Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hẹn Gặp Ở Samarra

Hẹn gặp ở Samarra là tác phẩm đầu tay nổi tiếng nhất đạt đến vẻ đẹp kinh điển của một tác phẩm hiện thực. Mùa Giáng sinh năm 1930, trong giới quý tộc ở Gibbsville người ta chỉ tiệc tùng và khiêu vũ, các dàn nhạc chơi đến sáng và rượu tuôn chảy suốt đêm. Hạt nhân của nhóm quý tộc là cặp vợ chồng trẻ Julian và Caroline English, họ nổi bật đến mức cả người quenn cũng như người lạ đều lấy làm ganh tỵ với họ. Nhưng trong một giây phút bộc phát với việc hắt một ly rượu vào mặt một người khác, Julian đã phá vỡ trật tự của giới này rồi bắt đầu đoạn trượt dài dẫn đến việc tự huỷ hoại mình chỉ trong vòng 48 tiếng đồng hồ. Hẹn gặp ở Samarra tái hiện một cách tài tình, sống động bi kịch cá nhân cũng như những mâu thuẩn cay đắng trong cuộc sống ở một tỉnh lẻ trong nửa đầu thế kỷ 20. Với tác phẩm này, John O’Hara đạt đến đỉnh cao trong bút pháp hiện thực châm biếm của một nhà văn lớn và đó là lý do tác phẩm này luôn có mặt trong danh sách 100 tiểu thuyết hay nhất trong mọi thời đại. Được Time Magazine xếp vào danh sách 100 tiểu thuyết tiếng Anh hay nhất từ năm 1923 tới năm 2005. Được Modern Library xếp ở vị trí thứ 22 trong danh sách 100 tiểu thuyết tiếng Anh hay nhất của thế kỷ 20. Bộ phim cùng tên do Robert Benton đạo diễn sẽ được ra mắt vào 31 - 12 - 2010. “…Ôi trời ơi, mẹ biết làm gì với con đây?”, bà Walker kêu lên. “Mẹ đáng thương”, Caroline kêu lên, giang hai tay ôm lấy mẹ. Cô thương cho bà, biết bà không đau đớn gì lắm trong chuyện này. Sự cố này chỉ khuấy động nỗi đau của riêng bà. Bà là người lúc nào cũng sẵn sàng biểu thị nỗi buồn, khiến bà chủ động hơn trong khi chia sẻ nỗi đau với con gái. Ngay từ đầu Caroline đã cố gắng không nghĩ đến Julian, nhưng mà trời đất ơi, ngoài anh ra cô còn có thể nghĩ đến chuyện gì được nữa? Cô nhớ đêm hôm ấy, mẹ đi vào phòng cô và bảo bố chồng cô đang ở dưới nhà muốn gặp cô. Thỉnh thoảng khi nghĩ lại điều này, cô muốn nói, “Mình biết điều này. Ngay lúc đó mình đã biết là có chuyện”, nhưng rồi cô trở nên trung thực và tha thứ cho mình bởi vì cô chẳng có cảm nhận gì hết. Có một cái gì không ổn, cô biết, nhưng sự thực là cô đã định từ chối không gặp ông già. Cô biết chuyện này thế nào cũng liên quan đến Julian mà cô thì không muốn nghe gì về anh nữa. Nhưng trí khôn, không phải là bản năng của cô, nhắc nhở rằng, trong khi cô đang nằm trong chăn ấm nệm êm thì chắc ông già chồng sẽ là người cuối cùng trên đời vào lúc đêm hôm buốt giá thế này lại đến đây mà không có lý do gì chính đáng. Ông nói mình mang đến một tin xấu kinh khủng - câu này nghe như lời dạo đầu cho một câu chuyện “Đây là điều tức cười nhất mà bạn từng nghe” hoặc “Điều này sẽ giết bạn mất thôi”. Nhưng chẳng có điều gì mà bác sĩ English nói lại giống với một lời mào đầu hết. Ông là một người kín kẽ và nói ngay vào chuyện mà không chờ cô hỏi. “Ông Harley tìm thấy Julian trong xe hơi ở garage lúc ấy nó đã chết mặc dù ông ấy không biết là nó chết lúc mấy giờ. Chết vì khí carbon monoxide, chất khí độc thoát ra từ xe. Máy vẫn nổ”. Ngừng một lát, ông tiếp. “Caroline à, có vẻ như đây là một vụ tự sát. Con không nhận được lá thư tuyệt mệnh hoặc bất cứ cái gì như thế chứ?” “Lạy Chúa. Ba cho rằng con vẫn ở đây được khi biết những chuyện như thế sao?” “Ba không có ý ám chỉ được gì hết,” ông bố chồng nói. “Ba chỉ muốn xác định cho rõ thôi. Phó thanh tra sẽ hỏi những chuyện như vậy. Ba không