cực nam của đất nước. Sau các cuộc chiến tranh với Chăm Pa, nước Đại Việt dần bắt đầu mở rộng lãnh thổ. Đến thế kỷ 15, người Việt đã định cư đến khu vực Phú Yên hiện nay. Vào thời Trịnh-Nguyễn phân tranh, các chúa Nguyễn tiếp tục mở rộng lãnh thổ của mình về phía Nam. Việc đặt dinh Trấn Biên vào năm 1689 là dấu mốc quan trọng trong việc định cư của người Việt tại Nam Bộ.Trúc Khuê Thư Cục Tùng ThưLịch Sử Nam Tiến Của Dân Tộc TaNXB Long Quang 1929Ngô Văn Triện40 TrangFile PDF-SCAN