thấy có cách nào chúng ta tránh được phán quyết rằng đó là vụ tử tự, nhưng ba sẽ cố. Ba biết mình có thể làm được gì.” Giọng ông vang lên như giọng một chính trị gia không muốn thừa nhận là mình không thể có một địa chỉ gửi thư mới. “Sao ba lại muốn thế? Tất nhiên là anh ấy tự tử rồi”. Caroline kêu lên. “Caroline con yêu,” bà Walker xen vào. “Đừng nói thế cho đến khi con biết chắc mọi chuyện. Thật kinh khủng khi nói như thế”. “Tại sao? Có chuyện gì kinh khủng nào? Ai nói thế? Trời đánh thánh vật các người đi. Nếu anh ta muốn chết thì đó là việc của anh ta, liên quan gì đến ai nào?” “Nó điên mất rồi,” bà mẹ thì thào. “Con yêu…” “Thôi đi đi. Là ông đấy. Ông, ông đâu có yêu thương gì anh ấy. Ông đã làm chuyện đó. Ông già vênh vang tự đắc kia”. “Ôi Caroline, sao con lại có thể nói ra những điều như thế?” “Anh ấy đang ở đâu? Nói đi, anh ấy đang ở đâu? Ông đã đưa anh ấy đi đâu? Ông biết là anh ấy chết à? làm sao ông biết được? Thôi đi, tôi không nghĩ là ông biết được khi nào thì một người chết.” “Nó là con trai ta, Caroline. Làm ơn nhớ cho điều đó. Đứa con trai duy nhất của ta”. “Phải, con trai duy nhất của ông. Nhưng anh ấy không bao giờ yêu quý ông. Tôi nghĩ ông biết điều đó, đúng không? Ông cao quý quá mà, đầy quyền lực và khó chịu làm sao khi chúng tôi đến nhà ông hôm Giáng sinh. Đừng nghĩ là anh ấy không nhận ra điều đó nhé. Ông đã khiến anh ấy tự vẫn chứ không phải tôi”. “Tôi nghĩ tôi phải về thôi, Ella. Nếu bà cần gì thì ghé qua nhà tôi nhé”. “Được thôi, Will”, bà Walker nói. “Tại sao ông lại nói với mẹ tôi trước. Lý ra ông phải thông báo với tôi trước chứ?” “Thôi nào con. Chúc ngủ ngon Will. Tôi không tiễn ông đâu”. “Có phải ông đến để đưa tôi tới anh ấy? Có chuyện gì nào? Anh ấy có bị cháy hay dập nát hết không?” “Làm ơn con yêu,” bà Walker nói “Will, ông có chờ… một phút không?” “Phải, tôi nghĩ thế. Tôi nghĩ thật là kinh khủng với nó khi nghe tin này”. “Này con yêu, nếu con muốn nhìn mặt Julian tối nay”, bà Walker nói. “Ồ chúa ơi, con nhớ ra rồi. Con không thể. Con đã hứa với anh ấy, con không gặp đâu”, Caroline nói. “Con đã hứa với nó! Cái gì vậy? Con đã nói cái gì vậy? Con biết là nó sẽ tự tử à?” Bây giờ thì bác sĩ là người nổi giận. “Không, không,không. Đừng kích động như thế chứ. Cứ khoác cái áo trên người ông, ông già…”. Trong miệng cô là một từ mà Julian hay dùng, nhưng cô đang làm cho mẹ mình bị sốc. Cô quay sang nhìn bà. “Chúng con đã hứa khi làm đám cưới. Chúng con đã hứa sẽ không nhìn mặt nhau nếu một trong hai người chết trước người kia. Nếu anh ấy là người chết trước, thì con, ôi mẹ biết đấy”. Cô bắt đầu khóc. “Đi đi, ông bác sĩ. Tôi không muốn gặp ông nữa. Mẹ ơi”…” *** Hẹn gặp ở Samarra là tác phẩm đầu tay nổi tiếng nhất của nhà văn John O'Hara, được đánh giá là đạt đến vẻ đẹp kinh điển của một tác phẩm hiện thực trong thế kỷ 20. Tên cuốn sách được trích dẫn từ một truyện ngắn nổi tiếng của nhà văn W.Somerset Maugham.   Bản dịch tiếng Việt cuốn "Hẹn gặp ở Samarra" của nhà văn John O'hara do Youbooks thực hiện theo thỏa thuận liên kết xuất bản với Bank of America, N.A. Người dịch: Hồng Vân. Bối cảnh tiểu thuyết diễn ra vào mùa Giáng sinh năm 1930 ở Mỹ. Giới quý tộc ở Gibbsville đang say sưa trong tiệc tùng và khiêu vũ. Tâm điểm của nhóm quý tộc này là cặp vợ chồng trẻ, thành đạt Julian và Caroline English. Nhưng trong một giây phút bột phát vì say rượu và hoàn toàn không có lý do gì cả, Julian hắt nguyên một ly rượu vào mặt Harry Reilly giữa đám đông. Harry Reilly là nhân vật cộm cán trong giới quý tộc và là đối tác làm ăn rất quan trọng của anh. Hành động khiếm nhã này phá vỡ trật tự trong giới và dẫn Julian trượt dài theo con đường tự hủy hoại mình chỉ trong vòng 48 tiếng đồng hồ. Những ngày tiếp theo, Julian lại sa vào những chuyện vô bổ vì tính cách của anh đưa đẩy. Trong một lần uống say, Julian lại ngang nhiên rủ rê một phụ nữ khêu gợi đi cùng anh trên xe riêng trước mặt vợ và bạn bè. Không may cho anh đó lại là bạn gái của một tay xã hội đen. Hẹn gặp ở Samarra tái hiện một cách tài tình, sống động bi kịch cá nhân cũng như những mâu thuẫn cay đắng trong cuộc sống tỉnh lẻ vào nửa đầu thế kỷ 20. Với tác phẩm này, John O’Hara đạt đến đỉnh cao trong bút pháp hiện thực châm biếm của một nhà văn lớn và đó là lý do tác phẩm này luôn có mặt trong danh sách 100 tiểu thuyết hay nhất trong mọi thời đại. Nhà văn John O’Hara (1905-1970) là nhà văn xuất sắc của Mỹ. Ông nổi tiếng ngay từ tác phẩm đầu tay Hẹn gặp ở Samarra. Nhà văn này từng đoạt giải thưởng National Book Award với tiểu thuyết Ten North Frederick và là tác giả có nhiều truyện ngắn được đăng nhất trên tờ The New Yorker. Ông đã viết 14 tiểu thuyết cùng 400 truyện ngắn. Tờ New York Times nhận xét: "O’Hara chiếm giữ vị trí độc nhất trong nền văn học đương đại của Mỹ. Ông là nhà văn Mỹ duy nhất tái hiện xã hội Mỹ trong cái cách mà nó đã được thể hiện trong tác phẩm của Henry James về nước Mỹ, hay dưới ngòi bút của Proust về nước Pháp". Mời các bạn đón đọc Hẹn Gặp Ở Samarra của tác giả John O'Hara.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ba Người Con Gái Lương Phu Nhân
Nhà xuất bản Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh đã cho ấn hành một trong những tác phẩm nổi tiếng của Pearl Buck đã được trao giải Nobel Văn Chương năm 1938 với tựa đề: Ba Người Con Gái Lương Phu Nhân. *** Pearl Buck (tên thật là Pearl Comfort Sydenstricker, có tên Trung Quốc là Trại Chân Châu) là con một nhà truyền giáo người Mỹ. Sau khi ra đời chưa đầy 5 tháng, bà đã được cha mẹ đưa sang Trung Quốc sinh sống. Từ nhỏ và suốt cả cuộc đời bà yêu mến và thích tìm hiểu cuộc sống của người dân Trung Quốc, cảm thông với những người dân địa phương bị nhiều tầng áp bức. Năm 1938 Pearl Buck nhận giải thưởng Nobel vì các tác phẩm mô tả đời sống nông thôn Trung Hoa một cách phong phú và xác thực (chủ yếu với tiểu thuyết Đất Lành và hai cuốn tự truyện Người Tha Hương (1936) viết về người mẹ và Thiên Thần Chiến Đấu (1936) viết về cha của bà). Sau khi nhận giải, Pearl Buck tiếp tục sáng tác rất nhiều, ngoài văn xuôi bà còn viết kịch, kịch bản phim, tiểu luận và sách cho thiếu nhi. Bà cũng là người đã dịch Thủy Hử (All men are brothers) và một số tác phẩm văn học Trung Quốc sang tiếng Anh. Cuối đời, bà quan tâm đến đề tài các nhà bác học nguyên tử buộc phải chế tạo vũ khí giết người hàng loạt. Đồng thời, bà tích cực tham gia các hoạt động từ thiện, xã hội như: sáng lập ra tổ chức không vụ lợi Hiệp hội Đông Tây (The East and West Association, 1941) nhằm truyền bá những hiểu biết giữa các dân tộc trên thế giới; cùng chồng lập nên tổ chức Căn nhà tình nghĩa (Welcome Home, 1949) giúp trẻ mồ côi; lập ra Quỹ Pearl S. Buck (The Pearl S. Buck Foundation, 1963) và tặng cho quỹ này 7 triệu đôla. • Tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt: Gió Đông, gió Tây; Ảo vọng; Ba Người Con Gái Lương Phu Nhân Sống vì đất; Tiếng gọi đồng quê; Lá thư Bắc Kinh; Tình yêu sau cùng; Người mẹ; Nhớ cảnh nhớ người; Yêu muộn; Nạn nhân buổi giao thời; Mấy người con trai Vương Long; Đứa con người yêu; Một phút một đời; Một lòng với em; Một cuộc hôn nhân; Lưu đày; Lưu đày biệt xứ; Cánh hoa e ấp; Đông phương huyền bí qua truyện cổ thần tiên; Truyện Đông phương; Người vợ tiên; Những người đàn bà tuyệt vời trong gia đình Kennedy; Những người đàn bà trong gia đình Kennedy; Tà áo xanh; Nỗi buồn nhược tiểu; Người yêu nước; Ngoài chân mây; Hứa hẹn; Bão loạn; Mẫu đơn; Quỷ địa ngục chẳng bao giờ ngủ; Yêu mãi còn yêu; Ba người con gái của Lương phu nhân; Trái tim kiêu hãnh; Một trái tim tự hào; Biên giới tình yêu; Tình cõi chân mây; Nô tì Mẫu Đơn; Đóa hoa ẩn mình; Trang; Người thành phố; Bí mật đời nàng; Người yêu nước; Thiên Hậu; Người cung nữ; Từ Hi Thái hậu; Con rồng linh diệu; Hạt giống của rồng; Vương Nguyên; Đất lành; Chuyện Kinh Thánh; Những người con của tiến sĩ Lương; Tiếng nói trong nhà; Tử thần và rạng đông; Người mẹ; Những mảnh hồn sầu xứ. Khi người con gái lên núi *** Đã qua nửa đêm... Lương phu nhân hạ bút và gấp sổ thu chi lại. Ngôi nhà hoàn toàn im vắng. Tại tầng dưới, trong nhà hàng chỉ còn thưa thớt một vài thực khách đang ngồi nán lại. Ba xô ghế đứng dậy, chiếc ghế bành lớn bằng gỗ gụ, cùng bộ với cái bàn viết kiểu Trung Hoa nặng nề mà bà đã thừa hưởng của thân phụ, và mang từ quê nhà, tại một tỉnh xa đến đây. Bà đến bên cửa sổ, nhưng không vén mơ cánh rèm xa tanh màu đỏ. Mặc dầu được sống yên ổn, với tư cách là chủ nhân một nhà hàng đẹp nhất trong các khu tân tiến ở thành phố Thượng Hải, bà cũng không dại gì để bóng dáng mình in lên khuôn kính một căn phòng sáng trưng ánh đèn. Nào ai biết được kẻ thù đang ẩn nấp nơi đâu. Thiếu gì kẻ thấy bà nổi tiếng rồi ghen ghét. Chẳng ai biết bà đã xoay sở cách nào, để hàng ngày vẫn cung cấp được những món ăn thật đặc biệt, cho khách hàng là các nhân vật quan trọng trong chính giới, các đại thương gia tỷ phú, và các sĩ quan cao cấp trong quân đội. Hầu hết họ là bạn thân của bà. Bà ung dung đi đi lại lại trong nhà hàng, bề ngoài xem như chẳng quan tâm gì đến các sự lộn xộn chính trị. Chắc có nhiều kẻ ghen ghét, hậm hực với bà. Vì thế bà không vén rèm, mà chỉ luồn người ra ngoài để hé mở cửa sổ. Trong bầu không khí ấm áp của một buổi tối đầu hè, hương hoa nhài bay lên thoang thoảng. Ngôi nhà của bà trước kia là của một gia đình người Mỹ giàu có, bạn thân của bà. Sau khi có cuộc sung công các nghiệp vụ xuất nhập cảng tại Trung Hoa, gia đình này đã phải trở về nước. Lương phu nhân đã mua lại ngôi nhà này, cùng các khu vườn trong tô giới Anh cũ. Có rất nhiều người Mỹ cư ngụ trong tô giới Pháp và Anh, vì họ không có tô giới riêng. Trước khi Hồng Quân tiến chiếm toàn bộ lãnh thổ Trung Hoa, Lương phu nhân có nhiều bạn hữu trong đám người Mỹ này, vì vậy bà đã gởi ba ái nữ sang Hoa Kỳ du học. Giờ đây, dĩ nhiên là không còn một người Mỹ nào tại Trung quốc, nên cả một thế hệ thanh niên Trung Hoa, lớn lên mà chẳng biết mặt một người Mỹ nào, cũng như chẳng được nghe đến một tiếng Anh nào. Họ chỉ được nghe tiếng nói của hận thù đối với một dân tộc, mà riêng bà lại thấy là ít đáng hận thù hơn các người Tây phương khác. Người Mỹ là những người da trắng duy nhất không tàn ác, không cướp đất của người Trung Hoa. Bà thở dài nghĩ đến cái gia đình đầm ấm xưa kia đã cư ngụ dưới mái nhà này: Ông bà Brandon và năm người con. Họ yêu quí nước Trung Hoa biết dường nào. Họ yêu quí nước này đến nỗi đồ đạc trong nhà hoàn toàn theo kiểu Trung Quốc, với những bức tranh thủy mặc treo trên tường. Họ đã phải hấp tấp lìa bỏ tất cả, và Lương phu nhân đã lén bước sang nhà họ để tiễn chào vĩnh biệt. Bà Brandon đã tựa vào vai bà, khóc nức nở: - Ba Lương ơi: Sau này họ có cho chúng tôi trở lại nữa không? Bà xiết chặt người đàn bà Mỹ trong vòng tay mà chẳng trả lời. Làm sao ba có thể trả lời được rằng: “Bà sẽ không bao giờ được trở lại nữa”. Bởi vậy, tốt hơn là bà lặng thinh, và năm tháng cứ trôi qua trong khi đời sống càng ngày càng trở nên khó khăn hơn. Nhưng bà đã gởi mấy cô con gái của bà sang Hoa Kỳ sống với gia đình Brandon, và thỉnh thoảng... Mời các bạn đón đọc Ba Người Con Gái Lương Phu Nhân của tác giả Pearl S. Buck.
Uyên Ương Gãy Cánh
"Với những trang sách chứa chan tình người, tràn ngập hình ảnh thơ mộng, sóng sánh chất thơ và bát ngát hương vị cảm xúc, Uyên Ương Gãy Cánh mang tình yêu xuống chiều sâu thẳm tận đáy hồn người với những lý luận ngọt ngào của trái tim, và nâng tình yêu lên độ cao nhất, bất diệt với thực tại siêu việt. Từ đó, người đang yêu đọc nó và mỗi sớm mai "được thức dậy lúc rạng đông với con tim chắp cánh, đưa lời cảm tạ vì có thêm một ngày yêu thương nữa." (Nguyễn Ước) *** Bản Việt ngữ này dịch từ cuốn The Broken Wings do Anthony R. Ferris dịch từ nguyên tác của Kahlil Gibran bằng tiếng Ả Rập sang Anh ngữ. Chúng tôi đã ngẫu cảm chuyển tựa đề Việt ngữ thành Uyên Ương Gẫy Cánh vì thấy nó rất phù hợp với những trang tình sử này. Người Đông phương đã đem vào huyền thoại loài chim Uyên ương sống từng đôi trống mái, mỗi con chỉ còn một cánh, phải chấp nhau mà bay cùng. Chúng ăn ở với nhau tình thâm nghĩa trọng đến nỗi nếu một trong đôi lứa có mệnh hệ nào thì con kia đành xếp cánh tuyệt vọng trước những từng trời thăm thẳm. Chim Uyên Kahlil Gibran đã nhỏ từng giọt máu trong tim chép lại chuyện tình của chính mình như một chúc thư cho những tình nhân mai sau. Mối tình đầu của con người tài hoa đa cảm đó cũng là mối tình không-thể-thay-thế của ông; sau khi bị quê hương hắt hủi lưu đày biệt xứ, tác giả suốt đời lang thang phiêu bạt và không bao giờ lập gia đình. Đủ thấy vết thương ở tim tác giả còn đau buốt mãi cho đến lúc vĩnh viễn nhắm mắt. Nhưng con chim Uyên cao thượng khác thường đó không phải chỉ biết cất tiếng hót sầu thảm để oán trách Trời Đất đã ghen với tài tử và hồng nhan. Cho nên người đời còn được đọc những tác phẩm hào sảng hùng tráng khác của Kahlil Gibran. Đó chính là nhờ ngọn lửa thiêng bất khả diệt trong tâm hồn tác giả. Và cũng nhờ sự hy sinh cao quý của chim Ương: tự mình cắt lìa chiếc cánh bị thương để chim Uyên có thể bay đi đem tiếng hót tặng cho đời... Người dịch mong mỏi rằng quý vị độc giả sẽ vì mủi lòng cho mối tình tan tác của hai tâm hồn u uất mà rộng lượng gạt đi những thành kiến, nhất là trong địa hạt tôn giáo, khi quý vị đọc bản chúc thư tình yêu này. Nghĩa cử đó sẽ muôn ngàn lần cao đẹp hơn là... nếu có dịp quý vị đặt những bó hoa lên mồ của những Uyên Ương gẫy cánh... Sau cùng, chúng tôi xin mạn phép tặng bản Việt dịch này cho một phụ nữ Việt Nam - chúng tôi không tiện nêu lên - đã can đảm sống theo một luân lý tự mình tìm ra, giữa một xã hội còn vương lại quá nhiều gông cùm của thành kiến và hủ bại. N. N. M.   *** Khalil Gibran (tên đầy đủ tiếng Ả Rập Khalil Gibran Gibran, đôi khi viết là Kahlil) (6/1/1883 - 10/4/1931) là một nghệ sĩ, nhà thơ và nhà văn Liban. Sinh ra tại thị trấn Bsharri ở phía bắc Liban ngày nay (lúc đó là một phần của Mount Lebanon Mutasarrifate, Đế quốc Ottoman), khi còn trẻ ông di cư cùng gia đình đến Hoa Kỳ, tại đó ông nghiên cứu nghệ thuật và bắt đầu sự nghiệp văn chương của mình, viết bằng cả tiếng Anh và tiếng Ả Rập. Trong thế giới Ả Rập, Gibran được coi là một kẻ nổi loạn trong văn học và chính trị. Phong cách lãng mạn của ông là tâm điểm của sự phục hưng trong văn học tiếng Ả Rập hiện đại, đặc biệt là thơ văn xuôi, tách ra từ trường phái cổ điển. Tại Lebanon, ông được coi như một thiên tài văn học. Ông chủ yếu được biết đến trong thế giới nói tiếng Anh vì cuốn sách The Prophet (tiên tri) năm 1923 của ông, một ví dụ đầu tiên của tiểu thuyết truyền cảm hứng bao gồm một loạt các bài tiểu luận triết học được viết bằng thơ văn xuôi tiếng Anh. Cuốn sách bán rất chạy mặc dù bị chỉ trích lúc đầu. Nó được phổ biến trong những năm 1930 và một lần nữa trong những năm 1960 với nền văn học chống văn minh xã hội. Gibran là nhà thơ có sách bán chạy nhất thứ ba của mọi thời đại, sau Shakespeare và Lão Tử. Tác phẩm: Uyên ương gãy cánh Đóa Hoa Khát Vọng Ngôn Sứ (Kẻ Tiên Tri) Trầm Tưởng Tiếng vô thanh và người tình vĩnh cửu Giêsu Con của Con người Hoài vọng phương Đông Mật khải Tình yêu tận hiến Mây trên đỉnh núi và kẻ mộng du Nhà Tiên Tri ... Mời các bạn đón đọc Uyên Ương Gãy Cánh của tác giả Kahlil Gibran.  
Người Đàn Ông Đào Hoa
Nguyên văn tiếng Anh: The Ginger Man Dịch giả: Nguyễn Bích Lan  Tác phẩm Người Đàn Ông Đào Hoa được xuất bản vào năm 1955. Cuốn tiểu thuyết này đã trở thành kiệt tác, khiến tên tuổi Donleavy nổi tiếng khắp thế giới.  Nhân vật chính - Sebastian Dangerfield là người đàn ông được mệnh danh là "người ngoài "cô đơn trong một xã hội đầy thù địch , một kẻ luôn bị rượu và gái dẫn dắt bởi sự tham lam và lòng đố kỵ. Tuy nhiên, đằng sau thói phóng túng và hoa đường đó vẫn ẩn chứa một trái tim dịu dàng và ước muốn có được mái ấm gia đình mà trước đó anh ta đã từ bỏ .... *** J. P. Donleavy sinh năm 1926 tại Brooklyn. New - York trong một gia đình người Ailen nhập cư. Ông tham gia hải quân Mỹ trong thế chiến thứ hai sau đó sang Ailen theo học tại trường đại học Trinity, ở Dublin.  James Patrick Donleavy là một tiểu thuyết gia và nhà viết kịch người Ireland / Mỹ. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là cuốn tiểu thuyết The Ginger Man (Người Đàn Ông Đào Hoa), ban đầu bị cấm vì tục tĩu. *** Một ngày nắng hiếm hoi của mùa Xuân. Chiếc xe ngựa lóc cóc chạy trên đường Tara xuôi về khu bến cảng trong khi bọn nhóc mặt trắng đi chân đất đua nhau hò hét.  O'Keefe bước vào quán rượu, đặt mông lên một chiếc ghế cao. Lúc lắc chiếc ba lô trên lưng , anh ta đưa mắt nhìn Sebastian Dangerfield.  - Bồn tắm ở đó to đùng. Hai tháng tớ mới tắm. Càng ngày tớ càng giống người Ailen. Muốn vào tắm cậu phải đi qua một cái cửa quay, giống như đi tàu điện ngầm ở Mỹ vậy.  - Cậu đi hạng nhất hay hạng ba, Kenneth?  - Hạng nhất. Tớ đến vỡ mông vì phải ngồi vò đồ lót và trong những căn phòng ẩm ướt ở Trinity thì chẳng cái quái gì có thể khô được. Cuối cùng tớ phải mang khăn tắm ra hiệu giặt là. Ở Havard tớ có thể tắm thỏa thích dưới vòi sen và có thể thọc chân vào đồ lót sạch sẽ.  - Cậu sẽ được uống gì đây nhỉ, Kenneth?  - Ai trả tiền?  - Tôi vừa mới đem cái lò sưởi điện ra hiệu cầm đồ.  ​​​​​​​ Mời các bạn đón đọc Người Đàn Ông Đào Hoa của tác giả J. P. Donleavy.
Máu Hồng Y
Brian Moore, người được văn hào Graham Greene xem là một trong những tiểu thuyết gia đương thời mà ông ái mộ, sinh năm 1921 tại Belfast, Bắc Ireland. Cuối Thế Chiến Hai, ông phục vụ trong Bộ Vận tải Quân sự của Anh. Sau chiến tranh, ông làm việc cho Liên Hiệp Quốc ở châu Âu rồi di cư tới Bắc Mỹ năm 1948, làm ký giả và nhập tịch Canada. Từ năm 1955, ông nổi tiếng trên văn đàn với tác phẩm The Lonely Passion of Judith Hearne - Sự Thương Khó Hiu Quạnh Của Judith Hearne, một chuyện kể đầy buốt nhói về nỗi cô đơn và sự tan vỡ các ảo tưởng. Hai cuốn tiểu thuyết kế đó: The Luck of Ginger Coffey - Vận Số Của Ginger Coffey, 1975 và The Great Victorian Collection - Bản Sưu Tập Quí Báu Thời Victoria, 1975 đều được giải thưởng văn chương của Phủ Toàn Quyền Canada. Các cuốn tiểu thuyết khác của ông như Catholics - Người Công Giáo (1972), The Mangan Inheritance - Quyền Thừa Kế Mong Manh (1979), đều nằm trong danh sách đề cử nhận giải thưởng văn học danh tiếng Booker. Riêng cuốn Máu Hồng Y, tên nguyên tác là The Color of Blood - Màu Của Máu, 1987, cùng một lúc được hai giải thưởng, The Sunday Express Book of the Year Award và Canadian Authors Association Literary Award for Fiction. Ông hiện cùng gia đình sống ở Malibu, California, Hoa kỳ. Tuy tác giả không nêu tên quốc gia bối cảnh Máu Hồng Y nhưng xét theo tình tiết, có lẽ đó là Tiệp Khắc, một nước Trung Âu mà đại đa số dân chúng là người Công giáo. Từ năm 1948, Tiệp Khắc (Czech) bị đảng Cộng sản cai trị, và cùng với các nước Cộng sản Đông Âu khác, trở thành chư hầu của Liên bang Sô Viết tàn độc. Cuộc quật khởi “Mùa xuân Praha” 1968 thất bại trước đoàn xe bọc sắt của Sô Viết. Người Nga nhân đó chiếm đóng Tiệp Khắc và kìm kẹp nghiệt ngã hơn. Mãi đến 1989, nhờ chuyển biến ngay tại Nga và vận hội mới của các nước Đông Âu, cuộc “Cách mạng nhung” mới thành tựu, bắt đầu thể chế tự do dân chủ mà không có bạo động, đổ máu. Cuốn Máu Hồng Y, xuất bản năm 1987, viết về cuộc xung đột tối hậu giữa Giáo hội Công giáo với Nhà nước mà thực chất chẳng liên quan tới “Tình yêu Thiên Chúa”. Khi sắp bùng lên một cuộc nổi loạn nhằm lật đổ chế độ Cộng sản, Hồng y giáo chủ Stephan Bem thấy mình bị mắc kẹt và bí lối trong một mạng lưới của những lừa lọc, bạo động và dàn dựng chính trị không chút xót thương. Sau khi may mắn thoát khỏi một lần mưu sát tàn bạo và một cuộc bắt cóc mờ mịt, ông trở thành kẻ chạy trốn, không biết cất chân bước về hướng nào vì bốn phía đều trùng điệp kẻ nghịch. Tuy bối cảnh Máu Hồng Y không phải là Việt Nam nhưng đi vào tác phẩm, độc giả Việt có cơ hội nhìn lại những vấn đề thiết thân như bản chất và cùng đích của tôn giáo; phẩm chất của con người tôn giáo; tương quan giữa tôn giáo và chính trị trong lòng dân tộc… Độc giả cũng sẽ bắt gặp những bóng dáng không xa lạ gì với hoàn cảnh Việt Nam. Một chế độ toàn trị; một mặt xem tôn giáo như một thế lực gây thương tổn và sỉ nhục chính quyền; một mặt muốn sử dụng vài phần tử tôn giáo làm kẻ chính trị ngoại vi cho mình. Những tín đồ “thuần thành” và những tín đồ “yêu nước”. Các khuynh hướng chính trị tuy đối kháng nhau nhưng đều muốn dùng tôn giáo và tín đồ của nó để làm sức lực và phương tiện cho cái gọi là “phục vụ quyền lợi của quốc gia dân tộc” mà thực chất chỉ là tranh đoạt quyền lực… *** Vào khoảng giữa chín giờ và chín giờ rưỡi tối, chiếc xe hơi đưa ông về Nhà Chung chạy vào Quảng trường Tuyên ngôn Độc lập. Trời mưa, mưa mùa hạ. Trong quảng trường, các bức tượng, các mái nhà và các đài tưởng niệm sũng ướt, trơn mượt; vỉa hè bóng loáng. Ông bấm chiếc đèn pin nhỏ bằng cây bút rọi vào kẹp hồ sơ, không phải để coi lại những điều ông vừa ghi trong cuộc họp mà là để đọc cuốn sách nhỏ của thánh Bernard thành Clairvaux:[1] Bạn có nghĩ rằng con người bẩm sinh với lý trí mà không sống theo lý trí của mình thì, theo cách nào đó, không thua kém gì thú vật? Khi thú vật không tự chế được bằng lý trí thì nó có lý do gì về mặt tự nhiên, nó không được ban cho tặng phẩm ấy. Nhưng con người mà sống như thế thì không gì có thể biện minh được. Đôi lúc trong khi đọc thánh Bernard, ông có thể buông rơi thế giới đầy trách vụ của mình để rút vào cõi thinh lặng, nơi Thiên Chúa chờ đợi và phán xét. Nhưng lúc này, cùng với cảm giác đó, ông thấy có một chiếc xe hơi màu đen đang lạng sát vào xe mình. Ông quay mặt ngó. Người lái xe đen là một phụ nữ đầu quấn chiếc khăn lụa màu lục. Trên chiếc ghế bên cạnh cô, một người đàn ông rậm râu hai tay cầm súng lục, giơ lên, nhắm thẳng mặt ông. Trong chớp mắt, Joseph, tài xế của ông, quặt mạnh tay lái, cố ý táng xe mình vô chiếc xe đen. Sức ly tâm làm người ông bật lên, quay tròn và văng ra ngoài. Người ông rơi uỵch xuống vệ đường ẩm ướt. Trong một lúc lâu, ông nằm đau đớn, nửa mê nửa tỉnh, mắt nhìn lên bóng tối trời đêm mịt mùng. Có tiếng còi xe hơi; ông nghe bước chân tiến tới gần. Từ phía trên ông, một phụ nữ trẻ đang ngó xuống, đầu quấn chiếc khăn lụa màu lục. Mặt cô ứa máu, ghim đầy mảnh kính nhỏ li ti. Ông cố nhỏm dậy, thấy trên đùi cô loang lổ vết đen đặc, chỗ máu ứa ra thấm loang qua váy. “Cô không sao chứ?” ông hỏi, một cách ngớ ngẩn và bối rối. “Cô bị thương ư?” Không trả lời, cô xoay người đi thẳng, bước rất lẹ tuy khập khễnh, nhắm hướng Đường Trung Tâm Chợ. Dòng xe cộ chạy vào quảng trường bị cuốn hút bởi tai nạn, chậm dần và ngừng hẳn. Ông đứng lên, xâm xoàng. Khi mắt đã thôi mờ mịt, ông thấy có người đàn ông đang ngồi trong một chiếc xe, nhìn ông. “Ngài…” người ấy nói, như thể đang suy tính gọi ông theo danh xưng nào. “Cha không sao chứ… thưa Đức cha?” ... Mời các bạn đón đọc Máu Hồng Y của tác giả Brian Moore.